KÝ SỰ HOA KỲ 4: VÌ DÂN, DO DÂN VÀ CỦA DÂN
Bài đọc liên quan:
+ Ký sự Hoa Kỳ 1: Người Việt và Hoa Kỳ
+ Ký sự Hoa Kỳ 2: Sự khác biệt của Hoa Kỳ
+ Ký sự Hoa Kỳ 3: Giải quyết những bất cập
Để hiểu tại sao người dân Hoa Kỳ sẵn sàng làm việc điên cuồng, đóng thuế nhiều và ăn chơi hết mình tôi xin tiếp tục chuỗi ký sự phần 4 này. Quyền của người dân được sống và mưu cầu hạnh phúc như hiến định ở Hòa Kỳ được xem là tối thượng. Cái hiến pháp mà cụ Hồ đã sao y bản chính để làm tuyên ngôn độc lập cho nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng chưa bao giờ thực hiện được trong 69 năm qua ở Việt Nam.
Câu chuyện Tôn Dật Tiên đưa ra chủ nghĩa Tam Dân - dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc - để làm nên nền Cộng Hòa ở Trung Hoa, kết thúc chủ nghĩa Phong Kiến kéo dài hàng ngàn năm, cũng chỉ là một cách sao chép lại hiến pháp Hoa Kỳ theo một hệ quả của nền Cộng Hòa của dân, do dân và vì dân làm ra.
+ Ký sự Hoa Kỳ 1: Người Việt và Hoa Kỳ
+ Ký sự Hoa Kỳ 2: Sự khác biệt của Hoa Kỳ
+ Ký sự Hoa Kỳ 3: Giải quyết những bất cập
Để hiểu tại sao người dân Hoa Kỳ sẵn sàng làm việc điên cuồng, đóng thuế nhiều và ăn chơi hết mình tôi xin tiếp tục chuỗi ký sự phần 4 này. Quyền của người dân được sống và mưu cầu hạnh phúc như hiến định ở Hòa Kỳ được xem là tối thượng. Cái hiến pháp mà cụ Hồ đã sao y bản chính để làm tuyên ngôn độc lập cho nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng chưa bao giờ thực hiện được trong 69 năm qua ở Việt Nam.
Câu chuyện Tôn Dật Tiên đưa ra chủ nghĩa Tam Dân - dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc - để làm nên nền Cộng Hòa ở Trung Hoa, kết thúc chủ nghĩa Phong Kiến kéo dài hàng ngàn năm, cũng chỉ là một cách sao chép lại hiến pháp Hoa Kỳ theo một hệ quả của nền Cộng Hòa của dân, do dân và vì dân làm ra.
Bất kỳ ai đến Hoa Kỳ cũng thấy thể chế Hoa Kỳ đúng mực của dân, do dân
và vì dân. Trẻ sinh ra đi học đến 18 tuổi - là tuổi trẻ có thể tự lập
làm ra tiền - thì được xã hội lo ăn học không tốn tiền. Người già trên
65 tuổi thì được lãnh tiền trợ cấp xã hội đủ để sống riêng hoặc ở các
Dưỡng Lão Viện, dù người đó chưa bao giờ phải đóng một đồng thuế nào cho
xã hội hoặc không thu nhập - no income - suốt cả đời, nhưng con cái họ vẫn được học hành đến thành đạt.
Để minh chứng rõ ràng cho cái vì dân của thể chế ở Hoa Kỳ, tôi xin ví dụ
cụ thể một trường hợp. Tôi có người bạn đồng nghiệp thân thiết, từ thời
ở Việt Nam di cư sang Hoa Kỳ. Vì không chịu hội nhập, nên gia đình anh
thuộc dạng không có thu nhập - no income - chứ không phải thu nhập thấp -
low income - nhưng 5
đứa con anh đã có 2 đứa vào Harvard với học bổng toàn phần. Hiện một
đứa con đầu đang là năm cuối dược sỹ, và đứa thứ hai là học năm đầu bác
sỹ. Ba đứa còn lại học phổ thông không tốn tiền. Anh ta hằng ngày chỉ lo
đưa đón con cái học hành, và chăm sóc chúng nhờ vào sự giúp đỡ của các
em của anh ta. Đây là một bi kịch, nhưng cũng là một minh chứng cho thể
chế Hoa Kỳ quá tốt đẹp. Có nằm mơ anh ta ở Việt Nam cũng không thể lo
cho con cái như hiện tại, dù anh ta là bác sỹ có tài ngày ấy và cả bây
giờ, anh ấy về Việt Nam cũng không thiếu chỗ mời mọc anh đi làm với mức
lương không dưới 3.000USD/tháng. Tôi năn nỉ anh về, nhưng anh từ chối.
