Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2014

Thách thức của xã hội dân sự VN - Không có đồng bào, không có đồng chí, chỉ có đồng lõa

Phạm Chí Dũng - Thách thức của xã hội dân sự VN

Các nhóm dân sự ở Việt Nam còn hoạt động lẻ tẻ và manh mún
“Xã hội dân sự và các mối quan hệ giữa nhân dân hai nước là một trong những mảng thú vị nhất của mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ” - nữ chính trị gia kiêm thứ trưởng Ngoại giao phụ trách về chính trị của Hoa Kỳ Wendy Sherman đã bình phẩm một cách ý nhị trong chuyến làm việc với các quan chức cao cấp Hà Nội vào đầu tháng 3 năm 2014.
Lối nói bóng bẩy nhưng không kém tính thực tế của những người đang cầm cân nảy mực về số phận TPP, gắn liền với mưu cầu thực dụng của chính quyền Việt Nam, đã gần như hợp thức hóa và mở toang cánh cửa xã hội dân sự trong một cơ chế vừa trải qua cuộc kiểm điểm định kỳ về nhân quyền đầy dị nghị tại Geneva vào đầu tháng 2 năm 2014.
Cuộc gặp gặp gỡ công khai của Wendy Sherman với nhóm dân sự “Hội anh em dân chủ” ngay tại thủ đô của một chế độ đang bần thần giữa hai dòng đối lưu nhất nguyên và đa nguyên có thể là một ví dụ thú vị nhất, khi một năm trước đó đã không có sự “cho phép” nào từ phía Nhà nước Việt Nam, còn cách đây vài ba năm điều đó chỉ có hàm ý như một giấc mơ.
Cửa đã mở?
Những hội nhóm dân sự độc lập ở Việt Nam cũng đang mơ màng về một giấc mộng giữa đời thực. Trùng với chuyến công du của Wendy Sherman, một hội đoàn văn nghệ có tên “Văn đoàn độc lập Việt Nam” đã được khởi xướng và bắt đầu giai đoạn vận động các hội viên. Chỉ ít ngày sau, một ý tưởng khác được khơi bật: tại sao không thể thành lập hội nhà báo độc lập Việt Nam?
Những ý kiến thuộc về giới bất đồng chính kiến thâm niên cũng cùng lúc hướng đến một số hội nhóm nghề nghiệp khác như hội luật sư độc lập, hội mỹ thuật độc lập, hội điện ảnh độc lập… và tất nhiên không thể thiếu một nghiệp đoàn độc lập dành cho người lao động, hay cụ thể hơn là nghiệp đoàn công nhân, tương ứng với một trong những tiêu chí đầu bảng nằm trên bàn đàm phán về TPP giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.

Áp lực quốc tế đã khiến Việt Nam cởi mở hơn về xã hội dân sự?
Không phủ nhận là cửa đã mở. Không chỉ hé mở mà đã vượt qua chế độ khép hờ, nếu nhìn lại việc chỉ đến cuối năm 2013, sau cuộc làm việc không tuyên bố tại Hà Nội của một quan chức Bộ ngoại giao Hoa Kỳ là Phó trợ lý ngoại trưởng Scott Busby, Nhà nước Việt Nam mới bắt đầu lấp ló cái nhìn khiên cưỡng - như thái độ dần phải thừa nhận về vai trò của xã hội dân sự trong một tương lai mà thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã úp mở về “cải cách thể chế”, “cơ chế phản biện” và “người dân được quyền làm những gì pháp luật không cấm”.
Hiển nhiên nếu tham chiếu Hiến pháp Việt Nam năm 1992 và bản hiến pháp mới nhất có hiệu lực vào đầu năm 2014, việc một nhóm trí thức nào đó tự nhiên thành lập hội là không thể vi phạm pháp luật. Vào ngày 18/2/2014 và trùng với thời điểm phiên tòa xử phúc thẩm luật sư Lê Quốc Quân cùng cái chết quá khó để minh bạch của viên Thượng tướng kiêm Thứ trưởng Bộ công an Phạm Quý Ngọ, một hội đoàn độc lập rất đặc biệt có tên “Hội cựu tù nhân lương tâm Việt Nam” đã ra đời.
Thành lập suôn sẻ
Một trong những điểm khởi thủy thú vị nhất của hội đoàn này chính là tính chất dân sự và độc lập của nó đã được biểu hiện ngay từ lúc phôi thai: không trải qua bất cứ một thủ tục “xin phép” nào đối với chính quyền. Cũng không tốn kém thời gian vào giai đoạn “ban vận động”, mà như một mặc định, những người từng chịu cảnh tù đày đã tổ chức sinh hoạt với nhau một cách bài bản và chặt chẽ. Một điểm khác thú vị không kém là cho đến nay, chưa có bất cứ thành viên nào của Hội cựu tù nhân lương tâm VN bị chính quyền “thăm hỏi”, cho dù ai cũng biết không ít thành viên của hội đoàn này từng chịu án tù “phản cách mạng” đến vài chục năm.

Các nhóm dân sự ở Việt Nam thường bị chính quyền sách nhiễu
Khách quan và tế nhị, có thể cho rằng “thời kỳ sợ hãi” đang dần trôi qua. Sắc mùa của xã hội dân sự ở Việt Nam đang chuyển sang thời đoạn mà mỗi hội sinh ra đều là một thách thức đối với chính nó. Với những chỉ dấu chuyển từ hệ thống nhất nguyên sang đa nguyên đang phát lộ một cách thầm kín nhưng ngày càng dày hơn, giới chính kiến độc lập không còn quá phải lo lắng về chuyện có thể bị sách nhiễu hoặc bị bắt bớ như vào những năm trước. Nhưng cũng vào chính lúc này, sức ép tinh thần kèm trách nhiệm lại hiện hình trên con đường của họ: làm thế nào để các hội đoàn độc lập thể hiện đúng tinh thần “tự do biểu đạt”, và trên hết là là biểu đạt một cách có ý nghĩa nhất, thiết thực nhất đối với đời sống dân trí, dân sinh và dân quyền?
Thực ra, những tiền lệ trứng nước về hội nhóm dân sự độc lập đã hình thành từ năm 2009 với sự ra đời của trang mạng Bauxite Vietnam. Đến năm 2013, nhóm Kiến nghị 72 là một bước chuyển tiếp chưa từng thấy về những đề nghị cải cách Hiến pháp và chế độ một đảng - hiện tượng có thể so sánh với phong trào Hiến chương 77 ở Tiệp Khắc năm 1977 và phong trào dân chủ đối lập của Viện sĩ Sakharov ở Liên Xô vào năm 1986.
Bất ngờ chìm lắng
Rất khó hiểu là lại xuất hiện một hiện tượng kỳ quặc vào nửa cuối năm 2013, trong bối cảnh áp lực quốc tế dâng cao khiến chính quyền và ngành công an không xúc tiến bắt giam thêm một nhân vật bất đồng chính kiến nào, thậm chí vài thành viên trẻ của phong trào dân chủ ở Việt Nam còn được trả tự do, bầu không khí thực chứng của xã hội dân sự lại chìm lắng một cách đáng ngạc nhiên. Chỉ có thể giải thích: tình cảnh này xem ra khá đồng cảm với nạn suy thoái trầm kha của nền kinh tế Việt Nam.

Hiện chưa có sự tương thân giữa các thành viên các nhóm dân sự?
Người ta có thể chứng nhận sự xuất hiện khá nhanh chóng của một số hội nhóm vào nửa cuối năm 2013 như Mạng lưới blogger Việt Nam, Diễn đàn xã hội dân sự, Hội bầu bí tương thân, nhóm Phụ nữ nhân quyền Việt Nam… Tuy nhiên giới quan sát cũng không tránh khỏi cảm giác không mấy an tâm về thái độ thiếu bền vững về chiến lược và cả sách lược hành động của một vài hội nhóm dân sự. Điều chứng thực là cho đến nay có nhóm dân sự vẫn chỉ tồn tại trên danh nghĩa mà gần như chưa có bất cứ một hoạt động xứng đáng nào với tên gọi của nó.
Tình hình có vẻ trái khoáy như thế đã dẫn đến một câu hỏi nan giải: cho dù xã hội dân sự là một “mảng thú vị” trong đời sống của giới trí thức và các bạn trẻ không cùng quan điểm chính trị với chính quyền, song sự thật không thể chối bỏ là phong trào hình thành hội nhóm dân sự đã chuyển dịch theo hướng thiên về số lượng chứ không phải chất lượng trong ít nhất từ tháng 9/2013 đến nay.
Thiếu khuôn mặt mới
Thậm chí, việc vận động thành viên mới ở nhiều hội nhóm vẫn là một thách thức quá lớn. Với khá nhiều hội nhóm dân sự, người ta vẫn chỉ nhìn thấy những khuôn mặt quen thuộc. Sự thiếu vắng những gương mặt mới cũng phần nào cho thấy tâm lý dè dặt và sợ sệt vẫn nổi lên trong số đông quần chúng, lồng trong bối cảnh đa phần hội nhóm dân sự chưa thể thiết lập kế hoạch hành động liên tục và gắn kết với cuộc sống của các tầng lớp dân nghèo.

Mỹ đang trông chờ có những chuyển biến tích cực về nhân quyền ở Việt Nam
Không những thế, một lần nữa lịch sử nền văn hóa tiểu nông lặp lại. Trong thời kỳ manh nha của xã hội dân sự ở Việt Nam, tình trạng xa cách giữa các hội nhóm và xa biệt giữa các thế hệ đã biến thành cái dằm xốn xang trong mắt những người nhiệt tâm. Với một số hội nhóm dân sự, bài toán hiệu quả hoạt động chỉ nằm ở một mắt xích đơn giản nhất: nếu thành viên của họ đa phần là những người từ sáu chục tuổi trở lên, liệu ai sẽ là lớp trẻ để gánh vác những hoạt động cụ thể?
Đó là một thực tế không thể phủ định, cũng như hiện trạng mà công luận đang nhìn thấy ở vài hội nhóm dân sự như Văn đoàn độc lập Việt Nam. Cho dù được cho là một hội đoàn tập hợp trí tuệ và nhiều trí thức có tên tuổi, song chừng đó vẫn là quá ít ỏi cho tương lai xã hội dân sự nếu hoạt động chủ yếu của những hội đoàn như vậy chỉ nhằm tung ra những bản kiến nghị trên mạng và tổ chức hội thảo khoa học.
Một thực tế khác là hiện tượng “lão hóa” và thiếu kết nối với giới trẻ có lẽ đã khiến nhóm Kiến nghị 72, sau nửa đầu năm 2013 chiếm vị trí số một về cách tân dân chủ, cho đến nay chỉ tồn tại chủ yếu bằng vào hoạt động của nhóm Diễn đàn xã hội dân sự.
Vận động công khai
Trong tâm tư nhiều người trẻ tuổi, đã đến lúc các nhóm dân sự, đặc biệt những nhân sĩ và trí thức có tên tuổi, cần chuyển hành động phản biện từ “online” sang “offline”, từ hình thức kiến nghị đang giảm dần sức hút trên mạng Internet sang những hoạt động sinh hoạt, vận động công khai và tất nhiên mang tính ôn hòa ngoài đời.

Các hội nhóm nên chuyển từ trên mạng sang vận động công khai?
Khác hẳn với hình thức hội đoàn nhà nước, các thành viên của hội đoàn dân sự độc lập xuất phát từ sự khác biệt chính kiến với đảng và chính quyền. Do vậy, trong một hoàn cảnh và ở một mức độ nào đó họ có thể bị đe dọa bởi mối rủi ro như những can thiệp của chính quyền đối với họ về công ăn việc làm, kinh tế gia đình, an ninh cá nhân… Từ tâm trạng này, thật dễ hiểu khi nhiều người trẻ tuổi trong phong trào dân chủ xướng lên một câu hỏi rất thiết thực: nếu một thành viên trong lớp “cận vệ già” bị chính quyền bắt giữ hoặc bị bắt giam vì lý do nào đó, liệu đội cận vệ ấy có đồng lòng kéo đi đòi trả tự do cho người bị bắt hay không?
Câu trả lời đang trở nên khó hiểu và càng khó xử. Thực tế chưa cho thấy nhiều bằng chứng về tính đoàn kết ngay giữa những trí thức gạo cội. Thậm chí khá ngược ngạo, một số trí thức vẫn mang nặng tình cảm cái tôi tuyệt đối và vai trò “lâu đài”, đặt quyền lợi và danh tiếng cá nhân vượt trên mục tiêu chung của con đường đấu tranh dân chủ cho dân tộc. Tâm thế này đã triệt tiêu không ít động lực tương thân tương ái trong khối trí thức và gây ảnh hưởng không nhỏ về tâm lý đối với các thành viên trẻ và khối cảm tình viên.
Năm 2014 đã sang trang. Bản thông điệp đầu năm của thủ tướng có thể không mang nhiều dấu ấn về lòng thành chính trị, nhưng lại có ý nghĩa như một tính toán đầy quyết tâm và quyết liệt, đặc biệt gợi cảm cho “phe lợi ích”. Điều trớ trêu là không khí dân chủ cũng phát tác chủ yếu từ động thái chạy đua với thời gian ấy.
Xu hướng hình thành các hội đoàn độc lập đang và sẽ lan dần, cùng triển vọng năm nay số hội nhóm dân sự ra đời có thể gấp đôi so với năm 2013. Tuy nhiên hàng loạt câu hỏi lại nảy sinh một cách gay gắt và đòi hỏi tính quả quyết: làm thế nào để tạo dựng tính cách độc lập riêng biệt cho khối hội đoàn dân sự - độc lập với nhà nước về quan điểm, nội dung hoạt động, nhân sự, tài chính? Làm thế nào để các nhóm dân sự không bị rơi vào quán tính mài mòn đũng quần và ù lì sáng tạo như các hội đoàn nhà nước, không trở thành một cơ quan “định hướng tuyên truyền” hoặc đơn giản là không bị biến thành một chỗ vui chơi hội hè và xài tiền đóng thuế của dân chúng? Và làm thế nào để trong tương lai gần, các hội đoàn dân sự độc lập sẽ không quá “độc lập” với nhau về mối quan hệ và các trách nhiệm dân sự?
Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn của tác giả, một nhà báo tự do sống tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Ts Phạm Chí Dũng

Thành quả và tương lai quỹ VEF

Quỹ giáo dục VEF có nhiều chương trình, dự án hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu cho Việt Nam.

Vietnam Education Foundation (VEF) là quỹ giáo dục được khởi xướng năm 2003 qua một đạo luật của Quốc hội Mỹ với mục đích cấp học bổng cho sinh viên từ Việt Nam sang Hoa Kỳ theo học cấp thạc sĩ, tiến sĩ và đưa các giáo sư, học giả Việt và Mỹ đến nghiên cứu, giảng dạy tại các đại học của hai quốc gia.
Sau hơn 10 năm hoạt động, đến nay đã có trên 450 suất học bổng VEF cấp cho sinh viên Việt Nam. Ngân sách VEF hiện nay là 5 triệu đôla để tài trợ cho 40 sinh viên mỗi năm. Quỹ sẽ chấm dứt hoạt động vào năm 2018 nếu không được quốc hội gia hạn.
Cuối tuần qua, một phái đoàn VEF đã đến California để gặp gỡ và trình bày với cộng đồng người Mỹ gốc Việt về quá trình hoạt động và giải đáp những thắc mắc về quỹ.
Buổi gặp gỡ đầu diễn ra tại Westminster ở Quận Cam, Nam California và buổi thứ hai ở San Jose, miền Bắc California.
Tiến sĩ Lynne McNamara, giám đốc điều hành VEF, nói về sự hình thành của quỹ và phương cách tuyển chọn sinh viên. Theo bà, đó là một quá trình minh bạch, công bằng để chọn những sinh viên xuất sắc nhất.
Các ứng viên phải có bằng cử nhân hay thạc sĩ, giỏi anh ngữ (điểm TOEFL cao), được sự giới thiệu của ba người và sau đó phải qua một cuộc phỏng vấn để trình bày về nhân thân, quá trình học tập, việc làm và mơ ước cũng như dự tính đóng góp tương lai cho nước Việt Nam sau khi hoàn tất học trình tại Mỹ.




Đã có những ứng dụng tại Việt Nam của sinh viên VEF trong việc trồng cà chua, trồng nho từ kiến thức học được ở Mỹ, cụ thể là từ Đại học U.C. Davis hay những nghiên cứu về vùng Delta ở Louisiana có thể áp dụng cho vùng Mekong ở Việt Nam"
Theo lời bà Lynne, hiện nay nhiều cơ sở giáo dục Mỹ đã biết đến trình độ giỏi của du sinh Việt là qua sinh viên VEF có mặt tại nhiều đại học danh tiếng của Hoa Kỳ.
Sau phần trình bày của bà giám đốc, ba thành viên người Mỹ gốc Việt trong hội đồng quản trị VEF là ông David Dương, bà Lan Anh Phúc Nguyễn và bà Quyên Ngọc Vương cũng đã nói về quỹ học bổng.
Giải thích của các thành viên VEF nhằm làm sáng tỏ nghi ngờ cho rằng các suất học bổng thường dành cho con cháu cán bộ hay những ai quen biết với giới chức quyền, còn dân nghèo không có cơ hội.
Bà Quyên nói về tính minh bạch và mở trong việc VEF tuyển chọn. Bà kể lại một chuyến đi Việt Nam quan sát cuộc phỏng vấn của đại diện VEF, là những giáo sư hay chủ nhiệm khoa từ đại học Mỹ, với các ứng viên trong tiến trình tuyển chọn để trao học bổng. Mỗi sinh viên có 45 phút trả lời trực tiếp những câu hỏi do ban tuyển chọn đưa ra.
Trả lời một câu hỏi của người tham dự, bà Lynne nói những năm đầu của chương trình có đến 1200 sinh viên cho biết họ có ý định xin học bổng VEF, nhưng sau khi xem các điều kiện, con số giảm xuống chừng 400 thực sự nộp đơn. Qua tiến trình xét đơn, khoảng 100 được mời tham dự phỏng vấn để cuối cùng VEF chọn ra 40 sinh viên.

'Cơ hội đồng đều'

Đại diện VEF (từ trái) bà Ngọc Vương, ông David Dương, bà Lan Anh và TS Lynne McNamara trao đổi với cử tọa.
Tiến sĩ Lynne McNamara nói mọi sinh viên đều có cơ hội đồng đều vì việc nộp đơn học bổng VEF chỉ được thực hiện trên mạng. Ba năm gần đây các ứng viên còn phải qua kỳ thi GRE – bài thi trắc nghiệm trình độ của sinh viên Mỹ khi xin học ban thạc sĩ tại những đại học Hoa Kỳ – vì thế số sinh viên nộp đơn giảm xuống còn khoảng 300. Như thế cho thấy những ứng viên VEF phải là sinh viên thực sự giỏi.
Một khách dự nêu vấn đề sinh viên sau khi tốt nghiệp Mỹ trở về không được tin tưởng, trọng dụng chỉ vì họ được học bổng VEF hay Fulbright ở Mỹ. Theo lời khách, muốn có những ảnh hưởng lâu dài, các đại học Mỹ có quan hệ với đại học Việt Nam cần định chế hoá các quan hệ để sinh viên tốt nghiệp trở về có cơ hội mang kiến thức ra phục vụ.
Vị khách nói thêm đó có lẽ là nguyên do khiến một số sinh viên, mà cá nhân cô có biết, sau khi hoàn tất chương trình với học bổng VEF đã không ở lại Việt Nam làm việc.
Tiến sĩ McNamara cho biết một sinh viên sau khi hoàn tất chương trình học tại Hoa Kỳ, phải trở về nước làm việc hai năm. Rất là khó nếu muốn ở lại vì chính phủ Mỹ không cho phép. Sau hai năm, họ có thể sống và làm việc ở bất cứ nơi nào.




Một sinh viên sau khi hoàn tất chương trình học tại Hoa Kỳ, phải trở về nước làm việc hai năm. Rất là khó nếu muốn ở lại vì chính phủ Mỹ không cho phép. Sau hai năm, họ có thể sống và làm việc ở bất cứ nơi nào"

TS. Lynn McNamara
Còn chuyện ganh tị, theo bà có lẽ là giữa người có bằng tiến sĩ từ Mỹ với những người trong nước không có bằng tiến sĩ. Bà cũng thừa nhận dự án cho một đại học Mỹ (American University) ở Việt Nam vẫn chưa đi đến đâu.
Trả lời câu hỏi về kết quả cụ thể cựu sinh viên VEF đã đem lại cho Việt Nam, bà Lynne nói vì mất đến 7 năm để hoàn tất bằng tiến sĩ, các sinh viên về nước làm việc chưa được lâu nên kết quả còn ít. Tuy nhiên đã có những ứng dụng tại Việt Nam của sinh viên VEF trong việc trồng cà chua, trồng nho từ kiến thức học được ở Mỹ, cụ thể là từ Đại học U.C. Davis hay những nghiên cứu về vùng Delta ở Louisiana có thể áp dụng cho vùng Mekong ở Việt Nam.
Trong buổi nói chuyện đã có sự hiện diện của hai sinh viên VEF đang theo học Đại học U.C. Berkeley là Nguyễn Trà Mi, người gốc Nha Trang, và Nguyễn Đức Giang gốc Bắc Ninh.
Nữ sinh viên Trà Mi học tiến sĩ khoa xây dựng và môi trường, nam sinh viên Đức Giang học tiến sĩ vật lý. Đại học Berkeley từ năm 2004 đã đón nhiều sinh viên VEF.
Bạn Giang trình bày dự án xuất bản một tạp chí khoa học trên mạng bằng song ngữ Việt-Anh, có tên Vietnam Journal of Science, với mục đích phổ biến thông tin khoa học của người Việt, ứng dụng nghiên cứu hấp dẫn, những bài viết khoa học đã được đồng nghiệp phê chuẩn và cũng để giới thiệu với thế giới những nhà khoa học của Việt Nam. Số đầu tiên dự định ra mắt vào tháng 4 này.

Một lưu học sinh Việt Nam trong chương trình VEF giới thiệu công trình nghiên cứu tập thể.
Qua con đường của tạp chí này, nhóm chủ trương sẽ bước xa hơn bằng cách chọn ra những bài giá trị để xuất bản một tạp chí khoa học có chuẩn mực cao [ISI scientific journal] bằng Anh ngữ để góp phần với các nghiên cứu khoa học quốc tế.
'Để giúp Việt Nam'
Nhìn vào danh sách mấy trăm sinh viên VEF đã tốt nghiệp trong hơn 10 năm qua với hàng trăm bài nghiên cứu được phổ biến, như thế việc có một tạp chí để những nhà khoa học Việt công bố công trình nghiên cứu là cần thiết vì nó sẽ giúp đưa trình độ khoa học Việt Nam lên mức cao hơn.
Từ ngày khởi xướng, quỹ VEF nhắm đến các lãnh vực học tập và nghiên cứu thuộc về khoa học tự nhiên, khoa học vật lý, môi trường, công nghệ và y tế công cộng.
Ngoài việc tài trợ cho sinh viên đến Mỹ học thạc sĩ và tiến sĩ, VEF còn có chương trình dành cho những học giả Việt Nam sang Hoa Kỳ nghiên cứu ngắn hạn và đưa giáo sư Mỹ sang Việt Nam giảng dạy tại các đại học.




Càng mở rộng thì càng giúp được nhiều hơn cho bà con ở quê nhà có cơ hội học tập tại Hoa Kỳ, nâng cao trình độ giáo dục, giúp phát triển công nghệ, kinh tế và sẽ đem đến thay đổi nhiều mặt cho đất nước"

Ông David Dương
Ban tổ chức VEF gửi lời nhắn đến cộng đồng hãy khuyến khích bạn bè, con em hay người quen có quốc tịch Việt Nam nên nộp đơn xin học bổng này. Hạn chót nộp đơn cho năm nay là ngày 10/4/14.
Nhiều đại học danh tiếng như Cornell, Rutgers, University of Utah, Michigan State U., Washington State U., University of Texas in Houston, U.C. Berkeley v.v.. đã có thư ca ngợi thành quả học tập của các sinh viên VEF và lên tiếng ủng hộ học bổng này.
Trong quan hệ giúp đỡ giáo dục Việt Nam để phát triển, VEF là một mảng của chương trình này. Theo thống kê, hiện có khoảng 17 nghìn sinh viên từ Việt Nam, đứng thứ 8 trong số sinh viên nước ngoài tại các đại học Mỹ.
Sau buổi gặp gỡ, người viết bài hỏi ông David Dương về tương lai VEF và được biết hội đồng quản trị cũng như ban điều hành quỹ mong tiếp tục có sự hỗ trợ từ quốc hội Mỹ, từ phía chính phủ Việt Nam, từ những cá nhân, công ty đang đầu tư ở Việt Nam và từ cộng đồng người Mỹ gốc Việt để mở rộng quan hệ giữa hai quốc gia.
Ông nói quỹ càng mở rộng thì càng giúp được nhiều hơn cho bà con ở quê nhà có cơ hội học tập tại Hoa Kỳ, nâng cao trình độ giáo dục, giúp phát triển công nghệ, kinh tế và sẽ đem đến thay đổi nhiều mặt cho đất nước.
Bài báo thể hiện quan điểm riêng và lối hành văn của tác giả, một nhà báo tự do đang sinh sống và làm việc ở Hoa Kỳ.
Bùi Văn Phú

Không có đồng bào, không có đồng chí, chỉ có đồng lõa

Chuacuuthe

Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận
số 191 (15-03-2014)
VRNs (17.03.2014) – Thừa Thiên Huế - Trong cuộc sống của loài người, có nhiều mối dây liên kết diễn tả qua chữ “đồng”, như đồng môn, đồng hương, đồng đạo, đồng nghiệp…, nhưng có lẽ hai mối dây liên kết được người Cộng sản đề cao nhiều nhất là đồng bào và đồng chí, không những tại Việt Nam mà ở toàn thể các nước phe xã hội chủ nghĩa.

Ta hãy nghe lại một đoạn trong lá thư của ông Hồ Chí Minh viết vào tháng 10-1944: “Toàn quốc đồng bào! Toàn thể đồng chí! Tháng 8 năm 1942, tôi vâng lệnh Đoàn thể đi cầu ngoại viện. Chẳng may gặp sự hiểu lầm ở ngoài, làm cho đồng bào, đồng chí lo phiền cho tôi hơn một năm giời. Vậy, một mặt thì tôi phải thừa nhận vì tôi hành động không đủ khôn khéo để đồng bào, đồng chí phải phiền lòng, một mặt thì tôi rất cảm ơn lòng thân ái của đồng bào, đồng chí đối với tôi. Trong sự rủi lại có sự may. Nhân dịp ở ngoài mà tôi hiểu rõ tình hình thế giới và chính sách của các hữu bang, trước hết là Trung Quốc. Nay tôi mang về cho đồng bào, đồng chí một món quà cực kỳ quý báu, tức là lòng đồng tình sốt sắng của 450 triệu đồng bào Trung Quốc đối với 25 triệu đồng bào Việt Nam về cái tin Trung Quốc sẽ tích cực giúp đỡ cuộc dân tộc giải phóng của chúng ta….” (Hồ Chí Minh toàn tập, t.3).

Ngoài ra, ông Hồ còn vô số thư gởi đồng bào các giai tầng, các sắc tộc và các tôn giáo. Sau cuộc chia đôi đất nước, ông ta lại luôn nói về đồng bào miền Nam. Tác giả Phạm Thị Thắng, trong bài “Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà”, có kể câu chuyện như sau: “Năm 1962, đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, do giáo sư Nguyễn Văn Hiếu dẫn đầu đến thăm Bác. Hôm đó đoàn tặng Bác rất nhiều quà quý… Khi nhận quà, Bác rất xúc động, một đồng chí trong Ban bí thư Trung ương thưa với Bác: “Thưa Bác, Bác có quà gì tặng miền Nam không ạ?”. Tất cả mọi người hồi hộp chờ đợi xem Bác tặng quà gì cho miền Nam. Bác vẫn đứng im nhìn mọi người âu yếm, rồi Bác nói: “Bác chẳng có cái gì để tặng cho đồng bào miền Nam cả. Bác chỉ có cái này”. Bác đặt tay lên ngực của mình, nơi con tim đang đập và nói: “Quà Bác tặng cho đồng bào và chiến sĩ miền Nam đây! Hình ảnh miền Nam yêu quý luôn luôn trong trái tim tôi”. Ngỡ như lãnh tụ CS họ Hồ chỉ có hai tâm tình sâu đậm là tình đồng chí và tình đồng bào!

140317004Thế nhưng chính con người ấy lại đã ra tay tàn độc đối với các đồng chí thân thiết: nào thủ tiêu những người từng là cộng tác viên đắc lực hay từng vào sinh ra tử với mình như chiến hữu Lâm Đức Thụ, đại biểu Dương Bạch Mai, đại tướng Nguyễn Chí Thanh… nào tống vào tù đại công thần đã đem cả cuộc đời hi sinh chiến đấu dựng lên đảng và nhà nước cộng sản: người hùng Điện Biên Phủ tướng Đặng Kim Giang, nhà cách mạng tiền bối kiêm thư ký riêng Vũ Đình Huỳnh, viện trưởng viện triết học Mác-Lênin Hoàng Minh Chính… nào đày đọa cho đến chết những nhà trí thức uyên bác đã theo mình về nước làm cách mạng: thạc sĩ Trần Đức Thảo, luật sư Nguyễn Mạnh Tường… hay những văn nhân nghệ sĩ đã từng phục vụ chế độ và tô hồng xã hội cộng sản trong nhóm Nhân văn Giai phẩm. Chưa kể biết bao đồng chí và đồng đảng CS đã là nạn nhân của chính lãnh tụ tàn độc có một không hai này. Còn đối với đồng bào ruột thịt miền Bắc thì Hồ Chí Minh đã ra lệnh tàn sát trực tiếp và gián tiếp nửa triệu điền chủ và nông dân trong cuộc Cải cách Ruộng đất (trong đó có bà Cát Hanh Long là đại ân nhân của đảng), đối với đồng bào ruột thịt miền Nam thì hàng vạn vạn dân thường đã chết trong cái gọi là “cuộc chiến tranh giải phóng”, đặc biệt trong cuộc tổng công kích tết Mậu Thân mà chính Hồ Chí Minh phát động.

Đang khi đó, bên các “nước anh em”, Lênin, Stalin và Mao Trạch Đông cũng mở những cuộc đại thanh trừng đối với các đồng chí thân thiết, đại tàn sát đối với các đồng bào thân yêu mà con số nạn nhân phải tính là hàng chục triệu (nói chung, các lãnh tụ CS đã đưa về chín suối 100 triệu đồng bào của mình). Chưa nói đến chuyện cùng chung lý tưởng Cộng sản, nhưng các đồng chí Đệ III Quốc tế đánh nhau chí tử với các đồng chí Đệ IV Quốc tế, các đồng chí Liên Xô đánh nhau chí tử với các đồng chí Trung Hoa, với các đồng chí Nam Tư; đến lượt các đồng chí Trung Hoa đánh nhau chí tử với các đồng chí Việt Nam, các đồng chí Việt Nam lại đánh nhau chí tử với các đồng chí Khmer đỏ….

Những kẻ kế tục Hồ Chí Minh cho đến hôm nay cũng không làm gì khác. Điển hình là Lê Đức Thọ và phe cánh đã thủ tiêu các đồng chí như đại tướng Lê Trọng Tấn năm 1986, đại tướng Hoàng Văn Thái cũng năm 1986, thượng tướng Đinh Đức Thiện (em ruột của Thọ) năm 1987, trung tướng Phan Bình cũng năm 1987… Mới đây là thượng tướng Phạm Quý Ngọ cũng bất ngờ qua đời, mà dư luận cho rằng đã bị các đồng chí thủ tiêu để bịt đầu mối, chỉ một ngày sau khi có quyết định sẽ điều tra và khởi tố việc Ngọ nhận 1.5 mỹ kim từ Dương Chí Dũng. Ngoài ra còn bao nhiêu cuộc thanh trừng nội bộ, thủ tiêu đồng chí chưa bị lộ trong đảng Cộng sản. Đó là chưa kể vô vàn đồng chí chết trong trận chiến Biên giới 1979, trận chiến Gạc Ma 1988 mà đã bị chôn vùi ký ức, bị đục bia tưởng niệm, bị cấm cản truy điệu…

Còn cái gọi là “cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam” thực chất chỉ là cuộc tàn sát đồng bào (theo kế hoạch của Mao: đánh Mỹ cho tới người Việt cuối cùng để mở rộng đế quốc Tàu đỏ), khiến gần 4 triệu dân Việt ở cả hai miền phải tan thây. Rồi cái gọi là cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa (mà theo Nguyễn Phú Trọng thì tới cuối thế kỷ này chưa chắc đã thành công) thực chất chỉ là cuộc hăm dọa đồng bào tận mức, bóc lột đồng bào tận xương và đàn áp đồng bào tận lực.

Hăm dọa đồng bào miền Nam tận mức qua chính sách kỳ thị ngụy quân ngụy quyền, chủ trương cải tạo tư sản, chương trình di dân kinh tế, kế hoạch chỉnh trang đô thị, khiến hàng triệu người phải điêu đứng cuộc sống vốn an lành, phải liều mạng vượt biên vượt biển ra hải ngoại.

Bóc lột tận xương hàng triệu đồng bào công nhân trong các công ty xí nghiệp quốc doanh lẫn tư doanh, qua bàn tay của các chủ nhân nội quốc lẫn ngoại quốc được đảng o bế, của các công đoàn lao động được đảng điều khiển. Bóc lột hàng vạn đồng bào xuất khẩu lao động ra nước ngoài qua việc tước đoạt gia sản của họ để làm tiền ký quỹ, qua việc bỏ mặc thân phận của họ cho các đại gia cá mập nước ngoài. Bóc lột hàng triệu đồng bào nông dân qua điều khoản Hiến pháp chết tiệt và điều luật Đất đai trời đánh: “Đất đai thuộc về toàn dân do Nhà nước đại diện sở hữu”, qua những cuộc cấu kết giữa bộ máy nhà nước và tập đoàn kinh doanh (VN hoặc ngoại quốc) để đẩy các thường dân vô tội đến cảnh khốn cùng, xuống hố tuyệt vọng.

Ta hãy nghe Nhóm phóng viên RFA tường trình trong bài “Đất Quảng Trị tràn ngập người Trung Quốc” ngày 03-03-2014: “Thời gian gần đây, hầu như mọi mảnh vườn ở làng Hà Tây, xã Triệu An, huyện Triệu Phong đều lâm vào nạn xâm lăng một cách trắng trợn của người Tàu và nhà cầm quyền địa phương. Nghĩa là khi người Tàu đến đây, việc đầu tiên họ làm là tìm đến các cơ quan, các quan chức để bằng mọi giá liên kết, đút lót và mua chuộc bằng được các quan chức này. Để rồi sau đó là những hành động xâm lăng…. Thay vì thỏa thuận với nhân dân để mua đất, người Tàu lại mua chuộc và biến quan chức địa phương thành tay sai của họ, các quan chức địa phương nghiễm nhiên trở thành con rối trong cuộn dây giật của người Tàu. Thay vì bảo vệ cuộc sống đồng bào và bảo vệ quyền lợi quốc gia, quan chức địa phương lại bằng mọi giá bảo vệ người Tàu, xem họ như những quan thầy. Và bất chấp nỗi tủi nhục, đau khổ của nhân dân, họ dùng thủ đoạn này đến thủ đoạn khác để biến đất canh tác, đất vườn của nhân dân thành công trình của người Tàu”.

Đàn áp tận lực toàn thể đồng bào qua nền pháp chế hà khắc, bóp nghẹt mọi quyền tự do; qua những chủ trương chính sách vừa duy ý chí, vừa thậm ngu dốt, vừa vô hiệu quả; qua hệ thống cai trị vừa gian manh, vừa tham nhũng, vừa tàn bạo; qua bộ máy công an (và trợ thủ như dân phòng, côn đồ, đoàn thanh niên CS…) chỉ biết vâng lời mù quáng, hành hung tàn nhẫn, cướp đoạt thẳng tay. Sự mù quáng này sẽ càng gia tăng qua chế độ chính ủy cho ngành công an vừa được thành lập, sự tàn nhẫn này sẽ thêm tầm mức nhờ pháp lệnh mới ban hành cho phép bắn bỏ kẻ bị gọi là chống nhân viên công lực. Đàn áp tận lực toàn thể đồng bào qua hệ thống tư pháp gồm những điều tra viên, công tố viên và quan tòa chỉ biết cúi đầu tuân lệnh cấp trên từ trung ương hay địa phương, đặc biệt trong các vụ án chính trị xét xử các công dân yêu nước, hoặc chỉ biết nhắm mắt vâng lệnh đồng tiền đút lót trong nhiều vụ án kinh tế, hình sự… Rồi còn đàn áp đồng bào qua chủ trương trấn dẹp mọi cuộc biểu tình, xuống đường đòi công lý quyền lợi, đòi tự do dân chủ, đòi tưởng niệm tử sĩ, đòi chống lại ngoại xâm, bằng những cách thức hoặc tàn nhẫn hoặc thâm độc, đê tiện hoặc lố lăng…

Thật ra, đối với người Cộng sản, chỉ có một dây liên kết quan trọng, đó là đồng lõa. Nghĩa là cùng chung tay làm chuyện bất lương, chung sức thực hiện tội ác, thường là đối với đồng bào bị trị của mình. Và bao lâu còn chia sẻ quyền lực lẫn chia chác quyền lợi với nhau, còn bao che cho nhau sai lầm lẫn tội lỗi (trước quốc dân lẫn quốc tế), thì còn song hành sánh bước, thì còn đồng chí đồng rận, thì còn tình quốc tế vô sản. Bằng chứng là lãnh tụ các nước cộng sản chỉ kết thân với nhau hay với lãnh tụ các nước độc tài, ôm hôn nhau thắm thiết khi gặp gỡ, bênh vực và bốc thơm nhau tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, viện trợ cho nhau tài lực vật lực bóc lột từ đồng bào của mình, đàn áp chính quốc dân đang tố cáo hay phản đối mưu đồ xâm lược của “nước lớn đại huynh”… để giúp nhau củng cố ngai quyền lực, ghế thống trị. Còn nếu tranh chấp quyền lợi, rắp tâm tố cáo lẫn nhau, hoặc tiểu đồng chí hết chịu nổi đại đồng chí thì thanh toán, thủ tiêu trong nội đảng, giữa hai đảng (như bao thí dụ trưng dẫn trên kia) hay rộng hơn thì gây chiến giữa hai quốc gia, hai dân tộc mà có thể đã từng thề thốt với nhau là “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, từng đề cao với nhau chuyện “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, từng xưng tụng với nhau đặc tính “sơn thủy tương liên, văn hoá tương thông, lý tưởng tương đồng, vận mệnh tương quan”.

Bất biết nghĩa đồng bào, tình đồng chí, một chỉ quan tâm đến mối đồng lõa, đó là bản chất của những con người cai trị, của những chính đảng lãnh đạo đặt quyền lợi của mình lên trên quyền lợi dân tộc, và dùng quyền lực của mình không phải để phục vụ mà là để bóc lột quốc gia đất nước. Và lịch sử nhân loại đã cho thấy Cộng sản chính là mẫu hình đặc trưng, tiêu biểu cho thực thể này.

Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận

số 191 (15-03-2014
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét