Tội ác của Trung Quốc trong trận chiến Gạc Ma
Mỗi năm vào ngày 14 tháng 3 các chiến sĩ trong trận hải chiến Gạc Ma
lại ngậm ngùi nhớ về những phút giây bị tàu Trung Quốc tấn công và cách
hành xử vô nhân đạo của họ đối với bộ đội Việt Nam. Hai mươi sáu năm
sau, những giờ phút kinh hoàng đó vẫn đọng lại trong nhiều người tuy với
suy nghĩ khác nhau nhưng cái chung vẫn là sự dã man của lính Trung
Quốc.
Ngày 14 tháng 3 năm 1988 hải quân Trung Quốc đã đưa quân đánh chiến đảo Cô Lin, bãi đá Len Đao và bãi Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Lúc đó những đảo này còn rất hoang sơ mặc dù Việt Nam đã tổ chức tuần tra theo dõi nhưng vẫn chưa xây dựng kịp những căn cứ tạm thời chứng minh chủ quyền trên đó.
Trong lần đem bộ đội công binh hải quân ra đảo để xây dựng căn cứ, ba tàu vận tải của Việt Nam không được trang bị như tàu chiến mà chỉ có vũ khí cá nhân để tự vệ đã bị 6 tàu chiến Trung Quốc tấn công. Kết quả là ba tàu Việt Nam bị chìm, 64 bộ đội công binh hải quân hy sinh, 11 người khác bị thương trong khi đó Trung Quốc cũng báo cáo là có 24 binh sĩ bị giết.
Trung Quốc bất chấp luật lệ quốc tế nó không cần gì cả, đấy là trận chiến đấu không cân sức mà. Một bên là vũ trang còn một bên là xây dựng. -Đại tá Phạm Xuân PhươngCuộc chiến không cân sức này đã để lại không những dấu ấn lịch sử đối với người dân Việt Nam về sự mất mát đất đai của ông cha mà nó còn hằn sâu nỗi đau của những anh bộ đội công binh hải quân, những người may mắn sống sót nhưng trong ký ức họ vẫn đọng lại những hình ảnh dã man của giặc.
Anh Lê Hữu Thảo, một trong vài nhân chứng còn sống sót kể lại giây phút chính anh chứng kiến lính Trung Quốc bắn vào đồng đội đang ngụp lặn dưới biển khi tàu của họ đã bị chìm. Mặc dù họ không còn khả năng tự vệ hay không thể sống sót nếu không được vớt lên nhưng lính Trung Quốc vẫn điềm nhiên nhìn họ chết dần dưới biển. Anh Thảo kể:
“Hành động của Trung Quốc quá là dã man, nó dã man như thế này: nó sử dụng vũ khí, dùng lê nó đâm và nó bắn luôn bộ đội mình. Bộ đội mình thì chủ yếu là tay không trên tay chỉ có mấy cái xẻng, xà beng để làm việc xây dựng thôi chứ không phải chiến đấu. Nó dã man nhiều chỗ lắm, khi bộ đội mình bị tàu chìm rồi thì nó vẫn bắn giết. Nó bắn chết người đang trôi trên biển. Nó không làm đúng như trong nghĩa vụ quốc tế là khi đối phương bị rơi xuống biển không còn vũ khí nữa thì phải có trách nhiệm cứu vớt. Nó không hề cứu vớt, nó không làm gì cả. Nó rất dã man đề cho mình tự chết hoặc nó bắn cho mình chết để cho cá mập ăn."
Đại tá Phạm Xuân Phương, một cán bộ cao cấp của Cục Chính trị xác nhận những chiếc tàu này là tàu vận tải, hoàn toàn không trang bị vũ khí như các tàu chiến nhưng vẫn bị Trung Quốc tấn công:
“Cái trận đó không phải là trận chiến đấu giữa hai lực lượng hải
quân với nhau mà bộ đội Việt Nam là bộ đội đi xây dựng, không vũ khí mà
tàu là tàu xây dựng chở nguyên vật liệu xây dựng. Trung Quốc bất chấp
luật lệ quốc tế nó không cần gì cả, đấy là trận chiến đấu không cân sức
mà. Một bên là vũ trang còn một bên là xây dựng hai chuyện rất khác
nhau. Chúng tôi cho rằng giữ được lá cờ và cố cho tàu đổ bộ lên trên đảo
là hành động đáng khen ngợi trong hoàn cảnh như thế.”
Quy luật của chiến tranh là giết chóc và dành chiến thắng trên máu của quân thù, thế nhưng sự giết chóc nào cũng bị lên án nếu vượt quá phạm vi đạo đức con người cho phép. Ngay trong chiến tranh, sự đau thương mất mát và các hành vi tàn sát đối phương hàng loạt trong các trận chiến vẫn là nỗi ám ảnh nhân loại dẫn đến việc khai sinh Luật Nhân đạo quốc tế, một phần chủ yếu trong Công Pháp quốc tế bao gồm các quy tắc nhằm bảo vệ những người đã bị loại khỏi vòng chiến, hay không còn khả năng chiến đấu. Luật Nhân đạo quốc tế được bốn nước Liên xô, Mỹ, Anh và Pháp ký ngày 8 tháng 8 năm 1945.
Trái công ước quốc tế
Quy luật của chiến tranh là giết chóc và dành chiến thắng trên máu của quân thù, thế nhưng sự giết chóc nào cũng bị lên án nếu vượt quá phạm vi đạo đức con người cho phép. Ngay trong chiến tranh, sự đau thương mất mát và các hành vi tàn sát đối phương hàng loạt trong các trận chiến vẫn là nỗi ám ảnh nhân loại dẫn đến việc khai sinh Luật Nhân đạo quốc tế, một phần chủ yếu trong Công Pháp quốc tế bao gồm các quy tắc nhằm bảo vệ những người đã bị loại khỏi vòng chiến, hay không còn khả năng chiến đấu. Luật Nhân đạo quốc tế được bốn nước Liên xô, Mỹ, Anh và Pháp ký ngày 8 tháng 8 năm 1945.
Bên cạnh đó Công ước Geneve ra đời tiếp theo sau đã quy định cụ thể từng hành vi được định nghĩa là tội phạm chiến tranh nhằm hạn chế việc giết người của kẻ chiến thắng hay của một đạo quân, một nhóm, thậm chí một cá nhân đi ngược lại với những quy định trong công ước này.
Công ước Geneva năm 1949, còn gọi là Công ước Geneve thứ hai, và các Nghị định thư bổ sung I và II năm 1977 ghi thêm điều khoản bảo vệ cho các người bị ốm, bị thương trên chiến trường hay trong các trận hải chiến. Điều này cũng bao gồm việc bảo vệ cho các quân nhân bị đắm tàu.
Những hành vi nào đi nữa trong chiến tranh mà đối xử tàn ác dã man đối với đồng loại đều đáng lên án, lên án một cách nghiêm khắc thậm chí còn phải lưu lại để người đời sau biết. -GS Vũ Minh GiangTrung Quốc tỏ ra không cần hiểu về nguyên tắc này nên quân đội của họ vô tư bắn vào kẻ thất trận, hơn nữa bỏ mặt nạn nhân giữa biển khơi cho cá mập ăn thịt là hành động của thời ăn lông ở lổ chứ không thể nói là của một quân đội nhất nhì thế giới. Những tuyên truyền về sự gìn giữ hòa bình của họ chỉ làm xấu thêm bộ mặt thật qua hai cuộc chiến với Việt Nam là cuộc chiến Biên giới 1979 và Gạc Ma năm 1988.
GS-TSKH Vũ Minh Giang Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết bất cứ ai cũng có thể lên án hành động sát nhân này, và cảm xúc ấy cần truyền lại cho người trẻ hơn để họ thấy và hiểu được lịch sử Việt Nam qua những cuộc chiến tranh giữ nước đối với giặc phương Bắc, ông nói:
“Cái cảm xúc của một con người, cảm xúc của một người bình thường thôi trước những hành vi vô nhân tính, dã man thì sẽ như thế nào? Đối với tôi những hành vi nào đi nữa trong chiến tranh mà đối xử tàn ác dã man đối với đồng loại đều đáng lên án, lên án một cách nghiêm khắc thậm chí còn phải lưu lại để người đời sau biết được cái đó. Với ý nghĩa đó sự kiện Gạc Ma thì như thế này: thứ nhất đây là câu chuyện có thể nói nó nằm trong cái mà chúng ta xác định đó là cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam trước sự xâm lấn của Trung Quốc.
Với ý nghĩa đó rồi đây lịch sự thậm chí trong sách giáo khoa tức là phần phổ biến lịch sử phải ghi vào vì là đây là sự việc thiêng liêng của Việt Nam đã chuyển rất nhiều đời mà vẫn còn chuyển đến mai sau, chắc chắn là như thế và chúng tôi kiên quyết làm việc này bằng được.”
Nhìn Gạc Ma dưới lăng kính tội phạm chiến tranh không phải để mang Trung Quốc ra tòa hay cổ vũ cuộc chiến đã lùi vào quá khứ, nhưng không thể không nhắc nhở sự tàn ác này của quân đội Trung Quốc nhất là mỗi ngày nó mỗi lớn mạnh và tỏ ra nguy hiểm hơn đối với Việt Nam.
Và lại càng phải nhắc tới khi từng phần chủ quyền đất nước đang mòn dần nếu cứ tiếp tục im lặng trên cái nền của lý thuyết phát triển quan hệ hợp tác giữa hai nước cộng sản anh em.
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-03-13
Báo Tuổi Trẻ và “Anh Tư” làm nhục Quốc thể!
Để tạo “dấu ấn” cho ngài Thường trực Ban Bí thư, Phạm Đức Hải đã nhập vai “anh Tư” để sáng tạo ra bài báo vu khống đầy dụng ý. Khiến người đọc có cảm giác ngài Đại sứ Michael W. Michalak là một kẻ xấu xa đang làm điều gì đó có hại cho đất nước Việt nam dù chẳng có bằng chứng xác thực nào, nhưng qua đó anh Tư ngầm “khuyến khích” bất cứ người dân nào cũng có thể dùng bạo lực đối với ngài Đại sứ khi ông ra khỏi phạm vi Sứ quán (nhằm mục đích gây rối an ninh, qua đó để đổ thừa, gây rối rắm cho Chính phủ?!).
Báo báo của “anh Tư” vu khống trắng trợn ngài Đại sứ |
Bài viết nôn nóng ghi điểm của Phạm Đức Hải với ngài Thường trực Ban Bí thư Trương Tấn Sang đã gây ra một làn sóng dư luận bất mãn với Chính phủ Việt Nam, dư luận (RFA, BBC, Facebook,…) còn cho rằng do “an ninh văn hóa chấp bút” để “ép” đăng trên báo Tuổi Trẻ.
Bức xúc đến nỗi ngài Đại sứ phải gửi thư riêng cho Phạm Đức Hải và hàng loạt quan chức cấp cao Việt Nam như Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm, Bộ trưởng Bộ TTTT Lê Doãn Hợp, Bộ trưởng Bộ Công an Lê Hồng Anh và cả Phó Tổng cục trưởng Tổng cục an ninh Huỳnh Hữu Chiến. Thế mà Phạm Đức Hải và báo Tuổi Trẻ vẫn nhắm mắt bịt tai làm ngơ, lúc đó do được sự bao che của ngài Thường trực Ban bí thư Trương Tấn Sang nên chẳng ai làm gì được.
Thư của ngài Đại sứ Michael W. Michalak phản đối báo Tuổi Trẻ |
Ngài Đại sứ đành phải đăng đàn, trả lời phỏng vấn nhiều báo đài để giải tỏa bức xúc và để dư luận thấy rõ bản chất sự việc. Báo BBC mở diễn đàn để giải tỏa cho ngài Đại sứ Mỹ, đài RFA đã làm cả một thiên phóng sự về vụ việc, trong đó, qua xác minh Ban Công tác bạn đọc, được biết bài báo trên hoàn toàn không qua bước thẩm định của ban này như “quy trình” mà trực tiếp đăng tải theo chỉ đạo của TBT Phạm Đức Hải. Phóng viên RFA cũng gọi điện trực tiếp thì Hải ậm ờ cho qua chuyện: “Dạ, tôi... tôi... tôi không biết anh ạ! Có gì anh... anh... anh... anh... anh... anh... anh... anh gọi lại nghe. Anh gọi lại sau nghe”, “Dạ không ạ! Không ạ! Anh... Anh... Anh... Có gì anh cứ tới báo với tôi nghe! Anh tới báo nói chuyện với tôi... nghe! Dạ vâng..”.
∇ Bấm vào để nghe bài tường thuật
|
Hiện nay bài báo của “Anh Tư” vẫn còn tồn tại trên phiên bản online của báo Tuổi Trẻ, ngông nghênh thách thức dư luận trong và ngoài nước bấy lâu.
Nguyên văn bài báo ký tên “anh Tư” trên phiên bản Tuổi trẻ online |
Ngài Đại sứ từng tâm sự với giới nhà báo khi kết thúc nhiệm kỳ tại Việt Nam: “Báo Tuổi trẻ và TBT Phạm Đức Hải đã làm nhục quốc thể Việt Nam!”, đánh giá này của ngài Đại sứ quả không sai chút nào.
Ngay cả cơ quan đại diện cho Chính phủ Mỹ mà báo Tuổi Trẻ còn dám vu
khống trắng trợn thì không lạ gì báo Tuổi Trẻ dưới thời Đức Hải, hằng
hà sa số những doanh nghiệp, cá nhân, thậm chí là rất nhiều chính trị
gia đều đã trở thành nạn nhân của tờ báo này để phục vụ cho mưu đồ của ai đó.
Chính phủ Mỹ còn không làm gì được Phạm Đức Hải thì đừng nói đến người
dân thấp cổ bé họng, ngay cả chính quyền Việt Nam cũng đừng hòng đụng
đến mắt cá chân của báo tuổi trẻ và TBT Phạm Đức Hải nếu “Anh Tư” còn
tại vị!
Người Trong Cuộc
Theo nhungthangnhamhiem
Thị trường và đức hạnh
Phiatruoc
Peter J. Hill, FEE
Phạm Nguyên Trường dịch
Phạm Nguyên Trường dịch
Nếu chỉ
nói về khả năng cung cấp hàng hóa và dịch vụ thì đa số người đều đồng ý
rằng chủ nghĩa tư bản đã hoàn toàn thắng lợi khi so sánh với những hệ
thống kinh tế khác, thí dụ như chủ nghĩa xã hội. Ngay cả như thế thì
nhiều người phê phán sở hữu tư nhân và thị trường cũng muốn có nhiều chủ
nghĩa xã hội hơn hay ít nhất cũng là giao vào tay chính phủ nhiều quyền
lực hơn. Họ biện luận rằng mặc dù chủ nghĩa tư bản hoàn thành sứ mệnh
theo nghĩa vật chất, nhưng không hoàn thành sứ mệnh theo nghĩa đạo đức.
Điều đó có nghĩa là chủ nghĩa tư bản không đáp ứng được một số tiêu
chuẩn về sự công bằng.
Tiểu luận
này thách thức quan điểm như thế bằng cách khảo sát một số lĩnh vực,
nơi mà đức hạnh nghiêng về phía thị trường. Điều đó không có nghĩa là xã
hội dựa trên thị trường tự do là xã hội đức hạnh, trong thị trường tự
do người ta có thể hành động phù hợp với đạo đức hoặc phi đạo đức, như
trong các hệ thống khác mà thôi. Nhưng chủ nghĩa tư bản có một số sức
mạnh đạo đức mà những hệ thống kinh tế khác không có.
Mặc dù
“thị trường” thường được coi là đối chọi với kế hoạch hóa tập trung hay
quyền sở hữu của nhà nước đối với tư liệu sản xuất nhưng nó không phải
là trật tự mang tính định chế như là chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng
sản. Chúng ta gọi xã hội dựa trên quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất
là chủ nghĩa tư bản hay thị trường tự do. Các cá nhân có thể sở hữu,
mua hoặc bán sở hữu (kể cả sức lao động của họ), đấy là nói nếu họ không
gian lận và họ có thể làm với tài sản của mình tất cả những gì họ muốn
miễn là không phương hại tới những người khác. Các cá nhân có thể trao
đổi tài sản của mình với người khác, và bằng cách đó tạo ra thị trường.
Quá trình trao đổi không phụ thuộc vào ai và chỉ cần một hệ thống sở hữu
tư nhân rõ ràng và được tôn trọng là nó có thể tồn tại được rồi.
Đặc trưng
cố hữu trong chủ nghĩa tư bản là khả năng: bảo đảm cho người ta quyền
tự do lựa chọn, thúc đẩy sự hợp tác, bảo đảm trách nhiệm, tạo ra tài sản
cho số đông dân chúng và hạn chế việc sử dụng bạo lực một cách quá
đáng.
Quyền tự do lựa chọn
Hệ thống
thị trường quan tâm rất ít tới biện pháp lí tưởng trong việc tổ chức đời
sống kinh tế. Các xã hội khác có thể ra lệnh cho người ta thành lập hợp
tác xã hay công xã hoặc nghề thủ công hay có thể cấm đoán những việc
như thế. Nhưng hệ thống tài sản tư nhân đưa ra một loạt hình thức tổ
chức khả dĩ; nếu người ta muốn hợp tác xã thì họ có thể sử dụng hình
thức này; nhưng người ta cũng có thể áp dụng những hình thức tổ chức sản
xuất khác, nếu muốn. Và trên thực tế, những người không muốn thị trường
hoặc muốn thiết kế những định chế khác cũng hoàn toàn được tự do làm
như thế.
Trong
suốt chiều dài của lịch sử đã từng có những nhóm người lựa chọn cách
thức hợp tác bên ngoài thị trường. Một trong những nhóm như thế là người
Hutterite, họ sống trong khu vực Bình Nguyên Lớn phía Bắc của Mĩ và
Canada. Họ không phải là những người theo chủ nghĩa tư bản. Trừ những
vật dụng tối cần thiết đối với cá nhân, tất cả tài sản trong khu vực của
người Hutterite đều là tài sản chung. Tất cả thu nhập đều được đem chia
đều cho những người sống trong khu vực, lao động không được trả lương.
Người
Hutterite có thể thành lập các khu vực định cư của mình mà không cần bất
cứ người nào trong xã hội cho phép. Không có ủy ban, không có các cơ
quan nào của chính phủ hay một nhóm những công dân có thiện ý nào phải
họp lại và quyết định xem cách sống của người Hutterite có phù hợp hay
không. Tự do lựa chọn phương án như thế là đặc trưng của xã hội thị
trường tự do.
Ngược
lại, xã hội kế hoạch hóa tập trung không bảo đảm quyền tự do cho những
người muốn tham gia buôn bán trên thương trường. Xã hội này ngăn chặn
buôn bán để phục vụ cho những mục tiêu khác và không nghi ngờ gì rằng nó
sẽ ngăn chặn những nhóm người tương tự như người Hutterite, nếu những
nhà cầm quyền không thích hình thức tổ chức của người Hutterite.
Hợp tác thay vì xung đột
Hệ thống
thị trường tự do, tài sản tư nhân thường được gán cho là hệ thống cạnh
tranh. Nhưng một trong những ưu điểm chủ yếu của hệ thống thị trường là
nó thúc đẩy hợp tác chứ không chỉ là cạnh tranh. Cạnh tranh quả thật có
tồn tại trong xã hội dựa vào thị trường, nhưng khi có sự khan hiềm thì
cạnh tranh sẽ thịnh hành, xã hội nào cũng vậy cả.
Trên
thương trường, người giành được chiến thắng là người hợp tác với những
người khác trong xã hội hay là làm cho những người khác được thỏa mãn.
Muốn thành công trong hệ thống sở hữu tư nhân thì các cá nhân phải đưa
ra “thương vụ tốt hơn” những người cạnh tranh với họ. Họ không thể ép
người khác mua sản phẩm hay dịch vụ của mình. Họ phải hướng sức sáng tạo
và năng lực của mình nhằm tìm ra cách thức nhằm làm cho những người
khác được thỏa mãn. Người thành công trên thương trường là người làm
điều đó một cách tốt nhất. Như vậy là, những người tham gia vào nền kinh
tế thị trường – cả người mua lẫn người bán – đều liên tục tìm lĩnh vực
mà họ có thể thỏa thuận, có thể làm ăn với nhau chứ không phải là tập
trung chú ý vào những lĩnh vực có thể gây bất hòa, chẳng mang lại lợi
ích gì cho ai.
Ngược
lại, trong chế độ tập thể, càng hung hăng và càng không khoan nhượng thì
càng dễ được tưởng thưởng. Với cách ra quyết định tập thể, những người
có vị thế chính trị vững chắc sẽ chẳng cần phải tìm sự đồng thuận; nói
chung, họ có nhiều cơ hội giành chiến thắng hơn bằng cách làm mất thể
diện phe đối lập khi những người này tìm cách biện hộ cho quan điểm của
mình, thỏa hiệp chỉ có thể xảy ra khi đối phương cũng mạnh mà thôi.
Thí dụ
điển hình của sự bất hòa do quyết định tập thể gây ra là cuộc tranh luận
về việc giảng dạy về nguồn gốc của loài người. Ban giám hiệu nhà trường
– đấy là nói những ban giám hiệu phải đưa ra quyết định tập thể – nói
chung phải quyết định dạy hoặc là con người là do Chúa sáng tạo ra hoặc
là do tiến hóa mà thành. Những quyết định như thế bao giờ cũng chứa đầy
xung đột. Những người không đồng ý với quyết định của ban giám hiệu
thường viết thư đến báo chí, vận động hành lang, thuê luật sư, và nói
chung là rất phiền phức. Đấy là điều hầu như không thể tránh được khi
dính dáng đến những vấn đề nhạy cảm như thế vì mọi quyết định mang tính
tập thể, kể cả những vấn đề được đa số quyết định bằng cách bỏ phiếu,
cũng có vẻ như đi ngược lại ước muốn của thiểu số. Như vậy là, những
người ra quyết định đã rơi vào tình trạng không thể thắng được. Nếu ban
giám hiệu cho phép dạy theo thuyết sáng tạo luận thì những người theo
thuyết tiến hóa sẽ nổi giận. Nếu họ dạy theo thuyết tiến hóa thì những
người theo thuyết sáng tạo luận cũng sẽ giận dữ y như thế.
Ngược
lại, xin xem xét quyết định trở thành người ăn chay hay ăn mặn. Ở đây
cũng có những người cảm thấy giận dữ khi bị cản trở trong vấn đề này y
hệt những người bị cuốn hút vào cuộc tranh luận về nguồn gốc loài người
vậy. Tuy nhiên, khó có khả năng là quyết định về khẩu phần ăn có thể tạo
ra một cuộc tranh cãi công khai. Khẩu phần ăn không được quyết định bởi
quá trình ra quyết định tập thể cho nên người ta có thể giải quyết với
nhau một cách hòa bình hơn. Người tin rằng không ăn thịt thì có lợi hơn
về mặt sức khỏe hoặc đúng hơn về mặt đạo đức có thể ăn như thế mà không
cần tranh luận với những người ăn mặn. Còn những người ủng hộ cho việc
ăn mặn cũng có thể tìm được các nhà sản xuất hay cửa hàng sẵn sàng đáp
ứng mong muốn của họ. Trên thực tế, người ăn chay và ăn mặn có thể mua ở
cùng một cửa hàng, có thể đẩy xe hàng của mình đi ngang qua nhau mà
không hề có xung đột nào. Chính vì không cần quyết định tập thể cho nên
sự gần gũi hòa bình như thế mới có thể xảy ra được.
Sự hài
hòa xã hội do thị trường đem lại phải là mối bận tâm của những người lo
lắng đến những vấn đề đạo đức. Những người thuộc các nền văn hóa khác
nhau, giá trị khác nhau và thế giới quan khác nhau có thể sống cùng nhau
mà không hề thù oán nhau trong hệ thống thị trường và sở hữu tư nhân.
Hệ thống thị trường chỉ đòi hỏi một sự đồng thuận tối thiểu về mục đích
của cá nhân hay nhà-nước-xã-hội mà thôi.
Ngược
lại, các chế độ khác có xu hướng ngả về những mục tiêu được quyết định
từ bên trên. Mỗi chế độ như thế đều đòi hỏi phải có nhiều sự đồng thuận
hơn về những điều được coi là “tốt” đối với xã hội. Hệ thống kế hoạch
hóa tập trung, không dựa vào sự trao đổi tự nguyện lao động để lấy tiền
lương, phải bắt các cá nhân làm việc hoặc thực hiện những mục tiêu cụ
thể nào đó, những mục tiêu này có thể không phải là mục tiêu mà người
lao động hay người tiêu dùng lựa chọn nếu họ được tự do. Thí dụ, ở Liên
Xô người dân hầu như không có quyền tự do lựa chọn nơi làm việc và một
khi đã được phân công một công việc nào đó thì rất khó chuyển đến vị trí
làm việc khác.
Một
nguyên nhân nữa làm cho hệ thống dựa trên quyền sở hữu tư nhân thúc đẩy
sự hài hòa xã hội là nó buộc người ta phải có trách nhiệm với những gì
mình làm cho người khác. Trong chế độ sở hữu tư nhân, làm người khác bị
thương hoặc làm hỏng tài sản của người khác thì phải bồi thường, tòa án
buộc người ta phải thực hiện trách nhiệm của mình. Nhận thức rằng làm
hỏng thì phải bồi thường làm cho người ta phải thận trọng và có trách
nhiệm. Khi người ta đã nhận thức được trách nhiệm của mình thì con người
có quyền tự do.
Ngược
lại, hệ thống kế hoạch hóa tập trung làm cho người ta thiếu trách nhiệm
hơn rất nhiều. Mặc dù về mặt lí thuyết thì chính phủ có trách nhiệm bảo
đảm quyền của nhân dân, nhưng quyền trong hệ thống như thế được xác định
một cách mù mờ và chính phủ có thể và quả thật đã đáp ứng nguyện vọng
của những kẻ có quyền lực, nhưng lại ít quan tâm tới quyền và ước muốn
của những người không có quyền lực. Ngay cả trong các chế độ dân chủ,
nếu chính phủ có quyền giành ưu tiên cho những nhóm người nào đó thì
những nhóm có nhiều quyền lực sẽ lợi dụng chính phủ để giành lấy những
thứ họ muốn. Mà những thứ họ giành được có thể rất có giá trị đối với
những người bị tước đoạt.
Thế giới quan tổng bằng không và thế giới quan tổng là một số dương
Những lời
chỉ trích sở hữu tư nhân thường xoay quanh việc phân phối thu nhập.
Những người có thiện chí thường nghĩ rằng thật là không công bằng khi
một số người sống xa hoa trong khi một số khác lại sống trong cảnh bần
hàn. Tôi đồng tình với quan điểm cho rằng về mặt đạo đức, những người
sống sung túc phải chia sẻ với những người nghèo túng hơn. Nhưng điều đó
không có nghĩa là chính phủ là tổ chức phù hợp với công việc tái phân
phối như thế.
Nhiều
người bất bình với địa vị của người giàu vì họ đã hiểu lầm về nguồn gốc
của tài sản. Họ tin rằng những người sống xa hoa là những kẻ bóc lột
những người sống trong cảnh bần hàn. Nói chung đấy là quan niệm sai lầm.
Thế giới
không phải là tổng bằng không. Nghĩa là tài sản trên thế giới là không
giới hạn cho nên nó phải được chia cho mọi người, một số người được
nhiều hơn còn một số khác thì được ít hơn. Có thể kiếm được tài sản
bằng cách lấy của người khác, nhưng người ta cũng có thể tạo được tài
sản bằng hành động với động cơ đúng đắn của mình. Khi làm như thế thì
tài sản chính là sự gia tăng phúc lợi cho xã hội. Sự gia tăng đáng kể
tài sản tính trên đầu người kể từ cuộc Cách mạng Công nghiệp trước hết
là do tài sản được tạo ra chứ không phải là lấy của người khác.
Khi các quyền sở hữu được xác định một cách rạch ròi và được bảo hộ thì chỉ
các giao dịch mà người dân tham gia vào mới có “tổng dương” hay có thể
gọi là những giao dịch tạo-ra-tài-sản, điều đó xảy ra là vì tất cả các
bên tham gia giao dịch đều tin rằng kết quả là họ đã cải thiện được hoàn
cảnh sống của mình. Trong xã hội, nơi mà người dân được bảo đảm quyền
sở hữu tài sản của mình thì họ sẽ chỉ trao đổi tài sản trên cơ sở tự
nguyện và họ sẽ chỉ làm như thế khi nhìn thấy khả năng cải thiện được
hoàn cảnh của mình mà thôi. Những người giao dịch với họ cũng làm đúng
như thế – họ cũng chỉ tham gia giao dịch khi nghĩ rằng kết quả là họ sẽ
cải thiện được hoàn cảnh sống của mình.
Thế giới
có tổng bằng không, nơi người chỉ có thể tích tụ được tài sản bằng cách
lấy bớt tài sản của người khác, chỉ có thể xảy ra khi không có
quyền sở hữu. Trong thế giới như thế người dân – hoặc là trở thành kẻ
cắp và kẻ cướp hoặc là lợi dụng quyền lực của chính phủ – mới có thể nắm
được quyền quản lí các nguồn lực mà không có quyền của người chủ các
nguồn lực đó.
Một số
nhà phê bình biện luận rằng nhiều vụ giao dịch trên thương trường không
phải là tự nguyện, một số người, do hoàn cảnh bắt buộc mà phải tham gia
vào những giao dịch mà họ không muốn. Thí dụ, họ biện luận rằng người sử
dụng lao động bóc lột người lao động bằng cách trả cho họ mức lương
thấp nhất có thể được. Nhưng trong xã hội mà người dân hành động một
cách tự nguyện, không bị ai ép buộc, thì việc chấp nhận mức lương như
thế có nghĩa là không còn ai trả cao hơn nữa. Trên thực tế, người sử
dụng lao động là người mở rộng cơ hội cho những người kém may mắn. Thí
dụ, luật qui định mức lương tối thiểu là 4 USD, trên thực tế đã làm giảm
cơ hội của những người với sức lao động chỉ đáng 2 USD mà thôi.
Chính phủ
chỉ có một cách – ngược lại với khu vực tư nhân, tức là khu vục hành
động thông qua đóng góp một cách tự nguyện – giúp đỡ những người này
bằng cách cho họ tài sản đã tước đoạt của những người khác. Nhưng sự
kiện là tài sản thường được chính những chủ sở hữu tạo ra đã làm giảm
đáng kể giá trị đạo đức của việc tái phân phối như thế. Một người mà
bằng những cố gắng mang tính sáng tạo của mình đã làm gia tăng số tài
sản của mình mà không làm suy giảm hạnh phúc của người khác dường như có
đủ lí do về mặt đạo đức trong việc sở hữu số tài sản đó.
Hơn nữa,
trong hệ thống sở hữu tư nhân dựa trên thị trường, tài sản của một người
tăng lên chứng tỏ rằng người đó đã làm cho tài sản của những người khác tăng lên. Trong hệ thống thị trường cách duy nhất để trở thành giàu là làm cho người khác hài lòng, muốn trở thành rất giàu
thì phải làm cho đám đông hài lòng. Henry Ford đã cung cấp cho quần
chúng những chiếc ô tô do ông sản xuất, đáp ứng yêu cầu đi lại với giá
tương đối rẻ và ông trở thành một người cực kì giàu có. Ngược lại, Henry
Royce chỉ phục vụ những người có thu nhập cao bằng cách sản xuất những
chiếc ô tô đắt tiền và ông không giàu bằng Henry Ford. Trừng phạt những
người có hành động tương tự như Henry Ford bằng cách tước đoạt phần lớn
thu nhập của người ta là vô lí.
Đáng tiếc
là quan niệm sai lầm cho rằng thế giới có tổng bằng không lại là quan
niệm rất thịnh hành. Nhiều người tham gia vào những cuộc thảo luận về
tình trạng nghèo đói trong Thế giới thứ III tin rằng nếu các nước giàu
không giàu đến như thế thì các nước nghèo sẽ giàu hơn. Mặc dù chắc chắn
là một số người có tài sản là do đã cướp đoạt của một số người khác,
nhưng đây không phải là hiện tượng thường gặp. Còn nếu có những trường
hợp cướp đoạt như thế thì giải pháp phải là chuyển sang chế độ thực thi
việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người dân.
Nực cười
là quan niệm cho rằng thế giới có tổng bằng không lại thường làm cho
điều kiện sống ngày càng xấu đi. Những người đề xướng quan niệm tổng
bằng không thường ủng hộ việc tái phân bố các quyền trên diện rộng. Việc
tái phân bố như thế thường khuyến khích, thực ra là đòi hỏi, tất cả mọi
người cùng tham gia vào cuộc xung đột. Chiến tranh là tốn kém, dù nó có
xảy ra trên chiến trường hay trong phòng họp quốc hội thì cũng vậy mà
thôi. Khi chính phủ có thể phân phát đặc quyền đặc lợi thì nhiều công
dân sẽ cạnh tranh với nhau để giành những đặc quyền đặc lợi đó, trong
khi những người khác lại kiên trì vận động nhằm giữ cho bằng được tài
sản của mình. Thường thì kết quả chung cuộc là sau khi tái phân phối,
tài sản sẽ còn ít hơn là trước khi tái phân phối.
Quyền lực
Những
điều bất công nghiêm trọng nhất trong lịch sử loài người đã xảy ra khi
một số người có quá nhiều quyền lực đối với những người khác. Đôi khi
đấy là quyền lực kinh tế, lúc khác có thể là quyền lực chính trị, nhưng
dù thế nào thì khả năng kiểm soát sự lựa chọn của người khác cũng gây ra
nhiều đau khổ. Những định chế nào có thể phân chia quyền lực một cách
hữu hiệu nhất và ngăn chặn được một số người, không để họ có quyền lực
một cách quá đáng đối với cuộc sống của những người khác?
Chỉ có
thể trả lời được câu hỏi này sau khi hiểu cách thức hoạt động của thế
giới. Dù các định chế có như thế nào đi nữa thì một số ngưới cũng có
nhiều quyền lực hơn một số người khác. Vấn đề không phải là bộ luật nào
có thể giữ không cho một số người có bất kì sự kiểm soát nào đối
với những người khác mà là những định chế nào có thể ngăn chăn một cách
hữu hiệu nhất việc tích tụ quyền lực.
Lịch sử
đầy những thí dụ về việc lạm dụng sức mạnh cưỡng chế nằm trong tay nhà
nước. Vì vậy mà ta phải thận trọng trước những định chế tạo ra sự tập
trung quá nhiều quyền lực vào tay nhà nước, ngay cả khi mục tiêu rõ ràng
là uốn nắn lại những sự bất công trong nền kinh tế tư nhân. Những xã
hội không có quyền tư hữu thường tập trung quá nhiều quyền lực vào tay
một ít người và quyền lực này thường bị lạm dụng một cách quá đáng.
Đấy là lí
do để ta phải tạo ra trật tự pháp lí trong đó nhà nước buộc người ta
phải tôn trọng những điều luật được xác định một cách rõ ràng nhằm nhằm
ngăn chặn không chỉ một số người, không cho họ ép buộc người khác phải
hi sinh mà không có sự chấp thuận của họ, nhưng đấy còn là trật tự mà
nhà nước cũng bị giới hạn, theo nghĩa là những hi sinh mà nó có thể áp
đặt lên các cá nhân. Xã hội, trong đó chính phủ không chỉ có trách nhiệm
xác định và thực thi quyền sở hữu mà vai trò của nó còn bị giới hạn bởi
chính hiến pháp, là sự kết hợp có thể tồn tại một cách lâu dài. Hệ
thống như thế sẽ phân chia quyền lực và ngăn chặn, không để một số người
buộc người khác phải hi sinh mà không có sự chấp thuận của họ.
Kết luận
Có nhiều
lí do để lựa chọn hệ thống sở hữu tư nhân và thị trường. Hệ thống có
nhiều đức hạnh hơn là hệ thống có thể buộc người ta phải chịu trách
nhiệm trước các hành vi của mình và khuyến khích người ta giúp đỡ kẻ
khác chứ không phải là cho phép người ta buộc người khác hi sinh mà
không có sự chấp thuận của họ.
Đây không
phải là khẳng định rằng hệ thống thị trường có thể thay thế cho xã hội
trong đó người dân hành động trên cơ sở đức hạnh. Đức hạnh của cá nhân
chắc chắn sẽ góp phần củng cố chủ nghĩa tư bản cũng như củng cố bất cứ
hệ thống nào khác. Dù với thể chế nào thì tính trung thực, từ tâm và sự
đồng cảm giữa người với người cũng làm cho thế giới của chúng ta trở
thành dễ sống hơn. Chủ nghĩa tư bản không thù địch với những đức tính
đó. Khi những hệ thống kinh tế khác được mang ra đánh giá trong khuôn
khổ đức hạnh thì sẽ xuất hiện những lí lẽ vững chắc ủng hộ cho quyền tư
hữu và thị trường. Thương trường và đức hạnh có thể được coi là những
tác nhân bổ xung cho nhau trong việc giữ gìn xã hội công bằng.
________
Peter
J. Hill là giáo sư kinh tế tại Wheaton College (Illinois) và cộng tác
viên cao cấp tại Trung tâm nghiên cứu kinh tế chính trị học (PERC) ở
Bozeman, Montana.
Phương Tây sẵn sàng trừng phạt Nga sau cuộc bỏ phiếu ở Crimea
Phiatruoc
LONDON
(Associated Press) – Hiện nay có rất ít hy vọng rằng cuộc bỏ phiếu
trưng cầu dân ý tại Crimea sẽ được dừng lại và phương tây đã sẵn sàng áp
đặt các lệnh trừng phạt khắc nghiệt đối với Nga bắt đầu vào thứ Hai tới
đây. Nhiều quan chức Hoa Kỳ mô tả rằng Moscow đang tiếp tục phá hoại
chính phủ mới thành lập ở Kiev và góp sức gây thêm nhiều thẳng giữa
những người phản đối tại Ukraina.
Ngoại
trưởng Hoa Kỳ John Kerry đã bay đến London vào hôm thứ Sáu để gặp người
đồng nghiệm Nga Sergey Lavrov trong một nỗ lực cuối cùng nhằm ngăn chặn
cuộc khủng hoảng Đông–Tây liên quan đến Ukraina. Vào ngày Chủ nhật tới
đây, bán đảo Crimea thân Nga sẽ bỏ phiếu trưng cầu dân ý nhằm tách bản
đảo này ra khỏi Ukraina, và có lẽ sẽ sát nhập vào nước Nga vì nhiều
người tại đây không muốn các lãnh đạo mới ở Kiev tìm kiếm mối quan hệ
kinh tế chặt chẽ với châu Âu.
Một nhóm nhỏ người biểu tình Ukraina đã tụ tập tại khu vực gần đường Downing ở London với khẩu hiệu “NATO cứu Ukraina”
trong lúc chờ đợi ông Kerry ông đến họp với Thủ tướng Anh David Cameron
và Ngoại trưởng William Hague trước cuộc hội đàm với ông Lavrov.
Ông
Cameron nhấn mạnh lại việc trừng phạt Nga khi trao đổi với Ngoại trưởng
Kerry, và nói rằng “chúng tôi [Anh Quốc] muốn thấy nhiều bước tiến bộ
cũng như Hoa Kỳ vậy”.
“Chúng
tôi muốn thấy Ukraina và Nga trao đổi với nhau. Và nếu họ không làm được
thì tất nhiên sẽ có những hậu quả”, ông Cameron nói thêm.
Ông Kerry
cảm ơn nước Anh đã đứng cùng Hoa Kỳ và nói “tất cả chúng ta hy vọng sẽ
không bị buộc phải làm những điều này. Nhưng chúng ta tiếp tục xem xét
những gì sẽ xảy ra trong những ngày tới”.
Các nhà
lãnh đạo châu Âu và Hoa Kỳ đã nhiều lần kêu gọi Moscow rút các toán quân
của mình ở Crimea về nước và ngừng khuyến khích lực lượng dân quân địa
phương thổi phồng việc bỏ phiếu như một sự lựa chọn để trở lại Nga hoặc
quay trở lại thời chủ nghĩa phát xít đen tối của Ukraina trong Thế chiến
thứ II, khi một số cư dân tại đây đã hợp tác với những kẻ chiếm đóng
thuộc Đức Quốc xã.
Các quan
chức phương Tây đã nhiều lần yêu cầu Nga bắt đầu các cuộc đàm phán ngoại
giao với Kiev như một cách nhằm giảm căng thẳng tại Ukraina.
Nhưng
cuộc bỏ phiếu sắp tới tại Crimea dường đã được sẵn sàng, và các chuyên
gia theo dõi tình hình cho biết kết quả gần như chắc chắn sẽ dẫn đến
việc ly khai khỏi Ukraina.
Ông Kerry
nói trước một ủy ban Thượng viện hôm thứ Năm rằng ông có kế hoạch sẽ
nói rõ ràng với người đồng nhiệm Lavrov rằng các bên liên quan đều bị
ảnh hưởng nếu diễn biến này không giảm bớt cường độ căng thẳng. Ông đề
nghị sẽ áp lực Nga chấp nhận “một cái gì đó ngắn hạn trong chính sách
thôn tính đầy đủ” tại Crimea – nhưng ông không nói rõ thêm chi tiết.
“Tất
nhiên sẽ có một loại số phản ứng sau cuộc trưng cầu [tại Crimea]. Ngoài
ra, nếu không có dấu hiệu giảm bớt cường độ căng thẳng trong cách giải
quyết vấn đề này thì cả châu Âu lẫn Hoa Kỳ sẽ đưa ra một loạt các biện
pháp trừng phạt rất nghiêm ngặt vào ngày thứ Hai tới đây”, ông Kerry nói
với các thượng nghị sĩ.
“Tôi hy vọng rằng họ [Nga] sẽ nhận thức được rằng cộng đồng quốc tế thực sự rất mạnh mẽ và thống nhất về vấn đề này”, ông nói.
Ý kiến
của ông cũng tương tự như lời của Thủ tướng Đức Angela Merkel, người
trước đó vài giờ trước cho biết Nga có nguy cơ đối mặt với những hậu quả
chính trị và kinh tế “rất lớn” nếu như không xoa dịu lập trường của
mình đối với chính phủ mới tại Kiev.
Ukraina –
một quốc gia với quy mô dân số tương tự như Pháp – hiện đang trong một
giai đoạn khó khăn giữa mối quan hệ lâu dài, truyền thống với Nga và mối
quan hệ kinh tế với phương Tây. Trong nhiều tháng qua, Nga đã hai lần
di chuyển hàng ngàn quân đến biên giới Ukraina – điều mà các quan chức
Mỹ mô tả là một chiến thuật nhằm đe dọa Kiev trong kịch bản tập dược
quân sự.
Hiện nay
vẫn chưa rõ rằng liệu Nga có chú ý đến những lời cảnh báo của phương Tây
hay không. Moscow đã từ chối rút các toán quân ra khỏi Crimea và tiếp
tục không tôn trọng biên giới lãnh thổ của Ukraina. Theo một thỏa thuận
an ninh lâu dài với phía Ukraina, Nga được phép triển khai lên đến
25,000 quân tới bán đảo Crimea và được phép đóng lực lượng hải quân ở
đó.
“Nói
thẳng ra rằng hiện có những giới hạn về các biện pháp trừng phạt và cô
lập, đặc biệt khi chúng ta đang nói về một nhân vật vốn không có tính
đáp ứng nồng nhiệt trong cả sự nghiệp chính trị trước nhiều vấn đề của
phương Tây”, John Norris – chuyên gia an ninh tại Trung tâm Tiến bộ Hoa
Kỳ ở Washington cho biết. Nhân vật mà ông đang đề cập đến là Tổng thống
Nga Vladimir Putin.
Ông Kerry
và Lavrov đã nói chuyện hầu như mỗi ngày từ khi cuộc khủng hoảng
Ukraina xảy ra nhưng cho tới nay hai bên vẫn chưa tìm được bất kỳ một
điểm chung nào.
Tại buổi
điều trần ở Thượng viện, ông Kerry nói rằng Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu
sẽ có các biện pháp chống lại Moscow vào ngày thứ Hai tới đây nếu Nga
chấp nhận và tiếp tục tác động lên quyết định của Crimea trong việc đòi
ly khai khỏi Ukraina. Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu nói rằng cuộc trưng
cầu tại Crimea vào ngày Chủ nhật tới đây là vi phạm hiến pháp của
Ukraina cũng như luật pháp quốc tế. Trong khi đó, Nga cho biết họ sẽ tôn
trọng kết quả cuộc trưng cầu tại Crimea.
Trong một
chương trình khác nhằm hỗ trợ chủ quyền của Ukraina, Phó Tổng thống Hoa
Kỳ Joe Biden đã gặp Thủ tướng Ukraina Arseniy Yatsenyuk hôm thứ Năm,
một ngày sau khi ông Yatsenyuk được Tổng thống Barack Obama tiếp đón tại
Washington. Nhà Trắng cho biết ông Biden nói với Yatsenyuk rằng Hoa Kỳ
“tiếp tục đứng phía sau Ukraina và người dân Ukraina trong việc đảm bảo
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước này”.
Chính
quyền của ông Obama đã áp đặt một số lệnh trừng phạt đối với các quan
chức Nga vì những bất ổn mà các nhân vật này đã gây ra tại Ukraina.
Tuy
nhiên, Quốc hội Hoa Kỳ hôm thứ Năm đã không đưa ra quyết định bỏ phiếu
mở rộng các biện pháp trừng phạt Nga cũng như chưa phê duyệt số tiền tài
trợ 1 tỷ USD dành cho Ukraina và kế hoạch của Quỹ Tiền tệ Quốc nhằm
giúp Kiev tái cấu trúc nền kinh tế nước này. Thượng viện sẽ không bỏ
phiếu về những vấn đề trên cho đến ngày 24 tháng Ba. Trong khi đó, Đảng
Cộng hòa đang mạnh mẽ thúc đẩy một dự luật khác nhằm viện trợ Ukraina do
họ tự soạn thảo mà không bao gồm các biện pháp trừng phạt Nga hoặc sửa
đổi các quy định của IMF.
Thượng
nghị sĩ John McCain đã chỉ trích mạnh mẽ những người trong Đảng Cộng hòa
vì không hành động “khi người dân Ukraina than khóc xin sự giúp đỡ của
chúng ta”. Ông nói rằng ông chưa bao giờ thấy xấu hổ như hôm nay bởi
những hành động của các đảng viên trong đảng của ông.
“Đừng bao
giờ tự gọi mình là Đảng Cộng hòa của Reagan”, ông McCain nói. “Ronald
Reagan sẽ không bao giờ để những cuộc loại xâm lược loại này xảy ra mà
không lên tiếng và chúng tôi không chỉ đề cấp đến các toán quân đội có
mặt [ở Crimea]. Chúng tôi đang nói về phản ứng cũng như các biện pháp
trừng phạt đối với Vladimir Putin”.
© 2014 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC
Những người dân chủ Ukraina có tội lớn (Tổ Quốc) (TQ 177)
Thongluan
“…Những
người dân chủ Việt Nam rất cần suy ngẫm bài học Ukraina. Dân tộc nào
cũng cần được một tầng lớp trí thức chính trị dẫn đường. Trí thức
Ukraina đã có tội lớn nhưng họ vẫn còn hơn hẳn trí thức Việt Nam. Ít ra
họ cũng đã hai lần dắt tay nhau đứng dậy lãnh đạo quần chúng đánh gục
bạo quyền…”
Điều
mà người ta lo lắng cho Ukraina đã xảy ra. Chỉ hai tuần sau khi
Yanukovych bỏ chạy nghị viện Crimea, dưới sự điều động lộ liễu của Nga,
đã biểu quyết tổ chức trưng cầu dân ý vào ngày 1633 này để nhân dân
Crimea chọn lựa tiếp tục thuộc Ukraina, độc lập, hay thuộc Nga.
Trong
không khí hiện nay không ai nghi ngờ rằng kết quả sẽ là Crimea tách
khỏi Ukraina để hoặc trở thành một nước độc lập hoặc sáp nhập vào Nga.
Độc lập vả lại cũng chỉ là một chặng đường trong tiến trình sáp nhập vào
Nga. Mặc dù Hoa Kỳ và Châu Âu phản đối kịch liệt Putin vẫn lì lợm làm
tới và đã chiếm đóng Crimea trên thực tế. Nga chắc chắn sẽ phải chịu
những biện pháp trừng phạt rất đau đớn, nhưng Ukraina sẽ mất bán đảo
Crimea trong một thời gian dài, có thể mất vĩnh viễn.
Crimea
thuộc Ukraina, hay độc lập, hay thuộc Nga không ảnh hưởng bao nhiêu đến
tình hình thế giới. Trong một chừng mực nào đó sự ngang ngược vi phạm
lãnh thổ và chủ quyền Ukraina của Putin còn có tác dụng tạo ra những
phản ứng trừng phạt góp phần làm sụp đổ nhanh hơn chế độ độc tài tại
Nga. Tuy nhiên đối với Ukraina mất bán đảo Crimea là một thiệt hại vô
cùng lớn bởi vì bán đảo này là phần lãnh thổ có giá trị vượt trội về mọi
mặt, đặc biệt là kinh tế và chiến lược.
Vì
đâu đến nông nỗi này? Dĩ nhiên là tội của Yanukovych. Hắn đã lợi dụng
chức vụ tổng thống để cướp bóc thẳng tay đưa Ukraina vào cảnh khánh tận,
rồi khi bị nhân dân phản đối và đàn áp không được lại cầu cứu quân Nga.
Nhưng có gì đáng ngạc nhiên ở một con người vô học và côn đồ lưu manh
như Yanukovych? Những người đáng bị buộc tội là chính những người dân
chủ Ukraina.
Ukraina
đã có thể xây dựng thành công dân chủ trong hòa bình và ổn vững sau
cuộc Cách Mạng Mầu Cam năm 2005. Phe dân chủ đã nắm được chính quyền, đã
được cả thế giới hoan hô và đã thực sự cầm quyền, nhưng ngay sau đó đã
làm mọi người thất vọng và nhân dân Ukraina phẫn nộ. Cả tổng thống
Yushchenko lẫn thủ tướng Tymoshenko đều không có một viễn tượng và một
dự án nào cho Ukraina cả. Cả hai đều tồi dở như nhau và đều nghĩ rằng
công việc chính của họ là chống phá lẫn nhau. Họ đã làm tan nát đất nước
Ukraina đến độ mà sau nhiệm kỳ của họ cử tri Ukraina bầu cho
Yanukovych, một tên lưu manh trộm cắp mà thành tích đã rõ ràng, thay vì
bầu cho họ. Yanukovych đã được bầu một cách hợp pháp. Chính những người
cầm đầu cuộc Cách mạng Mầu Cam, do sự bê bối của họ, đã đưa Yanukovych
lên cầm quyền. Tội của họ rất lớn.
Những
người dân chủ Ukraina năm 2014 cũng đã rất thô vụng. Thay vì chấp nhận
nhượng bộ bầu lại quốc hội và tổng thống của Yanukovych họ đã khăng
khăng đòi lật đổ chính quyền ngay tức khắc và tự đặt vào thế bất hợp
pháp, tạo điều kiện cho Putin can thiệp. Họ không hiểu rằng Yanukovych
và Putin không từ một thủ đoạn nào trong khi họ không thể tự vệ và Châu
Âu và Hoa Kỳ không thể có những biện pháp mạnh. Cũng như các đàn anh của
cuộc Cách Mạng Mầu Cam trước đây họ không có một dự án chính trị nào cả
ngoài lập trường thân Phương Tây. Thảm kịch thực sự của Ukraina ngày
trước và bây giờ vẫn thế, đó là một thảm kịch trí thức.
Những
người dân chủ Việt Nam rất cần suy ngẫm bài học Ukraina. Dân tộc nào
cũng cần được một tầng lớp trí thức chính trị dẫn đường. Trí thức
Ukraina đã có tội lớn nhưng họ vẫn còn hơn hẳn trí thức Việt Nam. Ít ra
họ cũng đã hai lần dắt tay nhau đứng dậy lãnh đạo quần chúng đánh gục
bạo quyền.
Ban biên tập Tổ Quốc
Trách nhiệm đối với tù nhân lương tâm: Đúng việc, đúng cách (Nguyễn Đình Thắng)
Thongluan
Nguyễn Đình Thắng
“…Tù
nhân lương tâm đã và đang hy sinh cho quyền lợi chung của cả dân tộc và
tương lai của đất nước. Chúng ta phải trân quý họ, có trách nhiệm bảo
vệ họ khi còn trong tù và giải thoát họ khỏi cảnh tù đày. Chúng ta không
thể chỉ làm những việc tiện cho mình, mà phải làm đúng việc. Chúng ta
không thể hành động hời hợt…”
Tù
nhân lương tâm là những người đã và đang hy sinh rất nhiều cho dân tộc
và đất nước. Khi họ lâm nạn thì chúng ta có trách nhiệm bảo vệ và giải
cứu họ. Và phải đạt kết quả.
Kết
quả phải đạt là tù nhân lương tâm không những được trả tự do mà còn
phục hồi được khả năng tranh đấu. Điều này đòi hỏi sự chú tâm dài hạn
cho từng tù nhân lương tâm một và phải bao gồm cả 5 lĩnh vực nhu cầu.
Thứ nhất là đời sống, như thăm nuôi, thuốc men, chăm lo cho thân nhân phụ thuộc.
Thứ hai là bảo vệ pháp lý, gồm cả đại diện trước toà án Việt Nam và lập hồ sơ nộp với cơ quan Liên Hiệp Quốc để đòi công lý.
Thứ ba là an toàn bản thân để không bị ngược đãi, cưỡng bức lao động, tra tấn, hay khước từ dịch vụ y tế.
Thứ tư là vận động quốc tế để đòi tự do.
Thứ năm là, sau khi có tự do, hồi phục đời sống và khả năng tranh đấu.
Và chúng ta phải làm vậy đồng đều cho mọi tù nhân lương tâm, không bỏ sót một ai.
Tóm
lại, muốn đạt kết quả thì công việc chúng ta làm cho tù nhân lương tâm
phải vừa rộng, vừa dài, vừa sâu. Như vậy, chúng ta phải có đông người
hành động, và hành động phải có phối hợp và trong sự phân nhiệm rõ ràng.
Trong chiều hướng đó, BPSOS phát động Chiến Dịch Đòi Tự Do Cho Tù Nhân Lương Tâm Việt Nam vào tháng 7 năm ngoái.
Một
mặt chúng tôi kêu gọi đồng hương mỗi người (hay nhóm người) kết nghĩa
với một tù nhân lương tâm: hỗ trợ tinh thần cho gia đình, giúp đỡ vật
thể theo khả năng và theo dõi tình trạng an nguy của tù nhân lương tâm.
Người kết nghĩa sẽ đồng hành với người tù lương tâm cho đến khi người ấy
được tự do và phục hồi lại cuộc sống và khả năng tranh đấu.
BPSOS
phối hợp việc kết nghĩa để bảo đảm rằng sự quan tâm được phân bổ đồng
đều, tránh tình trạng người thì nhận nhiều giúp đỡ người thì bị lãng
quên.
Đồng
thời BPSOS lập quỹ dự phòng và huấn luyện nhân sự chuyên môn để sẵn
sàng can thiệp trong những trường hợp đặc biệt vượt quá khả năng của
người kết nghĩa. Đây là sự phân nhiệm cần thiết để vừa trải rộng lại vừa
đi sâu.
Với sự
phân nhiệm này, từ nay chúng tôi sẽ không còn nhận chuyển tài trợ cho
tù nhân lương tâm theo chỉ định của đồng hương nữa. Chúng tôi muốn tập
trung can thiệp trong những trường hợp đòi hỏi chuyên môn. Ai muốn trợ
giúp cho cá nhân nào thì xin kết nghĩa với tù nhân lương tâm ấy.
Tóm lại, nếu đồng hương:
(1)muốn
giúp riêng một tù nhân lương tâm, thì xin kết nghĩa với người ấy dài
hạn. Chúng tôi sẽ giới thiệu Quý Vị với tù nhân lương tâm chưa ai kết
nghĩa và sẽ hướng dẫn cách theo dõi tình trạng của tù nhân lương tâm.
Danh sách tù nhân lương tâm được cài đăt tại: democraticvoicevn.files.wordpress.com/2013/11/danh-sach-tu-nhan-luong-tam-viet-nam-de-ket-nghia-03-13-14.pdf. Chữ mầu xanh là những người đã được kết nghĩa. Danh sách này sẽ được bổ sung.
(2) muốn giúp chung cho mọi tù nhân lương tâm, thì xin đóng góp vào Quỹ Tù Nhân Lương Tâm của BPSOS hay giúp chúng tôi gây quỹ.
Tù
nhân lương tâm đã và đang hy sinh cho quyền lợi chung của cả dân tộc và
tương lai của đất nước. Chúng ta phải trân quý họ, có trách nhiệm bảo
vệ họ khi còn trong tù và giải thoát họ khỏi cảnh tù đày. Chúng ta không
thể chỉ làm những việc tiện cho mình, mà phải làm đúng việc. Chúng ta
không thể hành động hời hợt, ngắn hạn, khập khiễng. Họ xứng đáng để
chúng ta giúp hết lòng, dấn thân dài hạn, và đạt kết quả.
Đó là điều tôi thiết tha kêu gọi.
Mọi thông tin và trao đổi ý kiến, xin liên lạc: bpsos@bpsos.org
Ngày 13 tháng 3, 2014
Nguyễn Đình Thắng
Nguyễn Đình Thắng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét