THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ sáu, ngày 13/1/2012
TTXVN (Angiê 9/1)
Hy vọng và mơ hồ
Ngày 10/10/2010, Tổng thống Đài Loan, Mã
Anh Cửu, đánh dấu ngày “Song Thập”, ngày Quốc khánh Đài Loan, bằng một
bài diễn văn trong đó ông tập trung vào ba vấn đề: cải cách ở trong
nước, mối quan hệ quốc tế của Đài Bắc và tiến trình xích lại gần với
Trung Quốc. Như chuyên gia Jean-Paul Yacine phân tích trên tạp chí “Tin
Trung Hoa” (Pháp), những vấn đề đó tuy được nêu lên cách đây hơn một
năm, song vẫn luôn mang tính thời sự và được quan tâm hơn cả trong bối
cảnh quốc tế và cuộc bầu cử tổng thống diễn ra trên hòn đảo vào ngày
14/1/2012.
Tổng thống Mã Anh Cửu nhiều lần nhấn
mạnh đến việc cải thiện tình hình kinh tế, kiểm soát nạn thất nghiệp,
tạo việc làm và phục hồi tăng trưởng. Ông đánh giá Đài Loan là một
trường hợp ngoại lệ với hai sự thần kỳ giúp hòn đảo trở thành một xã hội
vừa thịnh vượng vừa dân chủ, một hình mẫu cho thế giới Trung Hoa. Đây
là một cách nói ám chỉ sự khác biệt về chế độ chính trị ở hai bờ eo biển
Đài Loan. Ồng dành nhiều thời gian để nói về các vấn đề xã hội, hứa hẹn
sẽ giảm khoảng cách phát triển và giúp những người nghèo nhất, kể cả
việc học hành của con cái họ. Tổng thống Mã Anh Cửu cũng nêu lên vấn đề
bảo vệ môi trường, đấu tranh chống tham nhũng và tội phạm.
Về vấn đề
quan hệ quốc tế của Đài Loan, Tổng thống Mã Anh Cửu chủ trương áp dụng
một chính sách thực dụng. Do Bắc Kinh gây sức ép về chính trị và tài
chính đối với. tất cả các, nước trên thế giới nên mối quan hệ ngoại giao
chính thức của Đài Bắc rất hạn chế. Từ khi sự hòa dịu trở lại trong mối
quan hệ với Trung Quốc, Đài Loan lại có đại diện ở Tổ chức y tế thế
giới và Tổ chức thương mại thế giới, mối quan hệ với Nhật Bản được thắt
chặt trong khi lòng tin trở lại giữa Đài Bắc và Oasinhtơn, được đánh dấu
bằng việc nối lại các hợp đồng mua bán trang thiết bị quân sự lớn.
Đối với người dân Đài Loan, cụ thể là cử
tri, quan trọng hơn cả là chính sách của Chính quyền Đài Bắc trong việc
xích lại gần Bắc Kinh trong bối cảnh sự lớn mạnh về kinh tế và quân sự
của Trung Quốc cũng như lợi ích đan xen của nước này và Mỹ khiến Đài Bắc
đứng trước những thử thách mới. Hiệp định khung về hợp tác kinh tế ký
với Trung Quốc vào tháng 6/2010, được Quốc hội Đài Loan phê chuẩn ngày
18/8/2010 và có hiệu lực vào ngày 12/12/2010. Bước tiến đó đáp ứng sự
cần thiết có tính sống còn đối với Đài Loan vì trong một thế giới phát
triển nhanh chóng, hòn đảo này có nguy cơ bị gạt ra ngoài lề ở châu Á
trong khi các nước đối thủ của Đài Loan trong ASEAN từ tháng 1/2010 đã
được hưởng quyền tiếp cận ưu đãi thị trường Trung Quốc.
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế là sự
kiện có ý nghĩa nhất trong mối quan hệ giữa hai bờ eo biển kể từ năm
1949 đến nay. Ngày 2/1/2011, Đài Loan và Trung Quốc đã hạ mức thuế quan
đối với 800 mặt hàng. Trung Quốc tỏ ra nỗ lực hơn khi áp dụng giảm thuế
đối với 557 mặt hàng các loại của Đài Loan, về phần mình, Đài Loan giảm
thuế đối với 267 mặt hàng của Trung Quốc xuất sang. Hiệp định này cũng
bao gồm một số điều khoản liên quan đến các lĩnh vực dịch vụ và ngân
hàng, và dự kiến giảm dần trong vòng 3 năm tùy từng lĩnh vực. Phía Trung
Quốc thông báo sẽ mở cửa 6 lĩnh vực dịch vụ cho các công ty Đài Loan và
các cuộc thương lượng vẫn tiếp tục để phía Đài Loan mở cửa đối ứng. Đài
Bắc hy vọng vào những triển vọng khả quan tạo 60.000 việc làm và đạt
180 tỷ đôla Đài Loan (khoảng 5 tỷ đôla Mỹ) trong trao đổi buôn bán.
Nhưng tất cả các chuyên gia đều thống nhất nói rằng sau khi niềm phấn
khởi ban đầu qua đi, việc thực hiện 15 hiệp định đã được ký kết và việc
thương lượng các hiệp định tiếp theo sẽ gây ra căng thẳng ngày càng sâu
sắc.
Mặt khác, theo kết quả một cuộc thăm dò
dư luận được kênh truyền hình TVBC gần gũi với Quốc dân đảng công bố,
chỉ có 39% số người được hỏi ý kiến tin tưởng vào chính phủ sẽ bảo vệ
lợi ích của Đài Loan trong bối cảnh Hiệp định khung và tiến trình xích
lại gần Trung Quốc trong lĩnh vực kinh tế. Trong khi đó, số người không
tin và tỷ lệ người cho rằng chính sách của Tổng thống Mã Anh Cửu thiên
về có lợi cho Trung Quốc, đều lên tới 53%.
Sau cuộc thương lượng bất thành với
Trung Quốc về hợp tác trong lĩnh vực y tế, ông Trần Vân Lâm, Chủ tịch
(của phía Trung Quốc) Hiệp hội quan hệ hai hờ eo biển và là người thiết
kế hiệp định khung về phía Trung Quốc, tuyên bố ở Đài Loan rằng trong
tương lai, những trở ngại và khó khăn chắc chắn sẽ cản trở các tiến bộ
đã đạt được trong mối quan hệ song phương. Cả Trung Quốc lẫn Đài Loan
đều vấp phải việc bảo vệ đầu tư của mình. Phía Đài Loan đòi phải có khả
năng cho phép một nước thứ ba can thiệp trong trường hợp xảy ra tranh
chấp. Đối với Bắc Kinh, khả năng đó là không thể chấp nhận được vì cho
đó là một cách Đài Loan đi đường vòng để nâng tầm quy chế chính trị của
mình.
Theo Tổng thống Mã Anh Cửu, ở Đài Loan
có tự do và dân chủ. Ông tỏ ý tin tưởng và lạc quan khi so sánh lịch sử
đầy thăng trầm của Đại Lục với lịch sử êm đềm của Đài Loan. Ông nói:
“Lịch sử của Cộng hoa Nhân dân Trung Hoa mở ra trên nền các cuộc nổi dậy
của xã hội, nhưng dân tộc Đài Loan làm được thành công trong hòa bình”.
Tuy nhiên, tại hòn đảo này, điều không
ai nghi ngờ là không phải tất cả người dân đều lạc quan như vậy. Trong
khi Trung Quốc cho phép 4 ngân hàng của Đài Loan hoạt động ở Đại Lục sau
nhiều năm chờ đợi, bầu không khí bao trùm vẫn là thiếu tin tưởng. Một
cảm giác trái ngược với sự phức tạp trong quan hệ giữa hai bờ eo biển,
trong đó buôn bán và chính trị quyện chặt vào nhau.
Các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ
Đài Loan tìm kiếm cơ hội làm ăn và mở rộng buôn bán trên thị trường
Trung Quốc, một thị trường trở thành nơi bắt buộc phải qua và thường là
một trong những niềm hy vọng tăng trưởng duy nhất của hòn đảo. Bắc Kinh
nhìn xa hơn và đã thoáng nhận ra những dấu hiệu mong manh để tái thống
nhất, từ đó chơi con bài thường xuyên kết hợp ve vãn bằng thương mại với
các ý định khác nhằm mục đích đưa trao đổi buôn bán trở lại lĩnh vực
chính trị.
Những người tỏ ra nghi ngờ nhất đang chờ
đợi những dấu hiệu rạn nứt đầu tiên trong mối quan hệ giữa hai bờ eo
biển khi Bắc Kinh tận dụng cam kết không thể đảo ngược được của Đài Bắc
đối với Trung Quốc, nước trở thành mục tiêu hàng đầu đối với đồng vốn và
xuất khẩu của Đài Loan, và bắt đầu gây sức ép đối với các nhà đầu tư
vào Đài Loan và công việc làm ăn của họ để thúc đẩy thương lượng nhằm
tái thống nhất. Tất cả những hành động đó diễn ra trong bối cảnh sức hấp
dẫn kinh tế không thể cưỡng được của Đại Lục bị suy giảm trước những
cảm giác nghi ngại nặng nề và kéo dài nảy sinh sau khi xảy ra các vụ cãi
vã vào năm 2010 giữa Trung Quốc và Nhật Bản.
Theo kết quả một cuộc thăm dò dư luận
được công bố ngày 13/9/2010 có tới 66% người dân Đài Loan ủng hộ giữ
nguyên trạng và 16% (tăng 4% so với năm 2000) muốn có độc lập trong khi
chỉ có 5% muốn tái thống nhất (giảm 4% từ năm 2000 trở lại đây). Nếu họ
được lựa chọn (nghĩa là nếu Trung Quốc chấm dứt đe dọa về quân sự), 68%
số dân Đài Loan có thể ngay lập tức, ủng hộ quy chế độc lập, 18% muốn
tái thống nhất 14% không có ý kiến gì. Mặt khác, 43% số người Đài Loan
cho mình là người Đài Loan, 50% cho mình vừa là người Đài Loan vừa là
người Trung Quốc và chỉ có 3% cho mình là người Trung Quốc. Ở một khía
cạnh khác 54% có ý kiến tiêu cực về chính phủ ở Bắc Kinh và 87% từ chối
đến định cư ở Trung Quốc, trong khi 68% không có ý định lập nghiệp ở đó
hay đầu tư vào đó.
Tuy nhiên, vụ 14 kiều dân Đài Loan và 10
người Trung Quốc hôi tháng 2/2010 bị Bắc Kinh thuê máy bay đưa từ
Philíppin về Trung Quốc dưới sự giám sát của Đại sứ quán Trung Quốc tại
Manila, đã đẩy Trung Quốc, Đài Loan và Philíppin vào một tình thế khó xử
về ngoại giao. Số người này bị bắt vì đã xâm phạm lợi ích của Trung
Quôc ở Philíppin (gian lận điện tử trên quy mô lớn, bắt cóc).
Đài Bắc tỏ ra quan ngại về vụ này và đã
triệu hồi đại diện của mình tại Philíppin về để tham khảo ý kiến. Tình
hình càng đáng ngại hơn khi câu trả lời đầu tiên của Chính phủ Philíppin
là đưa ra “chính sách một nước Trung Quốc” để giải thích quyết định của
mình thuận theo yêu cầu của Trung Quốc Còn Bắc Kinh yêu cầu dẫn độ số
tội phạm nói trên mà họ coi là “công dân Trung Quốc”.
Báo chí Đài Loan làm ầm lên vì vụ này,
phê phán cả phương pháp của Đảng cộng sản Trung Quốc lẫn các nhà ngoại
giao Đài Loan đã thiếu tế nhị đối với Philíppin và cho đó có thể là
nguyên nhân dẫn đến vụ việc này. Còn Chính phủ Philíppin bị cáo buộc
nhân nhượng quá mức đối với yêu cầu của Bắc Kinh.
Tổng thống Mã Anh Cửu từng khẳng định
mọi việc mở rộng thỏa thuận với Bắc Kinh sẽ phải được Quốc hội chấp
thuận trong khi Đài Bắc duy trì chính sách “Ba bác bỏ”: bác bỏ độc lập,
bác bỏ tái thống nhất và bác bỏ sử dụng vũ lực. Đài Bắc tỏ ý hoan
nghênh các đề nghị của Trung Quốc được Thủ tướng Ôn Gia Bảo nêu ra trước
đó, theo đó Bắc Kinh rút bớt một số tên lửa nhằm vào Đài Loan, và nhắc
lại rằng “Thỏa thuận năm 1992” là cơ sở cho mối quan hệ không còn sóng
gió. Song không phải vì thế mà ông không nhấn mạnh đến hai điều cần
thiết là duy trì một hệ thống phòng thủ hữu hiệu và mua của Mỹ trang
thiết bị quân sự phòng thủ mà Đài Loan không có khả năng chế tạo.
Ông Charles Raymond Burghard, Giám đốc
Viện Mỹ tại Đài Loan cơ quan đóng vai trò đại sứ quán không chính thức,
cuối năm 2010 đã lên tiêng trấn an các đối tác Đài Loan. Ông nhắc lại
rằng Oasinhtơn nghiêm túc nghiên cứu việc bán máy bay F-16 cho Đài Bắc
mặc dù Trung Quốc gây sức ép rất mạnh. Cùng thời gian đó, người phát
ngôn lực lượng không quân Đài Loan thông báo Chính quyền Đài Bắc đã có
kế hoạch tài chính để nâng cấp số máy bay F-16 A/B mua trong những năm
1990. Nhưng ở Đài Loan nhiêu người sợ rằng hình bóng của Trung Quốc và ý
muốn của Nhà Trắng hạn chế bất đồng với Bắc Kinh là trở ngại lớn đối
với việc thay thế số F-16 già cỗi.
Đảng Dân tiến (DPP) của ứng cử viên tổng
thống Thái Anh Văn tỏ ra mềm dẻo hơn trong lập trường của mình. Bà Thái
Anh Văn thông báo nếu trở lại nắm quyền, đảng của bà sẽ tiếp tục chính
sách đối với Trung Quốc của Quốc dân đảng và nói thêm rằng mọi sửa đổi
các hiệp định phải được Quốc hội thông qua. Bà cũng khẳng định DPP sẽ
không tổ chức trưng Cầu, dân ý để thúc đẩy việc xem xét lại các hiệp
định đã được ký với Bắc Kinh mà trái lại, sẽ ưu tiên ổn định mối quan hệ
giữa hai bờ eo biển. Trong thời gian gần đây, nhiều lần bà khẳng định
DPP sẵn sàng phát triển quan hệ với Trung Quốc mà không đặt điều kiện
tiên quyết, dù biết việc đó có nguy cơ không làm hài lòng những người
ủng hộ mình trong phái vẫn đòi độc lập cho hòn đảo. Điều chỉnh chính trị
đánh dấu bước phát triển rõ nét trong chiến lược của DPP so với chiến
lược của thời kỳ Trần Thủy Biển và xuất phát từ nhận thức của ban tham
mưu đảng này cho rằng một chính sách cực đoan chống Trung Quốc sẽ không
bao giờ nhận được sự đồng tình của đa số cử tri Đài Loan.
Trung Quốc và Đài Loan hồi cuối năm 2010
đã tổ chức diễn tập cứu nạn chung trên biển với sự tham gia của lực
lượng bảo vệ bờ biển và tàu tuần tra của Hải quân hai bên. Việc diễn tập
cứu nạn diễn ra tại một vùng tàu bè và trao đổi hàng hóa không chính
thức giữa Trung Quốc và Đài Loan qua lại rất nhộn nhịp, cho
thấy tình hình lắng dịu ở vùng eo biển. Nhưng như vậy không có nghĩa là
nghi ngại chính trị đã hoàn toàn bị loại bỏ. Đài Loan quả thực đáp lại
một cách rất thận trọng những lời nhắc nhở kín đáo của Bắc Kinh tiến
hành thương lượng chính trị. Lời đề nghị đó nhằm mục đích giảm số tên
lửa nhằm vào hòn đảo và tiến hành trao đổi giữa hai quân đội.
Cũng cuối năm 2010, ông Dương Nghị,
người phát ngôn Văn phòng các vấn đề Đài Loan ở Bắc Kinh, lại kín đáo
nhắc Đài Bắc tiến hành trao đổi giữa hai quân đội. Thủ tướng Đài Loan,
Ngô Đôn Nghĩa, đáp lại rằng chưa đến lúc để tiến hành kiểu tiếp xúc đó
và các cuộc trao đổi vẫn sẽ chỉ tập trung vào vấn đề kinh,tế. Thái độ
lưỡng lự của Đài Loan về các vấn đề luôn nhạy cảm về phương diện chính
trị ở hòn đảo rõ ràng cho thấy những mơ hồ trong việc xích lại gần nhau
giữa hai bờ eo biển Đài Loan.
Chính giới giữa ngã ba đường
về phương diện chính trị, trong hai năm
trở lại đây, có hai sự kiện lớn đánh dấu đời sống chính trị ở Đài Loan:
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế được ký với Trung Quốc năm 2010 và
cuộc bầu cử chính quyền nhân dân cấp tỉnh vào đầu tháng 12/2011. Theo
đánh giá của chuyên gia phân tích Jean-Paul Yacine, kết quả bầu cử cho
thấy cử tri của hòn đảo này tỏ ra rất thận trọng.
Đúng là Quốc dân đảng vẫn nắm giữ quyền
kiểm soát đối với 3 (Đài Bắc, Đài Trung và Tân Bắc) trong số 5 thành phố
lớn, song thắng lợi sít sao của đảng này ở Đài Trung là một hồi chuông
báo động đối với Tổng thống Mã Anh Cửu. Hơn nữa vì Đảng Dân tiến (DPP)
đã thành công trong việc giành được 25 ghế và thêm 400.000 phiếu để đạt
được tỷ lệ chung là 79,87% sơ phiếu so với 44,54% của Quốc dân đảng.
Sau khi thành công trong việc tận dụng
tình hình hòa dịu trong mối quan hệ giữa hai bờ eo biển và tái khởi động
nền kinh tế, Chính quyền Đài Loan giờ đây phải trấn an cử tri về các
vấn đề nhạy cảm liên quan đến chủ quyền của hòn đảo, đồng thời vẫn phải
để tâm đến việc đa số người dân Đài Loan muốn giữ nguyên trạng. Tình
hình căng thẳng đó nảy sinh do Đài Loan muốn duy trì bản sắc của mình và
lo sợ chuyển dịch dần đến chỗ lệ thuộc về kinh tế trên thực tế (hơn 40%
hàng xuất khẩu của Đài Loan hiện nay được bán sang Trang Quốc và Hồng
Công), từ đó dẫn đến quá trình tái thống nhất dần dần.
Còn đối với DPP, đảng dường như đã giành
lại được niềm tin của cử tri, việc đảng này chỉ thành công trong việc
duy trì được vị thế ở 2/3 thành phố (Đài Nam và Cao Hùng) cho thấy rõ
đảng này chưa có đủ khả năng tác động một cách có ý nghĩa đến chính sách
đối với Trung Quốc của Tổng thống Mã Anh Cửu.
Tuy nhiên, bản sắc chính trị của Đài
Loan đối với Trung Quốc rõ ràng lại là một trong những mối quan ngại lớn
và bắt buộc đối với Tổng thống Mã Anh Cửu năm nay ra tranh cử. Chính vì
vậy, ông có khuynh hướng làm chậm lại tiến trình xích lại gần với Đại
Lục vì muốn tập trung vào việc xoa dịu số cử tri của phe đối lập. Đây là
xu hướng thường thấy ở các vị tổng thống từ khi cơ chế phổ thông đầu
phiếu được áp dụng ở Đài Loan. Quá trình trì hoãn đã diễn ra trong một
thời gian dài. Đáp lại những đề nghị thúc ép của Bắc Kinh, Tổng thống Mã
Anh Cửu nhấn mạnh rằng nhịp độ thực hiện các hiệp định song phương như
thế là đủ và sẽ không được đẩy mạnh thêm.
Quốc dân đảng xây dựng chính sách xích
lại gần Trung Quốc của mình trên cơ sở “Thỏa thuận năm 1992″. Tuy nhiên,
cuối năm 2010, cựu Tổng thống Lý Đăng Huy (1988-2000), một trong những
nhân vật phê phán Tổng thống Mã Anh Cửu quyết liệt nhất và cũng là biểu
tượng của việc bảo vệ độc lập của Đài Loan, phủ nhận sự tồn tại của Thỏa
thuận đó. Ông nói: “Cái gọi là Thỏa thuận năm 1992 gợi lại khái niệm
một nước Trung Quốc, điều sẽ khiến người dân Đài Loan lo ngại. Đài Loan
là một nền dân chủ và một nước có chủ quyền. Khái niệm một nước Trung
Quốc chỉ có thể được nói đến với nước Trung Quốc cộng sản.”
“Thỏa thuận năm 1992″ nói đến một thỏa
thuận ngầm giữa Quốc dân đảng và Đảng cộng sản Trung Quốc liên quan đến
sự tồn tại của “một nước Trung Quốc”, song bản chất chính trị của nước
Trung Quốc đó có thể là nguyên nhân dẫn đến việc hiểu khác nhau ở bên
này hay bên kia của eo biển Đài Loan. Sau 8 năm căng thẳng dưới thời
Tổng thống Trần Thủy Biển theo khuynh hướng ly khai cực đoan, việc Tổng
thống Mã Anh Cửu năm 2008 nói đến Thỏa thuận này đã góp phần đáng kể
trấn an Bắc Kinh, vốn sợ Đài Loan tách khỏi Trung Quốc.
Nhưng nhiều chính khách Đài Loan cũng
khẳng định một thỏa thuận như vậy chưa bao giờ tồn tại. Chẳng hạn như
ông Su Chi, nghị sĩ Quốc dân đảng, từng là người đứng đầu Văn phòng các
vấn đề Trung Quốc, năm 2006 đã thừa nhận chính ông năm 2000 là người đưa
ra khái niệm này nhằm giảm căng thẳng ở vùng eo biển. Bản thân ông Ko
Chen Fu, người đứng đầu Văn phòng các vấn đề Đài Loan trong thời kỳ 1992
cũng luôn phủ nhận việc hai bên đã đạt được thỏa thuận trên. Hiện nay,
dù thực hay hư, “Thỏa thuận năm 1992″ là lập luận chính trị duy nhất có
khả năng duy trì bầu không khí hòa dịu ở eo biển Đài Loan, trong bối
cảnh Chính phủ Trung Quốc, do được một bộ phận lớn trong cộng đồng quốc
tế ủng hộ, sẽ không chấp nhận bất kỳ một khuôn khổ khác nào cho mối quan
hệ giữa hai bờ eo biển. Trong bối cảnh đó, trào lưu ôn hòa nhất ở Trung
Quốc cũng sẵn sàng chấp nhận một cách hiểu rất rộng về thỏa thuận và
quyền tự trị của Đài Loan.
Cuối năm 2010, sau cuộc bầu cử Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh thành, chủ tịch ủy ban các vấn đề Đại lục, Lại Hạnh
Viên nhắc đến tính chất vô bổ của luật chống li khai theo đó Trung Quốc
sẽ đáp lại bàng quân sự đối với mọi tuyên bố độc lập. Trên đà đó, bà
nhắc lại những tính chất riêng biệt của hòn đảo về mặt chính trị là dân
chủ, chủ quyền, an ninh, quyền tự do lựa chọn chính trị, có quyền được
tham gia một cách đáng kể vào các thể chế quốc tế. Những đặc tính đó
được người dân Đài Loan mong muốn bảo vệ trong tiến trình xích lại gần
với Đại Lục.
Cũng trong thời gian đó, ông Su Chi, cựu
Tổng thư ký Hội đồng an ninh quốc gia Đài Loan, hối thúc DPP thương
lượng với Quốc dân đảng về chính sách chung đối với Trung Quốc, trước
khi tiến hành thương lượng với Bắc Kinh về các vấn đề chủ quyền liên
quan đến hiệp định khung (không gian hoạt động quốc tế, biện pháp quân
sự để tạo lòng tin, hiệp định hòa bình).
Trong một lần phát biểu cuối năm 2010,
Tổng thống Mã Anh Cửu chủ tâm nói về cuộc bầu tử tổng thống lần này. Ông
nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa hai hệ thống chính trị, một chủ đề vừa
khiến Bắc Kinh tức giận vừa có khả năng trở thành vật cản đối với sự
xích lại gần nhau về chính trị mà Đảng cộng sản Trung Quốc rất muốn có.
Ông nói: “Trong thế kỷ 21, Trung Hoa Dân quốc sẽ là một hình mẫu dân chủ
đối với thế giới Trung Hoa. Đó sẽ là một dân tộc độc lập và có chủ
quyền. Không những dân tộc đó bảo vệ an ninh và nhân cách của Đài Loan,
Bành Hồ, Kim Môn, Mã Tổ mà còn đưa ra bằng chứng cho thấy các dân tộc
Trung Quốc có thể đi theo một con đường tự do và dân chủ mới.”
Tương lai chính trị của các chính khách
Đài Loan như vậy bị bó hẹp bởi mối quan hệ với Trung Quốc và Mỹ, người
bảo trợ và cũng là bức tường thành bảo vệ cuối cùng của hòn đảo.
Cuối năm 2008, Bộ Quốc phòng Đài Loan
thông báo sẽ chế tạo hàng loạt tên lửa hành trình Chichun và Chuifeng,
còn không quân Đài Loan sẽ đưa vào sử dụng một chục chiếc máy bay có khả
năng chống tàu ngầm P3- C Orien. Cùng thời gian đó, Oasinhtơn khẳng
định quyết tâm bán cho Đài Bắc trang thiết bị quốc phòng cần thiết và hỗ
trợ hòn đảo tìm kiếm quyền tự trị lớn hơn về phương diện quốc tế. Tuy
nhiên, vì biết vụ việc này có khả năng gây căng thẳng trong quan hệ với
Bắc Kinh nên Oasinhtơn không đáp ứng đề nghị mua máy bay tiêm kích F-16
mới mà chỉ chấp nhận nâng cấp số máy bay F-16 đã bán cho Đài Loan từ
cuối những năm 1980.
Một cuộc thăm dò dư luận do Global View
Research Center thực hiện cuối năm 2010 cho thấy 62,5% số người được hỏi
ý kiến không tin Trung Quốc sẽ dỡ bỏ số tên lửa nhằm vào Đài Loan trước
khi diễn ra cuộc bầu cử tổng thống ở hòn đảo này, 45,3% cho rằng Hiệp
định khung về hợp tác kinh tế quan trọng đối với Đài Loan hơn là vấn đề
tên lửa. Người dân Đài Loan phê phán Trung Quốc ở những điểm như làm
giảm khả năng xoay xở của hòn đảo về phương diện quốc tế (77,2% số người
được hỏi ý kiến), không có dân chủ và quyền tự do ngôn luận (68,4%), đe
dọa bằng tên Lửa (67,6%), áp dụng luật chống ky khai (53,7%), đề nghị
Đài Loan áp dụng cơ chế “Một nước hai chế độ” (47,4%).
DPP đã tiến hành soạn thảo một chính
sách đối với Trung Quốc thực dụng hơn, mà bỏ qua thương lượng với Quốc
dân đảng về chủ đề cốt tử liên quan đến các vấn đề chủ quyền gắn với
việc thực hiện hiệp định khung. Còn Quốc dân đảng định ra giới hạn và
điều kiện đối với chính sách Trung Quốc của mình. Đó là không tuyên bố
độc lập, không tái thống nhất, duy trì bản sắc chính trị và chủ quyền
của Đài Loan. Đảng này cũng hoạch định một chiến lược để trấn an cử tri
của mình vốn bị giằng xé giữa một bên là đáp ứng về kinh tế cho việc
xích lại gần nhau và bên kia là nỗi lo ngại về tiến trình tái thống nhất
dần dần, trong khi chính tiến trình này lại có ưu thế không thể phủ
nhận được: đó là làm yên lòng cả Bắc Kinh lẫn Oasinhtơn.
Tương lai nào cho các bên
Bà Thái Anh Văn, 55 tuổi, Chủ tịch Đảng
Dân tiến (DPP) theo khuynh hướng ly khai, cựu Phó Thủ tướng dưới thời
Tổng thống Trần Thủy Biển, được đảng này chọn làm ứng cử viên đối thủ
của Tổng thống Mã Anh Cửu trong cuộc bầu cử tổng thống năm nay.
Trong bài phân tích trên tạp chí “Tin
Trung Hoa”, chuyên gia Franeois Danjou phác thảo ý đồ, vị thế, mối quan
hệ tương tác và đan xen giữa các tác nhân có liên quan đến tương lai của
hòn đảo này.
Ứng cử viên Thái Anh Văn tốt nghiệp
trường Đại học sư phạm Đài Loan, Trường kinh tế Luân ĐôN và trường Đại
học Cornel le ở Mỹ, cùng trường với cựu Tổng thống Lý Đăng HuY. Dưới sự
chỉ đạo của ông, bà là một trong những người soạn thảo chính học thuyết
quan hệ giữa Nhà nước – Nhà nước với Trung Quốc, một thứ khiến Bắc Kinh
nổi trận lôi đình vào năm 1996. Bà Thái Anh Văn đã rút ra được bài học
từ thời ông Trần Thủy Biển và thất bạỉ nghiêm trọng của DPP trong cuộc
bầu cử tổng thống năm 2008. Bà nhận thấy người Đài Loan một mặt muốn giữ
nguyên trạng cũng như đặc tính dân chủ giúp họ khác với Trung Quốc, mặt
khác cũng không muốn gây căng thẳng với Bắc Kinh, nên đã giảm đáng kể
mức độ quyết liệt đòi độc lập trong chiến lược trở lại quyền lực của
mình.
Vài tháng sau khi ông Mã Anh Cửu lên nắm
quyền, bà Thái Anh Văn khẳng định: “Đảng (DPP-TTXVN) sẽ không đặt lại
vấn đề đối với hệ thống quốc tế. Trong tình hình hiện nay, không thể và
cũng là vô trách nhiệm nếu DPP hành xử như trong 8 năm trước để sửa đổi
nguyên trạng và phát triển một nước Cộng hòa Đài Loan độc lập.’’ Không
thể nói gì hơn thế.
Ớ trong nước, chiến thuật được sử dụng
cũng nhuốm màu thực dụng buộc DPP, sau khi thu được thành công ban đầu,
phải chấm dứt phê phán Hiệp định Khung về hợp tác Kinh tế với Trung
Quốc. Trước đây bà Thái đã từng đặt lại vấn đề đối với hiệp định này do
tính không binh đẳng và hậu quả tiêu cực của nó đối với những người sản
xuất nông nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Phong trào đòi độc lập đang suy tính một
cách tiếp cận ít trực tiếp nhưng hiệu quả hơn về phương diện chính trị.
Bà chủ tịch DPP quyết định thành lập một trung tâm nghiên cứu với nhiệm
vụ soạn thảo chính sách mới của đảng đối với Trung Quốc, đồng thời nói
đến khả năng tiếp xúc trực tiếp với Đảng cộng sản Trung Quốc để thiết
lập mối quan hệ ổn định với Bắc Kinh. Sáng kiến này giúp bà tạo được sự
khác biệt rõ ràng đối với người tiền nhiệm Trần Thủy Biển, người trong
thời kỳ 2000-2008 đã đặt Đài Loan vào tình thế đối đầu thường xuyên với
Bắc Kinh.
Việc lựa chọn biện pháp này mang lại kết
quả vì DPP hiện nay đã đạt ngang bằng trở lại với Quốc dân đảng về tỷ
lệ dự kiến bỏ phiếu của người Đài Loan. Một cuộc thăm dò dư luận do tờ
“United Daily News” thực hiện ngày 24/4/2011 cho thấy bà Thái sẽ giành
chiến thắng với 36% số phiếu so với 35% của Tổng thống đươmg nhiệm Mã
Anh Cửu, trong khi tỷ lệ người không đi bỏ phiếu là 26%. Trong quá trình
chọn ứng cử viên tổng thống, trong đó có việc hỏi ý kiến 20.000 người
qua điện thoại, bà Thái Anh Văn thậm chí còn vượt xa đối thủ với tỷ lệ
phiếu nhận được dự kiến là 43,5% so vói 35% của đối thủ.
Mối lo ngại của Bắc Kinh
Nói rằng Bắc Kinh luôn theo dõi các cuộc
bầu cử ở Đài Loan vởi tâm trạng bồn chồn là chưa đủ. Trước hết vì các
cuộc bầu cử đó cho thấy hoạt động của một hệ thống chính trị mà Đảng
cộng sản Trung Quốc hoàn toàn bác bỏ, hơn nữa lại ở một vùng lãnh thổ
được coi là một tỉnh của Trung Quốc. Thứ hai là khả năng phái đòi độc
lập trở lại quyền lực là bóng ma luôn ám ảnh Bắc Kinh bởi Đài Loan như
vậy có thể trở nên cực đoan hơn về chính trị đối với Trung Quốc. Thứ ba
vì tranh luận chính trị giữa các ứng cử viên chắc chắn sẽ đụng chạm đến
những điều cấm kỵ và những điều không được nói ra phục vụ chính sách một
nước Trung Quốc, được coi là cái vốn mơ hồ của cả Đảng cộng sản Trung
Quốc lẫn Quốc dân đảng.
Lần bỏ phiếu này cũng không phải là
ngoại lệ. Quả thực là bà Thái Anh Văn chấp nhận một chiến lược nhẹ nhàng
hơn. Bà trì hoãn vô thời hạn việc đáp lại những lời kêu gọi đòi độc
lập, song không nhân nhượng bất kỳ cái gì về cơ bản liên quan đến quy
chế của hòn đảo, mối quan hệ với Trung Quốc và hiệu quả của công tác
quốc phòng. Đã xuất hiện những dấu hiệu báo trước căng thẳng thử thách
những tiến bộ đã đạt được giữa hai bờ eo biển từ khi ông Mã Anh Cửu lên
nắm quyền vào năm 2008.
ít lâu sau khi được chỉ định, ứng cử
viên tổng thống có khuynh hướng ly khai Thái Anh Văn nhận được sự ủng hộ
công khai của ông Lý Đăng Huy, 88 tuổi, Tổng thống đầu tiên được bầu ở
Đài Loan theo phương thức phổ thông đầu phiếu, cựu chủ tịch Quốc dân
đảng và bị khai trừ khỏi đáng năm 2000 vì đã thành lập Liên hiệp đoàn
kết Đài Loan có khuynh hướng đòi độc lập. Ông nói rằng “đã đến lúc nhân
dân Đài Loan đứng lên bảo vệ chủ quyền và nhân cách của mình. Để làm
điều đó, chỉ có cách là bỏ phiếu cho bà Thái”.
Trong khi Bắc Kinh thực hiện một vài
cách tiếp cận thận trọng để hòa dịu trong mối quan hệ xuất phát từ Hiệp
định Khung mở đường cho đối thoại chính trị, DPP tiếp tục bác bỏ “Thỏa
thuận năm 1992″ về việc cả hai bờ eo biển công nhận “một nước Trung
Hoa”. Theo Đảng cộng sản Trung Quốc, sự công nhận đó không những là cơ
sở mà còn là điều kiện để tiến hành đối thoại chính trị giữa hai bờ eo
biển.
Đáp lại những tuyên bố của bà Thái, theo
đó đảng của bà sẽ không từ bỏ kế hoạch đòi độc lập cho hòn đảo, ông
Trần Vân Lâm – Chủ tịch Hiệp hội quan hệ hai bờ eo biển – dọa sẽ xem xét
lại toàn bộ các thỏa thuận ký từ 3 năm trước nếu một chính phủ theo
khuynh hướng đòi độc lập và bác bỏ “Thỏa thuận năm 1992″ lên nắm quyền ở
Đài Loan.
Ngoài tình hình căng thăng đó, Bắc Kinh
còn tỏ vẻ khó chịu trước việc Chính quyền Đài Loan liên tiếp đề nghị rút
toàn bộ số tên lửa nhằm vào hòn đảo và Mỹ bán cho Đài Loan máy bay F-16
mới và tàu ngầm hiện đại trong khuôn khổ cải cách tổng thể hệ thống
quốc phòng nhằm thay quân bằng trang thiết bị hiện đại – giảm ngân sách,
chuyên nghiệp hóa và giảm hơn 50.000 quân.
Viễn cảnh nào cho các ứng cử viên?
Trong khi hãy còn sớm để dự đoán kết quả
bầu cử, song đã có thể điểm qua một cách ngắn gọn những thế mạnh và
điểm yếu của hai ứng cử viên.
Tổng thống Mã Anh Cửu có thể tự hào là
ngưởi khởi xướng tiến trình làm hòa dịu mối quan hệ một cách ngoạn mục
giữa hai bờ eo biển từ năm 1949 – với 15 hiệp định được ký với Trung
Quốc, trong đó có Hiệp định khung về hợp tác kinh tế có hiệu lực vào năm
2010. Người Đài Loan nhạy cảm với thực tế đó cũng như đối với việc phát
triển buôn bán với 1 Trung Quốc và phục hồi kinh tế sau khủng hoảng
(10,8% tăng trưởng vào năm 2010). Theo Viện hàn lâm Sinica, sau mức tăng
trưởng âm vào năm năm 2009, nền kinh tế Đài Loan đã có bước nhảy vọt,
tăng 13,21% trong 6 tháng đầu năm 2010. Theo Ngân hàng phát triển châu
Á, tăng trưởng trung bình của Đài Loan năm 2011 có thể ổn định ở mức
4-5%.
Nhưng ý kiến trong các cuộc thăm dò dư
luận về Tổng thống Mã Anh Cửu lại tỏ ra lưỡng lự, chủ yếu là vì không
phải ai cũng được hưởng thành quả của bước nhảy vọt trong khi khoảng
cách giàu nghèo ngày càng tăng, nạn thấtt nghiệp trong giới trẻ trở nên
đáng lo ngại, còn hệ quả tích cực của Hiệp định Khung sẽ chỉ có thể thấy
được trong nhiều năm nữa.
Đặc biệt, lôgích xích lại gần Bắc Kinh
do Tổng thống Mã Anh Cửu khởi xướng có thể sắp đặt đến ngưỡng khi Trung
Quốc – với sức mạnh quân Sự không ngừng gia tăng – gây áp lực để thúc
đẩy nhanh đối thoại chính trị và quân sự mà người Đài Loan, vốn gắn bó
với nguyên trạng và độc lập trên thực tế, nhìn nhận với thái độ ngờ vực
rõ ràng nhất.
Còn bà Thái Anh Văn chủ trương quan hệ
với Trung Quốc trên cơ sở bình đẳng và quan hệ thương mại ít đơn chiều
hơn, được cân bằng thông qua các hiệp định ký với các đối tác khác.
Nhưng Bắc Kinh nhìn nhận các hiệp định này với con mắt ngờ vực vì đó có
thể là nguồn gốc gây ra xung đột trong tương lai, kể cả giữa Đảng cộng
sản Trung Quốc và Quốc dân đảng. Với chủ trương trên, bà Thái Anh Văn có
thể thu nạp được những người lo sợ tái thống nhất dần dần sẽ dễ dàng
hơn do mức độ đan xen quá sâu rộng về buôn bán với Trung Quốc.
Tuy nhiên, bà Thái gặp khó khăn trong
việc thực hiện kết nối giữa những người theo khuynh hướng đòi độc lập ôn
hòa và những người theo xu hướng cực đoan ủng hộ bà. Cuối cùng, cho dù
triển vọng còn xa, song thái độ cứng rắn có nguyên tắc trong lập trường
ủng hộ độc lập của bà đương nhiên sẽ chứa đựng mầm mống căng thẳng với
Bắc Kinh và thậm chí với cả Oasinhtơn. Đó là một tình huống mà người Đài
Loan không muốn có.
Cuộc chơi của Oasinhtơn và Bắc Kinh
Trong bối cảnh đó, Bắc Kinh và Oasinhtơn
do cũng sợ đi đến chỗ cực đoan nên vẫn sẽ tiếp tục đi trên con đường
chật hẹp và đầy cạm bẫy. Cho dù có nghi ngờ mức độ thành thật của Tồng
thống Mã Anh Cửu, song Đảng cộng sản Trung Quốc vẫn muốn ông tái đắc cử
vì đó là điêu ít tồi tệ nhất. Tuy nhiên, Đảng cộng sản Trung Quốc không
thể ủng hộ ông một cách quá lộ liễu vì lúc đó đa số cử tri Đài Loan sẽ
phê phán ông ngay lập tức, hơn nữa một bộ phận trong số họ vốn đã nghi
ngờ ông Mã Anh Cửu bán rẻ Đài Loan cho Trung Quốc. Bộ Quốc phòng Đài
Loan cuối năm 2010 công bố kết quả một cuộc thăm dò dư luận cho thấy
76,5% số người được hỏi ý kiến tuvên bố sẵn sàng bảo vệ hòn đảo trong
trường hợp xảy ra xung đột với Trung Quốc, tăng 2 điểm so với năm 2009.
về trung hạn, do nhận thấy người Đài
Loan rất nghi ngại khi khởi động đối thoại chính trị, nên Chính phủ
Trung Quốc sẽ phải tiếp tục chính sách gián tiếp chinh phục bằng kinh tế
và thương mại và lần lượt bóp chết từ trong trứng mọi ý đồ đòi độc lập,
bằng lời lẽ phát ngôn cứng rắn hơn cộng với đe dọa về quân sự. Chính
sách đó tuy nhiên không loại trừ việc tiếp cận kín đáo các phái ôn hòa
nhất trong DPP.
về dài hạn, ý định của Trung Quốc vẫn
không thay đổi: tạo điều kiện để tái thống nhất bằng biện pháp hòa bình.
Chiến lược này đòi hỏi phải kiên nhẫn với liều lượng đủ độ vì đó là
giải pháp duy nhất có thể thay cho tình trạng làm trầm trọng đến cực
điểm căng thẳng trong vùng eo biển vốn chứa đựng nhiều nguy cơ tiềm
tàng. Đối với Oasinhtơn, trong khi một số trào lưu bắt đầu nghi ngờ độ
bền vững của những cam kết quốc phòng đối với Đài Loan, Chính phủ Mỹ sẽ
phải lách giữa một bên là ý muốn hạn chế căng thẳng với Trung Quốc và
bên kia là đòi hỏi về chính trị phải hỗ trợ hết mình cho nền dân chủ trẻ
tuổi đang bị đe dọa trực tiếp về quân sự của Đảng cộng sản Trung Quốc
vốn quyết tâm thực hiện tái thống nhất bằng mọi giá.
Giữa tình trạng tiến thoái lưỡng nan đó
là chính sách bán vũ khí cho Đài Loan ngày càng bị Bắc Kinh phản đối.
Nhiều lần Bắc Kinh đã biến việc ngừng cung cấp vũ khí làm điều kiện để
tiếp tục đối thoại quân sự với Mỹ. Đây là vấn đề mà cựu Bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ, Robert Gates, muốn ưu tiên.
Nhưng trong khi nhiều bản báo cáo cảnh
báo sự cân bằng lực lượng ở eo biển Đài Loan suy giảm có lợi cho Trung
Quốc và phi đội máy bay tiêm kích F-16 già cỗi, Chính quyền Mã Anh Cửu
liên tục đề nghị Mỹ bán máy bay F-16 C/D hay ít nhất cũng nâng cấp toàn
bộ số máy bay F-16 cũ (trị giá 4,5 tỷ USD) nhưng từ nhiều năm nay vẫn
không được đáp ứng vì Chính phủ Mỹ hiện nay trì hoãn do sợ đứt quan hệ
quân sự với Trung Quốc.
Nhiều lần, Tổng thống Mã Anh Cửu cho
rằng tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan là một trong hai yếu tố tối cần
thiết cho chính sách mở cửa đối với Bắc Kinh. Ngày 17/2/2011, một lần
nữa ông giải thích nguyên tắc này với tờ “Bưu điện Oasinhtơn”. Ông nói:
“Điều quan trọng là chúng tôi có thể thương lượng việc xích lại gần với
Đại Lục mà không phải lo sợ. Chính vì lẽ đó mà chúng tôi mua của nước
ngoài vũ khí phòng thủ cần thiết để tồn tại, những vũ khí mà chúng tôi
không thể sản xuất trong nước được, số vũ khí đó góp phần vào hòa bình
và ổn định ở vùng eo biển. Mỹ chưa bao giờ nói với chúng tôi về khả năng
chấm dứt bán vũ khí hay hợp tác quân sự với chúng tôi.”
Giữa ngã ba đường
Đài Loan có thể đã đến một giai đoạn cốt
tử đối với vận mệnh của mình. Trong khi ở trong nước, người dân vì muốn
bảo vệ bản sắc riêng và tự do chính trị của mình mà cũng muốn phát
triển quan hệ với Bắc Kinh theo phương thức ít căng thẳng hơn. Quá trình
phát triển chiến lược được đánh dấu bằng sự lớn mạnh của Trung Quốc,
trong khi lợi ích của Mỹ và Trung Quốc ngày càng đan xen nhau sẽ làm suy
yếu cân bằng chính trị và quân sự trước đây.
Trong bối cảnh ảo tưởng chiến lược về
nguyên trạng ngày càng khó giữ và mọi tác nhân không còn sự lựa chọn nào
khác ngoài việc phải tính tới biến số Trung Quốc, hai đảng chạy đua
trong cuộc bầu cử tổng thống mỗi đảng đại diện cho một khả năng sắp tới,
nhưng đến giờ vẫn không phù hợp với nhau.
Sự lựa chọn đầu tiên là sự lựa chọn từ
lịch sử chính thức, của các đảng đang nắm quyền ở hai bờ eo biển, sinh
ra trong cuộc nội chiến ở Trung Quốc y và tập hợp xung quanh ý tưởng một
nước Trung Hoa trông cậy vào sự gần gũi về địa lý, lịch sử và văn hóa,
nhưng với tư tưởng chính trị hoàn toàn khác biệt.
Nếu như thực tế là sự xích lại gần nhau
về kinh tế dẫn đến tiến trình hòa dịu ngoạn mục, song sự khác biệt về hệ
thống điều hành và độc lập trên thực tế của Đài Loan là những yếu tố
gây căng thẳng về trung hạn, đến mức Đảng cộng sản Trung Quốc có thể
muốn thúc đẩy tiến trình tái thống nhất và tiến hành thương lượng chính
trị mà Đài Loan coi là một ngoáo ộp.
Sự lựa chọn thứ hai, nảy sinh từ thời kỳ
cuối những năm 1980, không phải là kém hợp pháp hơn theo cách nhìn nhận
của một bộ phận lớn người Đài Loan. Sự lựa chọn đó nằm trong bối cảnh
lịch sử của một hòn đảo trước đây vừa thuộc về Trung Quốc vừa tách khỏi
Trung Quốc, trong nửa thế kỷ bị bỏ mặc trong tay Nhật Bản đến mức mang
nặng dấu ấn hành chính của nước này. Nhưng hòn đảo đó không để lại cho
người Đài Loan những kỷ niệm tàn bạo như quân đội Nhật Hoàng đã để lại ở
Trung Quốc.
Sự lựa chọn đó cho thấy sự thức tỉnh về
chính trị của một dân tộc sau năm 1945 đã nổi dậy chống lại tình trạng
lạm quyền, nạn tham nhũng và nạn cướp phá của Quốc dân đảng thay thế
quân đội Nhật Hoàng. Năm 1947, Tưởng Giới Thạch đàn áp khốc liệt phong
trào nổi dậy làm ít nhất 20.000 người chết. Giới tinh hoa trong Đảng Dân
tiến là những người thừa kế của quân nổi dậy và trí thức, những người
từ năm 1947 đã đứng lên chống lại sự thao túng của Trung Quốc đối với bộ
máy chính trị của Đài Loan, chỉ dành cho người Đài Loan bản địa một
phần quyền lực không đáng là bao.
Theo quan điểm của họ, không những sự
gần gũi về địa lý, lịch sử và văn Hóa không tạo ra bất kỳ tính hợp pháp
nào cho các kế hoạch tái thống nhất của Quốc dân đảng và Đảng cộng sản
Trung Quốc, mà người Đài Loan còn phải được phép lựa chọn một cách dân
chủ hình thái chính phủ và tương lai của mình. Nhưng quan điểm đó hoàn
toàn đối lập với tư tưởng tái thống nhất, vốn là kế hoạch chính trị nhạy
cảm nhất của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Cân bằng lực lượng bị phá vỡ
Theo chuyên gia Jean-Paul Yacine, quân
đội Đài Loan bước vào năm 2011 với một thời kỳ căng thẳng và thay đổi
không mấy dễ chịu trong khi báo động gia tăng liên quan đến việc cân
bằng lực lượng xấu đi ở vùng eo biển Đài Loan có lợi cho Trung Quốc.
Trong thời gian gần đây, các nhà phân
tích nói nhiều đến việc Trung Quốc giới thiệu J-20, chiếc máy bay chiến
đấu tàng hình đầu tiên của nước này tại Thành Đô và phải mất ba tuần sau
đó chuyến bay thử nghiệm đầu tiên mới được thực hiện. Một số thông tin
gây lo ngại khác cũng nói về những tiến bộ về tàng hình của máy bay
chiến đấu Trung Quốc được sao chép từ mảnh vỡ chiếc F-117 của Mỹ bị tên
lửa Xécbia bắn hạ trên bầu trời Nam Tư cũ vào năm 1999. Ở Mỹ, loại máy
bay F-117 được đưa vào thường trực chiến đấu từ năm 1983 và loại F-22
Raptor từ năm 2005.
Các mối lo
ngại trên xuất hiện sau một loạt các đánh giá bi quan về cán cân lực
lượng ở vùng eo biển Đài Loan. Đó là nguyên nhân dẫn đến một loạt những
đề nghị được Đài Bắc liên tiếp đưa ra được mua trang thiết bị quân sự
hiện đại của Mỹ (máy bay chiến đấu F-16, tên lửa đất đối không, máy bay
trực thăng chiến đấu, tàu ngầm), trong bối cảnh nhiều chuyên gia cho
rằng mất cân bằng lực lượng có khả năng gây phương hại tới nguyên trạng
chính trị giữa Đài Bắc và Bắc Kinh.
Bầu không khí trở nên nặng nề hơn khi
một số giới ở Mỹ nghi ngờ tính bền vững của Đạo luật quan hệ Đài Loan và
khả năng can dự của Mỹ vào vùng eo biển. Chính vì vậy, quân đội Đài
Loan mới đây đã hai lần trở thành tâm điểm chú ý khi được báo chí trên
đảo nhắc đến trong các chủ đề liên quan đến an ninh.
Ngày 30/1/2011, tờ “China Post” đăng một
bài báo phê phán rất mạnh những khiếm khuyết của lực lượng không quân
vì chỉ thành công được một nửa trong vụ tập trận bắn đạn thật chống máy
bay không người lái ngày 18/1/2011, trước sự chứng kiến của Tổng thống
Mã Anh Cửu. Theo bài báo đó, 19 quả tên lửa đất đối không đã được phóng
lên, nhưng chỉ có 6 quả bắn trúng mục tiêu. Tất cả các loại tên lửa, từ
loại MICA mua của Pháp đến loại Thiên Kiếm II được sản xuất ở Đài Loan
hay loại Sparrow của Mỹ, đều bắn trượt mục tiêu và rơi xuống biển chỉ 6
giây sau khi được phóng lên.
Tác giả bài báo trên thậm chí còn nhân
cơ hội đó đặt lại vấn đề đối với độ tin cậy nói chung của quân đội khi
viết: “Nói thăng ra, không thể giấu được ai việc quân đội Đài Loan còn
lâu mới có trình độ.” Đối mặt với khoảng l600 quả tên lửa được Trung
Quốc triển khai ở vùng eo biển, đúng là khả năng phòng thủ đất đối không
và chống tên lửa trở thành một trong những yếu tố chủ chốt trong hệ
thống phòng thủ của Đài Loan, vốn là một trong những vấn đề phức tạp
nhất về phương diện kỹ thuật.
Thêm vào đó là tình huống trầm trọng
thêm được nói đến trong nhiều bài báo khác với giọng điệu mỉa mai. Cuộc
diễn tập không thành công diễn ra vào thời điểm Tư lệnh không quân Lôi
Ngọc Kỳ vừa bị Tổng thống Mã Anh Cửu cách chức vì sử dụng lính nghĩa vụ
để phục vụ đám cưới con trai mình.
Cuối cùng, tờ báo trên kêu gọi kiểm tra
lại chi tiết toàn bộ và công khai công tác huấn luyện và trang thiết bị,
với lý do phần lớn số tên lửa đang trực chiến đều có từ cuối những năm
1990 nên cần phải nghĩ đến chuyện thay thế. Điều đó dẫn đến những áp lực
mà Đài Loan tạo ra để Mỹ không ngừng việc cung cấp vũ khí cho mình.
Giai đoạn cuối tháng 1/2011 cũng được
chú ý với một loạt bài báo liên quan đến việc tướng Lo Hsien-Che bị bắt ở
Đài Loan vì cung cấp bí mật quân sự cho Trung Quốc từ năm 2004. Lúc đó
với tư cách là tùy viên quân sự ở Thái Lan, tướng Lo, nhân vật có chức
vụ cao nhất từ trước đến nay liên đới đến một vụ gián điệp ở Đài Loan,
rơi vào bẫy của một phụ nữ Trung Quốc mang hộ chiếu Ôxtrâylia và thường
đi lại làm ăn giữa Thái Lan, Trung Quốc và Mỹ .
Sau khi trở lại Đài Loan vào năm 2005,
tướng Lo được phân về làm việc tại Văn phòng các vấn đề quốc tế thuộc Bộ
Quốc phòng, rồi được bổ nhiệm làm người đứng đầu Lực lượng thông tin
của quân đội. Ông vẫn tiếp tục đi lại với người phụ nữ đó và dường như
đã nhận một triệu USD trả cho những thông tin tình báo mà ông đã chuyển
cho Trung Quốc.
Tin tức tình báo đó liên quan đến một dự
án bán trực thăng chiến đấu Apache của Mỹ, bản thiết kế của một loạt
các trạm truyền tin cũng như của mạng cáp quang ngầm thuộc hệ thống chỉ
huy của quân đội được mua của hãng Lockheed Martin với giá 1,5 tỷ USD và
nối với Trung tâm chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ.
Cho đến nay, vụ này tuy không gây tổn
hại tới mối quan hệ giữa Đài Bắc và Oasinhtơn, nhưng gây ra một số mối
lo ngại ở Mỹ về bảo đảm an ninh đối với các thông tin nhạy cảm cũng như
hệ quả tiêu cực trong mối quan hệ với Bắc Kinh. Tại Đài Loan, vụ gián
điệp này đã gây ra một làn sóng phản kháng trong giới nghị sĩ đối lập.
Nhiều nghị sĩ trong số này đòi cách chức Bộ trưởng Quốc phòng vào thời
điểm Tổng thống Mã Anh Cửu bị dư luận và Đảng Dân tiến (DPP) thúc ép
phải có lập trường cứng rắn hơn đối với Trung Quốc về các vấn đề quân
sự. Theo ông Ting Yu-chou, cựu Tổng thư ký Hội đồng an ninh quốc gia, có
thể toàn bộ các kế hoạch tác chiến của lục quân Đài Loan cũng chịu
chung số phận.
Ở cả bên này lẫn bên kia eo biển Đài
Loan, các vụ gián điệp vẫn tiếp diễn kể từ năm 1949. Trung Quốc được
biết đến với một lịch sử lâu đời hoạt động gián điệp công nghệ và quân
sự ở các nước phương Tây và ở Đài Loan, đôi khi mua chuộc được một số
nhân vật cao cấp.
Tháng 1/2009, một thành viên chính phủ
của Tổng thống Mã Anh Cửu và một thư ký của một nghị sĩ bị bắt với lời
cáo buộc đã chuyển thông tin mật cho Trung Quốc. Tháng 11/2010, đến lượt
một viên đại tá quân đội Đài Loan mắc lưới của cơ quan phản gián Đài
Loan cũng vì những lý do trên.
Trong nhiều năm liền, Đài Loan và CIA
trả tiền cho hàng nghìn doanh nhân để họ cung cấp thông tin tình báo về
Trung Quốc và hệ thống quân sự của nước này. Hàng trăm người trong số đó
đã bị bắt quả tang và bị giam giữ bí mật ở Đại Lục cho đến nay vẫn chưa
được thả.
Chẳng hạn, tháng 11/2003, khi Tổng thống
Đài Loan lúc đó là Trần Thủy Biển, trong một bài diễn văn đọc trước
công chúng, tố cáo Trung Quốc gia tăng số lượng tên lửa nhằm vào hòn đảo
– một thông tin mà ông có được nhờ mạng lưới tình báo ở Trung Quốc. Bắc
Kinh ngay lập tức đáp lại bằng cách bắt 36 “gián điệp” Đài Loan. Hai
mươi tư người khác cũng chịu chung số phận trong năm 2004. Cuối năm
2008, Trung Quốc thậm chí tử hình Wo Weihan, một người Trung Hoa Đại lục
bị kết tội bán bí mật quân sự cho Đài Loan.
về phương diện quân sự, giới quan sát
đánh giá Đài Loan dễ bị đánh quỵ. Ngày 31/12/2010, tờ “Shankei Shimbun”,
một trong 5 tờ báo tầm cỡ quốc gia của Nhật Bản, đăng một bài báo dài
về mối đe dọa ngày càng tăng của tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc. Tờ báo
cho biết trong tháng 2/2009, một tàu ngầm Trung Quốc đã vượt qua eo biển
Đài Loan rồi chạy dọc theo bờ biển Philíppin và đi đến tận bờ biển
Sumatra mà không bị phát hiện. Trước hết, đó là mối đe dọa đối với Nhật
Bản và từ đó suy ra là Đài Loan, trong bối cảnh đó, cũng là một khâu yếu
trong hệ thống phát hiện chống tàu ngầm.
Chiếc tàu sân bay đầu tiên của Trung
Quốc mang tên một đô đốc vào thế kỷ 17 đã đánh chiếm Đài Loan: đó là Thi
Lang. Có thể con tàu này đóng căn cứ tại Tam Á, ở phía Nam đảo Hải Nam.
Sự có mặt của một tàu chiến lớn như vậy ở biển Nam Trung Hoa (Biển
Đông-TTXVN) không phải ngay lập tức làm đảo lộn sự cân bằng chiến lược,
nhưng sẽ là một biểu tượng và một cột mốc đánh dấu ý định của Bắc Kinh
gắn liền không những với những yêu sách của họ đối với biển Nam Trung
Hoa mà đặc biệt với quyết tâm của họ bảo vệ bằng mọi giá chủ quyền của
mình đối với Đài Loan.
Việc đưa vào sử dụng chiếc tàu sân bay,
mặc dù để làm chủ được phải mất vài năm nữa, sẽ đưa Trung Quốc tiến gần
hơn đến khả năng bảo đảm làm chủ bầu trời trên eo biển Đài Loan vốn là
điều kiện cần thiết nếu không muốn nói là đủ để tiến hành một chiến dịch
quân sự chống Đài Loan.
Phân tích sự cân bằng lực lượng ở eo
biển Đài Loan là một chủ đề phức tạp phải tính tới tình trạng dễ bị đánh
quy của hòn đảo cũng như sự cân bằng lực lượng phát triển tất yếu có
lợi cho Trung Quốc. Cũng cần tính tới những thế mạnh của hệ thống đảo đã
được tăng cường đáng kể nhằm gây khó khăn cho một cuộc tấn công trực
tiếp, với cái được mất và nguy cơ đáng kể cũng như những khiếm khuyết
vẫn chưa được khắc phục của quân đội Đài Loan cộng với một loạt các yếu
tố rủi ro.
Trong số các yếu tố này có tiến trình
chính trị và tinh thân phòng thủ của người Đài Loan, khó có thể đo đếm
được, hay thậm chí vị thế địa chính trị của vùng này, được đánh dấu bằng
cuộc đối đầu răn đe Mỹ-Trung, những lời hứa hẹn không rõ ràng về hỗ trợ
của Lầu Năm Góc đối với Đài Loan, trong bối cảnh chung đang tiến triển
nhanh chóng, với đặc điểm là sự
chuẩn bị chuyển giao quyền lực của Đảng
cộng sản Trung Quốc và sự phụ thuộc về kinh tế ngày càng tăng của hòn
đảo này đối với Trung Quốc.
Ảo tưởng về hiệp ước hòa bình
Khi phân tích về tâm trạng khác nhau và
lập trường không rõ ràng của người dân Đài Loan, quan điểm đối kháng
giữa hai đảng chính ở hòn đảo này, bản chất của mối quan hệ tay ba
Trung-Mỹ-Đài Loan và giữa nước nọ với nước kia… chuyên gia Jean-Paul
Yacine rút ra kết luận rằng một hiệp ước hòa bình giữa Đài Bắc và Bắc
Kinh là không thể.
Trong một thời gian dài, Tổng thống Đài
Loan, Mã Anh Cửu, tránh đưa ra bình luận về một hiệp định chính trị với
Trung Quốc mà chỉ tập trung phát biểu về tiến trình xích lại gần nhau về
phương diện kinh tế giữa hai bờ eo biển Đài Loan và Hiệp định khung về
hợp tác kinh tế. Nhưng đến đầu tháng 11/2011, ông nói rằng việc ký một
hiệp định hòa bình với Bắc Kinh trong khoảng 10 năm nữa, có thể là một
trong những mục tiêu chính trị của Quốc dân đảng. Tuy nhiên, ông đặt
điều kiện triển vọng đó phải nằm trong khuôn khổ một sự ủng hộ rộng rãi
của dân chúng, phù hợp với lợi ích của Đài Loan và đặt dưới sự kiểm soát
chặt chẽ của Quốc hội.
Tuyên bố trên được Tổng thống Mã Anh Cửu
đưa ra sau khi Chủ tịch Trung Quốc, Hồ cẩm Đào, kêu gọi “hai bờ eo biển
ngừng đối kháng, chay chữa vết thương quá khứ và cùng nhau làm việc để
đổi mới Dân tộc Trung Hoa”. Ông Hồ cẩm Đào đưa ra lời khích lệ này trước
cuộc gặp gỡ giữa ông và ông Liên Chiến, Chủ tịch danh dự Quốc dân đảng,
tại Hội nghị thượng đỉnh APEC diễn ra ngày 11/11/2011 tại Haoai, nơi
chủ đề về một hiệp ước hòa bình cũng được đề cập đến. Việc giải quyết
vấn đề Đài Loan, với chìa khóa là một hiệp ước hòa bình, trước đó đã
chính thức được nêu lên trong tuyên bố chung kết thúc chuyến thăm Trung
Quốc đầu tiên của ông Liên Chiến vào năm 2005.
Từ sau cuộc gặp trở thành một cột mốc
trong mối quan hệ giữa Đài Bắc và Bắc Kinh, hai ông Hồ cẩm Đào và Liên
Chiến còn gặp nhau ba lần nữa. Tại Haoai, ông Liên Chiến, người trở
thành “Ông làm phúc” cho Quốc dân đảng, nhắc lại triết lý của mình về
mối quan hệ giữa hai bờ eo biển: đó là triển vọng về tái thống nhất,
giống như của Bắc Kinh, nhưng với thuật ngữ khác nhau về cơ bản. Ông
cũng giải thích rằng phần lớn các mục tiêu được nêu trong thông cáo năm
2005 đều đã đạt được. Đó là nối lại thượng lượng, phát triển quan hệ
giữa hai đảng, thiết lập khuôn khổ chung cho mối quan hệ kinh tế, tiến
hành thương lượng để Đài Loan được quyền tự chủ lớn hơn trong mối quan
hệ quốc tế. Nhưng vấn đề bản hiệp ước hòa bình vẫn còn để treo đó.
Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên vì
trên thực tế, việc thực hiện một bản hiệp ước như vậy không có lợi do
tính chất không rõ ràng của “Thỏa thuận năm 1992”, nền tảng cho việc
xích lại gần nhau về phương diện chính trị giữa hai bờ eo biển. Theo
thỏa thuận đó, cả Đài Loan lẫn Trung Hoa Đại lục đều là phần không thể
tách rời khỏi Trung Quốc. Tuy nhiên, Đảng Dân tiến (DPP) bác bỏ về cơ
bản quan điểm này. Đây là điều đáng chú ý vì lần đầu tiên đảng này đạt
được tỷ lệ cao hơn Quốc dân đảng trong các cuộc thăm dò dư luận về cuộc
bầu cử tổng thống trong tháng 1/2012 (47,3% so với 45,8%).
Cần nói rõ rằng tình trạng không rõ ràng
không phải chỉ do DPP mà vì bất đồng về cơ bản giữa Quốc dân đảng và
Đảng cộng sản Trung Quốc về bản chất chính trị của khái niệm một nước
Trung Quốc. Quốc dân đảng muốn đó là dân chủ, nhưng triển vọng đó đến
lúc này là không thể được đối với Bắc Kinh.
Dĩ nhiên là Tổng thống Mã Anh Cửu dường
như đáp lại ý muốn của Bắc Kinh bỏ qua những vấn đề kinh tế và thương
mại để bàn chủ đề nhạy cảm nhất về quy chế của Đài Loan. Khi bước vào
vấn đề Hiệp định hòa bình, dù là rất thận trọng, trong khi cuộc bầu cử
tổng thống đến gần, Tổng thống Mã Anh Cửu gặp rủi ro chính trị vì sẽ bị
DPP tấn công và cáo buộc bán rẻ hòn đảo cho Trung Quốc.
Tình chất nhạy cảm của chủ đề này hơn
nữa được ông Andrew Yang Thứ trưởng Quốc phòng Đài Loan, nhấn mạnh. Phát
biểu ngày 9/11/2011 tại trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế
(CSIS), ông nói rõ rằng Đài Loan chưa có lộ trình để ký hiệp ước hòa
bình, nhưng việc Bắc Kinh chấm dứt đe dọa Đài Loan về quân sự sẽ là bước
đi đầu tiên cần thiết. Ông nói: “Làm sao chúng ta có thể nghĩ đến một
hiệp ước hòa bình khi chúng ta không hề thấy bất kỳ một hành động hòa
bình nào?”
Chiến lược của Bắc Kinh đã quá rõ ràng.
Đó là bỏ qua những vướng mắc về chính trị bằng cách siết chặt mối quan
hệ kinh tể và thường mại đến mức sự gần gũi về buôn bán giữa hai bờ eo
biển sẽ trở thành động lực bắt buộc để xích lại gần nhau về chính trị và
tái thống nhất dần dần.
Không gì cho thấy Đảng cộng sản Trung
Quốc sẽ không đạt được mục đích trong bối cảnh các thế hệ mới ở Đài Loan
hiện tỏ ra ít nghi ngại đối với viễn cảnh xích lại gần với Trung Quốc
hơn cha ông họ. Trong khi đó, mối quan tâm hàng đầu của thế hệ mới vẫn
là cải thiện mức sống và giảm thất nghiệp trong giới trẻ, còn bùng nổ
buôn bán giữa hai bờ eo biển có thể góp phần tạo điều kiện cho tiến
trình này.
Không còn nghi ngờ gì nữa: thông điệp
hòa dịu của Hồ cấm Đào, được đưa ra trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc
Trung Hoa, nhằm vào thế hệ trẻ hơn, thực dụng hơn và ít nghi ngại hơn,
đồng thời là những lá phiếu cần phải giành lấy. Trong trường hợp Quốc
dân đảng thắng cử, cũng phải lường đến khả năng sức ép đối với Đài Loan
sẽ gia tăng để mở đối thoại chính trị, một con ngoáo ộp đối với dư luận
trên hòn đảo này.
Tại cuộc gặp với ông Ngô Bá Hùng, nguyên
là lãnh đạo Quốc dân đảng, ngày 6/5/2011 tại Thành Đô, ông Giả Khánh
Lâm – Chủ tịch Chính hiệp Trung Quốc tỏ ý rất muốn Tổng thống Mã Anh Cửu
tái đắc cử và kêu gọi người Đài Loan bỏ phiếu cho “một người xứng đáng
để duy trì ổn định trong mối quan hệ giữa hai bờ eo biển”. Tháng 6/2011,
thăm dò dư luận cho thấy có tới 60,1% số dân Đài Loan ủng hộ giữ nguyên
trạng, trong đó 26,8% muốn giữ mãi mãi và 33,3% trong một thời
gian nhất định (tăng 4% kể từ năm 2008 đến nay). Trái lại, tỷ lệ 23,2%
số người muốn độc lập và 10% ủng hộ tái thống nhất không thay đổi từ năm
2008 đến nay. Trong số người ủng hộ Tổng thống Mã Anh Cửu, có 65,6%
phản đối tái thống nhất, 25,6% ủng hộ. Các con số này lại khác đối với
người Đài Loan định cư ở Trung Quốc: chỉ 50% phản đối tái thống nhất và
31,2% ủng hộ.
Vấn đề là Bắc Kinh một mặt cay đắng nhận
thấy rằng tỷ lệ dân chúng ủng hộ tái thống nhất không tăng trong các
cuộc thăm dò ý kiến và uy tín của ứng cử viên theo khuynh hướng đòi độc
lập Thái Anh Văn lên tới mức cao nhất, mặt khác lại nghiên cứu cẩn thận
các phản ứng cần đưa ra trong trường hợp Tổng thống Mã Anh Cửu thất bại.
Cho dù bạn lãnh đạo mới của DPP nói họ
sẽ không ủng hộ độc lập quyết liệt như cựu Tổng thống Trần Thủy Biển,
song có thể những tiến bộ đã đạt được trong Hiệp định khung có thể sẽ bị
ảnh hưởng xấu. Đúng là DPP, thông qua một nhóm tư vấn được thành lập
chỉ để phục vụ mục đích này, đã nghiên cứu một chiến lược mới đối với
Bắc Kinh. Trong khuôn khổ đó, bà Thái giải thích rằng một khi lên nắm
quyền, đảng của bà “có ý định thiết lập mối quan hệ lâu dài với Trung
Quốc, với tinh thần cởi mở và thực dụng”, đồng thời “hy vọng Bắc Kinh
cũng làm như vậy’’.
Vấn đề còn lại là vai trò trước đây của
bà Thái trong Chính phủ của Lý Đăng Huy, cựu Tổng thống, đương nhiên
khiến bà bị Bắc Kinh nghi ngại. Cũng cần nói rằng quá khứ đó cũng không
trấn an được Oasinhtơn.
Trong trường hợp DPP thắng cử, khả năng
xoay xở của bà Thái sẽ không nhiều, cũng như Đảng cộng sản Trung Quốc,
do bị bó hẹp trong một khái niệm không thể hòa hợp được với Bắc Kinh về
mối quan hệ giữa hai bờ eo biển. Chính vì vậy, giả thiết đáng tin cậy
nhất có thể là làm chậm lại các cuộc thương lượng thương mại và có thể
là cả tình hình căng thẳng quay trở lại.
Khi cuộc bầu cử tổng thống đang đến gần,
hai ứng cử viên đều tìm cách tốt nhất và lối nói sát với vấn đề nhất
giữa một bên là mối quan tâm ở trong nước đối với các vấn đề nạn thất
nghiệp, tiền lương, công bằng xã hội, chênh lệch về thu nhập và các vấn
đề môi trường, và bên kia là vấn đề luôn ám ảnh về bản sắc của Đài Loan
đối với Bắc Kinh.
Nhưng chủ đề hiệp định hòa bình bị bó
hẹp trong thế tiến thoái lưỡng nan do quan điểm của DPP, Đảng cộng sản
Trung Quốc và Quốc dân đảng, lại dẫn tới mối quan hệ giữa Bắc Kinh và
Oasinhtơn, người bảo trợ lịch sử của Đài Loan đang ngày càng dấn sâu vào
một cuộc đấu tay đôi chiến lược có quy mô toàn cầu với Trung Quốc, nước
hiện nay đang thể hiện rất mạnh mẽ trong khu vực châu Á-Thái Bình
Dương.
Ở Mỹ có nhiều người đặt câu hỏi có cần
phải tiếp tục bảo vệ Đài Loan trong bối cảnh chung của mối quan hệ
Trung-Mỹ ngày càng chặt chẽ về cơ cấu, hay không. Một số nhà phân tích
thậm chí còn cho rằng Oasinhtơn sẽ rút lui và ngừng bán vũ khí cho Đài
Bắc vì đó là nguồn gốc gây ra va chạm thường xuyên với Bắc Kinh. Trong
bối cảnh đó, bài viết mới đây của Ngoại trưởng Mỹ, Hillary Clinton,
trong số tháng 11/2011 của tạp chí “Foreign Policy” dưới đầu đề “Thế kỷ
Thái Bình Dương của Mỹ” không trực tiếp giải đáp các vấn đề nảy sinh
ngày càng nhiều xung quanh mối quan hệ giữa Oasinhtơn và Đài Bắc.
Bài viết khẳng định quyết tâm tăng cường
sự có mặt của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương về phương thức và can dự với
cường độ như đối với châu Âu trong thế kỷ 20, đồng thời điểm qua các vấn
đề chiến lược lớn trong vùng (quyền tự do hàng hải ở biển Nam Trung Hoa
(Biển Đông- TTXVN), chủ quyền trên các hòn đảo nhỏ, Hàn Quốc) và nhấn
mạnh đến tính bền vững của mối quan hệ liên minh giữa Mỹ và Nhật Bản,
Hàn Quốc, Thái Lan, Philíppin và Ôxtrâylia.
Ngoại trưởng Mỹ cũng hé lộ ý định của
Nhà Trắng ưu tiên mối quan hệ với Ấn Độ và Inđônêxia, một vấn đề có thể
bị Bắc Kinh nhìn với con mắt nghi ngờ, đồng thời mô tả Trung Quốc như
một đối tác không thể bỏ qua, nhưng cần phải có tiến bộ hơn nữa về sự
minh bạch trong quân sự, trong lĩnh vực tỷ giá đồng nhân dân tệ, mở cửa
thị trường và nhân quyền.
Ngày 12/11/2011, Tổng thống Mỹ, Barack
Obama, công bố dự án về một hiệp định trao đổi hàng hóa tự do trong khu
vực Thái Bình Dương đã được ký năm 2005. Hiệp định này lúc đầu bao gồm 9
nước và có tầm quan trọng cao do được cả Nhật Bản bảo trợ. Canada và
Mêhicô cũng muốn được tham gia hiệp định này.
Trung Quốc trái lại phải đứng ngoài.
Nước này cũng phản ứng mạnh mẽ trước một tuyên bố của Tổng thống Mỹ cáo
buộc họ không tuân thủ luật chơi thương mại quốc tế. Theo Bắc Kinh, họ
không tuân thủ vì không được tham khảo ý kiến về vấn đề đó.
Tiếp đó, ngày 16/11/2011, trong chuyến
thăm khu vực Thái Bình Dương và các nước ASEAN nhân Hội nghị thượng đỉnh
APEC, Tổng thống Obama công bố kế hoạch thiết lập căn cứ quân sự của Mỹ
ở Ôxtrâylia. Việc triển khai không diễn ra trên quy mô lớn, nhưng là
biểu tượng cho ý đồ của Mỹ lưu ý đến sự trỗi dậy của cường quốc Trung
Quốc trong vùng. Ông Obama nói: “Chúng tôi đến đây để ở lại lâu dài (…)
và đó là ưu tiên hàng đầu của tôi.”
Việc Mỹ mở căn cứ quân sự ở Ôxtrâylia
cũng khiến người ta nghĩ đến Canbơrơ bị giằng xé giữa phát triển quan hệ
với Trung Quốc, khách hàng chính của các công ty mỏ nước này, và tham
gia liên minh nhằm kiểm soát nguy cơ nảy sinh từ những yêu sách của
Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa.
Cùng ngày hôm đó, Ngoại trưởng Mỹ, bà
Hillary Clinton, đến thăm Philíppin để tái khẳng định mối quan hệ quân
sự với nước này sau những vụ tranh cãi với Bắc Kinh về quần đảo Trường
Sa trong năm 2011. Trên boong tuần dương hạm USS Fitzgerald, bà Clinton
nhắc lại những gì bà đã viết trên tạp chí “Foreign Policy”: “Chúng tôi
muốn bảo đảm với các bạn rằng năng lực phòng thủ chung của chúng ta có
khả năng răn đe mọi hành động khiêu khích của bất kỳ ai.”
Bà ám chỉ các cuộc tranh cãi với Bắc
Kinh khi nhắc đến “biển Tây Philíppin”, một cách nói chỉ Biển Đông được
chính quyền nước này sử dụng trong thời gian gần đây và khiến Bắc Kinh
tức giận.
Trái lại, bài viết này không hề nói gì
đến Đài Loan. Một số người cho đó là dấu hiệu báo trước từ bỏ cam kết,
song có lẽ đúng hơn là ý tứ kín đáo đó cho thấy ý muốn không can thiệp
vào cuộc bầu cử sắp tới ở Đài Loan. Quả thực là chỉ có thể nhận thấy sự
cách biệt giữa việc không nói gì về Đài Loan và giọng văn chung dè chừng
Trung Quốc, đồng thời tập trung nói một cách có hệ thống đến tất cả các
bất đồng, như các nhà lãnh đạo Mỹ vẫn thường nói trong thời gian gần
đây trong phần lớn tuyên bố của họ.
Toàn bộ các vấn đề chiến lược được đề
cập đến trong bài viết đó quả thực, dù theo cách gián tiếp, khiến người
ta nghĩ ngay đến tranh chấp với Trung Quốc và khẳng định khả năng của Mỹ
và đồng minh “phản ứng trước tất cả các sự khiêu khích của bất kỳ ai’’.
Tháng 9/2011, bà Clinton nhắc lại rằng Nhà Trắng gắn bó với Đạo luật
quan hệ Đài Loan và quyết tâm của Mỹ tiếp tục tăng cường năng lực phòng
thủ của hòn đảo.
Dĩ nhiên là Mỹ đang ở trong thế tiến
thoái lưỡng nan trong mối quan hệ với Trung Quốc, đặc biệt về Đài Loan,
với hệ thống dân chủ mà Oasinhtơn là người bảo trợ. Đối với Oasinhtơn
cũng như Bắc Kinh, sức mạnh của các cuộc tranh chấp chỉ có thể cân bằng
được với tổng các mối quan hệ không thể bỏ qua, kể cả trong lĩnh vực
quân sự hay an ninh. Chính vì vậy bài viết của Ngoại trưởng Clinton xác
định mối quan hệ với Bắc Kinh là mối quan hệ đặt ra “các thách thức lớn
nhất” đối với Nhà Trắng.
Trong bối cảnh việc tôn trọng cam kết là
điều chủ chốt đối với độ tin cậy của Oasinhtơn ở trong vùng, vấn đề còn
lại là giả thiết dễ xảy ra nhất về mối quan hệ tay ba đầy sóng gió là
Lầu Năm Góc sẽ bị buộc phải bảo đảm nguyên trạng mong manh như Tổng
thống Đài Loan, Mã Anh Cửu, đã nói khi nhậm chức năm 2008. Đó là: Đài
Bắc không tuyên bố độc lập, Bắc Kinh không xâm lược quân sự.
Như vậy có thể dự đoán các phi vụ bán vũ
khí của Mỹ cho Đài Loan vần sẽ tiếp diễn, cho dù các loại vũ khí tân
tiến nhất như phiên bản mới nhất của loại tiêm kích F-16 – mà Đài Bắc
phải từ bỏ và đành bằng lòng với việc nâng cấp số máy bay cũ – làm dấy
lên những lời phản đối quyết liệt.
Còn lại là việc giữa người Đài Loan và
người Trung Quốc, số phận của họ bị chia xẻ giữa một bên là sự gần gũi
về địa lý, văn hóa và lịch sử, cũng như sức nặng của tiến trình xích lại
gần nhau về kinh tế và nỗi ám ảnh tái thống nhất; và bên kia là thái độ
ngờ vực đối với chế độ độc tài cộng sản, những kỷ niệm cay đắng của
thời kỳ Quốc dân đảng độc quyền đô hộ và, có thể, nguyện vọng của một
dân tộc muốn có tự do và bản sắc dân chủ đã được khẳng định qua nhiều
thập kỷ.
Năm 2012 có tính cốt tử
Trung tuần tháng 10/2011, Tổng thống Đài
Loan, Mã Anh Cửu, nói đến khả năng ký một hiệp định hòa bình giữa Bắc
Kinh và Đài Bắc trong thập kỷ tới. Tuy nhiên, theo tạp chí “Phát thanh”
của Pháp, vấn đề tái thống nhất trái lại vẫn “dậm chân tại chỗ”.
Ông Hồ Cẩm Đào, Tổng bí thư Đảng cộng
sản Trung Quốc, gặp ông Liên Chiến, chủ tịch danh dự Quốc dân đảng, bên
lề cuộc họp lần thứ 19 các nhà lãnh đạo Diễn đàn hợp tác kinh tế châu
Á-Thái Bình Dương (APEC) vào trung tuần tháng 11/2011 tại Haoai. Nhân
dịp này, ông Hồ Cẩm Đào đã khẳng định lại “Thỏa thuận năm 1992″ là cơ sở
phát triển hòa bình mối quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan.
Theo ông Hồ cẩm Đào, nhờ nỗ lực chung,
thay đổi tích cực và quan trọng đã diễn ra trong 3 năm trở lại đây ở
vùng eo biển Đài Loan và viễn cảnh mới để phát triển hòa bình mối quan
hệ giữa hai bên là có thế. Ông Hồ Cẩm Đào đánh giá điều đó được khẳng
định qua sự phát triển hòa bình mối quan hệ giữa Trung Hoa đại lục và
Đài Loan, phù hợp với nguyện vọng của dân chúng ở hai bờ eo biển và phục
vụ lợi ích của tất cả người Trung Quốc. Nhân dịp này, ông Hồ cẩm Đào
cũng kêu gọi hai bên duy trì định hướng phát triển hòa bình mối quan hệ
song phương, củng cố cơ sở chính trị chung chống lại “nền độc lập của
Đài Loan” và công nhận “Thỏa thuận năm 1992″ để duy trì nhịp độ phát
triển quan hệ.
“Thỏa thuận năm 1992″, được thông qua
bởi các nhóm phi chính phủ của Bắc Kinh và Đài Bắc với sự chấp thuận của
chính phủ hai bên, theo ông Hồ Cẩm Đào, là một thực tế khách quan. Ông
nói thêm rằng cốt lõí của thỏa thuận đó là tìm kiểm những điểm chung,
nhưng vẫn duy trì sự khác biệt. Theo tạp chí “Phát thanh”, điều đó cho
thấy thái độ thực dụng của cả Trung Quốc lẫn Đài Loan nhằm giải quyết
các vấn đề chính trị.
Tuy nhiên, ông Hồ cẩm Đào coi việc công
nhận “Thỏa thuận năm 1992″ là một điều kiện “trước tiên” và “cần thiết”
để tiến hành mọi cuộc đối thoại giữa hai bờ eo biển, đồng thời là một
“cơ sở quan trọng” để phát triển hòa bình quan hệ giữa hai bên. ông Hồ
cẩm Đào cho rằng với mục đích duy trì ôn định ở eo biển Đài Loan và bảo
đảm cuộc sống của dân chúng ở cả hai bên, Bắc Kinh và Đài Bắc cần tiếp
tục dựa vào “Thỏa thuận năm 1992″, tăng cường tin tưởng lẫn nhau về
chính trị và không ngừng tìm kiếm triển vọng mới.
Đáp lại, chủ tịch danh dự Quốc dân đảng,
Liên Chiến, nhấn mạnh rằng căn cứ vào “Thỏa thuận năm 1992″ là điều cơ
bản để phát triển quan hệ giữa hai bờ. Ông Liên Chiến mong muốn cả hai
bên tìm kiếm những điểm chung đồng thời giữ nguyên những khác biệt để
làm sao đóng góp tích cực hơn nữa vào cuộc sống của dân chúng hai bên
bờ. Ông nói rằng mối quan hệ chính trị phát triển một cách hòa bình giữa
hai bờ eo biển là điều “đáng khích lệ”, cũng như trao đổi thương mại
giữa hai bên và tác động tương hỗ về xã hội trong những năm gần đây.
Trong khi ông Hồ cẩm Đào nói đến vấn đề
tái thống nhất tại lễ kỷ niệm cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911, ở Đài
Loan, dường như Đài Bắc không muốn gì hơn ngoài chung sống hòa bình.
Ngày 9/10/2011, ông Hồ Cẩm Đào, Chủ tịch Trung Quốc, lại một lần nữa kêu
gọi hai bên tái thống nhất bằng biện pháp hòa bình. Ngay ngày hôm sau,
Tổng thống Đài Loan, Mã Anh Cửu, đẳ bác bỏ đề nghị này. Ông khẳng định
Đài Bắc “duy trì nguyên trạng” và kêu gọi Bắc Kinh chấp nhận sự tồn tại
của Đài Loan. Lời lẽ của ông Mã Anh Cửu, theo chuyên gia phân tích Rémi
Carayol, là “có mức độ” và “phù hợp” với bầu không khí hòa dịu về ngoại
giao và sự xích lại gần nhau về kinh tế nhận thấy được từ khi ông lên
làm tổng thống.
Tuy nhiên, trong một động thái được tạp
chí “Phát thanh” nhìn nhận như một nỗ lực nhằm thay thế tiến trình tái
thống nhất mà Bắc Kinh mong muốn nhưng đối với Đài Bắc là không khả thi,
bằng một giải pháp khả thi hơn Tổng thống Đài Loan, Mã Anh Cửu, hé mở
cánh cửa để chính thức hóa bầu không khí ấm dần lên giữa Bắc Kinh và Đài
Bắc.
Tổng thống Mã Anh Cửu nói rõ rằng mối
quan hệ giữa hai bờ eo biển được cải thiện dần dần và thường xuyên và
hai bên dự định nghiên cứu một cách thận trọng khả năng ký một hiệp ước
hòa bình trong 10 năm tới. Hai điều kiện được ông cho là cần thiết để ký
một hiệp ước như vậy: ủng hộ dự án xã hội của Đài Loan và rút toàn bộ
số tên lửa (khoảng 1.600
tên lửa) nhằm vào hòn đảo này.
Về phương diện chính trị, bị chia cắt
sau khi phái cộng sản giành chiến thắng năn 1949 và phái dân tộc chủ
nghĩa bỏ chạy lên đảo Formosa, Trung Quốc và Đài Loan đều tổ chức kỷ
niệm cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911 đánh dấu sự ra đời của Trung Hoa
Dân quốc. Mối quan hệ giữa Bắc Kinh và Đài Bắc đặc biệt căng thẳng từ
năm 2000 đến năm 2008, là hai nhiệm kỳ tổng thống của ông Trần Thủy
Biển, thuộc Đảng Dân tiến có khuynh hướng đòi độc lập. Mối quan hệ giữa
hai bờ eo biển ấm dần lên từ năm 2008 với việc ông Mã Anh Cửu, thuộc
Quốc dân đảng, lên làm tổng thống.
Trong dịp lễ kỷ niệm 100 năm cuộc Cách
mạng Tân Hợi, Tổng thống Đài Loan, Mã Anh Cửu, đá quả bóng sang chân ông
Hồ cẩm Đào về vấn đề tái thống nhất, khi ông kêu gọi Trung Quốc tiến
hành dân chủ hóa theo lời dạy của Tôn Dật Tiên, người ở Đài Loan được
coi là cha đẻ của dân tộc, còn ở Trung Quốc là người anh hùng của cuộc
cách mạng đầu tiên.
Lễ kỷ niệm ngày “Song Thập” cũng là dịp
để Bắc Kinh và Đài Bắc điểm lại số đồng minh của mình. Châu Phi là một
trong số những đối tượng chứng kiến thực trạng mối quan hệ đó.
Trong một thơi gian dài, cả Trung Quốc
lẫn Đài Loan tranh giành nhau ở châu lục này. Bắt đầu từ những năm 1980,
Bắc Kinh đòi hỏi các đối tác của mình phải công nhận nguyên tắc một
nước Trung Quốc. Đầu những năm 1990, Đài Loan cưỡng lại ý định đó và
giành thêm được sự ủng hộ của 8 nước, trong đó có Buốckina Phaxô vào năm
1994. Nhưng năm này qua năm khác, hòn đảo nhỏ bé này (với 23 triệu dân)
mất đi nhiều nước châu Phi, như Lêxôthô (năm 1994), Nam Phi và Nigiê
(năm 1996), Cộng hòa Trung Phi và Ghinê Bítxao (năm 1998), Xênêgan, Sát
và Malauy (năm 2005 và2006)…
Từ 3 năm nay, hai người anh em châu Á
thù địch nhau này nỗ lực bình thường hóa quan hệ song phương. Đại sứ Đài
Loan tại Buốckina Phaxô, Trương Minh Trung, cho biết Bắc Kinh “không
còn tìm cách chinh phục các đồng minh” của Đài Loan nữa, và Đài Bắc cũng
làm như vậy. Nhưng thực tế là số đồng minh của Đài Loan giờ không còn
nhiều. Hiện chỉ có 23 nước trên thể giới công nhận Đài Loan, trong đó có
4 nước ở châu Phi. Ngoài Buốckina Phaxô, còn lại là những nước nhỏ:
Dămbia (1,7 triệu dân), Xoadilen (1,12 triệu dân) và Xaotômê và Prinxpê
(212.000 dân).
Tuy nhỏ, song các nước này vẫn được Đài
Loan chiều chuộng. Năm 2008, viện trợ Nhà nước cho phát triển chỉ chiếm
0,11% Tổng sản phẩm quốc nội của Đài Loan, tương đương với 430 triệu
USD, song hợp tác với Đài Bắc, chủ yếu về hạ tầng cơ sở, được các nước
này đánh giá cao. Một chuyên gia về phát triển thừa nhận cơ chế hợp tác
của Đài Loan rất linh hoạt, cụ thể và không “ăn người” như viện trợ của
Trung Quốc.
Hoạt động của Đài Loan thể hiện rõ nhất ở
Buốckina Phaxô, nước tiếp nhận 18,5 triệu USD/năm viện trợ. Với 16
triệu dân và ảnh hưởng đối với toàn vùng Tây Phi, ai cũng biết nước này
là rất quý giá đối với Đài Loan. Tổng thống Blaise Compaoré là khách
danh dự tại lễ kỷ niệm Quốc khánh Đài Loan tháng 10/2011. Đại sứ Đài
Loan tại Buốckina Phaxô, Trương Minh Trung, cho biết đối với Đài Bắc,
nước này là một biểu tượng vì là nước đông dân nhất và đứng thứ hai về
diện tích tại châu Phi. Nhưng chuyên gia Rémi Carayol đặt câu hỏi trường
hợp ngoại lệ này có thể tồn tại được đến bao giờ?
Theo tạp chí “Phát thanh”, năm 2012 sẽ
là năm cốt tử trong sự phát triển mối quan hệ giữa Trung Hoa Đại lục và
“tỉnh nổi loạn” của nước này, bởi một cuộc chuyển tiếp chính trị sẽ diễn
ra trên hòn đảo – với sự ra đi của cả Chủ tịch Hồ Cẩm Đào lẫn Thủ tướng
Ôn Gia Bảo ở Trung Quốc – trong khi ở Đài Loan, cuộc bầu cử tổng thống
có thể sẽ đưa bà chủ tịch Đảng Dân tiến, Thái Anh Văn, trở lại cầm
quyền./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét