Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 30 tháng 1, 2012

Nguyễn Minh Triết - sứ mệnh kết nối

-Nguồn:Góp sức trên quê nhà
Bạn trẻ Việt dấn thân ra biển lớn, thành công dân toàn cầu, nay trở về, đơn giản là để góp sức trẻ với quê nhà.
Thạc sỹ Nguyễn Minh Triết - Chủ tịch Hội Sinh viên VN tại Anh (thứ 2 từ trái qua).
Nguyễn Minh Triết - sứ mệnh kết nối
Thạc sỹ Nguyễn Minh Triết, 23 tuổi, thủ lĩnh của hơn 7.500 du học sinh Việt Nam tại Anh, bất ngờ về nước làm cán bộ Đoàn khiến bạn bè ngỡ ngàng.
Tu nghiệp ngành kỹ thuật hàng không và chế tạo máy 7 năm tại Anh, lấy bằng Thạc sỹ với đề tài đang khát nhân lực: Kỹ thuật động cơ siêu thanh. Minh Triết được ĐH Queen Mary (London) cấp học bổng học tiếp Tiến sĩ, làm giảng viên cùng những cơ hội công việc hấp dẫn khác, nhưng anh chọn trở về.

Du học tại Anh nhờ Quỹ học bổng từ Hiệp hội động cơ hàng không của thế giới quan tâm đến Việt Nam nên Minh Triết luôn thấy mang nợ đất nước. Nhiều vấn đề nóng bỏng khác của đất nước cũng như của giới trẻ trong nước cũng là động lực thôi thúc Minh Triết trở về.
Cơ duyên để trở thành cán bộ Đoàn từ đầu tháng 11 - 2011 cũng thật đơn giản. Mải miết tham gia hoạt động xã hội hướng về Tổ quốc, giúp đỡ du học sinh, từ lâu Minh Triết đã mang dáng dấp của một cán bộ Đoàn năng động, nhiều sáng kiến.
Nhờ mạnh dạn đảm nhận tổ chức nhiều sự kiện nên Hội sinh viên Việt Nam tại Anh do Minh Triết làm Chủ tịch có quỹ cho các hoạt động như giúp đỡ du học sinh gặp khó khăn, ủng hộ đồng bào bị lũ lụt, hằng năm trao giải Sinh viên của năm cho 12 du học sinh xuất sắc... Sau 6 tháng thực tập tại hãng Rolls Royce, bảo vệ thành công luận án thạc sỹ vào tháng 9, Minh Triết không chút do dự quyết định về nước với khát khao cống hiến tri thức và sức trẻ.
Vừa nhận việc, Minh Triết xách ba lô cùng các cán bộ Đoàn rong ruổi BắcNam để nắm bắt tâm tư nguyện vọng của HSSV và bạn trẻ. “Xa quê hương từ năm 16 tuổi, tôi luôn dõi theo mọi diễn biến ở trong nước, nhưng cũng cần thời gian để tìm hiểu, trải nghiệm thực tế trước khi có những việc làm cụ thể”, Minh Triết tâm sự. Hỏi chuyện tình yêu, chàng trai 23 tuổi chỉ biết lắc đầu cười với câu: Chưa vội.
Ngoài vai trò cán bộ Đoàn, Minh Triết vẫn theo đuổi đam mê nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Anh chủ động tìm đến các thầy cô, sinh viên chuyên ngành động cơ ĐH Công nghệ (ĐH Quốc gia Hà Nội), ĐH Bách khoa... để học tập, chia sẻ kiến thức về lĩnh vực khá mới tại Việt Nam là động cơ siêu thanh, phần mềm cho máy bay không người lái...Minh Triết vốn mê máy móc từ khi còn là học sinh chuyên Lý trường THPT Trần Đại Nghĩa (TPHCM) nên anh không dễ gì từ bỏ nó.
Trước khi trở về, Triết đã tự đặt cho mình trách nhiệm kết nối du học sinh, trí thức trẻ người Việt khắp thế giới để cùng đóng góp nhiều hơn cho đất nước. Anh đề xuất sáng kiến thành lập Trung tâm phát triển tri thức và đang liên hệ với nhiều nhóm du học sinh Việt ở các nước với mong muốn kế hoạch kết nối sớm thành hiện thực.
“Tôi cũng như các du học sinh đều luôn hướng về Tổ quốc dù bằng cách này hay cách khác. Vấn đề là tìm phương cách đánh thức, khơi dậy nguồn nhiệt huyết và tri thức đó”, Minh Triết chia sẻ. Anh cũng cho rằng, cách thể hiện tình yêu, cách đóng góp thiết thực nhất là học tập thật tốt, tích luỹ nhiều tri thức để phụng sự Tổ quốc.
Tư bản đỏ ở Việt Nam: Doanh nhân Việt và lộ trình đầu tư cho con cái (TBKTSG VEF 28-1-12)
Con trai út Thủ tướng làm cán bộ Đoàn - (BBC)-Tin cho hay con trai út Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, thạc sỹ Nguyễn Minh Triết, từ Anh trở về Việt Nam để làm cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản ở cơ sở.-Những gương mặt nguyên thủ trẻ tuổi trên thế giới (VNN 28-1-12) -- Chuẩn bị dư luận cho Nguyễn Thanh Nghị và các "thái tử đảng" khác?-Bà lão 36 năm vá xe đêm giữa Sài Gòn (VnEx 28-1-12)  --  "Lộ trình đầu tư cho con cái" của cụ này là gì?




Đài Tiếng Nói Việt Nam
Sáng 27/1, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến thăm và chúc tết cán bộ, chiến sỹ Tiểu đoàn 207 Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Kiên Giang. Trước khi làm việc với Tiểu đoàn 207, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và lãnh đạo Tỉnh ủy, HĐND, UBND, các lực lượng vũ trang đã đến ...
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm và chúc Tết tại Kiên GiangBáo điện tử Chính phủ
Ân nhân của Thủ tướng đón Tết trong niềm vui nhân đôiVNExpressThủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm và chúc Tết tại Kiên Giang (Chinhphu.vn).



Ân nhân của Thủ tướng đón Tết trong niềm vui nhân đôi
 (VNEx 27-1-12) -- Báo chí cũng nên phỏng vấn bà mụ đỡ đẻ khi thân mẫu Thủ tướng hạ sanh Người. Nghe đâu khi Thủ tướng ra đời thì trên không trung nhã nhạc vang lừng, mùi thơm bát ngát, muỗi Cà Mau bổng nhiên tụ tập xếp hàng ngay ngắn, không cắn mà lại bay ra xa xa, đồng loạt gục gặc cúi chào Thủ tướng cùng hiền mẫu, rồi đi tìm người khác mà cắn. (Muốn biết thêm chi tiết, xin đọc tiểu sử của Kim Il-sung ở Bắc Triều Tiên)
Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Phương Nga: "Cư xử chân thành, thân thiện dễ chiếm được cảm tình của đối tác" (HV 9-1-12) -- Nhiều điều ít người biết về bà (Phương là tên mẹ, Nga là nước Nga)
 ◄
Linh Nga tâm sự chuyện làm dâu nhà Tướng
 (GD 26-1-12) -- "Tướng" là tướng nào?  Tại sao bài này lại nằm ở đây?  Đọc lại Các người đẹp lấy chồng của Cô Gái Đồ Long sẽ rõ!


-
Về Tập Cận Binh: China's Next Boss Has Some Capitalist Cred (BW 26-1-12)Một trăm một chén nước trà – (Người Buôn Gió).--

Bhagwati: Không nên quá lo nạn "chảy máu chất xám":
 The Brain-Drain Panic Returns (Project Syndicate 27-1-12)
KINH ĐIỂN - Toàn cầu hoá và đại học Việt NamGlobalization and higher education in Vietnam (Journal of Interdisciplinary Studies 2011) -- Bài rất hay của Nguyễn Thị Kim Quy
, chỉ rõ những hệ quả (không tốt!) của thị trường hoá giáo dục ở Việt Nam


Các Nguyên Tắc Căn Bản của Dân Chủ

-Nguồn:Các Nguyên Tắc Căn Bản của Dân Chủ

Melvin I. Urofsky
“... rằng chính quyền của dân, do dân và vì dân sẽ không mai một trên thế gian này”
Tổng thống Abraham Lincoln Tuyên ngôn Gettysburg, 1863
Nhân dịp khánh thành nghĩa trang quốc gia Gettysburg, giữa lúc đang diễn ra một cuộc nội chiến lớn lao để gìn giữ Hiệp Chúng Quốc như một quốc gia thống nhất, tổng thống Abraham Lincoln, bằng những lời hào hùng kết thúc bản tuyên ngôn của mình, đã cho chúng ta một định nghĩa về dân chủ có lẽ là hay nhất trong lịch sử Mỹ. Khi nói “chính quyền của dân, do dân và vì dân” tổng thống muốn nói là các điều cốt yếu của thể chế dân chủ, mà tổng thống đã mô tả một cách sâu sắc, đều có thể áp dụng cho tất cả các quốc gia mong muốn lập nên một xã hội dân chủ.
Dân chủ là điều khó. Có lẽ chế độ dân chủ là một một chế độ phức tạp và khó nhất trong mọi chế độ cai trị. Chế độ này đầy rẫy những căng thẳng và mâu thuẫn. Nó đòi hỏi mọi người trong chế độ phải kiên trì nỗ lực để giữ cho chế độ hoạt động. Chế độ dân chủ không phải là để cai trị hữu hiệu mà là để cai trị có trách nhiệm. Một chính phủ dân chủ có thể không hành động nhanh bằng một chính phủ độc tài, nhưng một khi đã làm gì thì chính phủ dân chủ có thể có được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của dân chúng. Chế độ dân chủ, như thể hiện tại Mỹ, không bao giờ là một chế độ hoàn mỹ mà là một chế độ luôn luôn tiến hóa. Tổ chức chính quyền tại Mỹ thay đổi rất ít trong hai trăm năm qua. Nhưng bên trong cái hình thức bề ngoài đó ta sẽ thấy có nhiều sự thay đổi lớn. Tuy vậy đa số người Mỹ đều tin rằng những nguyên tắc cơ bản của chế độ cai trị của họ là trực tiếp xuất phát từ những khái niệm được minh định bởi các người phác thảo Hiến pháp năm 1787. Trong các tài liệu này chúng tôi đã cố gắng giải thích các nguyên tắc này, đồng thời cũng đưa ra bối cảnh lịch sử đưa đến sự hình thành của các nguyên tắc đó và trình bầy lý do tại sao những nguyên tắc đó lại quan trọng đối với việc hoạt động của cơ cấu chính quyền tại Mỹ nói riêng cũng như là đối với chế độ dân chủ nói chung. Vì dân chủ là một chế độ luôn luôn tiến hoá nên tài liệu này cũng đưa ra các khiếm khuyết của cơ cấu chính quyền tại Mỹ cùng những điều mà Mỹ đã làm để khắc phục các khiếm khuyết đó. Không ai có thể nói rằng mô thức Mỹ, tuy đã thành công tại Mỹ, là một mô thức khuôn mẫu cho tất cả các chế độ dân chủ khác. Mỗi quốc gia phải đưa ra một hệ thống chính quyền thích hợp với văn hóa và lịch sử của mình. Tuy nhiên các tài liệu này đã xác định các nguyên tắc căn bản cần phải có, dưới hình thức này hay hình thức khác, trong tất cả mọi chế độ dân chủ. Chẳng hạn như thể thức chi tiết để làm luật có thể khác nhau rất nhiều, nhưng thể thức nào cũng phải tuân theo cái nguyên tắc căn bản là phải có sự tham gia của dân chúng và dân chúng phải cảm thấy là luật đó là của mình đưa ra.
Các nguyên tắc đó là gì? Chúng tôi nhận định là có 11 nguyên tắc mà chúng tôi cho là các nguyên tắc then chốt để hiểu rõ chế độ dân chủ đã tiến triển ra sao và hoạt động như thế nào tại Mỹ.
Chính quyền theo hiến pháp: việc làm luật phải được thực hiện theo một số khuôn khổ đã được quy định. Phải có những cách thức đã được chấp thuận để làm luật và sửa luật, và phải có một số lãnh vực - chẳng hạn như quyền con người - không bị chi phối bởi những ý kiến nông nổi nhất thời của đa số. Hiến pháp là luật, nhưng hiến pháp còn quan trọng hơn thế nữa. Hiến pháp là một văn kiện cơ hữu của chế độ; nó quy định quyền hạn của các ngành trong chính quyền đồng thời cũng giới hạn các quyền lực của chính quyền. Một đặc tính then chốt của chế độ cai trị theo hiến pháp là cái khung hiến pháp cơ bản này không thể được thay đổi theo ý kiến nhất thời của nhóm đa số. Các thay đổi đòi hỏi phải có sự thỏa thuận được phát biểu một các rõ ràng và minh bạch của người dân. Tại Mỹ từ năm 1787 tới nay mới chỉ có 27 lần thay đổi hiến pháp. Các người soạn thảo hiến pháp đã cố tình làm cho việc thay đổi hiến pháp không phải là không thực hiện được nhưng là việc rất khó khăn. Phần lớn các thay đổi hiến pháp đó đã mở rộng dân chủ bằng cách nới rộng các quyền cá nhân và xóa bỏ các sự khác biệt dựa trên chủng tộc và phái tính. Không có một sự sửa đổi hiến pháp nào đã bị coi là không quan trọng, trái lại tất cả mọi sửa đổi đó đều đã được đa số dân chúng tán thành.
Bầu cử dân chủ: Dù cơ cấu chính quyền có được tổ chức tốt như thế nào chăng nữa thì vẫn chưa được coi là dân chủ trừ phi các người đứng đầu chính quyền đó đã được dân chúng tự do bầu lên theo một thể thức được coi là công bằng và rộng mở cho tất cả mọi người. Các chế độ bầu cử có thể khác nhau, nhưng có những đặc điểm cốt yếu chung cho mọi xã hội dân chủ. Đó là: mọi người dân có đủ điều kiện đều có quyền bỏ phiếu, mỗi người phải được bảo vệ để không bị ảnh hưởng quá mức khi bỏ phiếu, và thể thức đếm phiếu phải công khai và trung thực. Vì nhầm lẫn và gian lận có thể xẩy ra khi có một số lớn người đi bỏ phiếu, nên cần phải cẩn thận để giảm thiểu những sai lầm này càng nhiều càng tốt. Cần làm như vậy để phòng khi có vấn đề hay khi kết quả bầu cử rất xít xao - như trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 tại Mỹ- thì dân chúng sẽ hiểu rằng, mặc dầu có khó khăn như vậy, nhưng họ vẫn phải tôn trọng kết quả bầu cử.
Thể chế liên bang, các chính quyền tiểu bang và chính quyền địa phương: Hệ thống chính quyền liên bang tại Mỹ có nét độc đáo là quyền lực và thẩm quyền đều được chia ra và thi hành giữa các chính quyền toàn quốc, chính quyền tiểu bang và chính quyền địa phương. Tuy mô thức này có thể không thích hợp với những nước khác nhưng ta có thể rút ra được bài học sau đây. Chính quyền càng xa dân thì lại càng bớt hữu hiệu và càng ít được dân tin. Vì có chính quyền tiểu bang và chính quyền địa phương nên dân Mỹ có thể gần với những viên chức do họ bầu lên. Họ có thể gắn liền các chính sách và chương trình với những người đã ban hành và thi hành các chính sách và chương trình đó. Hơn nữa, chính sách phi tập trung quyền hành cũng làm cho việc tiếm quyền khó hơn. Nguyên tắc phi tập trung quyền lực và quyền hành trong các chế độ dân chủ có thể là không quan trọng lắm trong một nước nhỏ và tương đối thuần nhất về chủng tộc, nhưng nguyên tắc này là một cơ năng bảo vệ quan trọng trong một nước lớn và không thuần nhất về chủng tộc như Hoa Kỳ.
Làm luật: Lịch sử cho thấy là con người đã làm luật từ 5 ngàn năm. Nhưng các xã hội cũng đã có những khác nhau rất nhiều trong phương pháp đặt ra những luật lệ cho xã hội của mình, từ hình thức chiếu chỉ của thiên tử tới cách biểu quyết theo đa số tại thôn làng. Tại Mỹ luật được làm ra tại nhiều cấp, từ hội đồng tỉnh tới viện lập pháp của tiểu bang và lên tới Quốc hội Mỹ. Nhưng ở cấp nào cũng đều có sự đóng góp trực tiếp hoặc gián tiếp rất nhiều của dân chúng. Các cơ quan làm luật nhận thức là họ phải chịu trách nhiệm đối với cử tri, và nếu họ không đưa ra các luật hợp với quyền lợi của dân chúng thì họ sẽ bị thất cử trong cuộc bầu phiếu sắp tới. Điểm cốt yếu trong việc làm luật theo thể thức dân chủ không phải là cái cơ chế hoặc ngay cả cái diễn đàn nơi làm luật mà là tinh thần chịu trách nhiệm trước dân chúng và yêu cầu phải đáp ứng những nguyện vọng của dân chúng.
Ngành tư pháp độc lập: Alexander Hamilton trong cuốn The Federalist (Bàn về chủ nghĩa Liên bang) xuất bản năm 1788-89 có nhận xét rằng các tòa án, chẳng có sức mạnh của võ khí mà cũng không có thế lực của đồng tiền, sẽ là “bộ phận ít nguy hiểm nhất” trong chính quyền. Tuy nhiên trong một chế độ dân chủ, tòa án có thể rất mạnh và về nhiều phương diện tòa án lại chính là cơ quan có chức năng lý giải và áp dụng những cưỡng chế do hiến pháp quy định. Tại Mỹ tòa án có thể tuyên bố một đạo luật do Quốc hội hay các viện lập pháp tiểu bang ban hành là không có giá trị vì trái Hiến pháp và tòa án cũng có thể ra lệnh cho tổng thống phải đình chỉ một hành động đi ngược với Hiến pháp. Cơ quan bảo vệ quyền cá nhân mạnh nhất tại Mỹ chính là hệ thống tòa án. Sở dĩ như vậy là vì đa số các thẩm phán đều được bổ nhiệm tại chức suốt đời và do đó có thể chuyên trách về các vấn đề pháp lý mà không bị chi phối vì chính trị. Tuy không phải các tòa án hiến pháp nào cũng như nhau, nhưng phải có một cơ quan có thẩm quyền giải thích xem Hiến pháp nói gì và quyết định là khi nào các bộ phận của chính quyền đã vượt quá quyền hạn của mình.
Quyền hạn của tổng thống: Tất cả các xã hội hiện đại đều cần có một người chủ chốt trong ngành hành pháp để thi hành các phần vụ của chính quyền, từ công việc hành chính dản dị đến việc chỉ huy lực lượng quân đội để bảo vệ quốc gia trong thời chiến. Nhưng phải có một đường phân ranh rất tế nhị giữa việc trao cho hành pháp đủ quyền để làm nhiệm vụ và đồng thời cũng giới hạn quyền lực đó để tránh nạn độc tài. Tại Mỹ, Hiến pháp đã kẻ ra những lằn ranh rõ rệt giới hạn quyền lực của tổng thống. Tuy chức vụ tổng thống là một chức vụ nhiều quyền lực nhất thế giới, nhưng cái quyền lực đó lệ thuộc vào sự hậu thuẫn của người dân và vào khả năng mà vị tổng thống đương nhiệm có quan hệ làm việc tốt với các ngành khác trong chính quyền. Về điểm này, lại một lần nữa cách tổ chức thực sự của văn phòng của vị đứng đầu hành pháp ra sao không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là những giới hạn quyền lực của văn phòng đó phải do các nguyên tắc “ phân chia quyền hành” ấn định. Trong một chế độ dân chủ, tổng thống phải vận dụng tài khéo léo về chính trị để cai trị bằng cách tạo ra một cái khung hợp tác với ngành lập pháp và nhất là với toàn thể dân chúng. Mặt khác dân chúng cũng cần phải cảm thấy an tâm là những điều hạn chế của hiến pháp đủ bảo đảm để tổng thống hay thủ tướng thực sự là người phục vụ cho dân chứ không phải là người chủ của dân.
Vai trò của tự do truyền thông: Liên hệ mật thiết với quyền được biết của dân chúng là quyền tự do truyền thông- bao gồm báo chí, truyền thanh và truyền hình - để cho giới truyền thông có thể theo dõi việc làm của chính quyền và báo cáo về các hoạt động đó mà không sợ bị truy tố. Trước kia theo thông luật của Anh thì chỉ trích nhà vua (tức là toàn thể chính quyền) bị khép vào tội phỉ báng có tính các xúi dục nổi loạn. Sau này Mỹ đã bãi bỏ tội đó và thay vào đó là một lý thuyết về thông tấn hỗ trợ rất tốt cho dân chủ. Trong một quốc gia phức tạp, người công dân không thể nào bỏ công ăn việc làm để đi quan sát các phiên xử, ngồi nghe tranh luận trong các viện lập pháp, hay điều tra các hoạt động của chính phủ. Nhưng giới truyền thông có thể thay thế cho người công dân để báo cáo qua báo chí và các phương tiện truyền thông những điều mà họ phát hiện để người công dân có thể căn cứ vào đó mà hành động. Trong một chế độ dân chủ, người dân nhờ giới truyền thông để phát hiện tham nhũng, phanh phui các sai trái trong việc thi hành công lý, hay các hoạt động không hữu hiệu hay thiếu công hiệu của cơ quan công quyền. Không có tự do báo chí thì không thể nào là một quốc gia tự do. Một dấu hiệu của chế độ độc tài là không có tiếng nói của giới truyền thông.
Vai trò của các nhóm lợi ích: Trong thế kỷ thứ 18 và thực ra là cho mãi tới thế kỷ thứ 19, việc làm luật vẫn còn là một cuộc đối thoại giữa cử tri và những đại diện dân cử của họ trong Quốc hội hay tại chính phủ tiểu bang hay chính quyền địa phương. Vì lúc đó dân số hãy còn ít, các chương trình chính phủ chưa có nhiều và việc thông tin hãy còn đơn giản nên người công dân không cần phải nhờ những đoàn thể trung gian để bầy tỏ quan điểm của mình. Nhưng sang đến thế kỷ 20, xã hội trở nên phức tạp hơn và vai trò của chính quyền cũng mở rộng ra. Bây giờ có nhiều vấn đề mà cử tri muốn thảo luận. Vì vậy để đạo đạt quan điểm của họ về một vấn đề nào đó các công dân đã lập ra các nhóm vận động, các nhóm tranh đấu cho lợi ích công và tư, và các tổ chức phi chính phủ (NGO) chuyên tâm lo về một vần đề. Trong nội bộ nước Mỹ cũng đã có nhiều chỉ trích về khía cạnh này của chế độ dân chủ Mỹ. Có người lại còn nói rằng những nhóm lợi ích có nhiều tiền có thể nói lên tiếng nói của mình nhiều hơn là các nhóm có ít tài nguyên hơn. Chỉ trích như vậy cũng có phần đúng nhưng thực tế là có hàng trăm những nhóm như vậy đã giúp công chúng và các nhà làm luật hiểu rõ hơn về một số vấn đề và nhờ vậy mà họ giúp cho các thường dân trong một thời đại phức tạp có thể bầy tỏ quan điểm của mình với các nhà làm luật. Bước sang thời đại thông tin trên mạng thì con số của các tiếng nói còn tăng thêm hơn nữa và các NGO sẽ giúp tinh lọc và tập trung quyền lợi của công dân một cách hữu hiệu hơn.
Quyền được biết của quần chúng: Trước thế kỷ này, nếu người dân muốn biết chính quyền đang làm việc ra sao thì thường họ chỉ cần ra trụ sở tỉnh hay ra nơi tụ họp dân chúng (như ở cổ Hy lạp) để nghe người ta thảo luận hay bàn tán. Nhưng ngày nay chúng ta phải giao tiếp với những cơ cấu hành chánh lớn lao và phức tạp, với hàng trăm trang luật lệ và quy định và với một diễn trình làm luật, tuy đã công khai quy định trách nhiệm, nhưng đối với đa số dân chúng có lẽ cũng vẫn còn rối mù khó hiểu. Trong một chế độ dân chủ, chính quyền phải minh bạch càng nhiều càng tốt. Điều này nghĩa là mọi sự suy xét và quyết định của chính quyền phải chịu sự xem xét của dân chúng. Hiển nhiên là không phải bất cứ mọi hành động nào của chính quyền cũng phải công khai, nhưng người công dân có quyền biết là tiền thuế của họ đang được chi tiêu như thế nào, công việc thực thi luật pháp có hữu hiệu và đích đáng không, hay các đại diện dân cử của họ có hành sử chức năng của mình một cách có trách nhiệm hay không. Thể thức cung cấp các thông tin đó cho dân chúng cũng khác nhau tùy theo từng chính quyền, nhưng không một chính quyền dân chủ nào có thể làm việc hoàn toàn bí mật được.
Bảo vệ quyền của thành phần thiểu số: Nếu hiểu “dân chủ” là cai trị theo đa số thì một trong những vấn đề lớn trong chế độ dân chủ là đối đãi làm sao với các thành phần thiểu số. Khi nói “thành phần thiểu số” không phải chúng ta muốn nói tới những người đã không bỏ phiếu cho đảng thắng cử mà là những thành phần vì lý do chủng tộc, tôn giáo, sắc tộc đã khác hẳn với đa số. Tại Mỹ, vấn đề lớn cho tới nay là vấn đề chủng tộc. Phải qua một cuộc nội chiến đẫm máu mới giải phóng được các người nô lệ da đen, rồi phải mất thêm một thế kỷ nữa thì dân da mầu mới được quyền tự do sử dụng các quyền Hiến pháp đã quy định cho họ. Bình đẳng chủng tộc cho tới nay vẫn còn là vấn đề mà nước Mỹ cần phải giải quyết. Nhưng đó cũng là một phần trong bản chất tiến hóa của dân chủ, tức là nỗ lực để trở nên bao quát hơn và khiến cho những thành phần khác với đa số không những được bảo vệ để khỏi bị ngược đãi mà lại còn có cơ hội để tham gia toàn diện với tư cách bình đẳng của một người công dân. Có rất nhiều thí dụ về các quốc gia đã đối xử với các thành phần thiểu số một cách đẫm máu và ghê gớm, vụ tàn sát dân Do thái của Đức Quốc xã chỉ là một trường hợp rõ rệt nhất. Nhưng không một xã hội nào có thể muốn được coi là dân chủ nếu vẫn còn loại bỏ một cách có hệ thống những thành phần xã hội đặc biệt nào đó ra khỏi sự bảo vệ toàn diện của luật pháp.
Quân sự chịu sự chi phối của dân sự: Vào thời trước, trách nhiệm chủ yếu của một lãnh tụ là phải đứng đầu lực lượng quân sự hoặc để bảo vệ đất nước hoặc để chinh phục các nước khác. Điều quá thông thường là một vị tướng tài được dân chúng hâm mộ thường tìm cách chiếm quyền cai trị bằng võ lực. Người nào nắm được quân đội đều có thể loại bỏ các thế lực khác. Ngày nay, ta cũng thấy biết bao nhiêu là trường hợp một đại tá hay một tướng đã dùng quyền lực của quân đội để đảo chính lật đổ chính quyền dân sự. Trong một chế độ dân chủ, quân đội không những phải đặt dưới sự kiểm soát thực sự của chính quyền dân sự mà lại còn phải có một có một nếp tư duy trong đó quân đội tự coi mình là một bộ phận phục vụ cho xã hội chứ không phải kẻ trị vì xã hội. Điều này có thể dễ thực hiện khi có một quân đội công dân trong đó các sĩ quan, gồm người của tất cả thành phần trong xã hội, sau một thời gian phục vụ trong quân đội lại trở về đời sống dân sự. Nhưng nguyên tắc thì vẫn như vậy: quân sự luôn luôn phải phục tùng; vai trò của nó là bảo vệ dân chủ chứ không phải là để cai trị. Từ các bài tiểu luận này ta có thể rút ra một số chủ đề tổng quát. Chủ đề đầu tiên, và cũng là chủ đề quan trọng nhất, là trong một chế độ dân chủ nguồn quyền lực tối hậu là nhân dân. Hiến pháp của Mỹ, ngay trong phần mở đầu đã mạnh dạn ghi rõ: “ Chúng tôi, Nhân dân của Hiệp Chủng quốc... ban bố và lập ra bản Hiến pháp này.” Tất cả quyền lực của chính quyền phải xuất phát từ nhân dân, và phải được nhân dân công nhận là hợp pháp. Việc hợp pháp hóa này được thể hiện bằng nhiều cách trong đó có các diễn trình làm luật và bầu cử tự do và công bằng. Một nguyên tắc chung thứ hai là phải có sự phân chia quyền hành để cho không một bộ phận nào trong chính quyền có thể đủ mạnh để lấn áp ý nguyện của dân chúng. Tuy chức vụ tổng thống thường được coi là chức vụ mạnh nhất tại Mỹ, nhưng Hiến pháp cũng giới hạn các quyền đó và đòi hỏi vị nguyên thủ quốc gia phải cộng tác hài hòa với các bộ phận chính quyền khác cũng như với các cử tri. Tuy việc chính quyền dân sự có quyền kiểm soát quân sự có vẻ khiến cho tổng thống có nhiều quyền, nhưng nếp tư duy cơ bản của quân đội trong một chế độ dân chủ ngăn chặn việc hành sử sai trái cái quyền đó. Các tòa án cũng có chức năng giới hạn quyền lực không những của hành pháp mà còn giới hạn cả ngành lập pháp nữa. Trong một chế độ dân chủ, chính quyền phải giữ quân bằng, và tất cả mọi ngành trong chính quyền phải coi việc gìn giữ sự quân bằng đó là điều khôn ngoan và cần thiết. Nguyên tắc thứ ba là phải tôn trọng quyền của cá nhân và của các thành phần thiểu số. Thành phần đa số không thể dùng quyền lực của mình để tước bỏ quyền tự do cơ bản của một cá nhân. Trong một chế độ dân chủ, điều này có thể khó, nhất là khi các thành phần khác nhau trong dân chúng lại có những quan điểm khác nhau về các vấn đề then chốt. Nhưng một khi chính quyền đã tước bỏ quyền của một nhóm thì quyền của toàn thể dân chúng cũng bị đe dọa. Các chủ đề này đều thể hiện qua loạt bài này về Dân chủ trong đó mỗi đề tài đều hỗ trợ cho các nguyên tắc bao quát này. Ý nguyện của dân chúng được bảo đảm qua các cuộc bầu cử tự do và công bằng, qua thể thức làm luật, qua việc báo chí được tự do xem xét hoạt động của chính quyền, và qua việc dân chúng có quyền biết chính phủ đang làm gì. Ý nguyện đó được phát biểu qua các nhóm lợi ích, dù là không được đồng đều như nhau. Tại Mỹ, việc phân chia quyền hành là điều bắt buộc theo Hiến pháp; và Hiến pháp là một văn kiện mà nhân dân Mỹ đều hầu như hết sức tôn kính. Ý nguyện đó còn được thấy qua các giới hạn áp đặt lên chính quyền dưới hình thức dân sự kiểm soát quân sự và qua thể chế liên bang. Ngoài ra quyền của các thành phần thiểu số còn được bảo đảm bằng nhiều cách, trong đó cách quan trọng hơn cả là việc có một ngành tư pháp độc lập.
Nhưng có thể du nhập các nguyên tắc này vào những nền văn hoá khác không? Câu trả lời không phải là giản dị vì sự thành công của bất cứ hệ thống chính quyền nào còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố chồng chéo lên nhau. Trong lịch sử Mỹ, khi Mỹ còn là thuộc địa, chính phủ hoàng gia tại Luân-đôn không thể kiểm soát chặt chẽ thuộc địa Mỹ ở xa nên quyền hành đều được trao cho các cơ quan lập pháp địa phương. Cách sắp đặt này phát sinh ra hệ thống liên bang, gói ghém trong một Hiến pháp phản ánh bối cảnh lịch sử đặc biệt của nhân dân Hoa kỳ. Vì thấy vua nước Anh có quá nhiều quyền thế nên mới đưa ra việc giới hạn quyền lực của hành pháp, mặt khác việc hình thành lực lượng dân quân đã đặt nền tảng cho việc dân sự kiểm soát quân sự. Quyền cá nhân là một vấn đề khó hơn. Nhưng song song với sự tiến hoá của chế độ dân chủ tại Mỹ thì quyền của dân chúng, mới đầu chỉ dành riêng cho những đàn ông da trắng có tài sản, đã được nới rộng cho tới mọi người nam nữ thuộc mọi chủng tộc, mầu da và tín ngưỡng. Sự đa dạng của xã hội, mới đầu được coi là một trở ngại cho chính quyền, đã trở nên một trong những thế mạnh của dân chủ. Trong các quốc gia dân chủ lớn, với nhiều dân tộc, tôn giáo và văn hóa như vậy thì bất cứ một toan tính nào nhằm áp đặt một nếp sống đồng nhất sẽ hoàn toàn thất bại. Thay vì là chống lại tính đa dạng của xã hội, nhân dân Mỹ đã coi đó là nền tảng của lòng tin vào dân chủ của họ. Các quốc gia khác, khi họ thí nghiệm với chế độ dân chủ - mà quả thực áp dụng dân chủ luôn luôn là một thí nghiệm- sẽ cần phải xét xem những đặc điểm nêu ra trong các bài này có thể được tạo ra và duy trì một cách tốt nhất trong nền văn hóa của mình như thế nào. Không có một cách duy nhất nào cả; hay nếu nói theo một câu thơ của thi sĩ Walt Whitman, dân chủ là muôn mặt và có khi lại còn tự mâu thuẫn nữa. Nhưng nếu chúng ta luôn theo sát những nguyên tắc cơ bản không bao giờ thay đổi - nghĩa là quyền tối hậu thuộc về nhân dân, quyền lực của chính quyền phải được giới hạn, và quyền con người phải được bảo vệ - thì sẽ có nhiều cách để đạt được các mục đích đó.
Bản Việt ngữ © Học Viện Công Dân 2006

Sơ lược về tác giả: Chủ biên của loạt bài này, giáo sư Melvin I. Urofsky, là giáo sư sử học và chính sách công tại Virginia Commonwealth University và cũng là tác giả hay chủ biên của hơn 40 cuốn sách. Các tác phẩm mới nhất của ông là The Warren Court (2001), và A March of Liberty: A Constitutional History of the United States (2nd ed., 2001) viết cùng với Paul Finkelman. Nguồn:Democracy Papers







--'Tôi không nghĩ kiều bào còn lấn cấn' (VNN 25-1-12) -- Ý kiến của đại biểu Dương Trung Quốc.Thế giới quan ngại tình trạng nhân quyền tại Việt Nam - (RFA).-- Việt Nam bị tố cáo tiếp tay cho tệ nạn buôn người – (RFA).- - Góp sức trên quê nhà (DT). -- Phạm Hồng Sơn – Nền tảng nào cho đoàn kết? (Pro&Contra). -- UB Nhân quyền Quốc gia Thái Lan giúp người tỵ nạn từ VN  –  (RFA).
-Chu Hảo: Tết đến rồi! ..  (viet-studies 28-1-12) -- Bản gốc của tác giả.  Tác giả cho biết là bài cùng tên, vừa được đăng trên Tạp chí Xây Dựng Đảng xuân Nhâm Thìn có những chỗ mà ban biên tập tạp chí này tự ý thêm vào, tác giả không biết trước. ◄ Huỳnh Như Phương: Nghe giữa tinh sương (viet-studies 27-1-12)
Họp mặt truyền thống cách mạng Sài Gòn – Gia Định (SGGP 27-1-12) -- Tuy không thuộc thành phần này, Bí thư Lê Thanh Hải cũng có mặt. 
Bảo Ninh: Thời tiết của ký ức (TP 27-1-12) -- Bài Trung Trung Đỉnh
- GS.TS Vũ Văn Hiền, cựu TGĐ đài THVN, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương: Đảng với nhân dân (VOV).-- cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh -- Nhớ lại những phát ngôn ấn tượng (phần 2) (Đất Việt).

-Mùa Xuân Tây Bắc

Trắng trong tinh khiết
Hoa mai trắng trong tinh khiết.
Chở mùa xuân
Chở đào xuân.
Cải vàng bên suối
Cải vàng bên suối.
Thiên nhiên diệu kỳ
Thiên nhiên diệu kỳ.
Chúm chím Đào Phai
Chúm chím đào phai.
Những cây nở sớm quả đã ửng má hồng:
Những cây nở sớm quả đã ửng má hồng.
Niềm vui
Niềm vui.
Trắng rừng hoa mận
Trắng rừng hoa mận.


Nixon và hòa bình trong danh dự

-Richard Nixon-Nguồn:Nixon và hòa bình trong danh dự
-Nhậm chức đầu năm 1969, Nixon bắt đầu cho rút quân tháng 7- 1969 và thương thuyết với Cộng sản Bắc Việt để tìm hòa bình danh dự cho Hoa Kỳ như đã hứa khi tranh cử. Hòa đàm Paris bắt đầu từ ngày 10-5-1968 dưới thời Tổng thống Johnson nhưng thực sự bắt đầu đàm phán dưới nhiệm kỳ Tổng thống Nixon.
Sơ Lược về Hòa Đàm Paris
Từ 1968 cho tới giũa 1972 nói chung cuộc đàm phán không có dấu hiệu tiến bộ, phía CSBV lợi dụng hòa đàm để tuyên truyền chống Mỹ, họ dai dẳng lì lợm, ngoan cố. Phái đoàn BV đòi hai điều kiên tiên quyết Hoa Kỳ phải rút quân khỏi miền Nam VN vô điều kiện và lật đổ chính phủ Nguyễn Văn Thiệu thay bằng chính phủ ba thành phần. Nixon đã thực hiện rút quân tháng 7-1969 theo đề nghị của bộ trưởng quốc phòng Laird vì người dân không còn ủng hộ cuộc chiến tranh Việt Nam và thay thế bằng Việt Nam hóa chiền tranh.
Suốt bốn năm đàm phán BV vẫn khăng khăng đòi phải loại bỏ chính phủ Thiệu nhưng Nixon và Kissinger nhất quyết bác bỏ yếu sách của BV mặc dù hành pháp Mỹ đang yếu thế. Theo Nixon (trong No more Vietnams trang 127) CSBV đã thừa cơ nước đục thả câu lợi dụng phong trào phản chiến và áp lực của Quốc hội để lì ra không chịu ký kết khiến hòa đàm kéo dài như vô tận.
Tháng 10-1972 một khúc quành lớn trong cuộc đàm phán diễn ra khi BV thay đổi lập trường, nhượng bộ một số điều khoản chính như không đòi TT Thiệu phải từ chức, không đề cập tới chính phủ ba thành phần. Sở dĩ họ nhượng bộ vì biết Nixon sẽ thắng cử tháng 11-1972, theo thăm dò ông vượt xa McGovern vì sự can dự của Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam đã giảm, BV sợ nếu Nixon đắc cử ông sẽ không nhượng bộ, cuộc đàm phán sẽ bất lợi cho họ. Ngày 9 tháng 10 buổi họp định mệnh, BV đã nhượng bộ một số điều khoản như trên. Kissinger mừng rỡ nói đây là ngày hồi hộp nhât trong cuộc đời chính trị ngoại giao của ông, cái ngày mà ông trông đợi sau bốn năm hòa đàm mệt mỏi dậm chân tại chỗ nay đã tới.
Phiên họp ngày 11-8 dài nhất, 16 giờ, nội dung gồm những điểm chính mà hai bên ký kết sau này vào cuối tháng 1-1973. Ngày 12-8 Kissinger rời Paris về Mỹ báo cho Nixon biết, ông nói “Tổng thống đã thắng được 3 trên 3, (You’ve got 3 for 3) ý nói vấn đề Trung Cộng, Nga Sô, Việt Nam nay đã được giải quyết xong (Larry Berman, No Peace No Honor trang 159).
Mới đầu Nixon chưa tin là thật, Kissinger tức mình bèn mở cặp lấy hồ sơ mật ra và nói đã đòi được nhiều điều hơn mong đợi: Thiệu vẫn làm Tổng thống, ngưng bắn tại chỗ ngày 30 hay 31-8, Mỹ sẽ rút quân trong 60 ngày, trà tù binh…Nixon vô cùng phấn khởi bèn sai mở chai rượu Lafite-Rothschild 1957 cùng các phụ tá nhậu ăn mừng kết quả hòa đàm.
Ngày 18-10 Kissinger bay đến Sài gòn để thuyết trình với TT Thiệu về Sơ thảo Hiệp Định, hôm sau họp với Thiệu nhưng bị chống đối dữ dội, ông Thiệu cho là Mỹ phản bội đồng minh. Buổi họp dự trù hôm sau bị hủy bỏ, Kisiinger tức giận bảo: Tôi là đặc phái viên Tổng thống Mỹ các ông không thể coi tôi như trẻ con được ! TT Thiệu nghe lời khuyên của bí thư Hoàng đức Nhã không tiếp Kissinger, nhưng ông ta năm nỉ xin họp tiếp, ông ta bảo TT Thiệu cứ ký đi không sao đâu, TT Nixon sẽ trừng trị BV nếu họ vi phạm ngưng bắn nhưng ông Thiệu vẫn từ chối. Kissinger tức giạn nói: Chúng tôi đã chiến đấu 4 năm, dồn hết nỗ lực ngoại giao để bảo vệ cho một quốc gia. Sau mấy ngày ở Sài Gòn, Kissinger về Mỹ thất vọng hoàn toàn. Nixon gửi thư trấn an Thiệu, hứa bảo vệ đồng minh đến cùng.
Ngày 7-11-1972 Richard Nixon thắng cử McGovern trên 49 của 50 tiểu bang Mỹ, sở dĩ ông thắng lợi vẻ vang vì đã kiểm soát được những vấn đề cực kỳ xấu tệ kể cả Việt nam tuy hòa bình chưa hẳn trong tay nhưng ông đã đưa được gần hết quân Mỹ tại miền Nam Việt Nam về nước. Nixon đã đạt được hai thành tích vô cùng lớn lao : bang giao với Trung Cộng tháng 2-1972 và hòa hoãn với Nga Sô tháng 5-1972.
Ông Thiệu đưa ra 69 điểm cần sửa đổi và đã được Kissinger đưa ra phiên họp với Lê Đức Thọ, hòa đàm tan vỡ, Thọ phản đối Kissinger cho là đã đánh lừa họ. Tháng 11 hòa đàm trở ngại vì VNCH đòi sửa nhiểu khoản, Mỹ chỉ trích miền Nam VN gây trở ngại hòa đàm. TT Nixon khuyên TT Thiệu nên chấp thuận sơ thảo vì sợ Quốc hội ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt hết viện trợ cho miền Nam , hạ tuần tháng 11 Nixon muốn tỏ ra cứng rắn với cả hai miền. Trong thời gian này, TT Nixon đã được các trưởng khối Tại Thượng và Hạ viện cảnh cáo cho biết nếu VNCH gây trở ngại hòa đàm thì Quốc hội sẽ ra luật rút quân để đổi lấy tù binh, cắt hoàn toàn viện trợ , đưa ra hạ viện với tỷ lệ 2-1, nếu không có viện trợ Sài Gòn sẽ chết ngay.
Đó là lời nhắn của Quốc hội Mỹ dành cho TT Thiệu, họ muốn nói gần như công khai sẵn sàng đánh đổi Đông Dương lấy 580 tù binh Mỹ còn bị BV giam giữ, đối với họ chỉ có sinh mạng của tù binh Mỹ mới là quan trọng, sinh mạng của cả Đông Dương không nghĩa lý gì. Về điểm này trong No More Vietnams trang 142, Nixon cũng nói như vậy, nhưng ông Thiệu vẫn không tin cho là họ chỉ hù dọa chứ không dám bỏ Đông dương, cho tới tháng 3-1975 ông vẫn không tin Mỹ bỏ miền nam VN và đã tháu cáy giả vờ thua chạy, cho rút khỏi Pleiku giữa tháng 3-1975 để dụ cho Mỹ trở lại, hậu quả đưa tới sụp đổ VNCH thật nhanh chóng.
TT Nixon luôn khuyên TT Thiệu nên thức thời chấp nhận hòa đàm, không ai hết lòng với đồng minh VNCH bằng ông, Kissinger có lần nói với người phụ tá “Ông nói cho ông Thiệu biết nay chỉ có tôi và Tổng Thống là bạn ông ấy” (sách đã dẫn, trang 146), thật vậy số người ủng hộ Hành pháp cũng như TT Thiệu tại Quốc hội nay đã từ bỏ hết, diều hâu đã đổi lông cánh biến thành bồ câu, người ta quá chán chiến tranh Đông Dương.
Ngày 13-12-72 hòa đàm tan vỡ, BV bỏ hội nghị không họp hy vọng Quốc hội Mỹ sẽ nhóm họp trong đầu tháng 1-73 ra luật chấm dứt chiến tranh. Nixon và Kissinger dùng biện pháp mạnh, cuộc oanh tạc bằng B-52 trong mười ngày từ 18-12 tới cuối tháng 12 đã lôi cổ BV trở lại bàn hội nghị. Ngày 2 -1-1973, đảng Dân chủ hạ viện bầu cử nội bộ bỏ phiếu cắt hết viện trợ Đông Dương để đổi tù binh và rút hết quân về nước, ngày 4-1 Ủy ban bầu cử thượng viện đảng Dân chủ bầu nội bộ thông qua đạo luật hạ viện với tỷ lệ 30-12, trên thực tế Quốc hội đang tiến hành luật chấm dứt chiến tranh (sách đã dẫn trang 221).
Mặc dù đã được TT Nixon hứa hẹn nhiều lần sẽ trừng trị BV bằng B-52 nếu họ vi phạm Hiệp định, nhưng ông Thiệu vẫn cứng rắn không chịu ký kết đòi BV phải rút hết về Bắc, theo Nixon vấn đề BV còn đóng quân ở miến Nam 120 ngàn người không quan trọng, người Mỹ coi Hiệp định chỉ là một mảnh giấy, mực trên Hiệp định không quan trọng bằng sắt thép và bom đạn của máy bay chiến lược B-52 ( No Peace No Honor, p. 197). Sự cứng rắn của ông Thiệu nay đã lỗi thời, số người không ủng hộ chiến tranh VN chiếm hầu hết Quốc hội và số ủng hộ đếm trên đấu ngón tay, lập trường của ông Thiệu nay không có kết quả gì hơn là làm mất cảm tình của Quốc hội, trong khi sinh mạng của cả Đông Dương đang nằm trong tay họ. Từ ngày phong trào phản chiến lớn mạnh những năm 1969, 70 cho tới 1972, nó đã làm lệch cán quân quyền lực tại Mỹ, theo như nguyên tắc phân quyền Lập Pháp, Hành pháp, Tư pháp ngang hàng nhau, nay quyền lực vào tay Quốc hội, hành pháp mất gần hết chủ quyền.
Hiệp định Paris được ký kết ngày 27-1-1973, TT Nixon tuyên bố ông đã thực hiện được thỏa hiệp danh dự (an honorable agreement)., không phản bội đồng minh, không bỏ rơi tù binh. Hiệp định Paris trên thực tế vẫn không đem lại hòa bình cho Đông Dương, hơn hai năm sau ngày ký kết, BV đem đại binh tấn công miền Nam VN đưa tới sụp đổ ngày 30-4-1975, VNCH biến mất trên bản dồ thế giới. Nay người ta giải thích về thất bại của Hiệp định và sụp đổ miền Nam VN.
- Nixon và Kissinger nói họ thắng cuộc chiến nhưng Quốc Hội làm mất hòa bình, hai nhà lãnh đạo đổ lỗi cho Quốc hội đã không cho Hành pháp khả năng giám sát Hiệp định và cắt hết viện trợ bỏ rơi đồng minh.
- Hiệp định thể hiện một khoảng cách vừa đủ, decent interval để quân Mỹ rút đi, lấy tù binh còn lại người Việt tự giải quyết số phận đất nước, Hoa Kỳ không muốn CS thắng quá nhanh. Theo Frank Snepp, nhà phân tích chiến lược CIA tại VN trong cuốn Decent interval nói Hiệp định Paris chỉ là cách trốn tránh nhiệm vụ của Mỹ, chỉ là để Mỹ rút ra khỏi VN.
Hòa bình giả của Nixon
Nhưng nay Larry Berman đã ghi lại (trong No Peace No Honor) những hồ sơ mật ong giải mã đã cho thấy những viễn tượng tệ hơn những cảnh đã sẩy ra. Sực thực trái ngược với giả thuyết decent interval và khác xa những điều Nixon và Kissinger tuyên bố. Hồ sơ có ghi là chính phủ Hoa Kỳ muốn rằng Hiệp định đã ký sẽ bị vi phạm ngay và sẽ đưa tới sự giáng trả dữ dội bằng vũ lực. Chiến tranh thường trực bằng B-52 sẽ được Nixon và Kissinger khởi động từ cái gọi là Hiệp định Paris. Nixon tin nó là con đường duy nhất được dân Mỹ chấp thuận khả năng trừng trị và giám sát thi hành Hiệp định, ông cho rằng tìm hòa bình hay chiến thắng đều không làm được và đã lên kế hoạch giải quyết sự bế tắc triền miên bằng B-52.
Nixon muốn lịch sử ghi nhớ mình như một vị Tổng thống có một chính sách ngoại giao vĩ đại, đã thực hiện được ba thành quả lớn lao.
Bang giao với Trung Cộng.
Hòa hoãn với Nga Xô.
Bảo vệ được miền Nam VN.
Nixon cần có một miến nam VN không CS để giữ lại một di vật đã gồm cả sự hòa hoãn với Nga, bang giao với Trung Cộng, nam VN mất không thể là điều ông mong ước. Quyết tâm bảo vệ miền Nam VN của Nixon trước hết để bảo tồn một di sản cho sự nghiệp chính trị của ông hơn là để bảo vệ tự do cho VNCH hay nói khác đi bảo vệ miền Nam thể hiện một quyền lợi của chính ông, một cách để lưu danh thiên cổ. Ngày 12-8 Kissinger ở Paris về nói với Nixon “Tổng thống đã thắng được 3 trên 3, You’ve got 3 for 3”, có nghĩa là đã giải quyết được ba vấn đề lớn lao như đã nói.
Nay nhiều sự thật được tiết lộ, sáng 30-11-1972, trước ngày ký Hiệp định Paris hai tháng Tổng thống Nixon họp Ban tham mưu liên quân, Kissinger thuyết trình về bản dự thảo Hiệp định ngưng bắn. Ông nói tổng thống muốn tập trung vào tình trạng khẩn trương nhất gồm hai sự kiện: Nếu hòa đàm tan vỡ, giải pháp quân sự nào? Thứ hai nếu hòa đàm thành công nhưng nếu Hiệp định bị vi phạm ta sẽ phải làm gì? Khi ấy Nixon thêm vào: “Ta cần biết Sài Gòn đang được Mỹ yểm trợ và Hoa Thịnh Đốn sẽ giám sát Hiệp định Paris”. Hà Nội nói họ không có quân ở miền Nam, nếu họ đưa quân vào ta sẽ trừng trị thích đáng. Kissinger kết luận Hiệp định Paris thuận lợi hơn Hiệp Định Geneve 1954 vì nay ta là một bên của Hiệp Định.
TT Nixon nói tới đoạn cuối nếu Hà Nội vi phạm, họ sẽ bị trả đũa nặng nề. Đô đốc Moorer đã thảo kế hoạch khẩn trương 3 và 6 ngày cho kế hoạch đòi hỏi để tấn công BV. Ban tham mưu phải thực hiện chặt chẽ kế hoạch, gài mìn trở lại và xử dụng B-52 oanh tạc Hà Nội, nếu BV vi phạm Mỹ sẽ giáng trả hết cỡ, chúng ta phải giữ một lực lượng tại địa điểm để thi hành. Sự giáng trả BV phải ồ ạt hữu hiệu, trước hết B-52 phải nhắm vào Hà Nội.
Đô đốc Elmo zumWalt Tư lệnh hải quân đã ghi lại cảm tưởng về buổi họp, ông nhận ra sự lường gạt của Nixon “Tổng thống nói về tình trạng ngưng bắn khiến tôi có cảm tưởng đang ở trên một hành tinh khác .. Lúc ấy chúng tôi thấy rõ: hứa viện trợ ồ ạt cho miền nam VN và sự giáng trả vi phạm trầm trọng của Hà Nội để bảo đảm ngưng bắn và thực thi hoàn toàn những lời hứa đó là yếu tố khẩn cấp để giữ hòa bình. Thế mà chính phủ không bao giờ cho người dân và Quốc hội biết chuyện bí mật này.
Nay nhờ những hồ sơ ‘mật ong’ được giải mã người Mỹ chỉ trích Nixon đã đánh lừa nhân dân, đánh lừa Quốc hội, hòa bình mà Nixon, Kissinger tìm kiếm chỉ là hòa bình giả, (a sham peace). Hai tháng trước khi ký Hiệp định Paris, họ đã chuẩn bị chiến tranh để trừng phạt BV bằng B-52 vì tin chắc địch sẽ vi phạm Hiệp định. Nixon tin tưởng sẽ thuyết phục được dân chúng ủng hộ ông sau khi ký Hiệp định để trừng phạt BV suốt nhiệm kỳ thứ hai của ông cho tới 1976. Nixon nói sắt thép, bom đạn mạnh hơn văn kiện, chỉ có pháo đài bay mới bảo đảm được sự thi hành Hiệp định.
Hồ sơ mật giải mã (No Peace No Honor p.260) về cuộc nói chuyện gặp gỡ cho thấy kế hoạch quanh co của hòa bình giả. Cuộc họp với Lý Quang Diệu Thủ tướng Singapore ngày 4-8-1973, Kisinger nói ông tin rằng oanh tạc là cách duy nhất, hữu hiệu nhất để bảo vệ VNCH không bị sụp đổ, cuộc đối thoại cho ta thấy rất nhiều. Kissinger đã nhìn nhận ký hiệp định xong tháng 1, tôi cảm thấy chúng ta phải tái oanh tạc BV vào tháng 4 hay tháng 5, ông ta nói: “ Nếu BV vi phạm Hiệp định chúng ta sẽ tái oanh tạc” ông đã xác nhận điều mà Tướng Haig đã nói với Thủ tướng Lào Phouma cũng như cái mà TT Nixon đã nói với TT Thiệu và cái mà Đô đốc Zumwalt đã kết luận cuối tháng 11-1972 tại buổi họp Tham mưu trưởng liên quân (Joint chief of staff). Đó là hòa bình giả trong kế hoạch đánh lửa dân Mỹ với những từ ngữ văn vẻ hào nhoáng “danh dự cho Mỹ”. Ông biết BV sẽ lừa gạt Hoa Kỳ và sửa soạn kế hoạch tái oanh tạc, mạt cưa mướp đắng gặp nhau.
Khi Kissinger nâng ly chúc Lê Đức Thọ và nói chữ hòa bình tháng 1- 1973 và TT Nixon đọc diễn văn trên toàn quốc tuyên bố hòa bình trong danh dự tại Việt Nam. Cả hai người đều biết rằng vừa khi người tù binh Mỹ cuối cùng trở về nhà, cuộc oanh tạc bằng pháo đài bay để trừng phạt Hà Nội vi phạm sẽ bắt đầu, với Nixon cuộc oanh tạc kéo dài cho tới 1976 và với Kissinger sẽ kéo dài cho tới khi ông lãnh giải Nobel hòa bình…
Hôm 27-4-1975, William Buckley viết trên Wall Street Journal cho rằng Watergate đã làm cho kế hoạch nghiền nát Bắc Việt của Nixon bị trật đường rầy. Nixon với sự khuyến khích của Kissinger đã làm gì nếu sự chống đối trong nước mạnh mẽ khi mà vài tuần sau Hiệp định Paris, BV không đếm xỉa gì tới nó.
Nixon tin rằng người dân sẽ ủng hộ ông trong kế hoạch trừng trị sự vi phạm ngưng bắn nhưng Kissinger khách quan hơn, sau này ông nghĩ rằng người dân sẽ không ủng hộ. Tác giả Larry Berman cho rằng không ai có thể trả lời như vậy. (No Peace, No Honor p.180)
Nixon chuẩn bị chiến tranh bằng pháo đài bay B-52 sau khi ký kết Hiệp định ngưng bắn, nhưng vấn dề là người dân có ủng hộ ông hay không? Theo như thăm dò của Gallup poll dựa vào cuộc phỏng vấn trong ngày ký Hiệp định Paris cho thấy sự chủ quan của TT Nixon.
- Khi Mỹ rút khỏi VN, bạn có nghĩ một chính quyền mạnh ở nam VN có thể chống lại được áp lực CS hay không? 54% tin rằng chính quyền miền nam không thể tồn tại, 27% tin chính phủ nam VN sẽ tồn tại, 19% không có ý kiến.
- Sau khi Mỹ rút đi bạn có nghĩ BV trong những năm sau như lại muốn chiếm VNCH có đúng không? 70% nghĩ rằng BV sẽ gắng sức chiếm miền nam, 16% nghĩ rằng không, 14% không ý kiến.
- Giả sử sau khi Mỹ rút, BV lại đem quân chiếm miền nam VN, bạn có nghĩ Hoa Kỳ sẽ gửi viện trợ quân sự cho VN hay không? 50% tin là Mỹ sẽ không gửi, 38% tin là có, 12% không ý kiến.
- Nếu BV lại đem quân đánh chiếm nam VN, bạn có nghĩ Mỹ sẽ oanh tạc BV hay không? 71% nói sẽ không có ném bom, 17% nói có, 12% không ý kiến.
- Nếu BV lại đánh chiếm miền nam VN, bạn có nghĩ Mỹ sẽ đem quân giúp VN hay không? 79% chống đối việc gửi quân, 13% ủng hộ, 8% không ý kiến.
Nhận định của tác giả Walter Isaacson dưới đây có lẽ là khách quan hơn hết.
Một khi người Mỹ đã tìm được con đường ra khỏi Việt Nam, cả Quốc hội lẫn người dân đều đã không muốn tham chiến trở lại, dù có hay không vụ Watergate”
(Kissinger A Biography p. 487)
Hoặc
Bất kể có hay không có vụ Watergate, người Mỹ không còn muốn dính dáng gì với Việt Nam” (p.487)
Người dân Mỹ đã quá ghê tởm cuộc chiến tranh bẩn thỉu của Hà Nội.
Gió đã đổi chiều, hoài bão của Tổng thống Nixon để giữ một miền nam Việt Nam không Công Sản cuối cùng chỉ là ảo tưởng vĩ đại”
Mồng 4 tết Nhâm thìn, nhân dịp 39 năm ngày ký Hiệp định Paris
© Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
—————————————
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam-The Free press 2001
Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House, New York 1985
Walter Isaacson: Kissinger A Biography Simon & Schuster 1992.
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Robert Dallek: Partners In Power, Nixon and Kissinger – Harper Collins publishers 2007
The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1985
Stanley Karnow: Vietnam, A History, A Penguin Books 1991
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war


-------

-Trọng Đạt: Nixon Và Việt Nam
Lời tác giả: Bài này là một cái nhìn tổng quát về sự can thiệp của người Mỹ vào miền Nam Việt Nam từ 1965 tới ngày sụp đổ, nhấn mạnh ở giai đoạn đầu thập niên 70.

Bài 1 – Tình hình chiến sự

Người Mỹ bắt đầu can thiệp vào Đông Dương từ 1950 khi Trung Cộng viện trợ ồ ạt cho Việt Minh tại biên giới Hoa – Việt. Cuối tháng 10-1950 Hoa Kỳ vội viện trợ quân sự cho Pháp 300 triệu đô la, 40 máy bay khu trục và tiếp tục tài trợ cuộc chiến chống Cộng Sản cho tới 1954, tổng số tiền viện trợ quân sự của Mỹ gần 2 tỷ Mỹ kim, năm 1954 có tới 74% quân phí do tiền viện trợ của Mỹ.

Năm 1955 Mỹ hất cẳng Pháp nhẩy vào Đông Dương thành lập tiền đồn chống Cộng khi thuyết Domino bắt đầu thành hình, Domino có nghĩa nếu Việt Nam mất về tay Cộng Sản sẽ kéo theo sự sụp đổ của các nước lân bang như Miên, Lào, Miến Điện, Thái lan, Mã Lai… và cả Đông Nam Á như trong ván bài domino.
Tại miền Nam Việt Nam từ sau khi chính phủ Ngô đình Diệm bị lật đổ cuối năm 1963, Cộng sản Bắc Việt thừa cơ nước đục thả câu, ngày càng gia tăng xâm nhập, sống chết họ cũng phải chiếm cho được vựa lúa miền Nam vì miền Bắc bị thiếu hụt ngũ cốc, phải nhập cảng gạo của Miến Điện. Năm 1964, 1965 cuộc chiến ngày càng gia tăng và ác liệt, giữa năm 1965 trung bình trong một tuần lễ Việt Nam Cộng Hòa mất một quận và một tiểu đoàn, nếu Mỹ không can thiệp miền Nam sẽ mất trong vòng 6 tháng. Chính phủ Johnson không có con đường nào khác hơn là đổ quân ồ ạt vào miền Nam để cứu tiền đồn chống Cộng của Đông Nam Á.
Sự can thiệp của người Mỹ vào Đông dương như trên có từ 1950 nhưng chỉ là gián tiếp, chỉ viện trợ quân sự và gửi cố vấn sang huấn luyện. Họ can thiệp mạnh bắt đầu từ 1965, người dân Mỹ thường coi thời điểm này là sự can thiệp (involvement) của Hoa Kỳ vào Đông Dương. Cuộc chiến tranh của người Mỹ tại VNCH để chống Cộng Sản xâm lược có hai giai đọan rõ rệt: Thời Johnson 1965-1968 và thời Nixon 1969-1974.
Cuộc chiến thời Johnson – Mac Namara.

Trước khi nói tới chính sách của Tổng thống Nixon đối với VNCH tôi xin nói sơ về giai đọan trước Nixon tức là giai đoạn do Tổng thống Johnson can thiệp vào VNCH. Năm 1965 là thời kỳ cao điểm của thuyết Domino, năm 1965 khi Nixon chưa làm Tổng thống ông đã ủng hộ nhiệt tình thuyết Domino, theo ông nếu Mỹ rút bỏ VNCH thì Miên, Lào, Thái Lan, Nam Dương cũng mất theo, nếu Mỹ bỏ VN thì Á châu sẽ bỏ Mỹ và Thái bình dương sẽ thành biển đỏ. Ông cũng nói nếu VN mất thì Á châu cũng sẽ không còn vì họ sẽ theo CS trước khi bị CS chiếm (if Vietnam is lost, all of Southeast Asia is lost… – Nguồn answer.com.)
Tháng 2 năm 1965 theo thăm dò của Viện Harris đại đa số (78%) người Mỹ cho rằng nếu họ rút khởi VN thì CS sẽ chiếm hết Đông Nam Á, lưỡng viện Quốc hội cũng hoàn toàn ủng hộ chính phủ đưa quân can thiệp vào Đông Dương. Về điểm này nhiều nhà sử gia Việt nam chỉ trích Hoa Kỳ đổ quân vào VNCH làm mất chính nghĩa đưa tới sụp đổ, sự thực thì người Mỹ không còn con đường nào khác hơn. Sau này năm 1969 Tướng Wesmoreland cho biết nếu Mỹ không đổ quân vào Đà Nẵng năm 1965 thì VNCH sẽ mất trong sáu tháng, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cũng nói năm 1965 tình hình an ninh của ta rất nguy kịch, trung bình một tuần VNCH mất một quận và một tiểu đoàn (Trận Chiến Trong Mùa Phục Sinh 1972).
TT Johnson được Quốc hội ủng hộ cho tăng quân đều đều hàng năm từ 184,300 người năm 1965 lên 385,000 năm 1966, lên 485,600 năm 1967 và 536,100 năm 1968. Nhờ hỏa lực mạnh của quân đội Mỹ, miền nam VN đã được bình định, Cộng quân bị đẩy lui lên các vùng hẻo lánh, địch bị thiệt hại nặng. Kế họach lùng và diệt địch của Mỹ có kết quả tốt, VNCH lấy lại được thăng bằng. Trong ba năm 1965, 1966, 1967 kế hoạch chiến tranh hạn chế của Johnson-Mc Namara chỉ cho lùng diệt địch trong phạm vi VNCH không cho đánh qua biên giới cũng như phía trên khu phi quân sự, cuộc chiến chỉ phòng thủ không tấn công. Trong 3 năm kể trên BV đã bị thiệt hại khoảng gần 350 ngàn người nhưng họ vẫn tiếp tục gia tăng nhân lực từ 180 ngàn năm 1964 lên tới 261 ngàn trong năm 1967, họ thay thế được số thiệt hại mà còn gia tăng thêm quân số.
TT Johnson cho oanh tạc BV từ 1964 và ngày càng leo thang nhưng cũng vẫn hạn chế mục đích hăm dọa để Hà Nội phải đàm phán rút về Bắc. Được CS quốc tế viện trợ quân sự rất dồi dào, BV tiếp tục cuộc chiến, đẩy thanh niên vào chỗ chết, chấp nhận thiệt hại nhân mạng theo tỷ lệ 16 đổi 1 để đẩy mạnh phong trào phản chiến tại Mỹ. Số thiệt hại nhân mạng của Mỹ tăng dần, năm 1965 có 1,863 lính Mỹ chết tại VNCH (kể cả những người chết trận cũng như những lý do khác), năm sau 1966 tăng lên 6,143 người, năm 1967 lên 11,153 người , năm 1968 lên 16,592 người, từ 1965 tới 1968 có tất cả 35,751 người. Số lính Mỹ tử thương lên cao được truyền hình và báo chí Mỹ thổi phồng đổ dầu vào lửa khiến phong trào phản chiến ngày càng quyết liệt hơn.
Cuộc tổng công kích Tết Mậu thân 1968 của CS là một chiến thắng quân sự của miền Nam nhưng ngược lại địch đã đạt được thắng lợi lớn về chính trị, tỷ lệ người ủng hộ cuộc chiến tranh VN tụt thang nhanh chóng và tỷ lệ chống chiến tranh lên cao đòi chính phủ rút quân về nước, họ cho rằng không thể thắng được cuộc chiến này.
Mọi kế hoạch của Johnson – Mc Namara thất bại, lối đánh hao mòn để gây thiệt hại cho Cộng quân không có kết quả, BV sẵn sàng đẩy hàng triệu thanh niên vào chỗ chết để gây ảnh hưởng tối đa phong trào phản chiến tại Mỹ.
“Chiến lược hao mòn (Strategy of Attrition) bị chỉ trích vì làm hao tổn sinh mạng binh sĩ với một mục đích không rõ ràng, chiếm một ngọn đồi hay một cánh rừng không có tính cách chiến lược và sau đó lại bỏ đi”
Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 310.
Cuộc chiến tranh hạn chế thất bại, đó chỉ là cách đánh hù dọa, răn đe để cho BV thấy cái giá phải trả rồi sẽ phải ngồi vào bàn hội nghị. Trên thực tế kế hoạch của McNamara chỉ khiến cho cuộc chiến tranh kéo dài thêm, vô tình nuôi dưỡng phong trào phản chiến lên cao làm tiêu tan mọi nỗ lực đưa tới sụp đổ dần dần. Điều sai lầm cơ bản của Johnson là để McNamara, một người dân sự nắm toàn quyền hoạch định chiến lược quân sự mà thực ra phải do các Tướng lãnh đảm nhiệm, vì khoán trắng cho Mc Namara nên đã đưa tới hậu quả tai hại như trên.
Cuộc chiến từ 1969, Hành quân vượt biên giới.

Nixon lên nhậm chức Tổng thống đầu năm 1969, nếu giai đoạn trước từ 1965-1968 Johnson được cử tri, Quốc hội, dân chúng ủng hộ đem quân ồ ạt vào VN chống CS bình định miền Nam thì giai đoạn này khởi đầu từ 1969, Nixon phải đem quân về nước, phục hồi hòa bình vì phong trào chống đối lên quá cao. Nixon gặp vô cùng khó khăn tại nội bộ Hoa kỳ không được nhiều thuận lợi như thời Johnson.
Trong No More Vietnams (trang 88) Nixon nhận xét về Johnson như sau:
“Khi một ông Tổng thống Mỹ đưa quân đi tham chiến thì một cái máy đếm thời gian (timer) vô hình bắt đầu chạy. Ông ta có một khoảng thời hạn nhất định để chiến thắng trước khi người dân mệt mỏi vì nó. Tháng hai năm 1968, Tổng thống Johnson đã hết thời hạn của ông”
(When a President send American troops to war, a hidden timer starts to run. He has a finite period of time to win the war before the people grow weary of it. In February 1968, Presindent Johnson ran out of time.)
Nhận xét trên của TT Nixon về giai đọan 1965-1968 thật tuyệt vời, cụ thể. TT Johnson đã được quá nhiều thuận lợi, thiên thời địa lợi nhân hòa, Quốc hội và nhân dân ủng hộ, nắm trong tay nửa triệu quân võ trang hùng hậu nhưng đã không giải quyết được cuộc chiến Đông Dương để rồi người dân quá chán nản chống đối dữ dội đòi hành pháp phải rút khỏi VN bất kể đất nước xa xôi này còn hay mất. Nixon, người kế vị Johnson đã lãnh đủ, ông thừa hưởng căn nhà dột nát, siêu vẹo do cặp Johnson-Mc Namara để lại.
Tình hình an ninh trật tự nước Mỹ từ sau 1968 ngày càng trở nên tồi tệ, theo Nixon (No more Vietnams, trang 126-127) phong trào chống đối chiến tranh Đông Dương, Việt Nam gia tăng mạnh năm 1969. Năm 1968 phản chiến nói chung bất bạo động như biểu tình, đốt thẻ trưng binh nhưng sang năm 1969 khi Nixon lên làm TT đã tiến tới bạo động, đổ máu, sinh viên bắn cảnh sát, dùng dao uy hiếp ban giám đốc nhà trường, bắn súng đốt nhà, đập cửa kính, ném bom lớp học… Năm 1969-1970 có 1,800 cuộc chống đối biểu tình, 7,500 người bị bắt, 247 vụ đốt nhà, 462 người bị thương, trong số này 2/3 là cảnh sát, 8 người chết. Bạo lực không chỉ ở trường học mà còn lan ra toàn quốc. Từ tháng 1-1969 tới tháng 2-1970 có 40,000 vụ ném bom, âm mưu ném bom hoặc đe doạ ném bom hầu hết có liên hệ tới cuộc chiến, gây thiệt hại 21 triệu về tài sản, 43 người chết, mấy trăm người bị thương.
Từ cuối 1965 tới cuối 1966 số người ủng hộ giảm từ 61% xuống còn 51%, từ đầu 1967 tới cuối 1967 giảm từ 52% xuống còn 45%, từ đầu 1968 tới tháng 10-1968 giảm từ 42% xuống còn 37%, từ đầu 1969 tới tháng 10-1969 giảm từ 39% xuống 32%, từ đầu 1970 tới giữa 1971 giảm từ 33% xuống còn 28% (nguồn Wikipedia).
Khi Nixon lên làm Tổng thống, quan điểm chính trị của người dân đã quay 360 độ, thay vì ủng hộ cuộc chiến như trước đây họ đòi chính phủ rút quân về nước bỏ Đông Dương. Tổng thống Nixon ngày càng gặp nhiều khó khăn vì người dân chống đối liên tục. Ngày 18-3-1970 Thủ tướng Lon Nol lật đổ vua Sihanouk và cho lệnh tấn công các lực lượng CS tại Miên, CS bèn phản công trên khắp miền biên giới và cắt trục lộ về Nam Vang khiến cho tình hình quân sự tại đây rất đen tối. VNCH được Hoa Kỳ yểm trợ đã mở cuộc hành quân sang Miên ngày 13-4-1970 để phá hủy các căn cứ hậu cần an toàn của BV nơi xuất phát những cuộc tấn công VNCH, để giúp chính phủ Miên chống lại áp lực của CS, và sau cùng hồi hương các Việt Kiều đang bị người Miên quá khích bách hại.
Cuộc hành quân sang Kampuchia từ 29-4-1970 tới 22-7-1970 đã đánh bại và ruồng bố được khoảng 40,000 quân CS, giết trên 10 ngàn cán binh, tịch thu được 22,890 vũ khí cá nhân, 2,500 vũ khí cộng đồng, phá hủy nhiều cơ sở quân sự, làm suy yếu áp lực địch tại miền Nam VN
“Sir Thompson, một chuyên viên về phản du kích nhận định rằng hành quân Kampuchia và việc chiếm đóng hải cảng Kompong Som đã khiến kế họach phản công của CS bị chậm lại khoảng hai năm. Tiến sĩ H. Kissinger cũng đồng ý khi viện dẫn việc CS chỉ có thể phát động cuộc tổng tấn công mùa hè năm 1972 qua khu phi quân sự vì đây là con đường tiếp liệu ngắn nhất. Mật khu của họ tại Miên vẫn chưa đủ sức phục hồi và cuộc hành quân Kampuchia đã cho thấy rất dễ bị càn quét bởi QLVNCH”
(Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 495).
TT Nixon cho biết (No More Vietnams trang 124) người dân kết án cuộc hành quân sang Miên là càng lún sâu hơn vào cuộc chiến nhưng không phải như vậy. Cuộc tấn công của VNCH và Mỹ vào các vùng bất khả xâm phạm của CS rất quan trọng nó giúp rút quân đội Mỹ khỏi nam VN một cách thuận lợi, để họ có thời giờ huấn luyện quân đội miền Nam tự vệ. Tháng 1-1970 Hoa Kỳ còn 542,000 quân tại VN, tháng 7-1970 khi cuộc hành quân sang Miên chấm dứt chỉ còn 404,000 người, nhờ đó công cuộc Việt Nam hóa chiến tranh khả quan hơn. Hoa Kỳ đẩy mạnh chương trình rút quân thêm được 179,000 người trong 12 tháng kế tiếp, tháng giêng 1972 sẽ chỉ còn 45,000 người tại Nam VN.
Trong bài diễn văn về cuộc hành quân qua Miên, ông nói:
“Thưa đồng bào, mười ngày trước tôi đã tường trình cùng đồng bào về vấn đề Việt Nam, tôi đã thông báo quyết định rút thêm 150,000 quân Mỹ khỏi Việt Nam trong năm sau. Tôi cũng đã nói tôi quyết định như vậy mặc dù biết địch gia tăng hoạt động tại Lào, Miên và miền nam VN. Và khi ấy tôi đã cảnh cáo nếu địch gia tăng họat động tại các vùng này tôi sẽ sẵn sàng dùng sức mạnh để đối phó với tình hình. Mặc dù đã cảnh cáo nhưng BV vẫn gia tăng tấn công tại các phần đất trên nhất là tại Miên.
Sau khi tham khảo ý kiến rộng rãi với Hội đồng An Ninh Quốc Gia, Đại sứ Bunker, Tướng Abrams và các cố vấn khác của tôi, tôi kết luận những họat động của địch trong 10 ngày vừa qua rõ ràng là đe dọa tính mạng của người Mỹ còn ở Việt Nam hiện nay và cũng sẽ tạo nguy hiểm cho những Mỹ người còn ở lại sau khi ta rút thêm 150,000 người nữa. Để bảo vệ những người của chúng ta còn ở tại Việt Nam và để bảo đảm kết quả cho chương trình rút quân và Việt Nam hóa chiến tranh, tôi đã kết luận rằng đây là lúc phải hành động”

(Nguồn Americanrhetoric.com: Richard M. Nixon, Cambodian incursion address).
Cuộc hành quân Kampuchia đã bị chống đối dữ dội, ngày 4-5-1970, quân đội nổ súng chết 4 sinh viên tại đại học Kent, Ohio khiến phong trào bùng nổ mạnh, tính tới cuối tháng 5, khoảng 57% các đại học xá Mỹ tham gia biểu tình chống chiến tranh VN. Sau khi chính phủ loan báo về cuộc hành quân, một làn sóng chống đối lan tràn khắp nước Mỹ, tại đại học Maryland, 50 người bị thương khi sinh viên đụng chạm với cảnh sát, tại đại học Kent Ohio, hàng trăm người biểu tình nhìn hai người phóng hỏa đốt phòng huấn luyện sĩ quan trừ bị tại đại học xá cháy rụi, thống đốc Ohio kêu gọi quân đội can thiệp. Ít ngày sau một đám sinh viên ném gạch đá vào vào lính, đẩy họ lên một ngọn đồi. Khi lên đồi lính quay lại, vài người nổ súng, bốn người chết (2 biểu tình, 2 người đi xem), tháng 8, một xe van có chứa chất nổ phát nổ cạnh một tòa nhà tại đại học Wisconsin, một sinh viên chết, 4 bị thương , gây thiệt hại 6 triệu.
TT Nixon kết án hành động của đám sinh viên bạo động đã khuyến khích CSBV gây chiến không chịu đàm phán nghiêm chỉnh, bọn biểu tình đã ngẫu nhiên làm lợi cho Cộng Sản. Ông nói đối với những người phản chiến tôi cám ơn họ đã quan tâm tới hòa bình nhưng rất bất bình vì thái độ quá khích của họ nhất là không nhìn nhận thiện chí hòa bình của tôi và của chính phủ trước. Dù tôi quan niệm về họ thế nào hoặc họ đánh giá tôi làm sao thì hành động của họ đã khuyến khích kẻ địch tiếp tục gây chiến và không chịu đàm phán nghiêm chỉnh. Hành động chống chiến tranh của họ đã kéo dài chiến tranh là điều mỉa mai nhất trong giai đọan này. Đại diện BV tại hòa đàm Paris đã nhiều lần chửi đại diện Mỹ trong những lần đi đêm vì họ biết hành pháp Mỹ yếu thế, bị sinh viên và quốc hội chống đối dữ dội, CS đã thừa cơ nước đục thả câu.
Những người phản chiến muốn chấm dứt chiến tranh Việt Nam, chính Tổng thống cũng muốn thế nhưng họ không thấy cái sai của họ khi bỏ rơi người dân miền nam VN để chấm dứt chiến tranh ngay, cương vị Tổng thống tôi phải làm điều mà tôi cho là đúng đối với nước tôi, chính sách của ta phải được thể hiện trong phòng phiếu chứ không thể hiện ngoài đường phố. Cuộc chiến nào cũng khó nhưng tại VN đó là cuộc chiến khó đánh nhất mà người lính Mỹ chưa gặp như thế bao giờ, ta khó mà biết kẻ địch ở đâu.
Tổng thống Nixon cho rằng truyền thông báo chí Mỹ đã phóng đại tin xấu về cuộc chiến, họ nói quân đội ta kỳ thị chủng tộc, vô kỷ luật, nghiện xì ke, gây tội ác… theo ông quân đội Mỹ ở VN có kỷ luật hơn hồi ở Triều Tiên. Sinh viên Harvard năm 1968 có tới 75% “phi xì ke” trong khi lính Mỹ ở VN chỉ có 50% xì ke, 28% thuốc phiện, họ nghiện từ trước khi sang VN. Báo chí nói Hà Nội đối xử tốt với tù binh, họ xuyên tạc sự thật, họ tuyên truyền với lính Mỹ rằng cuộc chiến này không thể thắng được, ta không có chính nghĩa, đa số người dân Mỹ chống chiến tranh VN.
Theo Nixon (No More Vietnams trang 136) từ 1966-1971 CSBV xử dụng đường mòn Hồ Chí Minh chở vào Nam 630,000 quân, 100,000 tấn thực phẩm, 400,000 tấn vũ khí, 600 triệu viên đạn. Năm 1970 Lon Nol không cho BV xử dụng cảng Sihanoukville, mọi tiếp liệu của địch bây giờ phải chuyên chở qua đường mòn Hồ Chí Minh. Tháng 12 năm1970, suốt con đường 1,500 dặm bên Lào đầy nhóc những cán binh, hàng tiếp liệu chạy về Miên để chuẩn bị cho cuộc tấn công mùa xuân 1971 hoặc 1972. Để bảo đảm sự tồn vong của VNCH khi bị CS tấn công ta cần phải cắt đường tiếp liệu của họ.
Tháng 1-1971 ông ban lệnh hành quân cắt đường mòn Hồ Chí Minh, Quốc hội ngăn cản không cho chính phủ đưa quân Mỹ sang Lào, Nixon tin tưởng Quân đội VNCH có thể đảm trách cuộc hành quân, người Mỹ chỉ phòng thủ dưới khu phi quân sự và biên giới Việt Lào. Mỹ giúp chuyên chở tiếp liệu và các lực lượng VNCH bằng trực thăng vận và yểm trợ phi pháo. Kế hoạch giao cho quân đội VNCH tiến sâu khoảng 20 dặm vào đất Lào theo đường số 9 để chiếm tỉnh Tchpone, nơi tập trung các tuyến đường xâm nhập của CSBV, kế tiếp tiến sâu hơn vào vùng xung quanh để phá hủy các cơ sở CS. Trong khi ấy các đơn vị VNCH khác cũng sẽ mở cuộc tấn công tương tự vào các căn cứ CS tại Miên.
Cuộc hành quân lấy tên Lam Sơn bắt đầu ngày 8-2-1971, Quân đội VNCH chiến đấu anh dũng và hữu hiệu nhưng rồi lại gặp trở ngại. Lực lượng hành quân VNCH gồm Sư đoàn 1 BB, Sư đoàn Dù, Liên đoàn 1 Biệt động quân và Lữ đoàn 1 Kỵ binh, Sư đoàn TQLC là lực lượng trừ bị, tất cả đặt dưới quyền chỉ huy của Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Quân đoàn 1, quân số lúc nhiều nhất là 17,000 người.
BV phản công mạnh hơn ta tưởng rất nhiều đồng thời bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn lại thiếu yểm trợ không quân, các đơn vị VNCH tiến sâu vào Hạ Lào khoảng mười dặm bị thiệt hại nặng, khi thiệt hại lên tới 3,000 TT Thiệu lệnh cho các Tướng lãnh ngưng tiến quân. Giữa tháng ba, một thời gian ngắn sau khi quân VNCH tới Tchpone, họ rút lui về phía nam theo đường 914.
TT Nixon nói truyền thông báo chí Mỹ xuyên tạc cuộc hành quân khi họ chỉ đưa ra những thất bại của VNCH. Vì thiếu yểm trợ không quân khi rút lui, bị địch pháo kích khiến binh sĩ miền Nam hốt hoảng. Báo chí đưa một số hình ảnh lính VNCH bám càng máy bay trực thăng khiến nhiều người tưởng lính VNCH hèn nhát, chiến đấu kém. Theo Nixon trái với tin tức báo chí Mỹ, cuộc hành quân đạt thắng lợi quân sự. VNCH giết trên 9,000 tên địch, phá hủy 1,123 súng cộng đồng, 3,754 súng cá nhân, 110 xe tăng, 270 xe vận tải, 13,630 tấn đạn dược, 15 tấn đạn hỏa tiễn 122 ly. Trong số hai mươi hai tiểu đoàn VNCH tham gia cuộc hành quân, có mười tám tiểu đoàn chiến đấu anh dũng, bốn tiểu đoàn tác chiến kém. Cuộc rút quân mặc dù có một số hốt hoảng nhưng đa số có trật tự, Quân đội VNCH không thực hiện được hoàn toàn các mục tiêu đề ra nhưng đã ngăn chận được cuộc Tổng tấn công của địch vào miền Nam dự trù năm 1971.
Cuộc hành quân Lam Sơn 719 lần đầu tiên Quân đội VNCH tấn công CSBV không có cố vấn Mỹ, đây cũng là lần cuối Quân đội Mỹ tham gia trận chiến mặc dù chỉ là yểm trợ.
Về tổn thất hai bên ông Nguyễn Đức Phương dựa theo tác giả R.H Cole trong Southern Defeat on the Ho Chi Minh Trail. The Vietnam War, Salamander Books Ltd, pp190-197, 198.
“Kết quả cuộc hành quân Lam Sơn được ghi nhận như sau:
Mỹ 176 chết, 1,942 bị thương, 42 mất tích, thiệt hại quân dụng: 108 trực thăng và 7 phi cơ bị phá hủy.
VNCH: 1,483 người chết, 5,420 bị thương, 691 mất tích. Thiệt hại quân dụng: 75 chiến xa và thiết vận xa, 405 xe vận tải bị phá hủy; mất 198 vũ khí cộng đồng và 3,000 vũ khí cá nhân.
CS: 13,535 chết, 69 tù binh. Thiệt hại quân dụng: 76 đại bác, 106 chiến xa, 405 xe vận tải bị tịch thu hoặc phá hủy; 1,934 vũ khí cộng đồng và 5,066 vũ khí cá nhân bị tịch thu”.
(Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 519).
Cựu Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên có nhận xét dè dặt về chiến dịch này như sau:
“Hành quân Lam Sơn 719 chận đứng kế họach phản công của CSBV ở vùng I. Mặc dù không thành công mỹ mãn như cuộc hành quân qua Cam Bốt, cuộc hành quân đánh qua Hạ Lào đã phá hủy một số lớn quân nhu dụng ở vùng Tchepone, và làm gián đoạn sự xâm nhập của CSBV vào Nam.”
(Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hòa trang 289).
Theo TT Nixon cuộc hành quân Lam Sơn là một thắng lợi của Hoa kỳ và VNCH trong cuộc chiến đầu thập niên nhưng nhiều ý kiến khác phía VNCH cho thấy cuộc hành quân thất bại.
“Môt sĩ quan QLVNCH đã viết: “Nói đến trận Hạ Lào cả trăm người đều nói chúng ta đã thua; cái lý luận một chiều này 17 năm nay ai cũng cho là đúng”. Không đợi đến 17 năm sau mà ngay sau khi cuộc hành quân vừa chấm dứt, Đại úy Hy, pháo đội trưởng pháo đội C/44 tại CCHL 30 đã được một nữ sinh Huế đặt câu hỏi: “Thưa Đại úy, mình đánh thắng, sao em nghe các anh pháo binh rút lui, bỏ súng lại bên Lào hết?”
(Nguyễn Đức Phương CTVNT T, trang 522).
Tướng Sutherland tuyên bố cuộc hành quân hoàn toàn thành công khi ông cho biết số cán binh CS bị giết và chiến lợi phẩm tịch thu được tại Hạ Lào, còn TT Nixon tuyên bố VN hóa chiến tranh thành công.
Theo Nguyễn đức Phương nhận xét, cuôc hành quân đã không đạt được mục đích.
“Nếu nói về mục đích thì rõ ràng QLVNCH không đạt đươc thắng lợi như ý muốn. Khi vượt biên qua Lào, như tài liệu của khối quân sử của Bộ TTM đã xác định là để… Mở các cuộc hành quân diệt địch và khám phá các kho tàng… là dùng quân sự kiểm soát đường số 9 từ biên giới Lào Việt đến Tchépone để cắt đứt đường tiếp tế chính từ Bắc Việt vào các chiến trường Nam Việt và Đông Bộ KPC”
(CTVNTT trang 522)
Như vậy ta chỉ mới thực hiện được giai đoạn đầu của cuộc hành quân, chưa chiếm giữ lâu dài Tchépone (Nixon viết Tchpone). Cuộc hành quân chiếm Tchpone để kiểm soát không cho CSBV chuyển vận vũ khí vào Miên, Lào giống như năm 1953-1954 khi quân Pháp chiếm lòng chảo Điện Biên phủ để ngăn chận viện trợ vũ khí từ Trung Cộng sang Bắc VN cũng bị thất bại gần giống như vậy vì địch liều chết bảo vệ con đường huyết mạch của họ. CS đã dốc toàn lực vào để đánh lại các cuộc hành quân ấy.
Về sự tổn thất hai bên, các con số thống kê của VNCH, Hoa Kỳ, CSBV đưa ra khác nhau rất nhiều, như trên VNCH (theo R.H Cole) có 1,483 người chết nhưng tuần báo Newsweek số ra ngày 5-4-1971 cho biết VNCH thiệt hại 9,775 và khoảng 3,800 người tử trận, Nixon nói VNCH có 3,000 người chết, Tướng Hoàng Xuân Lãm cũng nói ta có 3,000 người tử trận. Phía CSBV đưa ra con số 23,000 quân ngụy Sài gòn (kể cả sĩ quan) và hàng ngàn lính Mỹ. Chúng ta thấy con số này hoàn toàn phóng đại, toàn bộ quân số VNCH tham gia hành quân Lam Sơn chỉ có 17,000 người, BV nói bắt được hàng ngàn lính Mỹ tại đây, sự thực toàn bộ tù binh Mỹ bị giam giữ tại Hà Nội khi trao trả năm 1973 chỉ có 580 người, tóm lại con số thống kê của CS không thể nào tin được.
Phía VNCH cho biết thiệt hại CSBV là 13,535 con số này cũng có thể tin được vì thường trong các trận giao tranh giữa CSBV và Mỹ, VNCH tổn thất của CS bao giờ cũng cao hơn đối phương gấp mấy lần, không riêng gì chiến tranh VN mà trong bất cứ cuộc chiến nào như Thế chiến thứ hai (1939-45), chiến tranh Triều Tiên (1950-53)… phía CS bao giờ cũng tử vong gấp bội lần đối phương vì họ chủ trương lấy xương máu đổi chiến thắng. Trong cuộc hành quân này, Hải quân Mỹ yểm trợ 1,900 phi vụ, Không quân Mỹ yểm trợ 9,114 phi vụ, trung bình mỗi ngày Không quân Mỹ thực hiện khoảng 100 phi vụ, Hải quân và TQLC thực hiện khoảng 63 phi vụ. Hai tiểu đoàn pháo binh Mỹ đã bắn yểm trợ 208,962 quả, phần lớn bom đạn yểm trợ do không quân Mỹ với số lượng tổng cộng hơn 14,000 tấn. Với khối lượng bom đạn yểm trợ dữ dội như thế sự thiệt hại lớn của BV là điều chắc chắn, con số 3,500 cán binh tử trận tại Hạ Lào do chính phía CSBV đưa ra quá thấp không thể tin được.
Ngoài ra Hoa kỳ còn yểm trợ cho VNCH về trực thăng vận tải quân và tiếp tế, Bộ binh Mỹ yểm trợ 24,000 phi vụ trực thăng vũ trang, 12,000 phi vụ của Kỵ binh không vận, 34,000 phi vụ tải quân, 19,000 phi vụ tiếp tế, TQLC Mỹ 2,000 phi vụ trực thăng vũ trang, 3,000 phi vụ tải quân, 900 phi vụ của các loại phi cơ khác.
Năm 1972 tại Hạ Lào với sự yểm trợ hùng hậu của Không quân, Hải quân Mỹ về hỏa lực, tải quân, tiếp tế… mà còn thất bại, như thế tình hình chiến sự VNCH 1975 khi ta bị cắt giảm viện trợ quân sự tối đa và không được yểm trợ của Không lực Mỹ cả về hỏa lực lẫn vận chuyển thì đủ thấy sự khó khăn gian nan trong giai đoạn này như thế nào!
Tướng Westmoreland, nguyên tư lệnh quân đội Mỹ tại VN cho biết phải cần hai quân đoàn (khoảng 6 sư đoàn) cho cuộc hành quân sang Lào. Trên thực tế quân số VNCH toàn bộ chỉ có 17,000 chưa tới hai sư đoàn không đủ để đương đầu với các cuộc tấn công biển người của BV. Đầu tháng 2-1970, 17,000 quân VNCH chỉ đương đầu với khoảng 22,000 quân CSBV, nhưng đến cuối tháng 3-1970, BV đã huy động khoảng 4 sư đoàn, hơn một trung đoàn xe tăng, và nhiều tiểu đoàn pháo mặt đất, pháo phòng không với quân số khoảng 40,000 người nên cán cân lực lượng nghiêng hẳn về phía BV. Thất bại vì khinh địch, không ước lượng trước lực lượng đông đảo của BV khi hành quân vào một vùng núi non hiểm trở có nhiều sư đoàn chính qui CS, họ tập trung lực lượng tấn công quyết liệt.
“Một sĩ quan TQLC cao cấp, trực tiếp tham dự cuộc hành quân cũng đồng ý với thất lợi trên khi viết… “Trước khi cuộc hành quân mở màn, tin tức đánh giá chỉ có sự hiện diện của 1 hay 2 sư đoàn địch hoạt động trong vùng mà không đề cập tới khả năng tăng cường của các đơn vị từ biên giới Lào-Bắc Việt tiến vào can thiệp. Tới khi trận chiến bùng nổ thì thực tế lực lượng địch có mặt khắp vùng đã lên tới 4, 5 sư đoàn tác chiến không kể hệ thống phòng không dầy đặc và chiến xa địch mà tin tức tình báo đánh giá quá thấp. Đặc biệt là tại mục tiêu Tchépone tin tức cũng không được ghi nhận môt cách đúng đắn, chính xác mà chỉ dựa vào những tin tức mà địch đã loan ra trên đài phát thanh Hà Nội mà phác họa kế hoạch tấn công. Kết quả là ta đã bị uy hiếp, bao vây phản kích suốt thời gian lui quân từ Tchépone về tới ranh giới Việt Lào”
(Nguyễn Đức Phương, CTVNTT trang 525)
Ngoài ra bí mật của cuộc hành quân đã bị tiết lộ, tại Sài gòn, Tướng Abrams họp báo vô tình đã tiết lộ những chi tiết khiến báo chí Mỹ đoán được cuộc hành quân sắp khai diễn, ngày 2-3-70 báo New York Times và Los Angeles Times đã bàn chi tiết cuộc hành quân này, ngày 5-2 báo Wall street Journal cũng tham gia loan tin, báo New York Times còn tiên đoán kế họach sẽ thất bại.
Người Mỹ biết CSBV đã khám phá được kế hoạch hành quân sang Hạ Lào nhưng vẫn cho tiến hành vì tin tưởng không quân sẽ tiêu diệt địch. CSBV đã cho di tản các kho hàng quân sự, căn cứ tiếp liệu… Họ chuẩn bị tọa độ pháo binh tại các địa điểm nghi ngờ có đổ quân của VNCH…
Như ta đã thấy TT Nixon đã có cái nhìn chủ quan khi cho rằng cuộc hành quân đạt kết quả tốt như :
“Trái với tin tức của giới truyền thông, cuộc hành quân là một chiến thắng quân sự”
(No More Vietnams, trang 137)
Sự thực hai bên đều bị thiệt hại nhưng tại đây CSBV đã bị suy yếu vì số cán binh tử thương rất cao và các kho tiếp liệu quân sự bị phá hủy nhiều khiến cho cuộc tổng tấn công năm 1971 của họ không thực hiện được mà phải dời đến năm sau. Khác với vị Tổng thống tiền nhiệm Johnson đã được Quốc hội cử tri ủng hộ trao quyền hành rộng rãi, TT Nixon lúc này đang bị Quốc hội và phong trào phản chiến chống đối dữ dội nên ông cũng khó mà yểm trợ, giúp đỡ đồng minh được nhiều, từ đó cuộc hành quân đã gặp nhiều khó khăn khiến ta không đạt được kết quả mong muốn.
Khác với Johnson đã được thời thế ưu đãi, thiên thời, địa lợi, nhân hòa, Nixon đã lãnh đủ mọi sai lầm, thất bại do vị Tổng thống tiền nhiệm để lại, ông luôn phải ưu tư, lo lắng trước các phong trào chống đối nhất là Quốc hội phản chiến.
Trong No More Vietnams trang 142, TT Nixon cho biết từ năm 1969 ông đã phải đương đầu với nguy cơ Quốc Hội ra luật chấm dứt chiến tranh, rút hết quân về nước bỏ Đông Dương, bỏ VN để đổi lấy sinh mạng của 580 tù binh Mỹ còn bị BV giam giữ. Theo ông năm 1972 Thượng Viện đã tiến hành thông qua dự luật chấm dứt chiến tranh này, tại Hạ viện số phiếu gần đủ nhưng không thành vì chính phủ đã tuyên bố rút quân nên số dân biểu ủng hộ chính phủ đã thay đổi tình hình, như thế ta thấy VNCH thoát chết năm 1972.
Cuộc Tổng tấn công năm 1972
Nixon cho biết công cuộc bình định và chương trình Việt Nam hóa chiến tranh đã thay đổi toàn diện cuộc chiến tại Việt Nam. Chiến sự năm 1972 khác hẳn tình hình cuối 1970, ta đã đối phó với chiến lược du kích chiến lợi hại của địch, nay họ bỏ sang chiến tranh qui ước như chúng ta.
Những tháng đầu của năm 1972, Hoa Kỳ đã đoán trước một cuộc tổng tấn công quyết định của BV. Sự xuất hiện của xe tăng tại Lào cho thấy trận này sẽ không giống như tổng khởi nghĩa Tết Mậu thân mà sẽ là dàn trận đánh công khai, nếu thắng trận họ sẽ xóa bỏ VNCH trên bản đồ, ngược lại thất bại họ sẽ phải đàm phán nghiêm chỉnh chấm dứt chiến tranh. Theo Nixon (No More Vietnams, trang 140-142) phía Hoa Kỳ và VNCH đã chuẩn bị đối phó với trận tổng công kích của BV vì đã kết hợp năm yếu tố của chính sách VN.
- Chương trình Việt Nam hóa chiến tranh đưa QLVNCH lên thành một đạo quân hùng cường gồm: 120 tiểu đoàn bộ binh tổ chức thành 11 sư đoàn, 58 tiểu đoàn pháo binh, 19 đơn vị thiết kỵ cấp tiểu đoàn, Hải quân gồm 1,680 tầu bè các lọai, máy bay gồm trên 1,000 chiếc, dân số miền Nam 19 triệu có trên một triệu lính.
- Chương trình bình định khiến ta đã kiểm soát từ Sàigòn cho tới các xã thôn, phá hủy hạ tầng cơ sở CS, triệt hạ cơ sở tình báo, tiếp liệu địch. Viện trợ kinh tế Hoa kỳ đưa đời sống miền Nam lên cao chưa từng thấy.
- Chính sách ngọai giao với các siêu cường để cô lập BV với Nga, Tầu. Trong cuộc họp thượng đỉnh tại Trung Cộng tháng 2-1972, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai chỉ phản đối xuông nhẹ nhàng về hành động của Mỹ tại VN. Nixon cũng sang Nga để hòa hoãn với anh trùm CS này. Cuộc họp thượng đỉnh với Brezhnev tháng 5-1972 tại Mạc Tư Khoa, Nixon đã bàn thảo giải quyết những vấn đề quan trọng với Nga như tài giảm binh bị, mua bán lúa mì. Brezhnev chỉ coi vấn đề VN vào hàng thứ yếu.
- Chương trình rút quân đã lấy được sự ủng hộ của Lập pháp và người dân trong mấy năm, tháng 1-1972 Hoa kỳ đã rút trên 400,000 quân khỏi VN, số 133,200 người còn lại không có ai tham gia chiến đấu mà chỉ chờ ngày về nước trong 6 tháng.
- Với lòng kiên nhẫn, sự chịu đựng, Kissinger cố sức giải quyết mọi bế tắc trong các phiên họp tại Paris, BV từ chối mọi đề nghị của ta. Tháng 10-1971 Hoa kỳ đã đưa ra một đề nghị hòa bình nhưng BV vẫn tìm cách cù cưa để phân hóa chia rẽ nội bộ nước Mỹ, họ đòi Mỹ rút quân và lật đổ chính phủ Thiệu. Nixon đã tuyên bố cho nhân dân Hoa kỳ biết thái độ ngoan cố của CSBV để chuẩn bị trừng trị họ thích đáng bằng vũ lực.
Ngày 30-3-1972, Hà Nội mở trận tấn công đại qui mô vào VNCH, địch tập trung ba Sư đoàn bộ binh, 200 xe tăng T-54, nhiều đại bác 130 ly vượt qua khu phi quân sự, nhiều đơn vị khác theo đường số 9 Hạ Lào hướng về Huế, hai Sư đoàn tiến về Kontum, ba Sư đoàn từ Miên tiến đánh Bình Long giống như Bắc Cao ly xâm lăng Nam Cao Ly năm 1950.
Nixon cho đây là một cuộc tấn công tuyệt vọng của địch vì họ biết Mỹ đã hòa hoãn được với Nga, Trung Cộng. BV biết họ không còn ở thế thuận lợi nên phải làm liều. Trong tuần đầu, ngày 2-4-1972 CSBV đánh sụm Sư đoàn 3 của VNCH dưới khi phi quân sự, mười bốn căn cứ phải rút chạy trước sức tấn công rất mạnh của địch. Ngày 5-4, ba Sư đoàn CS tấn công Bình Long. Ngày 13-4 địch bao vây An Lộc, ngày 23-4 BV tấn công Kontum, Sư đoàn 22BB VNCH rút chạy, Sư đoàn 23BB vẫn giữ vững vị trí. Ngày 27- 4 địch tấn công mạnh mặt trận Bắc VNCH, 4 ngày sau Quảng trị thất thủ.
Trong cuộc tấn công tại Quảng trị, BV pháo kích vào dân chúng chạy loạn. Hoa Kỳ phản kích địch nhanh chóng, các đơn vị lớn của CS như xe tăng, tiếp liệu… thành mục tiêu rõ ràng cho không quân Mỹ, ngày 1- 4 Nixon cho lệnh oanh tạc 40 cây số phía trên vĩ tuyến thứ 17. Hai tuần sau ông cho lệnh oanh kích vĩ tuyến 20, cho tập trung các lực lượng Hải quân, Không quân Đông Nam Á, gửi hai tuần dương hạm và 8 khu trục hạm để hải pháo, 20 B-52, bốn phi đội F4 oanh tạc BV trở lại và nhiều đòn giáng trả tiếp theo đó. Ngày 2-5 tại bàn hội nghị Paris, BV tưởng sẽ đè bẹp miền Nam bằng quân sự nên tỏ ra hỗn láo, Kissinger không chịu nổi phải bỏ họp.
Tin tình báo cho biết muốn tấn công miền Nam, CSBV cần nhiều ngàn tấn nhiên nhiên liệu và đạn dược mỗi ngày, tốt nhất phải ngăn chận sự vận chuyển tiếp liệu này. Hai tháng trước Nixon mở bang giao với Trung Cộng, ba tuần nữa ông sẽ họp thượng đỉnh với Brezhnev tại Moscow. Nixon phân vân không biết phản ứng của hai anh trùm CS này ra sao khi ông tấn công chư hầu BV của họ. Ông cho rằng nếu để BV chiếm miền Nam, Bộ chính trị Nga, Trung Cộng sẽ cho là Mỹ nhu nhược và sẽ coi Mỹ như một con cọp giấy chẳng đáng nói chuyện vì thế ông ra lệnh gài mìn phong tỏa cảng Hải Phòng và oanh tạc các mục tiêu quân sự tại BV kể cả Hà Nội
Ngày 8-5-1972 Nixon lên truyền hình, sau khi đã thông báo về cuộc tấn công xâm lược của BV, ông đưa ra ba nhiệm ý: Rút quân bỏ VN, đàm phán hòa bình, và lấy sức mạnh quân sự chấm dứt chiến tranh.
Theo ông trước hết không thể bỏ rơi đồng minh vì ta sẽ khuyến khích CS gây hấn trên thế giới. Hoa Kỳ muốn đàm phán nhưng BV không muốn nói chuyện, như vậy chỉ còn cách ngăn chận cuộc tấn công xâm lăng của địch. Khi ấy phong trào phản chiến và truyền thông chống đối Nixon dữ dội, một tờ báo cho đây là canh bạc tuyệt vọng và đề nghị Quốc hội cắt ngân khoản chiến tranh để cứu chính Tổng thống và cứu đất nước khỏi tai họa. Mọi người cho rằng hội nghị thượng đỉnh với Nga sẽ bị hủy bỏ, Hà Nội kêu cầu cứu đàn anh nhưng họ chỉ phản đối xuông. Nga vẫn muốn họp thượng đỉnh dự trù vào ngày 22-5-1972 vì muốn có quan hệ ngọai giao tốt với Mỹ, vả lại Nga nể sức mạnh và lập trường cứng rắn của Mỹ, đòn trừng trị của Mỹ cũng là để “dằn mặt” hai anh trùm CS quốc tế. Trước đây chính phủ Kennedy và Johnson sợ đánh mạnh BV sẽ khiến Nga, Trung Cộng vào can thiệp nhưng nay tình hình thay đổi.
Trong tháng 5 -1972 VNCH đã thắng thế CSBV, gió đã đổi chiều, BV lộ mục tiêu làm mồi cho B-52. Ngũ Giác đài đề nghị Nixon oanh tạc BV hạn chế như thời Johnson nhưng ông cho rằng thời Johnson dơ cao đánh khẽ sẽ làm cho kẻ địch lờn mặt, coi thường
(I think we have too much of a tendency to talk big and act little, I wrote “This was certainy the weakness of the Johnson administration).
Nixon nói chúng ta có sức mạnh để đập tan tiềm lực quân sự của chúng, chỉ còn vấn đề là khi nào ta muốn dùng sức mạnh. Tôi khẳng định muốn xử dụng vũ lực và sẵn sàng chấp nhận hậu quả của nó.
Khi quả quyết như vậy, Nixon đã dùng hỏa lực vũ bão đánh BV và đạt kết quả mỹ mãn, ông trưng dụng tối đa các chiến hạm của Đệ Thất hạm đội, hơn 400 pháo đài bay B-52 và khu trục cơ F-4 để oanh kích cả hai chiến trường Nam Bắc. Cũng như Johnson, ông chỉ cho oanh tạc các mục tiêu quân sự nhưng khác với Johnson ông không đích thân kiểm soát các mục tiêu mà ủy cho Đô đốc Moorer phụ trách.
Trong tháng 11-1972 Hải quân Mỹ đã pháo 16,000 tấn đạn xuống phía dưới khu phi quân sự và ném 155,000 tấn bom xuống miền Bắc, Nixon xử dụng ít bom hơn Johnson trong thời hạn tương đương, vì CSBV dàn quân đánh qui ước nên Mỹ đã xử dụng tối đa ưu thế của không quân để đè bẹp họ. Cảng Hải phòng một năm tiếp nhận 2.1 triệu tấn hàng gồm 85% quân dụng, vũ khí và 100% dầu, nhiên liệu, khi bị Hoa kỳ phong tỏa thì không một chiếc tầu nào ra vào hải cảng được, cuộc tấn công của địch bị khựng lại.
Sau này, năm 1978, trả lời một sinh viên bên Anh, Nixon nói tiếc rằng ông không cho đánh qua Miên sớm hơn, oanh tạc BV sớm hơn hồi tháng 5-1972, đáng lý ra phải oanh tạc BV và phong tỏa cảng Hải phòng từ 1970 khi hành quân qua Kampuchia. Nói về mặt quân sự thà đánh phá các cơ sở quân sự của CS Hà Nội tại BV tốt gấp bội lần đợi các lực lượng của chúng xâm nhập qua Ai Lao, Cao Miên hoặc gây chiến tranh tại VNCH.
Tháng 6-1972, QLVNCH bắt đầu phản công, tại An Lộc các đơn vị trú phòng đã anh dũng chiến đấu sau hơn hai tháng bị Cộng quân bao vây pháo kích tàn bạo, nay được sự yểm trợ của không quân Mỹ, họ bắt đầu phản công, sau hai tuần dành nhau từng căn nhà một họ đã giải tỏa thị xã khỏi tay Cộng quân. Tháng 8-1972 Quân đội VNCH đã chiếm lại tỉnh Bình Long, ngày 28-6-1972 quân đội miền Nam bắt đầu tấn công mặt trận phía bắc, mười tuần sau mặc dù mưa gió ba Sư đoàn VNCH đã đẩy 6 Sư đoàn BV ra khỏi Quảng Trị. Trong trận chiến 1972, BV đưa hết lực lượng vào Nam gồm 14 Sư đoàn và 26 trung đoàn độc lập, họ để lại một Sư đoàn và bốn trung đoàn độc lập tại Lào, không để lại một Sư đoàn nào tại miền Bắc. Quân đội CSBV bị đánh tan nát, tơi bời, 75% số xe tăng bị bắn cháy, cán binh CS nay chỉ toàn là những thiếu niên 16, 17 tuổi, số tử thương khoảng 100,000 người .
TT Nixon nhận xét trận tổng tấn công của CS 1972 lần đầu tiên QLVNCH một mình đẩy lui địch mà không cần sự yểm trợ của bộ binh Mỹ, điều này chứng tỏ nếu được võ trang đầy đủ, họ có thể đương đầu với các Sư đoàn tinh nhuệ của BV. Ông cũng cho biết VNCH đã chận đứng cuộc tấn công của địch dưới đất, không lực Mỹ đã đè bẹp chúng.
(Còn tiếp)
 Trọng Đạt: Nixon Và Việt Nam (Bài 2/2)

Bài 2 – Hòa bình giả tạo
Hòa Đàm Paris
Hà Nội sau khi bị thảm bại trước sức mạnh của không lực Mỹ và bộ binh VNCH đã đàm phán nghiêm chỉnh trở lại. Họ biết chắc Nixon sẽ đắc cử Tổng thống tháng 11-1972, qua sự thăm dò Nixon hơn thượng nghị sĩ McGovern tới 30 điểm, trong phiên họp ngày 8-10-1972, BV muốn ký kết trước kỳ bầu cử Tổng thống, họ đưa bản đề nghị chỉ nhắm vào những điểm chính và bỏ nhiều đòi hỏi trước như Mỹ phải rút quân hoàn toàn, thành lập chính phủ Liên Hiệp tại miền Nam, lật đổ chính phủ Thiệu, cắt viện trợ quân sự cho miền Nam. CSBV muốn ngưng bắn tại chỗ, Mỹ rút quân, trao đổi tù binh trong vòng 6 tháng nhưng có một vấn đề không nhượng bộ, họ không chịu rút quân về Bắc lấy cớ không can thiệp vào nội bộ miền Nam, không có quân ở miền Nam. Nixon nói Mỹ phải nhượng bộ nếu không BV sẽ không chịu ký kết, hai bên dự định ký Hiệp định vào ngày 31-10-1972
Ngày 18-10-1972 Tiến sĩ Kissinger qua Sài Gòn để giải thích, TT Thiệu dứt khoát từ chối, Kissinger cho biết VNCH sợ sự gian trá của CS. Thực tình mà nói CSBV thua to trong trận mùa hè đỏ lửa 1972 mà lại như thắng trong khi VNCH thắng mà bị xử như thua. Sài gòn đòi Cộng quân phải rút về Bắc, đòi thay đổi 20 điểm, trong đó có bẩy điểm chắc chắn BV không chấp thuận. Điều chắc chắn là ngày 31-10-1972 là thời hạn chót nhưng bản Hiệp định sẽ không thành tựu. Người Mỹ đàm phán với VNCH và đồng thời với BV, Hà nội đồng ý nhiều điểm và muốn chứng tỏ cho thấy VNCH cản trở hòa đàm để đẩy ông Thiệu vào thế khó xử, nếu ông ta bác bỏ thỏa ước thì sẽ bị quốc tế lên án vì dự thảo có vẻ được, nếu chấp nhận sẽ bị trong nước chỉ trích là nhượng bộ CS.
Ngày 26-10-1972, Kissinger họp báo tuyên bố hòa bình trong tầm tay.
Cuối tháng 10-1972, Tiến sĩ Kissinger tới Sài Gòn để bàn về việc ký kết Hiệp định TT Thiệu không đồng ý, đòi sửa một số điều khoản nhất là CS phải rút hết về Bắc. TT Nixon cho ông Thiệu biết nếu miền Nam gây trở ngại cho hoà đàm thì Quốc Hội sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh tháng 1-1973, cắt viện trợ bỏ rơi VNCH để đánh đổi lấy khoảng 580 tù binh Mỹ tại Hà Nội. Nixon cho biết:
“Sự tồn tại của miền nam Việt Nam không phụ thuộc vào việc quân địch còn đóng tại một số vùng dân cư thưa thớt. Nó phụ thuộc vào việc Nước Mỹ cưỡng bách thi hành Hiệp định cùng với việc tiếp tục viện trợ và với sự đe doạ trừng trị bằng vũ lực. Điều đó chỉ có được nếu Sài Gòn được Quốc Hội ủng hộ. Nếu chúng ta không giải quyết cuộc chiến nhanh chóng, Quốc Hội có thể biểu quyết đạo luật chấm dứt chiến tranh vào tháng Một (1973). Nếu Quốc hội kết luận rằng miền nam Việt Nam gây trở ngại việc ký kết, việc này có thể khiến ta (Hành pháp) không giúp được đồng minh (tức VNCH) nếu cần. Tuy nhiên tôi cũng để cho Thiệu có thời gian suy nghĩ”
(No More Vietnams, trang 155)
Thật vậy, việc CS rút hết về Bắc không quan trọng bằng VNCH được Quốc Hội tiếp tục viện trợ quân sự, nếu VNCH không chịu ký thì Quốc Hội sẵn sàng hy sinh VNCH và cả Đông Dương để đánh đổi lấy 580 tù binh Mỹ còn bị Hà Nội giam giữ. Cả Sài Gòn và Hà Nội đều dùng mưu mẹo với Hoa Kỳ. Ngày 9-11-1972, Nixon cử Tướng Haig tới Sài Gòn để tham khảo với VNCH, Nixon gửi thư cho Thiệu nói cố gắng sửa đổi, Haig cho biết nếu không ký trước khi Quốc hội họp lại tháng 1-1973, Lâp pháp sẽ cắt hết viện trợ cho miền Nam VN. Đối với Quốc hội Mỹ, sinh mạng của VNCH và cả Đông Dương không nghĩa lý gì so với sinh mạng của 580 tù binh của họ còn bị BV giam giữ.
Ngày 14-11-1972 TT Nixon lại thư cho TT Thiệu hứa hẹn sẽ trừng trị thích đáng BV nếu họ vi phạm Hiệp định
Ngày 20-11 mở lại Hòa đàm Paris, Tiến sĩ Kissinger đưa ra những khoản do VNCH đòi sửa đổi nhưng Hà Nội bác bỏ ngay, TT Nixon cho biết nếu muốn ký Hiệp định phải bỏ đa số những khoản ông Thiệu đòi sửa. Ngày 4-12-1972, BV tỏ ra ương bướng hơn, đã bác bỏ các khoản Mỹ đề nghị sửa mà còn rút bỏ bớt một số điểm hai bên đã thỏa thuận, họ đưa ra những điểm không thể chấp nhận được. Kissinger nói với Nixon chắc là BV muốn phá hòa đàm để mở cuộc tấn công quân sự, BV tiếp tục bàn thảo nhưng không tiến tới ký kết, Kissinger và Nixon nhận định BV muốn kéo dài chiến tranh không muốn thương thảo. Ngày 13-12 hai bên lại đàm phán, Hà Nội muốn tiếp tục chiến tranh, Nixon muốn dùng hành động để bắt họ phải ký kết Hiệp định có nghĩa là phải ném bom BV. Ngày 14-12-1972 Nixon ra lệnh phong tỏa cảng Hải phòng trở lại, cho oanh tạc các mục tiêu quân sự Hải phòng bằng B-52.
“Đó là một quyết định khó khăn nhất liên quan đến Việt Nam mà tôi đã làm trong suốt nhiệm kỳ Tổng Thống của tôi. Nhưng tôi không thể làm khác hơn được. Tôi đoan chắc rằng nếu ta không bắt BV ký kết Quốc hội có thể buộc chúng ta phải chấp nhận thất bại bằng rút hết quân để đổi lấy tù binh”.
(No More Vietnams Trang 157).
Ngày 17-12 Hoa kỳ cho rào mìn, trong 24 tiếng đồng hồ 129 oanh tạc cơ B-52 bay qua ném bom BV, trong 12 ngày đã thực hiện được 729 phi vụ B-52 và khoảng 1,000 phi vụ khu trục cơ, tổng cộng đã ném khoảng 20,000 tấn bom. Các mục tiêu gồm đường giao thông, đường hỏa xa, nhà máy điện, phi trường, kho dầu, tất cả những cơ sở có tính quân sự.
Trận mưa bom đã khiến người dân Mỹ chống đối dữ dội, người ta cho rằng Nixon điên cuồng trong cơn giận dữ, họ gọi ông là bạo chúa, nào là “Trận oanh tạc giết người tàn bạo nhất trong lịch sử thế giới” (The most murderous aerial bombardment in the history of the world), nào “chính sách giết người hàng loạt nhân danh nhân dân Hoa Kỳ”…
Dư luận báo chí tố cáo Nixon oanh tạc trải thảm BV trong dịp Giáng Sinh nhưng ông cho họ sai lầm hoàn toàn, Hoa Kỳ không oanh tạc trong ngày Giáng Sinh (nghỉ ném bom hôm 25). Hồi Thế chiến thứ hai Mỹ ném bom trải thảm các thành phố Đức, Nhật nhưng tại BV, phi công Mỹ chỉ oanh kích các mục tiêu quân sự và được lệnh tránh thiệt hại cho thường dân dù phi công phải chịu nguy hiểm. TT Nixon nói tại Hà nội số thường dân bị tử thương trong trận oanh tạc này chỉ vào khoảng từ 1,300 cho tới 1,600 người, đó là điều đáng tiếc nhưng không thấm gì so với thiệt hại khi Mỹ oanh tạc các mục tiêu thường dân hồi Thế chiến Thứ hai: Tại Dresent, Đức có tới 35,000 người chết trong 3 đợt oanh tạc, tại Hamburg trên 42,000 người chết trong sáu đêm oanh tạc và 83,000 người Nhật bị giết khi Mỹ thả bom lửa tại Đông Kinh trong hai ngày. Nếu Mỹ oanh tạc các mục tiêu dân sự tại Hà Nội Hải Phòng thì số tổn thất sẽ cao hơn một trăm lần.
Trận mưa bom mười ngày từ 18-12-1972 cho tới 29-12-1972 thành công về mặt quân sự, đã đập tan nát bộ máy chiến tranh của Hà Nội khiến họ phải khiếp đảm, mất hết tinh thần. Về chính trị Mỹ đã buộc BV phải trở lại bàn hội nghị, ngày 8-1-1973 phái đoàn CS chấp nhận những khoản cơ bản trong 48 giờ đồng hồ. Hôm sau, ngày 9-1-1973 Kissinger điện tín cho TT Nixon nói những vấn đề quan trọng đã được giải quyết xong. Nixon cho biết đối với đa số người Mỹ, cuộc chiến VN không có các anh hùng, không duyệt binh, tuyên dương chiến sĩ…. Truyền thông báo chí coi những chính trị gia phản chiến, những người chống chiến tranh, bọn trốn lính mới là anh hùng.
Nixon nói ông đã hội nhập với lịch sử VN từ 1953 khi làm Phó Tổng thống, đã đến thăm Hà Nội, Sài Gòn, ông quí trọng người VN can đảm chịu đựng cuộc chiến chống kẻ thù tàn ác. Năm 1969 lên làm Tổng thống, Nixon muốn chấm dứt chiến tranh ngay nhưng với mục đích: Tránh cho người dân VN không bị CS cai trị và làm cho CS thế giới nhụt chí xâm lăng. Ông ghét chiến tranh VN cũng như tất cả các cuộc chiến khác nhưng không thể chấm dứt chiến tranh VN mà có thể gây ra những cuộc chiến khác lớn hơn.
Chiến tranh VN khiến người Mỹ đau lòng vì cuộc chiến tại đất nhà, một cuộc chiến tranh gây nhiều chia rẽ nhất từ xưa đến nay, nó đã khiến nhiều dân biểu, thượng nghị sĩ thân thiết nhất của Nixon từ hơn 20 năm qua đã trở thành đối thủ của ông khi lên làm Tổng thống năm 1969. Cuộc chiến này đã khiến nhiều nhà báo, truyền thông trước đây khách quan nay thành những người xấu, thiên lệch, họ chống đối chính phủ, đi ra ngoài quyền lợi của đất nước. Trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1972, Nixon được 61% số phiếu bầu toàn quốc, trong khi ứng cử viên đối thủ phản chiến được 81% số phiếu của truyền thông, báo chí. Các phóng viên coi như họ có bổn phận chống lại chính sách của chính phủ bằng mọi cách.
Nixon nói (No More Vietnams, trang 162) ông mong các thế hệ trẻ Mỹ đã được hướng dẫn, được dạy ghét nước Mỹ thập niên 60 sẽ học yêu nước Mỹ, ông đã thấy nhiều người thuộc lớp trẻ chống chiến tranh VN những năm bầu cử 1968, 1972. Tại Virginia, Nixon tới đọc diễn văn trước một cuộc hội họp đã bị một cô gái 17 tuổi vượt hàng rào an ninh chạy tới nhổ nước bọt vào mặt ông, chửi ông là đồ sát nhân. Johnson chết vì đau tim tháng 22-1-73, hàng trăm nhà chính trị gia, kinh doanh đã được ông giúp đỡ nay chẳng ai thương xót ông, họ đã từ bỏ ông, đã kết án ông là tội phạm chiến tranh. Nixon nói hơn 50,000 người Mỹ đã chết tại VN, tốn kém hơn 50 tỷ Mỹ kim, và đã mất mười năm trôi qua, VN đã làm tê liệt các nỗ lực của người Mỹ về mặt xã hội vì phải dốc tài nguyên cho chiến tranh.
Sau khi nhận được tin tức từ Paris về việc ký kết hiệp định, Nixon cảm thấy thoải mái hơn là phấn khởi, ông quyết định dồn mọi nỗ lực để giữ hòa bình.
“Tôi biết rằng hòa bình chỉ là mỏng manh. Tôi chủ trương làm đủ mọi cách để giữ hòa bình sao cho sự hy sinh của chúng ta không trở thành vô ích. Tôi biết rằng địch chỉ giữ hòa bình khi nếu họ biết rằng cái giá mà họ phải trả sẽ vượt quá cái mà họ đã thu được nếu họ vi phạm”
(No More Vietnams, trang 163)
Hiệp định được ký ngày 27-1-1973 tại khách sạn Majestic, Paris.
Nixon nói (trang 167, sách đã dẫn)
“Tôi thông cảm với Thiệu và chia sẻ nỗi lo âu của ông ta. Tôi biết rằng Hiệp định có nhiều khuyết điểm. Nhưng tôi nghĩ nhìn chung cũng tốt đẹp. Và tôi biết rằng trong khi Quốc Hội đang phản đối ầm ĩ, chúng ta không thể làm gì khác hơn thế”.
Hành pháp bị bó buộc phải ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh phục hồi hòa bình ở VN, vì còn nhiều yếu điểm ông muốn thương thảo để được khả quan hơn nhưng không thể kéo dài thêm trong khi Quốc Hội sắp ra luật chấm dứt sự can thiệp của Mỹ có lợi cho Hà Nội, ông chua chát bảo.
“Lúc này không phải là lúc thuận lợi cho chúng ta mà đó là giờ phút cuối cùng”.
(It was not our finest hour – but it was the final hour”)
(Trang 170, No More Vietnams)
Trong khi Quốc Hội Mỹ gồm đa số thành phần Dân chủ phản chiến sẵn sàng ban hành luật chấm dứt chiến tranh rút hết quân về nước bỏ Đông Dương để đánh đổi lấy 580 tù binh còn bị CSBV giam giữ thì Nixon không làm gì hơn được.
Thời hậu chiến
Sau ngày ký Hiệp định Paris, miền Nam mạnh hơn miền Bắc, Hoa kỳ đã trang bị cho VNCH khoảng 2,000 máy bay đủ các lọai, 2,000 xe tăng thiết giáp, khoảng 1,500 khẩu đại bác, 1,500 tầu bè các lọai… bộ binh có hơn một triệu quân, lính nhà nghề gồm 11 sư đòan, 2 sư đoàn tổng trừ bị, 17 liên đoàn Biệt động quân… Miền Bắc bị thiệt hại nặng sau trận mùa hè đỏ lửa khoảng từ 70 ngàn cho tới 100 ngàn quân, khoảng từ 500 cho tới 700 xe tăng bị bắn cháy. Trong trận mưa bom của B-52 tại Hà Nội Hải Phòng từ 18-12-1972 cho tới 29-12-1972, các hạ tầng cơ sở quân sự, kho hàng, nhiên liệu, đường xe lửa, phi trường bị đánh phá tan nát. Nhưng từ từ theo thời gian miền Bắc được CS quốc tế viện trợ dồi dào, miền Nam bị Quốc hội Mỹ cắt giảm viện trợ dần dần nên cán cân chênh lệch rõ rệt.
Hà Nội định nghĩa ngưng bắn là Hoa kỳ “ngưng”, họ “bắn”.

Trước khi ký kết TT Nixon đã trấn an ông Thiệu: Hoa kỳ tiếp tục viện trợ quân sự đầy đủ cho VNCH để cân bằng lực lượng có thể chống trả BV khi họ vi phạm ngưng bắn, VN chống lại vi phạm nhỏ, Mỹ chống lại vi phạm lớn bằng yểm trợ không lực, ít nhất Mỹ có thể làm như vậy. Ngoài ra Hiệp định cũng hứa hẹn bồi thường chiến tranh, tái thiết miền Bắc bị tàn phá. Nga, Tầu không đủ khả năng giúp họ, bởi vậy viện trợ tái thiết của Hoa Kỳ sẽ là động cơ khiến BV thi hành Hiệp định nghiêm chỉnh, Nixon nói Hiệp định vừa có cây gậy, vừa có củ cà rốt.
Trườc khi ký Hiệp định Mỹ vội viện trợ cho VNCH 3 tiểu đoàn pháo binh 175 ly, 2 tiểu đoàn thiết giáp M-48, 286 trực thăng UH-Helicopter, 23 trực thăng CH-47, 22 trực thăng AC-119K vũ trang, 28 máy bay chiến đấu A-1, 32 máy bay vận tải C-130A, 90 phi cơ oanh tạc loại nhẹ A-37, 118 máy bay chiến đấu F-5A, 23 máy bay thám thính EC-47..
Hà Nội vi phạm hiệp định sau ngày ngưng bắn, VNCH chống lại. Tháng 2-1973 đã có 175 xe vận tải, 223 xe tăng BV vào Nam qua đường mòn Hồ chí Minh, BV gia tăng xâm nhập, tháng 5-1973 họ chuyển khoảng 35,000 quân và 30,000 tấn vũ khí vào Nam, Hà Nội từ chối rút quân khỏi Miên Lào, từ chối trả vài trăm tù binh VNCH gây trở ngại việc thành lập Hội đồng hòa giải dân tộc, phá bầu cử.
Trước sự vi phạm liên tục Nixon tức giận định trả đũa nhưng ông bị báo chí tố cáo ầm ĩ vụ Watergate và bị Quốc hội phản ứng mạnh đối với vấn đề VN nên không làm gì được. Tháng 2-1973 Kissinger ra Hà Nội, CS đòi Mỹ phải viện trợ tái thiết bồi thường chiến tranh, Kissinger nói tùy thuộc vào việc họ tôn trọng Hiệp định ngưng bắn và ông phản đối dữ dội việc họ vẫn còn vi phạm tại Miên Lào khiến Mỹ không thể chịu nổi. Từ 1972 Hà Nội gây dựng chế độ Khmer Đỏ để hòng chiếm Nam Vang từ đó cô lập VNCH. Lon Nol tăng quân từ 30,000 tới 200,000 người nhưng dàn mỏng và các sĩ quan thiếu huấn luyện. Tháng 1-1973 Khmer đỏ bao vây Nam Vang khiến Mỹ phải oanh tạc giải vây.
Sau ngày ngưng bắn Hà Nội hối hả đưa khoảng 18,000 xe vận tải và vào khoảng 70,000 người xâm nhập vào miền Nam trước tháng 4 khi mùa mưa tới, Nixon cho oanh tạc trả đũa tháng 2, tháng 3 -1973 nhưng sợ ảnh hưởng tới việc trao trả tù binh dự trù 27-3-1973, tháng 4 ông hăm dọa BV để họ đừng vi phạm nhưng không oanh tạc, ông cho đó là sự sai lầm. Các Dân biểu, Thượng nghị sĩ phản chiến chống đối chính sách của Hành pháp, tháng 5, tháng 6 -1973 họ dự định làm luật cấm oanh tạc Miên, cấm can thiệp quân sự trực tiếp hay gián tiếp vào Đông Dương, cấm viện trợ tái thiết cho BV, như thế họ rút luôn cả cây gậy lẫn củ cà rốt khiến Hà Nội không còn lý do gì để chấp hành Hiệp định nữa.
Tháng 4-1973 mùa khô hết, chỉ còn một ít mục tiêu trên đường mòn Hồ Chí Minh, khả năng trừng phạt sự vi phạm của BV tiêu tan vào cuối tháng 4-1973, không phải Tổng thống Nixon mất ý chí, ông muốn hành động nhưng sự ủng hộ của Quốc hội đã hao mòn. Mỗi khi Tổng thống lên tiếng nói về trừng phạt, Quốc hội lại chống đối ầm lên, mỗi khi nhắc lại họ chống đối dữ hơn. Tháng 5-1973, TT Nixon không thể kiếm đủ số phiếu hậu thuẫn cho lời nói mạnh để hành động mạnh, trong bất cứ mọi trường hợp Quốc hội tước đọat quyền trả đũa của ông.
Từ cuộc hành quân Kampuchia năm 1970, Quốc hội Mỹ cấm hành quân qua Miên, cấm huấn luyện quân đội Miên, hạn chế tối đa viện trợ quân sự, Nixon chỉ còn cách oanh tạc Khmer đỏ để cứu Lon Nol.
Những người chống đối đòi chính phủ cử người đi đàm phán, dùng ngọai giao hòa bình không dùng quân sự. Thượng nghị sĩ Ted Kennedy đề nghị chính phủ cử các nhà ngọai giao tới Đông Dương thương thuyết thay vì cử B-52 nhưng trên thực tế không thể dùng ngọai giao được vì Khmer đỏ cũng như BV chỉ tấn công mà không chịu thương thuyết, ta chỉ có thể oanh tạc chúng được thôi. Nixon cho rằng các nhà dân cử phản chiến ngu đần ngây thơ không biết rằng chính sách ngọai giao không thể thiếu sức mạnh để hậu thuẫn nó. Ngọai giao vô hiệu quả trừ khi được kết hợp với áp lực quân sự, nhưng ông không thể nào thuyết phục Quôc hội về sự kiện này.
Chính phủ cần tiền để tiếp tục oanh tạc Khmer đỏ, Quốc hội từ chối và còn bắt đầu soạn tu chính án cấm dùng mọi ngân khoản cho các cuộc oanh tạc. Nỗ lực của chính phủ để ngăn chận sự chống đối của nhóm phản chiến tại Quốc hội thất bại tháng 6 -1973. Khi tu chính án đưa lên bàn Tổng thống ngày 27-6-1973, Nixon phủ quyết, ông cho biết tu chính án có thể phá hỏng mọi nỗ lực hòa bình tại Cam Bốt và sự rút quân của CSBV theo Hiệp định ngày 27-1-1973, nhóm phản chiến tại quốc hội chống đối Nixon.
Thượng nghị sĩ Mansfield cảnh cáo Tổng thống nếu không ngưng ném bom họ sẽ cắt các ngân khoản điều hành của chính phủ, Tổng thống sẽ chịu trách nhiệm. Những người ủng hộ Tổng thống đề nghị ông nên ấn dịnh ngày nào ngưng ném bom, Nixon đồng ý và ấn định 45 ngày và ký thành luật ngày 30-6-1973, có hiệu lực ngày 15-8-1973. Tu chính án xác định từ nay không còn ngân khoản nào dùng trực tiếp và gián tiếp cho các hoạt động quân sự tại Miên, Lào, Bắc và Nam VN hay ngoài khơi Miên, Lào, Bắc, Nam VN.
Sự thất bại này khiến Nixon không còn thẩm quyền giữ hòa bình cho VN và cho phép lãnh đạo Hà Nội tự do thao túng tại miền Nam VN. Quốc hội tiếp tục hạn chế quyền Tổng thống về quân sự đó là Dự luật War Power act: Tổng thống phải thảo luận với Quốc hội trước khi tham chiến, Tổng thống có quyền gửi quân tham chiến 60 ngày không cần hỏi ý kiến Quốc hội và thêm 30 ngày nếu không xác nhận bằng văn thư sự cần thiết bảo đảm an ninh cho quân ta.
Ngày 24-10-1973 Nixon phủ nhận War Power act cho rằng nó vi phạm Hiến pháp xâm lấn quyền Tổng thống. Ngày 7-11-1973 Quốc hội lại phủ quyết bác bỏ phủ quyết của Nixon, như thế Hà Nội được yên tâm chuyển quân vào xâm lăng VNCH mà không bị Mỹ oanh tạc trả đũa.
Có hai lý do khiến Quốc hội xâm lấn chính sách của Tổng thống đó là cuộc chiến VN và vụ Watergate tháng 4-1973, vụ Watergate kế tiếp chiến tranh VN với những sự chỉ trích, chống đối hành pháp dữ dội khiến một số viên chức chính phủ phải xin nghỉ. Watergate đúng là sự ám ảnh của Hoa Thịnh Đốn, nó khiến chính phủ phải mất thời giờ quan tâm không giải quyết được các lãnh vực khác. Một mình Watergate không đủ sức phá bỏ khả năng bảo vệ Hiệp định Paris của Tổng thống. Những khó khăn của chính phủ tại Quốc hội bắt nguồn từ phong trào phản chiến, nó chuẩn bị cho Watergate. Nixon tưởng rằng đem quân về nước, phục hồi hòa bình người ta sẽ thôi chống đối nhưng trái lại đám phản chiến vẫn gia tăng chống đối.
Trong khi còn chiến tranh, nhóm Bồ câu không dám cắt quân viện vì sợ bỏ rơi quân ta tại chiến trường. Mới đầu nhóm Diều hâu ủng hộ chính phủ nhưng không được lâu dài, khi chiến tranh không được dân ủng hộ, Diều hâu chán không phấn đấu nữa mặc dù vẫn dành phiếu cho Nixon nhưng họ không muốn chống lại Quốc hội. Một cảnh tượng không ngờ, Bồ câu thì chống dữ dội, Diều hâu yên lặng khiến nỗ lực của nhóm phản chiến được Quốc hội chấp thuận năm 1973, nó đã mang đi sự đe dọa trừng trị cuối cùng của Mỹ đối với CSBV và như thế đã phá hỏng cơ hội cuối cùng của chính phủ để gìn giữ hòa bình cho VN.
BV nắm ngay cơ hội nghìn năm một thuở, tháng 10-1973, lãnh đạo CS tại Hà Nội lệnh cho các đơn vị chính qui tấn công miền Nam khởi đầu cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ ba. Nixon nói sau Hiệp định Paris VNCH bị nhiều bất lợi phải lâm vào thế phòng thủ, trong khi miền Nam VN bị tấn công, BV không bị Mỹ hăm dọa, họ chủ động chính trị quân sự tại VN. Từ sau ngày ngưng bắn BV khởi công cho xây dựng xa lộ Đông Trường Sơn nằm trong địa phận VNCH để chuyển tiếp liệu, nhân lực vào Nam, xây dựng một kho tiếp liệu dầu rất lớn tại Thừa Thiên Quảng Trị, một ống dẫn dầu từ phía dưới khu phi quân sự chạy tới phía Bắc Sàigon. Trong 12 tháng BV đã làm thêm 12,000 dặm đường tiếp vận và rút ngắn 2/3 thời gian chở quân xâm nhập vào miền Nam qua 1,200 dặm vào VNCH. Trước khi ký Hiệp định Paris 27-1-1973 Mỹ oanh kích đường mòn Hồ chí Minh khiến BV không thể đem vào Nam nhiều như vậy, họ đi ban đêm từng toán nhỏ, nay không bị Mỹ ném bom họ đi bằng xe vận tải, 300 chiếc trên xa lộ Đông Trường Sơn mỗi ngày, mỗi tuần hàng ngàn xe vận tải tới miền Nam chở vũ khí, đạn dược, quân nhu. Các trung đoàn phòng không, pháo binh, xe tăng cũng được đưa vào. Hà Nội đưa vào Nam hơn 75,000 cán binh nâng tổng số quân lên 170,000 người. Số chiến xa tăng lên gấp 5 lần thành 500 chiếc, trọng pháo tăng từ 170 tới 250 khẩu.
Việc CS dám đưa vũ khí quân đội vào Nam VN cho thấy việc oanh tạc Lào quan trọng như thế nào, sự việc cho thấy Quốc hội Mỹ cấm oanh tạc sự xâm nhập của địch tai hại như thế nào. Nixon nói thật là cay đắng khi ta nhìn Hà Nội gây dựng sức mạnh quân sự tại miền Nam mà đành chịu bó tay chịu trận. Hai năm sau ngày ngưng bắn Hà Nội đã phục hồi sức mạnh của họ như khi mở cuộc tấn công 1972, miền Nam VN nay lại phải đối phó với mối đe dọa xâm lược của BV mà không có yềm trợ của không lực Mỹ.
Trong khi Hà Nội chuyển vũ khí đạn dược vào Nam, Quốc hội cắt xén viện trợ cho VNCH liên tục, ngân khoản do Nixon đề nghị đã bị Quốc hội cắt giảm từ hai tỷ mốt (2,1 tỷ) tài khoá 1973 xuống một tỷ tư (1,4 tỷ) tài khoá 1974 và 700 triệu tài khoá 1975. Trong khi ấy BV vẫn được CS quốc tế viện trợ dồi dào: Giai đoạn 1969-1972: 684,666 tấn hàng vũ khí, giai đoạn 1973-1975: 649,246 tấn, hai giai đoạn coi như tương đương. Ưu thế giữa Sài Gòn và Hà Nội đã hoàn toàn đảo ngược. Tại Hòa đàm Paris Mỹ hứa thay thế tất cả vũ khí đạn dược bị hư hại hoặc đã xử dụng sau ngày ngưng bắn nhưng Quốc hội từ chối không cho thay thế, họ cắt giảm viện trợ do hành pháp đưa ra. Từ 2,270 triệu tài khóa 1973, bị cắt xuống còn 1,010 tài khóa 1974 và 700 triệu tài khóa 1975, các Thượng nghị sĩ, dân biểu lý luận rằng viện trợ quân sự cũng như khuyến khích chiến tranh, nếu giảm quân viện cho Sài Gòn sẽ chấm dứt chiến tranh, thực ra họ muốn bỏ VN.
Lạm phát cũng giảm viện trợ: giá quân dụng tăng 27%, giá dầu tăng 400%, cuối 1973 những vụ vi phạm của CS liên tiếp xẩy ra khiến đạn dược của miền Nam cạn dần, tháng 12 năm 1973 các nhà quân sự hành pháp đề nghị tăng thêm 494 triệu cho ngân sách viện trợ. Tháng 1, tháng 2 -1974 khi Quốc hội đang duyệt xét, quân đội miền nam VN phải tiết kiệm đạn dược, giảm hỏa lực yểm trợ, bỏ bắn quấy phá. Khi Quốc hội bác bỏ đề nghị gia tăng quân viện tháng 4-1974, chỉ ba tháng trước khi bắt đầu ngân sách tiếp liệu cho VNCH nguy kịch, sự thất bại của Hành pháp trong quân viện có nghĩa là trong những tháng kế tiếp, đường ống tiếp liệu cho miền Nam sẽ chậm dần thành nhỏ giọt.
Kho đạn dược từ 177,000 tấn tháng 1-1973 tụt xuống còn 121,000 tấn tháng 5-1974 mặc dù đã xử dụng tiết kiệm cho tới xử dụng hạn chế. Tháng 4-1974 tiếp liệu đạn đại bác thật là nguy kịch. Khoảng 35% xe tăng, 50% thiết giáp, máy bay thiếu cơ phận thay thế phải nằm ụ, đến mùa hè kho quân dụng thê thảm vỏ xe, pin máy truyền tin, nòng súng M-16… tụt xuống dưới mức an toàn. Vì bị cúp nhiên liệu, chỉ còn 55% xe quân xa di chuyển được, khả năng lưu động vận chuyển của quân đội không còn. Quốc hội cắt giảm khiến thuốc men bị thiếu hụt, tử vong cao. Năm 1974 kho dụng cụ y khoa thiếu hụt trầm trọng, năm 1974 đã khó khăn như thế nhưng năm 1975 còn tệ hại hơn nhiều nếu Hoa kỳ không viện trợ kinh tế quân sự đầy đủ. Vì viện trợ Quân sự bị cắt giảm, đã có một số các nhà quân sự đề nghị thu hẹp lãnh thổ vì không đủ lực lượng phòng thủ.
Từ chức ngày 9-8-1974, TT Nixon vô cũng bất mãn với tình hình VN, khi kết thúc Hiệp định Paris, ông đã đề ra hai kế hoạch bảo đảm hòa bình: Trước hết duy trì sự đe dọa trừng trị của Mỹ đối với một cuộc xâm lăng từ BV và sau đó là viện trợ quân sự đầy đủ cho VNCH để cân bằng lực lượng nhưng chung cục cả hai điều kiện trên đã bị Quốc hội phá hỏng hết
Hà Nội thành công khai thác lợi dụng hòa bình để chuẩn bị chiến tranh. Điều đáng sợ nhất là Hà Nội tái võ trang trong lúc đóng tại Lào, Miên, VNCH, khi Nixon rời chức vụ ông biết rằng Quốc hội để tình trạng ấy sẽ diễn ra, miền Nam bị bức tử mà không muốn để cho Tổng thống Ford đảo ngược tình hình. Nixon bị xúc động mạnh trước tinh thần vô trách nhiệm của Quốc hội gồm đa số phản chiến, VNCH là một nước nhỏ phải phụ thuộc vào sự giúp đỡ của Hoa Kỳ để sống còn trước cuộc tấn công thô bạo của chế độ độc tài. Các ông Thượng nghị sĩ, Dân biểu muốn miền Nam VN bị đơn độc thật là phi lý, trong khi Đại Hàn, Đức quốc đều có quân đội Mỹ đóng bảo vệ, họ không muốn cho hành pháp được quyền trả đũa BV xâm lăng hoặc cung cấp cho miền Nam VN đầy đủ đạn dược.
Nixon nói sự can thiệp của Mỹ đã cứu 19 triệu người miền Nam VN trong 18 năm không bị CS cai trị từ 1954-1972 và tạo thời cơ cho các nước Nam Dương, Thái Lan, Phi Luật Tân củng cố sức mạnh để phòng ngừa CS xâm lăng, ông cũng cố gắng thuyết phục Quốc hội Hoa Kỳ vẫn còn trách nhiệm sau khi đã ký Hiệp định.
Sau ngày 27-1-1973, Quốc hội đã rút hết trách nhiệm của Hoa kỳ đối với VNCH, họ hủy bỏ khả năng dùng sức mạnh của Mỹ để bảo vệ hòa bình, nếu không có sự đe dọa oanh tạc trở lại BV sẽ đem quân chiếm miền Nam VN, và nếu không có viện trợ quân sự kinh tế, miền Nam sẽ không đủ sức tự vệ chống CS xâm lược.
“Tôi biết họ muốn để chiến tranh VN lại phía sau lưng chúng ta. Nhưng tôi không thể hiểu tại sao hình như họ quyết định đứng nhìn VNCH bị BV xâm lăng. Cho dù ý định của họ thế nào, nhưng đó là hậu quả hành động của họ”
(No More Vietnams -Trang 190)
Cuối cùng xe tăng của CSBV tiến vào giữa Sài Gòn trưa ngày 30-4-1975, một đất nước có chính phủ, quốc hội, quân đội… đã tiêu tan như mây khói một sớm một chiều.
Trang 165 sách đã dẫn, TT Nixon nói:
“Chúng ta chiến thắng ở Việt Nam nhưng không giữ được hoà bình. Thành quả mà ta đạt được sau mười hai năm chiến đấu đã bị vứt bỏ trong một cơn điên khùng vô trách nhiệm của Quốc hội”
Kết Luận
Như đã trình bầy cuộc chiến tranh can thiệp trực tiếp (involvement) của Hoa Kỳ vào Đông Dương và Việt Nam gồm hai giai đoạn thuộc các nhiệm kỳ Tổng thống của Johnson 1965-1968 và Nixon 1969-1972, 1973-1974. Giai đoạn Johnson từ 1965-1968 là cơ hội rất thuận lợi để chiến thắng CS. Đây là lúc cao điểm của thuyết Domino, năm 1965 Johnson đã được lưỡng viện quốc hội và 78% dân chúng ủng hộ đưa quân vào VNCH và Đông Dương. Johnson được Quốc hội cho tăng quân đều đều bốn năm liên tiếp, có cả thiên thời, địa lợi, nhân hòa nhưng ông đã bỏ lỡ cơ hội chiến thắng. Kế hoạch chiến tranh giới hạn “vừa đánh vừa run” của ông “Thầy Dùi” McNamara đã đưa tới thảm bại, từ sau Tết Mậu thân 1968, người dân không còn nhẫn nại được nữa, họ chống đối quyết liệt đòi phải phục hồi hòa bình đem quân về nước khi mà thuyết Domino đã đến lúc hết thời.
TT Johnson đã bàn giao lại cho người kế vị Nixon một gia tài đổ nát, một căn nhà dột, siêu vẹo. Tác giả Nguyễn Kỳ Phong trong cuốn Vũng Lầy Của Bạch Ốc trang 398 nhận xét về Nixon như sau :
“Khi Nixon được ghi vào lịch sử những vị Tổng thống Hoa Kỳ, ông có thể được liệt kê là xấu hoặc tốt, giỏi hay dở. Nhưng không ai có thể phủ nhận Nixon không có một sự nghiệp chính trị ngoại hạng”
Nhưng cho dù có là Khổng Minh tái thế Nixon cũng không thể cứu vãn nổi tình hình, không thể đảo ngược được thế cờ thay đổi dòng lịch sử khi mà tỷ lệ người ủng hộ chiến tranh ngày càng tụt thang nhanh chóng: từ đầu 1967 tới cuối 1967 giảm từ 52% xuống còn 45%, từ đầu 1968 tới tháng 10-1968 giảm từ 42% xuống còn 37%, từ đầu 1969 tới tháng 10-1969 giảm từ 39% xuống 32%, từ đầu 1970 tới giữa 1971 giảm từ 33% xuống còn 28%. (nguồn Wikipedia).
Nixon chỉ trích những sai lầm trong chính sách quân sự của vị Tổng thống tiền nhiệm như sau:
- Oanh tạc BV hạn chế để họ phải ngồi vào bàn hội nghị cũng như để nâng cao tinh thần quân đội VNCH, Nixon cho rằng nâng cao tinh thần chưa đủ và Hồ Chí Minh cùng đồng bọn chỉ nghĩ tới xâm lược, họ không màng tới hòa giải.
- Johnson không xử dụng sức tấn công dữ dội của quân đội Mỹ, chỉ đánh hù dọa BV khiến cho họ lờn mặt không chịu chấm dứt cuộc chiến xâm lược miền Nam VN.
- Johnson đánh hao mòn quân BV tại VNCH nhưng ông đã thất bại vì không ngăn chận được sự xâm nhập của địch qua đường mòn Hồ Chí Minh. Sự giới hạn áp lực đối với địch để họ phải ngồi vào bàn hội nghị không có kết quả, ta không thể mớn trớn Hồ chí Minh từ bỏ cuộc chiến xâm lăng miền Nam mà bắt hắn phải từ bỏ. Chính sách oanh tạc BV giới hạn thất bại vì Johnson-McNamara ngây thơ tin tưởng rằng áp lực từ từ sẽ khiến địch phải hòa giải.
Chúng ta đặt giả thuyết Johnson đắc cử nhiệm kỳ thứ hai 1969-1972 thì ông đã không giữ được Đông Dương cho tới 1974, 1975 nó có thể đã sụp đổ từ những năm 1969, 1970 khi mà phong trào phản chiến lên quá cao. Ta cũng đặt giả thuyết Nixon làm Tổng thống từ nhiệm kỳ 1965-1968 tình hình chắc sẽ có nhiều biến chuyển thuận lợi, ông sẽ không bỏ lỡ cơ hội chiến thắng. Với chính sách chính trị quân sự cứng rắn Nixon không để cho CSBV cù cưa kéo dài chiến tranh như vậy mà sẽ lôi cổ họ lại bàn hội nghị ký kết hiệp định ngưng bắn, VNCH đã không sụp đổ như năm 1975. Là người hiểu rõ sự ngoan cố của CS hơn Johnson nhưng Nixon không gặp thời.
Trận oanh tạc Cộng quân trong trận chiến 1972 và trận mưa bom Giáng Sinh 1972 của Nixon không những đã đánh phủ đầu BV mà còn thị uy khối CS quốc tế đừng vuốt râu hùm, cả Nga Sô Trung Cộng đều đã khiếp sợ sức mạnh kinh hồn của không lực Mỹ mà không dám hé răng bênh vực đàn em BV. Nixon đã làm tất cả mọi nỗ lực để cứu VNCH và Đông Dương nhưng như ta đã thấy trong giai đọan cuối cùng của cuộc chiến ông đã bị lập pháp trói tay không còn quyền hành gì để cứu vãn tình thế, mọi kế hoạch chính trị quân sự của ông đều đã bị Lập pháp phá hỏng hết.
Ở đây ta thấy một yếu điểm đáng kể của chế độ dân chủ tự do: chính phủ không có thực quyền, mọi quyết định quan trọng nằm trong tay Quốc hội và cử tri, ta có thể tóm tắt sự phân chia quyền lực tại Hoa Kỳ như sau:
Lập pháp lãnh đạo, Hành pháp quản lý, cử tri làm chủ.
Nhiều người nghĩ nếu Tổng thống Nixon còn tại chức thì VNCH chưa chắc đã sụp đổ, sự thực dù ông có còn làm Tổng thống hay không thì miền Nam và Đông Dương cũng không thể tồn tại vì như ta đã thấy sau ngày 27-1-1973 ông không còn quyền hành gì về quân sự, chính trị để đương đầu với CS.
Trong truyện Chiến Tranh và Hòa Bình, nhà văn hào Léon Tolstoi đã đưa ra thuyết vĩ nhân và lịch sử, hay thuyết định mệnh lịch sử cho rằng vĩ nhân không có ảnh hưởng gì đối với lịch sử mà chỉ là công cụ của lịch sử và cũng bị cuốn theo dòng lịch sử. Có nhà phê bình cho rằng Tolstoi đã ghen tài với Napoléon khi đưa ra thuyết ấy nhưng ở đây nó cũng soi sáng cho chúng ta phần nào giai đoạn lịch sử cận đại thập niên 70.
Theo Nixon, Việt Nam đã là đề tài của trên 1,200 cuốn sách, hàng ngàn vạn bài báo, hàng mấy trăm phim và tài liệu truyền hình, đa số nhận định: Chiến tranh VN là cuộc nội chiến, Hồ Chí Minh là nhà ái quốc được đa số người VN hai miền ủng hộ, Việt Cộng được lòng dân chúng tại miền quê qua chính sách nhân đạo, đa số lính Mỹ tại VN nghiện hút sì ke gây nhiều tội ác, người Mỹ thua về quân sự, Hoa Kỳ có chính sách oanh tạc những mục tiêu thường dân, tù binh Mỹ được BV đối xử nhân đạo, phản chiến đã rút ngắn chiến tranh, Hiệp định Paris chỉ là khoảng cách vừa đủ (Decent interval) để Hoa Kỳ rút quân và VNCH sụp đổ, thuyết Domino sai, nay tại Đông Dương sau khi Mỹ rút đi cuộc sống tốt đẹp hơn…
Nixon cho rằng tất cả những nhận định trên đây đều sai hết, truyền thông báo chí đã đầu độc người dân Mỹ và phong trào phản chiến.
Người mình thường coi Kissinger là đạo diễn của Hiệp Định Paris bức tử VNCH, trên thực tế ông ta chỉ là kẻ thừa hành của Nixon, như đã thấy ngay như ông Tổng thống trong giai đọan này chẳng còn quyền hành gì để giải quyết chiến tranh huống hồ người phụ tá như Kissinger.
Cuối cùng người Mỹ đã phải chịu thua chiến lược “cố đấm ăn xôi” lợi hại của anh hủi CS da vàng ghê tởm.
Trọng Đạt
Tài liệu tham khảo.
Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House, New York 1985.
Americanrhetoric.com/speeches/richardnixoncambodia.html: Richard M. Nixon, Cambodian incursion address
en.wikipedia.org/wiki/Cambodian_Campaign: Cambodian Campaign
Lars-Klein. com: Nixon plan for ending Vietnam war.
Digital history. uh. Edu/… Nixon and Vietnam.
Kansaspress.ku.edu: Nixon’s Vietnam war
Wikipedia: Operation Linebacker II
Wikipedia: War Powers Resolution
Answer.com: War Powers Act of 1973.
Answer.com:What is the War Powers Act?
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war.
English.illinois.edu/maps/vietnam/antiwar.html: Mark Barringer: The Antiwar Movement in the United States.
Radical times: The antiwar Movement of the 1960s, Politic and the Antiwar Movement.
Answer.com: Vietnam Antiwar Movement
The Hauenstein Center for Presidential: Nixon and the Christmas bombing.
www.answer.com/topic/domino-theory: Domino theory.
Leo Tostoy: War And Peace, The Maude translation, W.W Norton & Company, New York-London, 1966.
BBCVIETNAMESE.Com: Viện Trợ Quốc Tế Cho Miền Bắc Trong Chiến Tranh, 10-5-2006
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006.
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam.2000
Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography, 2003.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1991.
Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh 2005
Ngô Quang Trưởng: Trận Chiến Trong Mùa Phục Sinh Năm 1972, Trung Tâm Quân Sử Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, bản dịch của Kiều Công Cự, xuất bản 2007
Đặng Phong: 5 Đường Mòn Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Trí Thức, Hà Nội 2008

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét