Hoàng Tụy: Tái cấu trúc và sửa lỗi hệ thống
Hơn
nửa thế kỷ trước, tôi là sinh viên khoa Toán, Trường ĐHSP Hà Nội. Trong
các bộ môn mà tôi theo học, có môn “Phương pháp giảng dạy Toán” do Thầy
Hoàng Tụy phụ trách. Bộ môn này không hoàn toàn trừu tượng và thuần tuý
lí thuyết như đa số các bộ môn khác, bởi lẽ nó có nhiều phần mang nặng
tính nhân văn như lịch sử toán học, cuộc đời và sự nghiệp các nhà toán
học, thăng trầm của những phát minh toán học, triết lí toán học vv.
Chúng tôi rất quí mến Thầy Tụy vì tầm hiểu biết và nhân cách của Thầy.
Thực ra tôi học hành không lấy gì làm xuất sắc nên cho đến nay chắc Thầy
không nhớ ra tôi là ai.
Nhưng tôi theo
dõi sự nghiệp của Thầy và vui mừng thấy Thầy có những đóng góp không
nhỏ cho toán học nước ta và thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực lý thuyết
tối ưu. Điều làm mọi người quan tâm là gần đây Thầy có nhiều ý kiến mạnh
mẽ nhằm giúp ngành giáo dục và ngành văn hoá thoát ra khỏi tình trạng
bế tắc, hỗn loạn mà ai cũng nhận thấy rõ. Vào những ngày đầu năm 2012,
Thầy có viết bài “Tái cấu trúc và sửa lỗi hệ thống”
đăng trên mạng viet-studies của Trần Hữu Dũng. Bài này khái quát lại
những gì Thầy đã suy nghĩ về hệ thống chính trị, văn hoá, giáo dục trong
thời gian qua. Tôi không sợ mình sai lầm khi nhận xét rằng bài viết nói
trên của Thầy có` giá trị như một học thuyết (doctrine). Đó là học
thuyết về “lỗi hệ thống trong các hoạt động chính trị, kinh tế- xã hội” ở
nước ta hiện nay. Học thtuyết của Thầy, theo tôi, có thể được tóm tắt
như sau: Nếu một khâu nào đó của hệ thống bị trục trặc một cách riêng
lẻ, cục bộ thì hệ thống đã lường trước cách khắc phục. Nhưng khi sự
trục trặc liên tiếp xẩy ra và không có cách gì sửa chữa được, đó là vì
hệ thống có lỗi, tức là một yếu tố nào đó của hệ thống có vấn đề, bị
khuyết tật. Trong trường hợp đó, ta rà soát hệ thống để sửa chữa lỗi.
Thay hệ thống có khuyết tật bằng một hệ thống mới bảo đảm việc vận hành
ổn định được gọi là tái cấu trúc hệ thống.
Thầy
Hoàng Tụy đã chỉ ra một số trục trặc tiêu biểu của các ngành hoạt động
xã hội như tham nhũng tràn lan mà không ai kiểm soát, lộng quyền mà nhân
dân đành bó tay chịu đựng, bệnh viện quá tải với nhiều thầy thuốc vô
cảm, sự gian dối chết người trong các ngành thực phẩm, xăng dầu…và cuối
cùng là giáo dục yếu kém và phần nào lệch hướng.. Rõ ràng những trục
trặc ấy không thể được khắc phục một cách riêng lẻ, cục bộ. Người ta đã
đặt ra những ban chống tham nhũng và các ban ấy cũng thấy mình không có
hiệu quả gì đáng kể..Người ta làm đủ chuyện để dẹp hàng vỉa hè, để chấn
chỉnh giao thông nhưng rồi phố xá cứ ngổn ngang, tai nạn giao thông ngày
càng nghiêm trọng. Trước tình hình ấy, Thầy Tụy kêu gọi tái cấu trúc hệ
thống, rà soát hệ thống chính trị, rà soát những chủ trương kinh tế-xã
hội, rà soát đến cội nguồn của những đều bất hạnh, tức là trả lời một
cách trung thực cho câu hỏi “Tại sao lại như thế? Do đâu mà tình trạng
đó cứ dai dẳng không dứt?
Để tìm hiểu sâu về học thuyết Hoàng Tụy, ta cần xác định các khái niệm cơ bản “hệ thống” và “cấu trúc”
Trong
một tập hợp nào đó có các phần tử a, b, c….và các mối quan hệ alpha,
bêta, gamma…người ta thường xét các phần tử của tập hợp theo hai bước.
Bước một là việc sắp xếp các phần tử thành từng lớp theo một tiêu chí
nhất định. Bước hai là sắp các lớp nói trên trên một hàng ngang theo các
mối quan hệ alpha, bêta vv.
Trong
ngôn ngữ học, tập hợp các từ của một thứ tiếng được khảo sát trên hai
trục, theo Ferdinand de Saussure. Trục dọc (hay trục liên tưởng –
paradigm) là trục của các lớp từ chung một tiêu chí từ vựng-ngữ pháp như
danh từ, động từ vv. Các phần tử của trục dọc thay thế cho nhau trong
một cấu trúc. Chẳng hạn từ “Cha” trong câu “Cha đi vắng” có thể được
thay thế bằng từ “Mẹ” để có câu “Mẹ đi vắng”. Trục ngang (hay trục ngữ
đoạn –syntagm) thể hiện các mối quan hệ giữa các từ. Chẳng hạn các từ
“cha”, “đi vắng”, “mấy hôm rồi” kết hợp với nhau theo hàng ngang để tạo
ra câu “Cha đi vắng mấy hôm rồi”, trong đó “cha” đóng vai trò chủ ngữ,
“đi vắng” là vị ngữ, còn “mấy hôm rồi” là bổ ngữ chỉ thời gian.
Con
đường của ngôn ngữ học được khái quát cho các ngành khoa học khác. Bất
luận đối tượng gì, tập hợp gì, ta cũng nghiên cứu theo hai trục ngang và
dọc. Những phần tử thuộc trục dọc tạo thành hệ thống. Còn các phần tử thuộc trục ngang tạo thành cấu trúc. Thí dụ: hệ thốngchính
trị nước ta gồm các phần tử Đảng, Chính quyền, Quốc hội, Đoàn thể….Khi
ta nói : “Đảng lãnh đạo các đoàn thể” thì ta nêu ra một cấu trúc, tức là
mối quan hệ giữa các phần tử nào đó của một hệ thống.
Thầy
Hoàng Tụy đề xuất việc “Tái cấu trúc và sửa lỗi hệ thống” nhằm một sự
chỉnh đốn trên hai bình diện: rà soát những tiêu chí tạo thành hệ thống
và các mối quan hệ nối kết chúng với nhau.
Một
người làm toán trong lĩnh vực hình học sơ cấp Euclide một hôm phát hiện
điều dị thường: Có một tam giác với tổng các góc lớn hơn 180 độ. Anh ta
cần cù rà soát lại hệ tiên đề mà mình sử dụng và phát hiện trong hệ này
có chứa một mệnh đề khả nghi, đó là: từ một điểm ở ngòai một đường
thẳng, ta chỉ vẽ được một đường vuông góc với đường thẳng ấy, ngọai trù
có trường hợp vẽ được hai hay nhiều hơn. Chính cái vế “ngoại trù” ấy dẫn
đến điều dị thường. Trong xã hôi hiện nay ta thấy dân thường phàn nàn:
Biết tỏng anh ta tham nhũng nhưng đành chịu. Rà soát lại “hệ tiên đề
chính trị” ta thấy có mệnh đề khà nghi “không vị trí nào nằm ngoài pháp
luật, ngoại trừ một số vị trí nhạy cảm”. Chính cái ngọai trừ đó sinh ra
những bất ổn xã hội hay bất hạnh cho con người.
Người
làm toán nói trên cuối cùng nhận ra rằng anh ta làm toán trên hai hệ
tiên đề hỗn tạp , không ra Euclide mà cũng không phải Riemann. Trong một
hòan cảnh như vậy phải chấp nhận những kết quả không lấy gì làm tốt
đẹp. Xã hội ta hiện nay sống với những hệ tiên đề hỗn tạp, tư duy chồng
chéo, kết quả tùy tiện. Thầy Hoàng Tụy muốn loại bỏ sự hỗn tạp ấy và
xây dựng những cấu trúc hợp lý, đó là những mối quan hệ văn minh, bình
đẳng, dân chủ, hiệu quả giữa các thành viên của xã hội.
Nhưng học thuyết Hoàng Tụy không dừng lại ở hai khái niệm hệ thống và cấu trúc (lỗi
hệ thống và tái cấu trúc các hệ thống). Có một khía cạnh rất quan trọng
của học thuyết ẩn chứa trong cụm từ “….mối quan hệ giữa các phần tử của
hệ thống với môi trường bên ngoài”. Vậy môi trường bên ngoài là
gì? Đây là một phạm trù khá rộng, bao gồm bối cảnh lịch sử, bản sắc văn
hóa, truyền thống giáo dục, phong tục tập quán, định kiến xã hội, tín
ngưỡng vv. Cũng như trong nghiên cứu ngôn ngữ, người ta không dừng lại ở
cấp độ từ vựng (hệ thống) và cú pháp (cấu trúc), người ta để nhiều công
sức để nghiên cứu ngữ nghĩa (môi trường-ngữ cảnh) , tức
là tìm ý nghĩa thực tại của câu, từ trong các phát ngôn thuộc các tình
huống khác nhau. Chẳng hạn câu “Mỹ tăng cường hiện diện quân sự ở Thái
Bình Dương” sẽ có những ý nghĩa khác nhau trong những bối cảnh khác
nhau. Đối với Việt Nam câu đó xuất hiện vào những năm sáu mươi của thế
kỷ trước được coi như một sự kiện nguy hiểm cho an ninh đất nước. Ngày
nay câu đó có thể có ý nghĩa ít bi quan hơn, và tùy đối tượng mà câu đó
làm yên lòng hay gây lo ngại. Một thí dụ khác: Qua vẻ mặt của các nhân
viên một cơ quan nọ khi thì thầm hỏi nhau: “Sếp đến chưa?” ta có thể
biết nhân cách của sếp như thế nào. Nếu câu thì thầm với vẻ mặt lo lắng u
sầu, chắc chắn vị sếp là người ít thân thiện với cộng sự. Còn nếu câu
thì thầm với vẻ mặt tươi vui tràn trề hy vọng thì ta biết ngay sếp là
người tốt, là chỗ dựa cho cộng sự.
Chính
môi trường văn hóa ảnh hưởng rất lớn đến các phần tử của các hệ thống
chính trị, kinh tế …từ thấp đến cao, không loại trừ ai. Môi trường đó
thúc đẩy sự tiến bộ, hỗ trợ hữu hiệu cho sự vận hành của các hệ thống,
nhưng nó cũng là nguyên nhân của những khuyết tật của các hệ thống, gây
ra các lỗi hệ thống, làm rối loạn các cấu trúc. Ai cũng biết một dự án
hay một chương trình nhà nước không hoàn thành được một phần do tham
nhũng, cán bộ thiếu năng lực nhưng phần không kém quan trọng là dân trí
thấp. Giao thông hỗn lọan, phố xá xô bồ, một phần do nhà nước quản lý
yếu kém, một phần do dân tình lạc hậu, thiếu ý thức cộng đồng. Ở các
nước tiên tiến, trong các cơ sở thương mại dịch vụ họ không có đông
người như ở ta. Siêu thị hay mặt bằng thương mại lớn chi có thu ngân. Ở
ta thì ngoài thu ngân còn có vô số người khác bảo vệ vòng trong vòng
ngoài, các sếp lớn nhỏ luôn đi lại kiểm tra công việc. Phải đầu tư nhiều
tiền của để ngăn chặn tình trạng dân trí thấp, khiến cho lợi nhuận bị
ảnh hưởng. Dân tình như vậy do đâu mà ra? Cán bộ yếu kém vì sao? Chúng
ta sẽ tìm lời giải đáp ở những phần sau.
Môi
trường văn hóa mà ta đang sống hiện nay rõ ràng là một môi trường không
hoàn toàn lành mạnh. Nó chứa đầy những định kiến, thói quen, lối suy
nghĩ, não trạng…của một thời chiến tranh du kích, không còn phù hợp với
đời sống hiện đại nữa. Do đó trong học thuyết Hoàng Tụy, bên cạnh việc
sửa lỗi hệ thống, tái cấu trúc hệ thống, còn có việc khá quan trọng là
“làm sạch môi trường”. Để minh họa cho những điều nói trên, ta lần lượt
xét một vài thói quen cố hữu và một vài “minh triết” màu xám phổ biến
trong xã hội ta hiện nay. Trước hết đó là chiến thuật nổi tiếng
Lấy nông thôn bao vây thành thị.
Đây
là chiến thuật của Mao Trạch Đông trong nội chiến quốc-cộng và Việt
Nam, Algérie phần nào sử dụng trong các cuộc chiến tranh giải phóng. Vấn
đề là dựa hẳn vào nông dân, sống trong lòng nông dân, đả phá những gì
có tính đô thị như phá bỏ các công trình giao thông, xóa bỏ nếp sống đô
thị…Nhờ đó mà quân cách mạng làm chủ nông thôn, cô lập các thành phố và
cuối cùng chiếm lĩnh các thành phố. Hậu quả của chiến thuật này là sau
khi thắng lợi, người ta nông thôn hóa thành thị, gây ra hỗn loạn trong
giao thông, lối sống, vệ sinh môi trường. v.v. Ở ta, trước thời kỳ đổi
mới, người ta chỉ chú ý đến nông nghiệp, coi nông nghiệp là then chốt,
là cứu cánh của xã hội. Người ta sẵn sàng cắt điện trường học, bệnh
viện, xí nghiệp để lấy điện phục vụ chống hạn cho vài cánh đồng nhỏ bé,
mặc dầu người ta biết như thế là làm mất hàng tỷ đồng để cứu vài triệu
đồng, chưa tính hậu quả tinh thần khác. Chiến thuật lấy nông thôn bao
vây thành thị làm ta bỏ lỡ nhiều cơ hội hiện đại hóa đất nước. Sau năm
1975 hay sau khi chủ trương đối mới, đáng lý ra phải làm ngược lại chiến
thuật của Mao, có nghĩa là phải thành thị hóa nông thôn, hiện đại hóa
đời sống nông dân, nâng cao học vấn dân trí nông thôn, đưa nước sạch về
mọi nơi .,.thì người ta cứ kiên trì đường lối thời du kích. Điều đó giải
thích tại sao phố xá xô bồ, giao thông hỗn loạn, ở Hà Nội người nói
ngọng lên đến tầng lớp cao…
Một
trong những “dư chấn” của não trạng chiến tranh du kích là mọi thứ nhất
nhất phải được giữ bí mật, thậm chí thiên tai dịch bệnh cũng là những
điều cần được giữ kín. Ngày nay bí mật được tháo gỡ nhiều nhưng vẫn còn
những vị trí nhạy cảm mà báo chí không tiếp cận được. Ở những vị trí đó
tiền lương, tiền thưởng, thu nhập cá nhân, ngân sách dành cho đơn
vị….đều còn là những điều cấm kỵ. Người ta nghĩ rằng chỉ cần cơ quan có
trách nhiệm nắm thông tin là được rồi, nhân dân không cần biết làm gì.
Ai cũng thấy nếu không có thông tin thì việc chống tham những không tiến
hành được, hơn nữa, các nhà nghiên cứu, các nhà sử học…rất cần thông
tin để giúp cho hệ thống xã hội vận hành trôi chảy. Ở những nước Âu-Mỹ,
cứ ba mươi hoặc bốn mươi năm, dân được tiếp cận với tài liệu lưu trữ. Ở
ta gần như chưa ai nghĩ tới chuyện đó.
Rồi đến những “minh triết màu xám” đang hoành hành trong hệ tư tưởng của chúng ta. Không lúc nào chúng ta không gặp những lối nói dễ dãi – lectio facilior- kiểu Đạo đức kinh của Lão tử:
Hình vuông lớn không có góc
Âm thanh lớn là âm khe khẽ
Cảnh lớn không có dạng
….
Chẳng hạn hàng ngày ta thường gặp những kiểu lý luận như
A là A mà cũng không phải là A.
Hiện
nay người ta không còn giữ các hợp tác xã nông nghiệp thời xưa nữa,
việc cưỡng bách lập các hợp tác xã như vậy là không phù hợp với lòng
dân, với thời cuộc. Nhưng những sách giáo khoa, sách lý luận vẫn nói
rằng chủ trương hợp tác xã là đúng, nếu không có các hợp tác xã thì
không có thắng lợi…Nếu bỗng dưng một ngày nào đó lập lại các hợp tác xã
thì đó sẽ là một chủ trương đúng. Ngày trước chủ trương xóa bỏ tư hữu,
tư sản, nông dân cá thể là đúng, nay tôn vinh doanh nhân, chủ trang
trại, nông dân cá thể cũng đúng. Tóm lại “lý kẻ mạnh bao giờ cũng thắng”
như bao đời nay dù thực tế lý đó sai mấy chăng nữa. Tôi không bao giờ
sai lầm, nhưng cũng có lúc sai lầm! Y hệt như một người làm toán trên
hai hệ tiên đề Euclide và Riemann hỗn hợp, có kết quả khi thì Euclide
khi thì Riemann.
Ta lại có
A đúng nhưng điều trái với A (gọi là không-A) cũng đúng.
Mọi
người đều biết hiện nay trong nền kinh tế thị trường, không một lý
thuyết cũ nào áp dụng được nữa. Tuy nhiên trong các trường học, các môn
kinh tế chính trị vẫn nguyên si thời “bao cấp”. Gần đây người ta được
xem phim “Bí thư tỉnh ủy”. Thật cảm động khi thấy nước ta có những vị bí
thư vì dân vì nước như vậy. Đó là một cán bộ kiệt xuất. Nhưng những
người từng chỉ trích vị bí thư này, làm tình làm tội ông đủ điều vẫn
được coi là những cán bộ kiệt xuất. Vậy A là kiệt xuất và không-A cũng
là kiệt xuất.
Chuyện xấu không hề tồn tại (Làm gì có chuyện ấy?) là
cách nhìn quá khứ trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng. Có những cá nhân bị
xử lý oan sai trong những đợt “đấu tranh tư tưởng” nhưng trong các bài
viết của giới tư tưởng hiện nay, họ được coi như không bị phiền hà gì
cả.
“Minh triết màu xám” còn
rất nhiều, người dân bình thường thiếu cảnh giác tưởng đó là những chân
lý lịch sử, đã được thử thách. Thực ra đó là những món hàng dỏm, trôi
nổi trên thị trường và làm rối loạn hệ thống vận hành chính thức. Sau
đây là một số thí dụ không cần bình luận:
Cứ làm đi, rồi sai đâu sửa đấy, đó là tác phong dám nghĩ dám làm!
Thương trường là chiến trường.
vv….
Như
Thầy Hoàng Tụy vạch rõ, thấy vấn đề đã khó, giải quyết vấn đề phức tạp
hơn nhiều. Bởi lẽ, những khuyết tật của hệ thống gắn liền với những nhóm
lợi ích đang cố tình bảo vệ hệ thống khuyết tật. Sửa lỗi hệ thống, tái
cấu trúc hệ thống, làm sạch môi trường là những việc không tránh khỏi
động chạm đến lợi ích của những nhóm ấy. Chỉ có áp lực mạnh mẽ của quần
chúng, của các vị thức giả, của những người công tâm vì đất nước may ra
mới làm cho tình hình chuyển biến.
Tôi
thành tâm cáo lỗi với Thầy Hoàng Tụy vì bàn bạc về ý kiến của Thầy mà
không trực tiếp tham khảo Thầy trước. Trong bài viết chắc chắn có những
chỗ chưa đúng với ý của Thầy hay chưa thật thích đáng. Tôi mong Thầy và
bạn bè xa gần khoan dung chỉ bảo.
HCM tháng 1/2012
Trương Quang Đệ
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 14-1-12
--Hoàng Tụy: Tái cấu trúc và sửa lỗi hệ thống -(viet-studies 5-1-12) -- Bản gốc của tác giả. "Có thể nói hầu hết những gì khó khăn, bê bối, trì trệ, suy thoái, hư hỏng, kéo dài trong mấy chục năm qua, suy cho cùng, có nguồn gốc liên quan tới những khuyết tật hệ thống của thể chế chính trị, cho nên sẽ khó có hy vọng khắc phục triệt để nếu không loại bỏ những lỗi hệ thống đó." ◄◄◄Mấy năm nay trong xã hôi ta thường nghe nói đến các lỗi hệ thống. Và trong năm 2011 cụm từ tái cấu trúc được nhắc đi nhắc lại với tần số kỷ lục trong các giải pháp vượt qua khó khăn kinh tế gay gắt hiện nay. Không hẹn mà gặp, các từ này đã trở thành những từ khoá trong phần lớn các nghiên cứu về quản lý kinh tế xã hội trong cả năm 2011. Cho nên có lẽ cũng là tự nhiên nếu câu chuyện đầu năm xoay quanh tái cấu trúc và lỗi hệ thống.
Một
hệ thống phức tạp được đặc trưng bởi mục tiêu, thành phần, cơ chế hoạt
động và cấu trúc các mối quan hệ giữa các thành phần của nó với nhau và
với môi trường bên ngoài.
Trong
quá trình hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu của nó, một hê thống phức
tạp, dù là một doanh nghiệp, một ngành kinh tế, văn hoá, xã hội hay
những hệ thống lớn hơn, đều không tránh khỏi lúc này lúc khác có trục
trặc. Nếu chỉ là trục trặc trong vận hành bình thường thì có thể dựa
theo cơ chế phản hồi để phát hiện và điều chỉnh. Nhưng nếu trục trặc
lớn, kéo dài thời gian lâu, thì thường có thể do mục tiêu sai, hoặc cấu
trúc của hệ thống có vấn đề, có khuyết tật cơ bản, hoặc cả mục tiêu lẫn
cấu trúc đều có chuyện. Khi đó, nếu chỉ xử lý cục bộ, chắp vá, vụn vặt,
theo phương thức sai đâu sửa đó, thì không những không giảm bớt được
truc trặc, mà có khi còn làm phát sinh thêm những rối ren, phức tạp mới,
làm bất ổn gia tăng, đến mức có thể vượt khỏi tầm kiểm soát. Giải pháp
đúng đắn trong tình huống đó chỉ có thể là dựa trên phân tích hệ thống,
xét lại toàn bộ tổ chức, từ mục tiêu đến cơ chế hoạt động và các mối
quan hệ trong nội bộ hệ thống với nhau và với môi trường, để thấy rõ và
tìm cách sửa chữa những khuyết tật cơ bản của hệ thống, tức là các lỗi
hệ thống, theo cách nói quen thuộc gần đây.
Đó
là ý nghĩa các phạm trù “lỗi hệ thống” và “tái cấu trúc” mà gần đây đã
được sử dụng khá phổ biến trong các câu chuyện chính trị và kinh tế, xã
hội.
Thực
tế xây dựng đất nước hơn ba mươi năm qua đã dạy chúng ta một bài học
đắt giá: chỉ trong vòng mười năm sau ngày thống nhất Tổ quốc, đất nước
đã đứng trên bờ vực sụp đổ, buộc chúng ta phải tỉnh giấc, nhìn thẳng vào
những thất bại gây nên do những lỗi lầm hệ thống tich luỹ trong quản lý
kinh tế xã hội, từ đó mới có công cuộc đổi mới mà nhờ đó đất nước đã
vượt qua khủng hoảng để hồi sinh kỳ diệu trong thập kỷ 90.
Ngày
nay, éo le lịch sử lại đặt thế hệ chúng ta đứng trước tình huống tương
tự như 25 năm trước. Bên cạnh những thành tựu bắt nguồn từ đổi mới,
trong thời gian 5-7 năm gần đây đã xuất hiện nhiều sai lầm, thất bại đưa
đất nước đến những khó khăn hết sức nghiêm trọng. Những gì tich cực mà
đổi mới có thể đem lại đều đã đạt tới giới hạn. Nhiều lỗi hệ thống ở
tầng sâu trước đây còn khuất nay bắt đầu lộ diện, khiến chúng ta đứng
trước sự lựa chọn mới: hoặc tiếp tục làm ngơ với các lỗi hệ thống đó,
chấp nhận đối mặt với nguy cơ trì trệ, thậm chí lụn bại và chuốc lấy
nguyền rủa của đời sau, hoặc chịu đau giải phẫu và cắt bỏ những mầm bệnh
mà thật ra đã ủ sẵn trong cơ thể từ nhiều thế hệ trước, và dũng cảm
thay đổi tư duy một lần nữa, mở ra một thời kỳ khai sáng mới, xứng đáng
với truyền thống cách mạng của các thế hệ tiền bối và không thẹn với
những hy sinh mất mác to lớn của cả dân tộc qua mấy chục năm chiến tranh
tàn khốc.
Trước
hết, về đời sống chính trị. Có thể nói hầu hết những gì khó khăn, bê
bối, trì trệ, suy thoái, hư hỏng, kéo dài trong mấy chục năm qua, suy
cho cùng, có nguồn gốc liên quan tới những khuyết tật hệ thống của thể
chế chính trị, cho nên sẽ khó có hy vọng khắc phục triệt để nếu không
loại bỏ những lỗi hệ thống đó.
Điều
nguy hiểm đáng lo, như Tổng Bí Thư đã nhận định trong Hội nghị TƯ vừa
qua, là suy thoái biến chất đã diễn ra ở một bộ phận không nhỏ đảng viên
giữ vị trí cao trong bộ máy quyền lực, ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm
tin của dân. Nói như dân gian: nhà dột từ nóc. Sở dĩ như vậy là do quyền
lực tập trung quá đáng mà không có cơ chế kiểm soát hữu hiệu, tiếng là
thể chế dân chủ nhưng nặng về dân chủ hình thức, luật pháp không nghiêm
minh, khiến tham nhũng, tội phạm có điều kiện hoành hành cả ở những nơi
lẽ ra phải gương mẫu và trong sạch nhất. Bộ máy hành chính qua nhiều lần
“cải cách” ngày càng đồ sộ mà vẫn quan liêu, xa dân, hành dân là chính.
Nhiều quan lớn trong bộ máy không ngớt rao giảng đạo đức mà thật ra lối
sống đồi truỵ, chỉ chăm chăm lợi dụng chức quyền mưu lợi vinh thân phì
gia. Với một nền quốc trị như thế, trách sao văn hoá, đạo đức xã hội
không ngày một suy đồi, các bản tin hàng ngày dày đặc những vụ lừa đảo,
trộm cắp, chém giết nhau mất hết tính người.
Thật
đau xót khi nghĩ tới một xã hội cách đây chưa lâu từng được ca ngợi
nghèo nhưng vẫn giữ được phẩm cách, nay đầy rẫy những cảnh xa xỉ lố
lăng, gian dối, xảo trá, không chút tự trọng. Cho nên sửa đổi hiến pháp
đi đôi với chỉnh đốn Đảng, chỉnh đốn bộ máy chính quyền, tái cấu trúc ở
tầng sâu chính trị nhằm sửa sai hệ thống là yêu cầu khẩn thiết hiện nay
cần thực hiện bằng được mới mong có thể lấy lại niềm tin đang mất dần
của dân.
Thứ
hai, về đời sống kinh tế. Trong mấy thập kỷ mải mê phát triển kinh tế
dựa vào tài nguyên thiên nhiên và lao đông giá rẻ, lấy doanh nghiệp Nhà
nước làm chủ đạo, xây dựng các tập đoàn chủ chốt dựa trên độc quyền và
sự ưu ái của Nhà nước chứ không dựa trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh,
trong khi đó lơ là văn hoá, giáo dục, khoa học khiến các lĩnh vực này sa
sút nghiêm trọng – nay đã rõ mô hình đó không thể tiếp tục. Tai hại là
đường lối phát triển kinh tế thiển cận đó được thực thi trên nền một
thể chế lỏng lẻo bị thao túng bởi các nhóm lợi ích, khiến tham nhũng,
lộng quyền, thiếu dân chủ đã trở thành những căn bệnh đặc trưng của xã
hội Viêt Nam hiện nay. Nếu không đủ quyết tâm trừ diệt tận gốc mà cứ để
những căn bệnh này ăn sâu vào xương tuỷ xã hội thì không mong gì những
kế hoạch tái cấu trúc kinh tế có thể thực hiện có hiệu quả.
Sau
cùng, nhưng xét về lâu dài lại là căn bản nhất, là đời sống văn hoá,
giáo dục, xã hội. Không phải không có cơ sở mà ngay trong chế độ thực
dân hà khắc, Phan Châu Trinh đã khởi xướng cứu nước bằng đường lối “khai
dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Sự xuống cấp ở đây thấm thía từng
ngày, chưa bao giờ người dân bình thường cảm thấy cuộc sống bất an như
lúc này. Đường sá, phương tiện giao thông thiếu an toàn (gần đây càng
trầm trọng do các vụ cháy xe liên tiếp vì xăng kém phẩm chất), bệnh viện
quá tải thê thảm, thực phẩm độc hại tràn lan, trường học cũng không yên
tĩnh, đành rằng tất cả đều có phần hệ quả trực tiếp của những sai lầm
hệ thống nói trên về chính trị, kinh tế. Tuy nhiên, ở đây cũng cần nhận
rõ những sai lầm hệ thống ngay trong văn hoá, khoa học, giáo dục, y tế,
xã hội nữa.
Về
giáo dục, những yếu kém, bất cập, hư hỏng lưu niên đến nay chưa dứt
chứng tỏ đường lối đổi mới cục bộ, chắp vá, vụn vặt, lăng nhăng, từng
thực thi qua ba đời bộ trưởng đã hoàn toàn phá sản. Từ lâu, cải cách
giáo dục toàn diện, triêt để, đã được cuộc sống cảm nhận bức thiết và TƯ
Đảng, Chính Phủ cũng đã có những nghị quyết trịnh trọng khởi xướng từ
6-7 năm nay. Sai lầm hệ thống lớn nhất trong lĩnh vực giáo dục là đã đi
lạc ra ngoài con đường chung của thế giới, kìm hãm thế hệ trẻ trong nền
cử nghiệp hư học mà ngay từ thời phong kiến, vua Minh Mạng triều Nguyễn
đã từng nghiêm khắc lên án nó là nguyên nhân khiến “nhân tài trong nước
ngày một kém đi” (“Viêt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim, trang 463).
Trong đó cái chính sách lương không ra lương, ban đầu còn có lý do bào
chữa là do khó khăn kinh tế, kỳ thật là một chính sách thiển cận tai
hại, đương nhiên chủ yếu do chịu vòng cương toả của chính sách chung về
lương công chức của Nhà nước, nhưng trong đó cũng có một phần không nhỏ
là trách nhiệm của bản thân ngành giáo dục. Vì cái chính sách lương kỳ
quặc này, không giống bất cứ ai trên thế giới, nên mới có tình trạng
cũng không giống ai trên thế giới là thầy giáo không tập trung vào công
việc mình được trả lương mà phải đầu tắt mặt tối kiếm thêm thu nhập từ
những công việc khác. Nghịch lý lạ lùng là không đâu người thầy bị rẻ
rúng, coi thường như ở xứ này, nơi mà từ xa xưa đã có truyền thống tôn
kính thầy và nay vẫn luôn nhắc tới bốn chữ tôn sư trọng đạo. Vì vậy, tuy
lúc này mới bắt tay cải cách giáo dục cũng đã quá muộn, nhưng lại có
thể có thuận lợi cơ bản nếu được làm đồng bộ với cải cách chính trị và
cải cách kinh tế như trên đã bàn.
Còn
nhớ khi mới bắt đầu đổi mới, vào cuối thập kỷ 80, đã có lúc, do nghe
theo đề xuất của một số cán bộ nghiên cứu thiếu hiểu biết, khái niệm hộp đen trong
khoa học hệ thống đã được vận dụng khá bừa bãi trong quản lý kinh tế.
Kỳ quặc đến nỗi danh từ hộp đen dùng để chỉ các xí nghiệp đã trở thành
thời thượng trong các phát biểu của lãnh đạo, trên các báo lớn nhất ở
trung ương, và cả một thời gian dài cái áo khoa học sang trọng khoác lên
danh từ đó từng là yếu tố kích thích, tạo hứng cho hoạt động của các
câu lạc bộ giám đốc xí nghiệp. Thậm chí nhiều người, cả ở cấp lãnh đạo
cao, cũng tin tưởng ngây thơ chỉ việc “quay” các hộp đen cho giỏi thì
sản xuất sẽ phát triển. Còn “quay” như thế nào thì tuỳ nghi, ai muốn
hiểu cách nào cũng được, tha hồ cho trí tưởng tượng mặc sức vẽ vời. Đó
là thời kỳ ấu trĩ, tuy cũng là một cách giải toả bớt tâm lý bế tắc chung
vào lúc nhìn đâu cũng thấy khó khăn, nhưng cái hại lớn là tạo ra thói
quen say sưa bàn thảo những chuyện vu vơ, chẳng ăn nhập gì với cuộc sống
đang nước sôi lửa bỏng hàng ngày. Mong rằng lần này chúng ta không lặp
lại sai lầm đó, dù ở trình độ cao hơn.
Tái
cơ cấu là để sửa các lỗi hệ thống, cho nên trước hết phải nhận định
đúng các lỗi hệ thống, mới biết nên tái cơ cấu như thế nào và sau đó
phải có đủ quyết tâm mới thực hiện được đến nơi đến chốn. Toàn bộ công
việc đụng chạm đến các nhóm lợi ích mà một số nhóm này gắn chặt với các
lỗi hệ thống, cho nên sẽ rất gay go, gian khổ. Từ hai mươi năm nay đây
là thử thách lớn nhất, cầu mong hồn thiêng sông núi giúp đất nước vượt
qua được thử thách này.
Hoàng Tụy
Cựu lãnh đạo nói về chỉnh đốn Đảng (BBC 4-1-12)-
Trung Quốc: Vấn đề nằm ở thể chế
Daniel Blumenthal (Foreign Policy) * Ðồng Sa Băng (danlambao) chuyển ngữ - Đồng
ý với Daniel Patrick Moynihan, khi đề cập đến Trung Quốc - với quan
niệm cấp tiến trong bảo thủ thì thể chế mới là vấn đề đáng nói nhất. Sự
cạnh tranh giữa Trung Quốc - Mỹ không phải là vấn đề “chủ nghĩa tư bản quốc doanh” sẽ đánh bại “chủ nghĩa tư bản dân chủ” hay
không. Trung Quốc không có một nền kinh tế xuất khẩu và mô hình chính
trị. Không một ở các quốc gia Ả Rập hay bất cứ nơi nào khác nhào ra
đường để đòi chính quyền của họ theo đường lối “Đồng thuận Bắc Kinh – Beijing Consensus”.
Những nước này cần có một chính quyền đại diện dân, chứ không cần một
chính quyền độc trị. Chính những người dân Trung Quốc không ưa gì mô
hình Trung Quốc. Sự nổi dậy hằng ngày chống đối sự hủ hóa và vô luật
pháp tại Trung Quốc tự nó nói lên điều đó.
Sự cạnh tranh giữa Trung Quốc - Mỹ cũng không thật sự về “hệ cấu trúc thế giới”.
Đúng là có bằng chứng lịch sử cho thấy những nước đang vươn lên quyền
lực có khuynh hướng thách đố kẻ đang thống trị để dành quyền bá chủ.
Nhưng đôi khi họ không làm nổi (hãy nhìn Ấn Ðộ, Cộng đồng Âu Châu, và
Nhật Bản khoảng năm 1990). Hệ cấu trúc thế giới đương thời được thành
lập và duy trì bởi Hoa Kỳ có rất nhiều khoảng không gian cho Trung Quốc
thành công.
Thay
vào đó, chúng ta đang trong sự cạnh tranh an ninh bởi vì Ðảng Cộng Sản
Trung Quốc (ÐCSTQ) đã tạo ra như vậy. ÐCSTQ đang cố gắng làm cho thế
giới an toàn với việc tiếp tục thống trị của nó. Ðiều ao ước này thật là
khó khăn trong một thế giới trật tự cấp tiến được chi phối bởi Hoa Kỳ.
ÐCSTQ phải đánh bại nỗ lực đòi dân chủ của nhân dân Trung Quốc. Và, bởi
vì ĐCSTQ đã giúp cho sự phục hồi của những quốc gia lân bang Châu Á đồng
nghĩa với sự chính thống của nó, ÐCSTQ cần phải “thống nhất Ðài Loan”,
dẹp yên Thanh Hải (Xinjiang) và Tây Tạng; kìm hãm Nhật, và bảo đảm những
thành phần vờ vĩnh trên ngôi vua ở Châu Á (Ấn Ðộ, Việt Nam) trong vị
trí của họ. Trung Quốc không thể tin cậy vào Washington để đơn thuần
song hành với những ý đồ này. Cho nên Trung Quốc phải mở rộng tham vọng
về quân sự. Nếu Washington tìm cách phá hoại kế hoạch của Trung Quốc,
thì lại là một sự khinh xuất khi để Bắc Kinh dựa vào hải quân Hoa Kỳ
nhằm bảo vệ đường tiếp liệu dầu hỏa của họ. Cho nên Bắc Kinh đã lựa chọn
cần có một quân đội có thể ép buộc Ðài Loan, áp lực lên những quốc gia
láng giềng, và cản trở những toan tính của Hoa Kỳ giúp đỡ những đồng
mình và bảo vệ đường hàng hải dài của Hoa Kỳ. Ðó là lý do tại sao chúng
ta đang ở trong quá trình cạnh tranh an ninh với Trung Quốc. Bắc Kinh đã
lựa chọn một số mục tiêu thà không thích hợp với cái nhìn riêng của
chúng ta về hòa bình và an ninh.
Nếu
Trung Quốc được thống trị bởi một chế độ trong đó tính hợp pháp nằm
trong sự đồng thuận của nhân dân thì có lẽ sẽ không cần nhu cầu xây dựng
một quân đội lớn để:
1) Bảo vệ chính nó từ nhân dân;
2) Ðánh vỡ sự kìm chế của Mỹ; hay
3) Nhúng tay vào những công trình giữ vững thành trì.
Nếu Trung Quốc có một chế độ khác, thì ý kiến của tôi là chúng ta không cần phải cạnh tranh an ninh với Trung Quốc.
Nhưng,
không có nhiều điều mà Hoa Kỳ có thể làm để ảnh hưởng đến sự thay đổi
dân chủ tại Trung Quốc. Chúng ta có thể làm nhiều hơn ở phần ngoại biên
(ví dụ: cố gắng hơn trong việc trực tiếp đối thoại với những nhà cải
cách Trung Quốc – những nhà kinh doanh, những nhà lãnh đạo tôn giáo,
những nhà hoạt động xã hội). Nhưng cuối cùng đây chỉ là những giúp đỡ
tinh thần. Về mặt chính sách, dù những hỗ trợ tinh thần có ảnh hưởng đến
việc thay đổi Trung Quốc, chúng ta đã và luôn luôn đứng bên cạnh người
dân Trung Quốc.
Cho
tới khi nào Trung Quốc thay đổi thì chúng ta vẫn tiếp tục với những kế
hoạch căn bản và thực tiễn để bảo vệ chúng ta và những lợi ích của chúng
ta bằng cách duy trì một quân đội hùng mạnh và cũng cố đồng minh chúng
ta tại Á Châu. Hiện giờ, thực tiễn khách quan là phương hướng của thời
đại. Chúng ta phải giao chiến với Trung Quốc khi nào chúng ta thấy có
lợi trong việc làm đó. Nhưng phận sự khẩn cấp nhất của chúng ta là thành
công trong việc cân bằng quyền lực chính trị tại Châu Á cho đến khi nào
một chính thể mới xuất hiện ở Trung Quốc được chấp nhận nhiều bởi trật
tự thế giới và ít đi sự sợ hãi của chính người dân Trung Quốc.
Lược dịch:
- HÃY THA CHO HAI CHỮ “NHÂN DÂN” (Ngô Minh).
-- Âu Dương Thệ: 2011 – Lãnh đạo đánh mất chữ tín với đảng viên và nhân dân! – (DLB). – “MỪNG ĐẢNG, MỪNG XUÂN” – Một khẩu hiệu gây phản cảm — (Non sông gấm vóc).
- Thôi thôi xin cụ đừng “dạy” nữa — (Nguyễn Tây Ninh). -- LOẠN HỌP VÀ… HỌP LOẠN — (Faxuca).
-- Đâu là trách nhiệm của người gõ bàn phím? – (ĐCV).
- Yêu cầu xử lý kỷ luật một lãnh đạo Bộ Y tế (DT/TTXVN).
- BẠI NHÂN: Thư gửi ngài Bộ Trưởng Bộ GTVT (Quê choa). - Nhiều vấn đề ở 5 công trình giao thông trọng điểm (DT). - “Trảm” cũng cần công bằng (NLĐ).-- Tư Bản Đỏ – (x-café). Dịch từ bài: Red Capitalism (American Review).
- Trung Quốc chấp nhận xem xét lại việc truy thu thuế Ngải Vị Vị — (RFI). – Bắc Kinh lại cảnh cáo : Nước ngoài đừng can thiệp vào nội bộ Trung Quốc — (RFI). – Daniel Blumenthal – Trung Quốc: Triều Ðại Ngu Xuẩn – (Dân Luận). - On China: It’s the regime, stupid (Foreign Policy).
-- Miến Điện: Chính quyền công nhận Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ — (RFI). –Ngoại trưởng Anh kêu gọi Miến Điện trả tự do cho tù chính trị — (RFI). – Miến Ðiện chấp thuận cho đảng của bà Suu Kyi tham gia bầu cử — (VOA). – Tỷ phú Mỹ George Soros sẽ mở văn phòng ở Miến Điện — (RFI). - Bà Suu Kyi: Năm nay Miến Điện sẽ có nhiều biến chuyển - (VOA).--
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét