Nguyên tác Touching the Tiger’s Buttocks” The Third Vietnam War
Cymbidium, X-Cafe giới thiệu và trích dịch
Lời giới thiệu: Cuốn "On China" của với tác giả là Henry Kissinger, một người mà tên tuổi đã gắn liền với những năm cuối cùng của VNCH, là một quyển sách về chính trị, ngoại giao rất hay. Quyển này có thể được cho là một nửa tự truyện và một nửa sách sử cận đại thế giới.
Với hơn 500 trang, tác giả đã đưa người đọc đi từ thời Thập Nhị Tứ Quân xa xưa của Trung Quốc cho đến giai đoạn bị các ngoại bang "barbarians" xâu xé chia ra Trung Quốc từng miền để khai thác đem tài nguyên về mẫu quốc, chiến tranh nha phiến (opium war) với Anh Quốc, rồi đến sự xuất hiện của Mao và diễn tiến thống nhất Trung Quốc sau đệ nhị Thế Chiến. Henry Kissinger đã nghiên cứu rất nhiều về sử Trung Quốc dưới con mắt của một chiến lược gia chính trị và ngoại giao. Vì đã đi Trung Quốc hơn 50 lần và tiếp cận với 4 thủ tướng khác nhau, Trung Quốc đã có thể đọc được những gì giới lãnh đạo Trung Quốc nghĩ trong đầu và đoán được đường đi nước bước của họ từ thời Chiến Tranh Lạnh. Henry Kissinger hiểu Mao, Chu Ân Lai, và tương lai của Trung Quốc hơn bất cứ người nào sống ở ngoài lãnh thổ Trung Quốc. Henry Kissinger đã kể công Mao, Chu Ân Lai, và Đặng Tiểu Bình rất nhiều trong cuộc thống nhất và tái thiết Trung Quốc để đưa quốc gia này đến cương vị cường quốc hiện nay. Nhưng nếu đọc giả muốn biết thêm về cuộc nội chiến với Trung Hoa Quốc Dân Đảng, các cuộc thanh trừng nội bộ đẫm máu như Trường Chinh, Bước Đại Nhảy Vọt, Trăm Hoa Đua Nở, Cách Mạng Văn Hoá, Hồng Vệ Binh, Giang Thanh thì họ sẽ thất vọng. Có lẽ vì là một chiến lược gia, Henry Kissinger đã coi nhẹ cái giá về nhân bản mà dân Trung Quốc phải trả qua 70 triệu oan hồn. Trong suốt quyển sách, Henry Kissinger tập trung vào chính sách đối ngoại của Trung Quốc và Hoa Kỳ, đặc biệt là quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và Liên Xô. Điểm ngoạn mục mà Trung Quốc đã gián tiếp cho biết là nếu không nhờ vào một nước cờ của Hoa Kỳ trong thời Chiến Tranh Lạnh, quân đội Liên Xô đã tràn ngập các căn cứ quân sự của Trung Quốc và có thể thế giới đã không có một Trung Quốc như ngày nay.
Qua quyển sách, Henry Kissinger đã cho thấy một Trung Quốc vô cùng khôn ngoan và sự quyết tâm, lòng yêu nước nhiệt tình của chính quyền và dân chúng Trung Quốc . Trong những năm cuối cùng của cuộc đời, ngay cả đến Mao cũng phải tự xét lại ý thức hệ Cộng Sản và tiến trình "cách mạng không ngừng" của mình.
Trích dịch chương 13: Sờ Mông Cọp
Vào tháng 4 năm 1979, sáu tuần sau khi Trung Quốc (TQ) rút quân về từ Việt Nam, Hoa Quốc Phong, lúc ấy còn làm Thủ tướng, tổng hợp kết quả của chiến tranh Việt Nam thứ ba bằng một câu với mục đích châm chọc một cách khinh bỉ vai trò của Liên Xô : "Họ đã không dám động đậy. Rốt cuộc, chúng ta vẫn có thể sờ mông cọp."
TQ xua quân qua Việt Nam để "dạy một bài học" sau khi quân đội Việt Nam chiếm Cam Bốt để trả đũa cho các loạt đụng độ biên giới với quân Khmer Đỏ, và để theo đuổi mục tiêu cuối cùng của Hà Nội là thành lập Liên Hiệp Đông Dương. TQ làm như vậy để thách thức hiệp ước tương ứng phòng thủ giữa Hà Nội và Moscow được ký kết chưa đuợc một tháng trước đó. Cuộc chiến đã gây rất nhiều tổn thất cho quân đội TQ lúc đó vẫn chưa hoàn toàn phục hồi từ những tai hại của cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Nhưng cuộc xâm lược của TQ đã hoàn tất mục tiêu nòng cốt của họ: Liên bang Xô viết đã tự chứng minh giới hạn tầm chiến lược của mình khi không có phản ứng nào. Quan điểm này có thể được cho là bước ngoặt của Chiến Tranh lạnh, mặc dù vào lúc đó ít người hoàn toàn hiểu như vậy. Chiến tranh Việt Nam thứ ba cũng là cao điểm của hợp tác chiến lược Trung-Hoa Kỳ trong Chiến Tranh Lạnh.
Việt Nam: Sự Bối Rối Của Các Cường Quốc
TQ vướng vào Chiến tranh Việt Nam thứ ba bởi các yếu tố giống như những gì đã đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến thứ hai. Có một cái gì đó hầu như điên cuồng trong chủ nghĩa dân tộc Việt Nam làm các quốc gia khác mất cảm giác về kích thước và hiểu lầm động lực và khả năng của người Việt Nam. Các sử gia hiện đang cho đó chính là căn bệnh của nước Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam thứ hai (chiến tranh đầu tiên là cuộc chiến chống thực dân Pháp). Người Hoa Kỳ lúc đó không tin rằng một quốc gia trung bình đang phát triển có thể nung nấu một ý chí quyết liệt chỉ để cho chính nghĩa có tính cách giới hạn nội bộ của nó. Do đó, họ cho hành động của Việt Nam là biểu tượng của một ý đồ sâu xa hơn. Sự hiếu chiến của Hà Nội được coi là đội tiên phong của âm mưu phối hợp Trung-Xô để thống chế ít nhất là châu Á. Và Washington cũng tin rằng một khi đội tiền quân của Hà Nội bị chặn, một thỏa hiệp ngoại giao nào đó sẽ xuất hiện.
Cả hai lập luận trên đều sai. Hà Nội không phải là chư hầu của bất kỳ quốc gia nào khác. Họ chiến đấu cho tương lai độc lập của họ, và với mục đích cuối cùng là cho một Liên Hiệp Đông Dương mà nó sẽ cho họ vai chủ chốt ở Đông Nam Á như Bắc Kinh đã từng đóng ở Đông Á. Đối với một dân tộc đơn giản còn sống sót sau bao thế kỷ xung đột với TQ, thỏa hiệp là điều không thể có giữa ý tưởng độc lập của họ và quan niệm về ổn định của bất cứ người ngoài nào khác. Thảm cảnh của chiến tranh Việt Nam thứ hai ở Đông Dương là hành động tương tác giữa sự mong muốn thỏa hiệp của Hoa Kỳ và sự quyết tâm chiến thắng của Miền Bắc Việt Nam.
Trong ý nghĩa đó, sai lầm chính của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam không phải là câu hỏi chia rẽ công chúng Hoa Kỳ như chính phủ Hoa Kỳ có đủ hết lòng cho một kết quả ngoại giao không. Chính ra, điều sai lầm là họ không có khả năng đối mặt với thực tế là cái được gọi là kết quả ngoại giao mà các chính quyền nối tiếp của cả hai đảng phái chính trị Hoa Kỳ đã quá tha thiết, thậm chí tuyệt vọng theo đuổi, đòi hỏi áp lực ở mức độ làm Hà Nội thất trận hoàn toàn mà trong đó Moscow và Bắc Kinh chỉ đóng vai tạo thuận tiện chứ không phải chỉ huy.
Nói một cách hạn chế hơn, Bắc Kinh rơi vào một quan niệm sai lầm tương tự. Khi vai trò của Hoa Kỳ tại Việt Nam bắt đầu gia tăng, Bắc Kinh giải thích sự kiện đó theo cách chơi cờ vây: đó là một ví dụ nữa về các căn cứ Hoa Kỳ bao vây TQ từ Hàn Quốc đến eo biển Đài Loan và bây giờ xuống đến Đông Dương. TQ ủng hộ chiến tranh du kích của Miền Bắc Việt Nam, một phần vì nguyên nhân ý thức hệ, một phần để giữ căn cứ Hoa Kỳ càng xa biên giới TQ càng tốt. Chu Ân Lai nói với Thủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng vào tháng Tư năm 1968 rằng TQ ủng hộ Miền Bắc Việt Nam để ngăn chặn chiến lược bao vây TQ, và Phạm Văn Đồng đã trả lời một cách mơ hồ - phần lớn bởi vì ngăn chặn bao vây TQ không phải là mục đích của Việt Nam và mục tiêu của Việt Nam là những gì liên quan đến quốc gia của họ:
Chu Ân Lai: Trong một thời gian dài, Hoa Kỳ đã bao vây một nửa TQ. Hiện nay Liên Xô cũng bao vây TQ. Vòng bao vây đang khép kín ngoại trừ phần về phía Việt Nam.
Phạm văn Đồng: Tất cả chúng tôi đều quyết tâm đánh bại đế quốc Hoa Kỳ trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
CÂL: Đó là lý do tại sao chúng tôi hỗ trợ Việt Nam.
PVĐ: Chiến thắng của chúng tôi sẽ có một tác động tích cực ở Á Châu. Nó sẽ mang lại kết quả không lường trước được.
CÂL: Ông cứ nên nghĩ như thế.
Trong việc theo đuổi chiến lược TQ mà Phạm Văn Đồng đã cẩn thận tách biệt, TQ đã gửi hơn 100.000 nhân viên quân sự không chiến đấu để hỗ trợ hạ tầng cơ sở Miền Bắc Việt Nam và hậu cần. Hoa Kỳ chống Miền Bắc Việt Nam vì cho đó là mặt trận thể hiện ý đồ Trung-Xô. TQ hỗ trợ Hà Nội vì cho rằng Hoa Kỳ có tham vọng thống trị Á Châu. Cả hai đều là sai lầm. Hà Nội đã chiến đấu chỉ cho quốc gia của họ. Sau khi chiến thắng vào năm 1975 trong cuộc chiến thứ hai, một nước Việt Nam thống nhất do Cộng sản lãnh đạo đã trở nên một mối đe dọa chiến lược rất lớn đối với TQ so với Hoa Kỳ.
Người Việt trông chừng hàng xóm phía Bắc của họ với cặp mắt nghi ngờ gần đến độ sợ sệt hoang tưởng. Trong suốt thời gian dài dưới ách đô hộ TQ, Việt Nam đã hấp thụ hệ thống Hán tự và các thể thức chính trị và văn hóa (qua bằng chứng ngoạn mục nhất là hoàng cung và các ngôi mộ tại cố đô Huế). Tuy nhiên, Việt Nam đã sử dụng các thể chế "TQ" này để xây dựng một quốc gia riêng biệt và củng cố nền độc lập riêng của họ. Vị trí địa lý đã không cho phép Việt Nam rút vào thế cô lập như Nhật Bản đã làm trong khoảng thời gian tương ứng trong lịch sử của họ. Từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên cho đến thế kỷ thứ mười, không ít thì nhiều, Việt Nam nằm dưới sự cai trị của TQ, họ chỉ hoàn toàn trở nên một quốc gia độc lập sau sự sụp đổ của triều đại nhà Đường vào năm 907.
Bản sắc dân tộc Việt Nam phản ánh di sản của hai sức mạnh có phần mâu thuẫn: trên một mặt, hấp thụ văn hóa TQ, trên mặt khác, chống đối sự cai trị chính trị và quân sự của TQ. Chống cự TQ đã giúp nẩy sinh một niềm tự hào mãnh liệt về nền độc lập và một truyền thống quân sự đáng sợ của người Việt. Sự hấp thu văn hóa TQ đã cho Việt Nam một tầng lớp tinh tú theo phong cách Nho giáo TQ, họ có một phong thái cá biệt nào đó của một quốc vương trong khu vực đối với các hàng xóm của họ. Trong các cuộc chiến tranh Đông Dương ở thế kỷ thứ 20, Hà Nội đã tỏ cái ý thức quyền thụ hưởng chính trị và văn hóa của họ bằng cách tự tiện sử dụng lãnh thổ trung lập của Lào và Cam Bốt như thể đó là quyền của họ và sau chiến tranh, họ mở rộng "mối quan hệ đặc biệt" với các phong trào Cộng sản trong các quốc gia này, chẳng khác gì bị Việt Nam cai trị.
Việt Nam đối mặt với TQ bằng một thử thách về tâm lý và địa chính trị chưa từng thấy. Các nhà lãnh đạo Hà Nội đã quen thuộc với nghệ thuật chiến tranh của Tôn Tử và dùng các nguyên tắc đó với một hiệu quả đáng kể đối với cả Pháp lẫn Hoa Kỳ. Ngay cả trước khi các cuộc chiến tranh Việt Nam dài kết thúc, đầu tiên với Pháp trong việc theo đuổi đòi lại thuộc địa của họ sau Thế Chiến Thứ II, và sau đó với Hoa Kỳ từ 1963 cho đến 1975, cả Bắc Kinh và Hà Nội đều bắt đầu nhận thức rằng cuộc thi thố kế tiếp sẽ là giữa họ cho vị trí thống trị ở Đông Dương và Đông Nam Á.
Gần gũi văn hóa có thể giải thích cho sự vắng mặt tương đối của điều chắc chắn trong phân tích chiến lược thường được dùng để hướng dẫn chính sách của TQ trong chiến tranh Việt Nam. Trớ trêu thay, chủ ý chiến lược lâu dài của Bắc Kinh dường như tương đương với chủ ý của Washington: một viễn cảnh trong đó bốn quốc gia Đông Dương (Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam, Cam Bốt, và Lào) cân bằng lẫn nhau. Điều này có thể giải thích lý do tại sao Mao, khi phác họa các kết quả hậu chiến có thể xảy ra với Edgar Snow vào năm 1965, liệt kê một giải pháp khả thi là giữ Miền Nam Việt Nam, và do đó, được xem là có thể chấp nhận được.
Trong chuyến đi Bắc Kinh bí mật vào năm 1971, CÂL giải thích mục tiêu của TQ ở Đông Dương là phi chiến lược cũng như phi ý thức hệ. Theo CÂL, chính sách của TQ ở Đông Dương hoàn toàn dựa vào món nợ lịch sử từ các triều đại xa xưa. Có thể các nhà lãnh đạo TQ giả định rằng Hoa Kỳ không thể bị đánh bại và Miền Bắc Việt Nam sẽ trở nên phụ thuộc nhiều vào viện trợ của TQ như Bắc Hàn đã từng bị phụ thuộc vào TQ sau khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc.
Trong khi chiến tranh tiếp diễn, có một số dấu hiệu cho thấy chính TQ đang chuẩn bị khi Hà Nội chiến thắng, mặc dù miễn cưỡng. Tin tình báo cho biết việc TQ xây đường xá ở phía bắc Lào không liên quan đến cuộc chiến đang diễn ra với Hoa Kỳ nhưng nó sẽ giúp ích cho chiến lược hậu chiến để cân bằng Hà Nội hoặc thậm chí cho một cuộc xung đột có thể xảy ra ở Lào. Năm 1973, sau Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh Việt Nam, CÂL và tôi thương lượng một giải pháp hậu chiến cho Cam Bốt dựa vào liên minh giữa Norodom Sihanouk (cựu lãnh tụ của Cam Bốt đang lưu vong tại Bắc Kinh), chính phủ Nam Vang vào thời điểm đó, và Khmer Đỏ. Mục đích chính của liên minh là tạo ra một trở ngại cho cuộc xâm lăng trên toàn Đông Dương của Hà Nội. Rốt cuộc thỏa thuận bị hủy bỏ khi Quốc hội Hoa Kỳ cấm bất cứ vai trò quân sự của Hoa Kỳ trong khu vực, làm cho nhiệm vụ của Hoa Kỳ không còn thích hợp.
Tôi nhận ra thái độ thù địch tiềm tàng của Hà Nội với đồng minh phía bắc của họ trong một chuyến thăm Hà Nội trong tháng 2 năm 1973 để dàn xếp việc thực hiện Hiệp định Paris được ký kết hai tuần trước đó. Lê Đức Thọ đưa tôi đi thăm viện bảo tàng quốc gia ở Hà Nội với chủ yếu cho tôi xem các khu trưng bày dấu tích đấu tranh lịch sử của Việt Nam chống TQ - lúc đó vẫn chính thức là đồng minh của họ. Với sự sụp đổ của Sài Gòn vào năm 1975, hiềm khích lịch sử tiềm tàng đã bật lộ, đưa đến một chiến thắng địa chính trị thay vì ý thức hệ. Nó đã chứng minh rằng không phải một mình Hoa Kỳ đánh giá sai ý nghĩa của chiến tranh Việt Nam. Khởi đầu khi Hoa Kỳ can thiệp, TQ xem sự kiện đó như là một cơn thở hắt cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc. Họ hầu như thường xuyên chia sẻ với Hà Nội. Họ giải thích sự can thiệp của Hoa Kỳ như là một bước nữa để bao vây TQ - y hệt như họ đã từng xem sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Hàn Quốc một thập niên trước đó.
Trớ trêu thay, từ quan điểm địa chính trị, lợi ích lâu dài của Bắc Kinh và Washington đáng lý ra phải đi đôi với nhau. Đáng nhẽ cả hai nên để nguyên tình trạng án binh bất động, nghĩa là một Đông Dương được phân chia giữa bốn quốc gia. Washington không muốn Hà Nội thống trị Đông Dương vì ý tưởng trật tự toàn cầu của Tổng Thống Wilson qua quyền tự quyết của các quốc gia hiện hữu và khái niệm về âm mưu Cộng Sản trên toàn cầu. Bắc Kinh cũng có cùng mục tiêu chung như vậy, nhưng từ quan điểm địa chính trị, vì họ muốn tránh sự thành hình của một khối Đông Nam Á ngay ranh giới phía nam của họ.
Trong một thời gian dài, Bắc Kinh dường như tin rằng ý thức hệ Cộng sản sẽ làm lu mờ một lịch sử ngàn năm chống đô hộ giặc TQ của ngưòi Việt Nam. Nếu không họ đã không nghĩ rằng Hoa Kỳ có thể đi đến thất bại hoàn toàn như thế. Sau khi Sài Gòn sụp đổ, Bắc Kinh đã phải đối diện với những cái khó khăn mà chính sách của chính họ đã gây ra. Và họ phải co vòi trước những nan giải này. Kết quả xảy ra ở Đông Dương đã chạm vào mối lo âu bị bao vây thường trực của TQ. Ngăn chặn một khối Đông Dương liên kết với Liên Xô đã trở thành mối bận tâm hàng đầu của chính sách đối ngoại của TQ dưới thời Đặng Tiểu Bình và nó cũng trở thành một cầu liên kết tăng cường hợp tác với Hoa Kỳ. Hà Nội, Bắc Kinh, Moscow và Washington đang là bốn tay chơi của bàn cờ wei. Những biến cố ở Cam Bốt và ở Việt Nam sẽ định đoạt ai là người bị vây và bị vô hiệu hóa: Bắc Kinh hay Hà Nội.
Cơn ác mộng của Bắc Kinh bị bao vây bởi một thế lực thù địch dường như trở thành hiện thực. Một mình Việt Nam cũng đã là một lực lượng ghê gớm. Nhưng nếu để họ thành lập Liên Hiệp Đông Dương, họ sẽ có một khối 100 triệu dân và sẽ có một vị thế tạo áp lực đáng kể đối với Thái Lan và các quốc gia Đông Nam Á khác. Trong bối cảnh này, lấy sự độc lập của Cam Bốt như là một đối trọng với Hà Nội trở thành mục tiêu chủ yếu của TQ. Sớm như tháng Tám năm 1975, ba tháng sau khi Sài Gòn thất thủ - Đặng Tiểu Bình nói với nhà lãnh đạo Khmer Đỏ Khieu Samphan đang thăm TQ: "Khi một siêu cường [Hoa Kỳ] bị bắt buộc phải rút quân khỏi Đông Dương, một siêu cường khác [Liên Xô] nắm lấy cơ hội ... để thò các xúc tu ác độc của nó đến khu vực Đông Nam Á ... trong nỗ lực bành trướng đến đó." Đặng Tiểu Bình nói "Cam Bốt và TQ, cả hai ... đối mặt với nhiệm vụ đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và bá chủ hoàn cầu ... Chúng tôi chắc chắn tin rằng ... hai dân tộc của chúng ta sẽ đoàn kết chặt chẽ hơn nữa và cùng nhau diễu hành hướng tới chiến thắng mới trong cuộc đấu tranh chung." Trong chuyến viếng thăm Bắc Kinh vào năm 1976 của Thủ tướng Chính phủ Lào Kaysone Phomvihane, Thủ tướng Hoa Quốc Phong cảnh báo về Liên Xô đại loại như: "Đặc biệt, cái siêu cường ra vẻ 'hoà hoãn' trong khi xoè móng vuốt khắp nơi này đang đẩy mạnh bành trướng vũ trang, sửa soạn chiến tranh, cố gắng đưa các quốc gia vào phạm vi ảnh hưởng của mình và chơi trò chúa bá quyền."

Trích dịch chương 13: Sờ Mông Cọp - Chiến Tranh Việt Nam Thứ Ba (tiếp theo)
Vì không còn sự cần thiết phải giả vờ đoàn kết Cộng sản trước mối đe dọa "đế quốc" Hoa Kỳ, những kẻ thù của quốc gia này chuyển sang hằn học ra mặt với nhau sau khi Sài Gòn thất thủ vào tháng 4 năm 1975. Trong sáu tháng kể từ khi tất cả Đông Dương sụp đổ, 150.000 dân gốc Việt đã buộc phải rời khỏi Cam Bốt. Một con số tương đương dân Việt gốc TQ bị đuổi khỏi Việt Nam. Tháng 2 năm 1976, TQ chấm dứt chương trình viện trợ cho Việt Nam, và một năm sau đó, họ ngưng tất cả tiếp tế dựa trên các chương trình hiện có. Đồng thời, Hà Nội ngả hẳn về phía Liên Xô. Trong một cuộc họp của Bộ Chính trị Việt Nam vào tháng 6 năm 1978, TQ đã được xác định là "kẻ thù chính" của Việt Nam. Cùng tháng đó, Việt Nam gia nhập Comecon, một khối thương mại mà Xô viết dẫn đầu. Vào tháng 11 năm 1978, Liên Xô và Việt Nam ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, trong đó có các điều khoản quân sự. Trong tháng 12 năm 1978, quân đội Việt Nam xâm lăng Cam Bốt, lật đổ Khmer Đỏ và lập một chính phủ ủng hộ Việt Nam.
Cuộc xung đột đã mất hẳn tính chất ý thức hệ. Thay vào đó, các trung tâm quyền lực Cộng sản đang thực hiện một cuộc ganh đua cán cân quyền lực trên lợi ích quốc gia.
Từ quan điểm Bắc Kinh, cơn ác mộng chiến lược đang thành hình dọc theo biên giới TQ. Ở phía Bắc, sự gia tăng quân số của Liên Xô tiếp tục không suy giảm: Moscow vẫn duy trì gần 50 sư đoàn dọc theo biên giới. Về phía Tây TQ, A Phú Hãn vừa trải qua một cuộc đảo chính Mác Xít và bị Liên Xô ngày càng công khai chi phối. Bắc Kinh cũng nhìn thấy bàn tay lông lá của Moscow trong cuộc cách mạng Iran với kết quả là Shah bị hạ bệ vào ngày 16 tháng 1 năm 1979. Moscow tiếp tục thúc đẩy một hệ thống an ninh tập thể Á châu không ngoài mục đích chính đáng nào hơn là kiềm chế TQ. Trong khi đó, Moscow đang đàm phán hiệp ước SALT II với Washington. Đối với Bắc Kinh, các thỏa thuận như vậy có mục đích "Đông tiến" về phía TQ. TQ dường như đang có một vị trí cực kỳ bất an. Việt Nam hiện giờ đã tham gia vào khối Liên Xô. Dự báo "kết quả không lường trước được" của Phạm Văn Đồng vào năm 1968 hình như gồm cả điều Liên Xô bao vây TQ. Một rắc rối nữa là tất cả những thách thức này xảy ra trong khi ĐTB vẫn còn củng cố vị trí của mình khi trở lại cầm quyền lần thứ hai, một quá trình đến năm 1980 mới hoàn tất.
Sự khác biệt chính giữa chiến lược ngoại giao TQ và Tây phương nằm trong phản ứng trước nhận thức bị nguy hiểm. Các nhà ngoại giao Hoa Kỳ và Tây phương cho rằng lúc đó họ nên hành động một cách cẩn thận để tránh khiêu khích; nhưng phản ứng của TQ lại có khả năng khuyếch trương thách thức. Ngoại giao Tây phương có xu hướng dàn xếp một cán cân lực lượng bất lợi qua một giải pháp ngoại giao bắt buộc, họ dùng các sáng kiến ngoại giao để đặt đối thủ vào cương vị "sai lầm" với mục đích cô lập về mặt đạo đức nhưng tránh sử dụng bạo lực - đó chính là điều Hoa Kỳ tư vấn cho ĐTB sau khi Việt Nam xua quân chiếm đóng Cam Bốt. Chiến lược gia TQ thường thường gia tăng sự quyết chí để thay thế lòng can đảm và áp lực tâm lý của họ trước lợi thế vật chất của đối phương. Họ tin vào sự răn đe dưới hình thức đánh đòn phủ đầu. Khi nhà cầm quyền TQ nhận thấy đối thủ của họ đang nắm lợi thế quá mức có thể chấp nhận được và xu hướng chiến lược đang có chiều hướng bất lợi cho TQ, họ phản ứng bằng cách cố gắng phá hoại sự tự tin của đối phương để TQ dành lại tay trên về tâm lý, nếu không muốn nói là vật chất.
Trước những mối đe dọa đến từ tất cả các hướng, ĐTB quyết định dùng thế công về ngoại giao và chiến lược. Mặc dù chưa hoàn toàn cầm quyền ở Bắc Kinh, ông mạnh dạn hành động trên nhiều cấp độ ở ngoại quốc. Ông đổi cương vị của TQ đối với Liên Xô bằng cách từ bỏ ngăn chặn để qua chiến lược thù nghịch ra mặt. TQ không còn tự giới hạn mình trong việc tư vấn Hoa Kỳ về cách thức làm thế nào để ngăn chặn Liên Xô; họ bây giờ đóng một vai trò tích cực trong việc xây dựng một liên minh chống Liên Xô và chống Việt Nam, đặc biệt là ở Á châu. Điều này cho thấy họ đang sửa soạn một cuộc thách thức với Hà Nội.
Chính sách Đối ngoại của Đặng Tiểu Bình - Đối thoại với Hoa Kỳ và Bình thường hoá
Khi trở về cầm quyền từ kỳ lưu vong lần thứ hai vào năm 1977, Đặng Tiểu Bình (ĐTB) đảo ngược chính sách đối nội của Mao, nhưng hầu như để yên chính sách đối ngoại. Lý do là bởi vì cả hai đều chia sẻ cảm xúc yêu nước mạnh mẽ và cùng có quan điểm song song về lợi ích quốc gia của TQ. Đó cũng là vì chính sách đối ngoại đã đặt giới hạn tuyệt đối cho thôi thúc cách mạng của Mao hơn là chính sách đối nội.
Tuy nhiên, nếu xem kỹ thì thấy sự khác biệt đáng kể trong phong cách giữa Mao Trạch Đông và ĐTB. Mao nghi ngờ ý đồ chiến lược của Hoa Kỳ về chính sách với Liên Xô. ĐTB thì gắn bó với lợi ích chiến lược và tập trung vào việc đạt đến sự thi hành song song với Hoa Kỳ. Mao đối phó với Liên Xô như là một thứ đe dọa chiến lược trừu tượng có nguy hại không những cho TQ mà còn cho cả thế giới còn lại. ĐTB nhận ra sự nguy hiểm đặc biệt cho TQ, nhất là mối đe dọa trực tiếp ngay tại biên giới phía nam của TQ gồm với mối đe dọa tiềm ẩn ở phía bắc. Do đó, đối thoại vói họ có tính cách hành động nhiều hơn. Mao cư xử như một thày giáo thất trí, ĐTB như một đối tác hay đòi hỏi.
Trong khi đối mặt với hiểm họa thực tế, ĐTB kết thúc sự mâu thuẫn về mối quan hệ với Hoa Kỳ vào năm cuối cùng của Mao. Thế là TQ hết thèm thuồng cơ hội đại diện cho cách mạng thế giới. Trong tất cả các cuộc hội thoại sau khi trở về, ĐTB bào chữa rằng TQ và Nhật Bản cần phải được đưa vào một thiết kế toàn cầu trong việc chống chính sách bành trướng của Liên Xô về phía Âu châu.
Dù cho các hoạt động tư vấn giữa TQ và Hoa Kỳ đã trở thành gần gũi đến đâu, điều bất thường là Hoa Kỳ vẫn chính thức công nhận Đài Loan là chính phủ hợp pháp của TQ và Đài Bắc là thủ đô của TQ. Kẻ thù của TQ dọc theo biên giới phía Bắc và phía Nam có thể lợi dụng sự không công nhận này như một cơ hội.
Bình thường hóa quan hệ được đưa lên ưu tiên hàng đầu chương trình nghị sự Trung-Hoa Kỳ khi Jimmy Carter lên nắm quyền. Chuyến thăm Bắc Kinh đầu tiên tới của tân Bộ trưởng Ngoại giao Cyrus Vance, trong tháng 8 năm 1977 đã không mang đến kết quả tốt đẹp. Ông viết trong hồi ký:
“… Tôi rời Washington... với cảm nghĩ rằng không nên đề cập đến vấn đề chính trị nhậy cảm như bình thường hoá với TQ cho đến khi vấn đề Panama [phê chuẩn hiệp ước kênh đào Panama để trao lại quyền điều hành] được giải quyết xong, trừ khi - dù không mong xảy ra, TQ chấp nhận tất cả đề nghị của Hoa Kỳ. Vì các lý do chính trị, tôi định đưa một đề nghị tối đa cho TQ về vấn đề Đài Loan… Vì thế, tôi không mong đợi TQ chấp nhận đề nghị của chúng tôi, nhưng tôi cảm thấy nên làm, mặc dù rốt cuộc chúng tôi có thể phải bỏ ra…”
Đề nghị của Hoa Kỳ về Đài Loan bao gồm một loạt các ý tưởng liên quan đến việc duy trì sự hiện diện ngoại giao Hoa Kỳ có hạn chế ở Đài Loan mà đã được đưa ra và bị từ chối trong thời chính quyền Ford. Đề nghị bị từ chối một lần nữa bởi ĐTB, người cho đó là một bước lùi. Một năm sau, cuộc tranh luận nội bộ của Hoa Kỳ đã kết thúc khi Tổng thống Carter quyết định gán ưu tiên cao cho mối quan hệ với TQ. Áp lực của Liên Xô ở Phi châu và Trung Đông đã thuyết phục tân Tổng thống quyết định nhanh chóng bình thường hóa với TQ, chẳng khác gì tương đương theo đuổi một liên minh chiến lược với TQ. Ngày 17 Tháng 5, 1978, Carter gửi Cố vấn An ninh Quốc gia, Zbigniew Brzezinski sang Bắc Kinh với lời dặn dò:
... Ông nên nhấn mạnh rằng tôi thấy Liên Xô chủ yếu có một mối quan hệ cạnh tranh với Hoa Kỳ, mặc dù cũng có một số khía cạnh hợp tác ... Nói một cách vắn tắt nhất, mối quan tâm của tôi là sự kết hợp của sức mạnh quân sự ngày càng tăng với thiển cận chính trị của Liên Xô, cộng với tham vọng quyền lực lớn, có thể xui khiến Liên Xô khai thác hỗn loạn địa phương (đặc biệt là trong thế giới thứ ba) và đe dọa các quốc gia thân hữu của chúng ta để theo đuổi lợi thế chính trị và cuối cùng ngay cả ưu thế chính trị.
Brzezinski cũng được ủy quyền để tái khẳng định năm nguyên tắc mà Nixon đưa ra với CÂL vào năm 1972. Từng là một người ủng hộ mạnh mẽ hợp tác chiến lược với TQ, Brzezinski thi hành nhiệm vụ của mình với sự nhiệt tình và tài năng. Khi ông viếng thăm Bắc Kinh vào tháng 5 năm 1978 trong việc theo đuổi bình thường hóa mối quan hệ, Brzezinski nhận thấy khán giả chăm chú lắng nghe. ĐTB sẵn sàng tiến hành bình thường hoá để Washington gia nhập một cách vững chắc hơn vào liên minh để chống lại sự gia tăng Liên Xô ở mọi nơi trên thế giới bằng những gì ông gọi là "công việc thực sự, vững chắc, đơn giản."
Các nhà lãnh đạo TQ đã biết rõ về sự nguy hiểm chiến lược xung quanh; nhưng họ trình bày phân tích của họ như là một viễn cảnh tổng quát về tình trạng thế giới hơn là mối quan tâm quốc gia. "Tình trạng hỗn loạn dưới trời", "đường chân trời", "Tam thế giới": tất cả đều đại diện lý thuyết quan hệ quốc tế tổng quát chứ không phải nhận thức quốc gia cá biệt.
Phân tích tình hình quốc tế của Ngoại trưởng Huang Hua thể hiện sự tự tin đáng kể. Dù gì đi nữa, thay vì tỏ ra là một người tranh đấu cho một tình huống có thể nói là rất khó khăn cho TQ, Huang có phong cách của một giáo viên Nho giáo, giảng dạy về làm thế nào để thi hành chính sách ngoại giao toàn diện. Ông mở đầu bằng một nhận xét chung về các "mâu thuẫn" giữa hai siêu cường, kết quả vô vọng của cuộc đàm phán với Liên Xô, và cuộc thế chiến không thể tránh khỏi như sau:
... Liên Xô là nguồn nguy hiểm nhất cho chiến tranh. Tổng Thống của ông nói rằng Liên Xô đang đối mặt với nhiều khó khăn. Điều đó đúng. Phấn đấu cho quyền bá chủ thế giới là mục tiêu chiến lược cố định của xã hội chủ nghĩa Xô Viết đế quốc. Mặc dù có thể phải chịu rất nhiều thất bại, họ sẽ không bao giờ từ bỏ tham vọng...
Huang cho thấy mối quan tâm mà nó cũng làm nhiều người Hoa Kỳ chuyên về chiến lược lo lắng, đặc biệt là những người cố gắng gắn liền vũ khí hạt nhân với cách suy nghĩ truyền thống về chiến lược. Phụ thuộc vào vũ khí hạt nhân sẽ tạo một khoảng cách giữa các mối đe dọa ngăn chặn và sự mong muốn để thi hành chúng: "Nếu cho rằng Liên Xô sẽ không dám sử dụng vũ khí quy ước vì sợ Tây phương tấn công bằng nguyên tử thì đúng là điều mơ tưởng. Đặt quan điểm chiến lược trên lối suy nghĩ kiểu này không những nguy hiểm mà còn không đáng tin cậy."
Ở Trung Đông, nơi mà được xem như "sườn của Âu châu" và "nguồn năng lượng của cuộc chiến tương lai", Hoa Kỳ đã thất bại trong việc chặn đứng các bước tiến của Liên Xô. Họ đã phát biểu một tuyên bố chung với Liên Xô về Trung Đông (mời các quốc gia khu vực tham dự hội nghị để cứu xét viễn cảnh cho một giải pháp Palestine toàn diện), "vì vậy mở rộng cửa cho Liên Xô tiếp tục xâm nhập vào Trung Đông." Washington bỏ rơi Tổng thống Anwar Sadat của Ai Cập, người có "hành động táo bạo", "tạo ra một tình hình bất lợi cho Liên Xô" trong một vị trí nguy hiểm và để cho Liên Xô "nắm cơ hội nhằm chia rẽ trầm trọng giữa các quốc gia Ả Rập."
Huang tổng kết tình hình bằng cách dùng câu tục ngữ của TQ, ông nói: "xoa dịu Moscow giống như lắp đôi cánh cho con hổ để nó tung hoành thêm." Nhưng một chính sách phối hợp áp lực sẽ thắng bởi vì Liên bang Xô Viết chỉ là "bề ngoài mạnh mẽ nhưng bên trong yếu. Họ bắt nạt kẻ yếu và sợ kẻ mạnh."
Tất cả điều này được dùng cho bối cảnh Đông Dương. Huang nói đến "vấn đề quyền bá chủ khu vực." Tất nhiên Hoa Kỳ đã đi qua con đường này mười năm trước đó. Việt Nam có mục đích thống trị Cam Bốt và Lào để thiết lập một Liên Hiệp Đông Dương và "nằm đằng sau là Liên bang Xô viết." Hà Nội đã đạt được một vị trí chủ chốt ở Lào, họ đóng quân ở đó và duy trì "cố vấn trong mỗi bộ phận và ở mọi cấp độ tại Lào." Nhưng Hà Nội gặp kháng cự ở Cam Bốt, họ chống lại tham vọng của Việt Nam trong khu vực. Căng thẳng Việt Nam-Cam Bốt tiêu biểu "không chỉ đơn thuần là một số vụ đụng độ lẻ tẻ dọc theo biên giới", nhưng là một cuộc xung đột lớn "có thể kéo dài trong một thời gian dài." Trừ khi Hà Nội từ bỏ mục tiêu thống trị Đông Dương, "vấn đề đó sẽ không được giải quyết trong một thời gian ngắn."
ĐTB phê bình tiếp theo Huang Hua trong cùng ngày. Ông cảnh báo Brzezinski rằng nhượng bộ và thỏa thuận chưa bao giờ kiềm chế được Liên Xô. Mười lăm năm hiệp định kiểm soát vũ khí đã để cho Liên Xô đạt được chiến lược ngang hàng với Hoa Kỳ. Giao thương với Liên Xô có nghĩa là "Hoa Kỳ đang giúp Liên Xô vượt qua những nhược điểm của họ." ĐTB đưa ra một đánh giá chế nhạo phản ứng của Hoa Kỳ đối với chủ nghĩa phiêu lưu của Liên Xô trong Thế giới Thứ ba và khiển trách Washington đang cố gắng "chiều lòng" Moscow như sau:
... Các phát ngôn viên của ông liên tục biện minh và xin lỗi cho những hành động của Liên Xô. Đôi khi họ tuyên bố không có dấu hiệu để chứng minh rằng có sự can thiệp của Liên Xô và Cuba trong trường hợp của Zaire hoặc Angola. Nói như vậy không có ích gì hết. Nói thẳng thắn với ông, bất cứ khi nào các ông sắp sửa kết thúc một thỏa thuận với Liên Xô thì y như đó là sản phẩm nhân nhượng từ bên Hoa Kỳ để làm bên Liên Xô vui lòng.
Thật là một điễn xuất tài tình. TQ, một quốc gia, mục tiêu chủ yếu của Liên Xô, đề nghị một hành động chung như là một nghĩa vụ trừu tượng, không phải là một cuộc mặc cả giữa các quốc gia, càng không phải là mộ lời yêu cầu. Như phân tích của họ đã chứng minh, tại thời điểm đại nguy cho quốc gia, TQ vẫn đóng vai trò như một giảng viên về chiến lược chứ không phải là một quốc gia nghe theo quy định của Hoa Kỳ một cách thụ động như các đồng minh Âu châu của họ thường làm.
Những chủ đề tranh luận chính ở Hoa Kỳ như luật pháp quốc tế, giải pháp đa phương, đồng thuận đa số đều vắng mặt trong những phân tích của TQ, ngoại trừ khi chúng được dùng như các công cụ thiết thực cho một mục tiêu được định trước. Và như ĐTB cho Brzezinski biết, mục tiêu đó là "đối phó với gấu Bắc cực và chỉ có thế."
Nhưng đối với người Hoa Kỳ trong giá trị cơ bản xã hội của họ, có một giới hạn cho cái gọi là cách tiếp cận thực tế. Và để quân Khmer Đỏ giết người cai quản Cam Bốt sẽ đại diện cho giới hạn đó. Không Tổng thống Hoa Kỳ nào có thể đối đãi Khmer Đỏ như là một viên sỏi trong bàn cờ chiến lược wei. Hành vi diệt chủng của họ như đuổi dân thành phố Nam Vang vào rừng sâu nước độc, giết hàng loạt thường dân được phân loại theo giai cấp không thể chỉ đơn giản được làm ngơ (mặc dù như chúng ta sẽ thấy cứu cánh đôi khi biện minh cho phương tiện.)
Hoa Quốc Phong, vẫn là Thủ tướng, thậm chí còn quyết liệt hơn trong một cuộc họp vào ngày hôm sau:
... Chúng ta cũng đã nói với rất nhiều bạn bè của chúng ta là hiểm nguy chiến tranh đến từ Liên Xô. Thế thì chúng nên đối phó với nó bằng cách nào? Điều đầu tiên là nên chuẩn bị... Nếu người ta chuẩn bị và một khi cuộc chiến xảy ra, người ta sẽ không ở trong một tình huống bất lợi. Điều thứ hai là bắt buộc cố gắng phá vỡ sự khai triển chiến lược xâm lăng của Liên Xô. Để đạt được quyền bá chủ trên thế giới, đầu tiên Liên Xô phải chiếm được những căn cứ không quân và hải quân trên khắp thế giới, vì vậy họ phải điều động chiến lược. Và chúng ta phải cố gắng làm xáo trộn kế hoạch động quân toàn cầu của họ.
Không một thành viên của Liên minh Đại Tây Dương nào đưa ra một cuộc kêu gọi toàn thể tương tự để hành động chung, thực ra là đánh phủ đầu, hoặc cho biết họ đã chuẩn bị để hành động một mình dựa trên sự ước đoán của họ.
Nói về hành động, các nhà lãnh đạo TQ đề nghị một loại hợp tác, trên nhiều phương diện, thân mật hơn và chắc chắn có nhiều rủi ro hơn so với Liên minh Đại Tây Dương. Họ cố gắng thi hành chiến lược chủ động ngăn chặn được mô tả trong những chương trước. Điểm đặc biệt của nó là ĐTB đề nghị một cơ cấu không chính thức hoặc cam kết không dài hạn. Một ước đoán chung sẽ làm động lực cho hành động chung, nhưng liên minh không chính thức không thể tồn tại nếu các ý kiến bắt đầu bất đồng - TQ nhất định xin được tự chủ ngay cả trong trường hợp cực kỳ nguy hiểm. Điều mà TQ khăng khăng xin hành động chung bất chấp chỉ trích gay gắt về các chính sách cụ thể của Hoa Kỳ chứng tỏ rằng hợp tác với Hoa Kỳ về an ninh được xem là điều bắt buộc.
(Còn tiếp)