Vì đã quen sống với một xã hội công bằng, minh bạch, và nhân bản, không
thể về để sống ở nước Việt, nơi trăm nhớ, ngàn thương, chôn nhau cắt rốn
của anh. Anh tâm sự: "Nước Việt mình là nơi đi để mà nhớ, chứ không
phải nơi ở để mà thương!". Đứt ruột.
Hình 1: Nơi đánh dấu các hình xanh đỏ là nơi cần phải mở một
con đường nối từ Freeway 210 ở phía Bắc đến freeway 710 ở phía Nam Los
Angeles, nhằm giải quyết ách tắc giao thông lượng xe tải đi từ các bang
trong đất liền chuyển hàng hóa sang Califonia để đi đến toàn cầu. Đoạn
này khoảng hơn 20km. Chính phủ California đã đề nghị dân cư thuộc các
thành phố Pasadena, Monterey Park đền bù giải tỏa để làm đường từ 2010
đến nay nhưng dân không đồng ý.
Còn của dân và do dân xin đơn cử trường hợp dân vùng Nam Los Angeles và
Bắc Los Angeles có hai xa lộ liên Bang: Freeway 10 xuyên bang Đông Tây.
Freeway 5 xuyên bang Bắc Nam. Các bến cảng của Los Angeles như Long
Beach, Hungtinton Beach, Seal Beach, San Pedro, Rancho Palos Verdes,
Palos Verdes Estase, Newport Beach, v.v... ở phía Tây là trung tâm luân
chuyển hàng hóa đi khắp toàn cầu. Nhưng sau chuyến di dân 30/4/1975,
California trở thành nơi đất lành chim đậu của các cư dân toàn cầu. Mặc
dù, diện tích Califonia hơn 2 lần lãnh thổ Việt Nam, và dân số chưa đến
một nửa Việt Nam - 38 triệu. Nhưng với xa lộ như mạng nhện của Califonia
cũng không thể giảm ách tắc giao thông theo kiểu Mỹ. Chính quyền Los
Angeles đã đưa ra đề nghị mở một con đường nối thông từ Freeway 5 sang
Freeway 10, qua 2 freeway 210 và 710 của tiểu bang để cho xe tải vận
chuyển hàng hóa xuống bến cảng, mà không gây ách tắc giao thông. (xem
hình 1)
Hình 2: Làm rõ đoàn đường màu xanh dương nối từ xa lộ 210 ở
phía Bắc đến xa lộ 710 ở phía Nam Los Angeles, chỉ khoảng 20km, nhưng
dân không đồng ý và chính phủ California đành ngậm bồ hoàn làm ngọt 4
năm qua. Dân chúng California phải đi đường vòng xa hơn 30km, và chịu
cảnh tắc giao thông trên xa lộ được phép chạy 70miles/h, nhưng phải chịu
còn chỉ 20 - 35miles/h vào giờ tan tầm.
Người dân thành phố Pasadena của Hạt Los Angeles thuộc bang
California không muốn ở gần con đường đi qua những căn nhà yên tỉnh và
thơ mộng như thế này, mặc dù chính quyền California quy hoạch để giúp
tránh kẹt xe và giảm ngắn đường đi cho dân chúng, và chính phủ thất bại
trong dự án làm đường.
Ở Hoa Kỳ, đơn vị hành chánh quan trọng nhất là thành phố. Giống như ở Việt Nam đơn vị hành chánh quan trọng nhất là cấp phường xã. Thành phố của Hoa Kỳ là cấp thấp nhất như phường xã ở ta, nhưng là nơi quyết định vận mệnh của từng quốc gia - tiểu bang - và lớn hơn là toàn liên bang. Nếu ở cấp thành phố Hoa Kỳ mà không đồng ý thì tổng thống Hoa Kỳ cũng chịu thua. Mà mọi nhân viên từ thấp đến cao của chính phủ tại thành phố là người làm công ăn lương của dân đóng thuế, nên mọi ý kiến của thành phố là ý của dân - hay nói cách khác, ý dân là ý trời bang ra.
Nếu như ở Việt Nam thì làm sao có được những cái thật sự vì dân, của dân và do dân như thế. Chúng ta thấy nhan nhản cảnh chính quyền nhà nước Việt Nam ức hiếp dân lành chiếm đất, đến nỗi dân phải tự chế bom xăng để tự vệ và phải vào tù như trường hợp của Vi Văn Tùng, Vi Văn Thế, hay của anh em Đoàn Văn Vươn. Hình ảnh cướp giết hiếp này đang diễn ra ở nơi mà chúng ta tự sướng bằng cách tự thủ dâm tinh thần là, nước ta hạnh phúc gấp ngàn lần bọn "tư bổn giãy đành đạch" hoài mà chưa chết. Nhưng chúng ta lại đang thấy chỉ có các xứ hạnh phúc ngàn lần như chúng ta là, đang lo sợ cái chết đang đến như Liên Xô, Đông Âu trong quá khứ, và hiện tại của Ukraina trong những ngày qua.
Dân chủ là gì?
Phan Thành Đạt
Định
nghĩa đơn giản về dân chủ: Dân chủ là chế độ chính trị thể hiện quyền
lực thuộc về nhân dân. Người dân thực hiện các quyền của mình
bằng cách trực tiếp hoặc bằng cách chọn ra các đại biểu để đảm nhiệm
các công việc trong bộ máy nhà nước. Dân chủ gồm hai loại dân chủ trực
tiếp thể hiện quyền tham gia trực tiếp của các công dân vào các công
việc quan trọng. Dân chủ gián tiếp thông qua bầu cử những người đại
diện.
So sánh ba thể chế dân chủ ở Na Uy, Pháp và Bắc Triều Tiên.
Na
Uy và toàn bộ các nước thuộc khu vực Bắc Âu được đánh giá là những nền
dân chủ tiêu biểu nhất và là mô hình lí tưởng cho nhiều nước học theo.
Các quyền tự do cơ bản như tự do ngôn luận, quyền bình đẳng, quyền tự do
đi lại... được Nhà nước đặc biệt chú ý. Chỉ số phát triển về con người
và mức độ tự do báo chí của Na Uy luôn đứng ở đầu bảng xếp hạng.
Pháp
được xếp là nền dân chủ lâu đời, nhưng trên bảng xếp hạng của các nước,
Pháp không đứng ở vị trí đầu, tự do đồng nghĩa với việc làm tất cả
những gì mà luật pháp không cấm. Điều 4 của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền, ngày
26 tháng 8 năm 1789 quy định: “Tự do là làm tất cả những gì không hại
đến người khác, nghĩa là quyền tự nhiên của mỗi người cần có những giới
hạn. Những giới hạn đó nhằm đảm bảo cho những người khác trong xã hội
cũng được hưởng các quyền tương tự. Những quy định về giới hạn chỉ có
thể được luật pháp quy định”.
Bắc Triều Tiên
không phải là chế độ dân chủ, đây là chế độ gia đình trị và đã truyền
ngôi được ba thế hệ. Người dân Triều Tiên phải sống theo nhịp sống của
gia đình nhà họ Kim. Khi gia đình này muốn nhân dân nhảy múa, chào mừng
sinh nhật các lãnh tụ, người dân sẽ nhảy múa, ca
hát. Khi nhà họ Kim có chuyện buồn, người dân phải khóc thương lãnh tụ.
Ở Triều Tiên, dù người dân bụng vẫn đói nhưng vẫn phải nhảy múa và hát
ca để tỏ lòng biết ơn lãnh tụ. Người dân không có quyền bầu cử, không
được bàn luận chính trị, không hiểu rõ các quyền cơ bản của mình. Mọi
việc đã do lãnh tụ anh minh tính hết.
Tổng
thống Obama nói với các nhà độc tài châu Phi: “Hãy nói cho tôi biết dân
chủ đang suy thoái ở nơi nào ở châu Phi?”. Họ trả lời: “Sẽ có lí và suy
nghĩ nhanh hơn, khi chúng tôi cùng trả lời ông, dân chủ đang có những
bước tiến ở đâu”.
Trong các chính thể độc tài,
sẽ thật buồn cười khi bàn về dân chủ, khi chính họ thích sử dụng bạo lực
để đàn áp mà không cần đối thoại (hình tượng thanh kiếm), hoặc không có
dấu hiệu nào hứa hẹn cho dân chủ từ phía họ.
Dân
chủ ở Mỹ: Nhân dân muốn tôi (Tổng thống Mỹ là người được nhân dân tín
nhiệm, thông qua bầu cử cạnh tranh). Dân chủ ở Trung Quốc: Nhân dân sẽ
có tôi (thông qua sự sắp xếp của Đảng Cộng sản Trung Quốc, dù nhân dân
có muốn hay không, Chủ tịch Nước đồng thời là Chủ tịch Đảng vẫn có quyền
lãnh đạo nhân dân. Nhân dân không có quyền phản đối hay phế truất).
Dân
chủ ở Mỹ gắn với quyền dân, còn dân chủ ở Trung Quốc gắn với quyền
đảng, cao hơn cả quyền dân. Việt Nam vẫn theo cách lãnh đạo của Trung
Quốc hay theo thể chế dân chủ trong tương lai? Câu trả lời xin dành cho
những nhà lãnh đạo đang chèo lái con thuyền Việt Nam.
Bức tranh Tự do dẫn đường cho nhân dân (La liberté guidant le peuple) của Eugène Delacroix, 1830
Tự do dẫn đường cho nhân dân là
bức tranh sơn dầu nổi tiếng của họa sĩ Eugène Delacroix, được vẽ năm
1830, miêu tả sự kiện chính trị ở Paris diễn ra trong ba ngày 27, 28, 29
tháng 7 năm 1830, vào thời điểm đó, quần chúng Paris nổi dậy, nhằm xóa
bỏ chế độ quân chủ thiết lập nền cộng hòa. Họ dựng các chiến lũy trên
đường phố, chiến đấu chống lại quân đội. Vua Charles X và toàn bộ gia
đình phải bỏ chạy.
Bức tranh nổi tiếng này hiện
được trưng bày tại bảo tàng Louvre. Nó được coi là biểu tượng của nền
cộng hòa và cũng là biểu tượng của nền dân chủ ở Pháp. Bức tranh được
triển lãm ở nhiều nơi trên thế giới, mới đây, Trung Quốc đã đề nghị Pháp
mượn bức tranh này để trưng bày. Nhiều người lo ngại cho việc bảo quản
bức tranh, mỗi khi nó bị chuyển ra nước ngoài để triển lãm.
Để
xây dựng thành công nền dân chủ, nước Pháp phải đi qua một chặng đường
dài: Từ khi nền cộng hòa được thiết lập năm 1793, sau đó đến đế chế của
Napoléon được thiết lập năm 1799, người Pháp lại trở về với chế độ quân
chủ, nền cộng hòa được thiết lập trở lại tử năm 1873. Sau gần một thế
kỷ, nền cộng hòa thực sự mới được thiết lập bằng nền móng dân chủ vững
chắc. Trong khi đó, nền dân chủ ở Mỹ và Anh được thiết lập từ khá sớm. Ở
Mỹ, quyền lực được tổ chức hợp lí nhờ thương lượng và có cơ chế giám
sát từ sớm; quyền lực ở cấp quốc gia và các bang được Hiến pháp phân
công cụ thể. Nền dân chủ ở Anh cũng được xây dựng và củng cố trong ổn
định nhờ kết hợp hài hòa giữa quyền lực mang tính biểu tượng của hoàng
gia và quyền lực thực tế của Nghị viện. Ở Pháp, ít có thương lượng vì
mỗi khi một thế lực lên nắm quyền đều muốn xây dựng một thể chế theo ý
mình, thế lực nắm quyền phủ định những nguyên tắc được chế độ cũ xây
dựng. Do vậy con đường đến với dân chủ lâu hơn vì mọi xung đột và bất
đồng không được giải quyết triệt để, hoặc giải pháp đưa ra lại là biện
pháp bạo lực.
“Độc
tài có nghĩa là hãy im miệng đi, dân chủ là thoải mái được nói” là câu
nói nổi tiếng của nghệ sĩ Jean-Louis Barrault, sau này nghệ sĩ hài
Coluche cũng nhắc lại câu này khi bàn về dân chủ. Coluche là người sáng
lập ra các tiệm ăn vì tấm lòng (les restaurants du coeur), dành cho
người nghèo và những người vô gia cư. Ông cũng là người đấu tranh chống
phân biệt chủng tộc, với câu nói nổi tiếng: “Đừng đụng đến bạn tôi” (ne
touche pas à mon pote).
Dân chủ đồng nghĩa với
quyền tự do ngôn luận, mỗi người được nói ra những suy nghĩ của mình mà
không sợ bị bắt bớ đe dọa. Điểm khác biệt trong chính thể dân chủ và độc
tài hay độc đoán ở chỗ con người được nói theo suy nghĩ của mình và con
người nghĩ một đằng nhưng phải nói một nẻo. Người Trung Quốc có câu tục
ngữ: “Ở triều đình người ta hát, sau đó được thưởng rượu để uống, còn ở
vùng quê, người ta uống sau đó tự hát”. Báo chí tự do thuộc quyền sở
hữu tư nhân và thông tin đa chiều sẽ đảm bảo tốt các giá trị dân chủ và
nâng cao trình độ hiểu biết cho con người.
P. T. Đ.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Thứ nhân quyền mà giới độc tài yêu thích
Liệu khái niệm “nhân quyền” còn có ý nghĩa trong một thế giới mà ở đó mọi thứ đều phù hợp với khái niệm này hay không?
PEDRO PIZANO | Foreign Policy | 27.2.2013
Người dịch: Lê Anh Hùng
Trông kìa! Kobe Bryant có thể đang vi phạm quyền con người của
bạn đấy!
Farida Shaheed, báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc về quyền văn hoá, mới thông báo là cô đang khởi xướng một nghiên cứu mới nhằm giải đáp vấn đề: Liệu các thói quen
quảng cáo và tiếp thị có ảnh hưởng đến sự đa dạng văn hoá và quyền của người
dân trong việc lựa chọn lối sống hay không? Bài bố cáo đăng một tấm ảnh chụp bức quảng cáo khổng lồ về bóng rổ Mỹ (với
hình ảnh cầu thủ ngôi sao Kobe Bryant), bức quảng cáo choán hẳn một góc của một
sân bóng rổ ở Trung Quốc.
Đây là hoạt động bình thường của văn phòng LHQ về quyền văn
hoá. Khi Shaheed thăm Việt Nam tháng trước, trong cuộc thảo luận về những lo
ngại liên quan đến quyền tự do ngôn luận, cô đã tranh thủ nêu bật một cuộc khủng hoảng khẩn cấp khác: đó
là cồng chiêng, một chủ đề nhạy cảm. Để độc giả nào chưa nghe nói tới dễ hình
dung, cồng chiêng là loại dụng cụ văn hoá độc đáo mà một số bộ tộc bản địa ở
các cao nguyên xa xôi ở Việt Nam vẫn sử dụng. Giờ đây, Shaheed lưu ý, cồng
chiêng đang phải đối mặt với một mối đe doạ mới: người ta “biểu diễn cồng chiêng để đáp ứng nhu cầu của du
khách ở một số nơi, từ đó làm mất đi ý nghĩa văn hoá độc đáo của loại nhạc cụ
này”. Cô hối thúc chính phủ bảo vệ hoạt động biểu diễn cồng chiêng trước hiện
tượng “dân gian hoá” (folklorization) – mà rõ ràng là một sự vi phạm nghiêm
trọng về “quyền văn hoá” của các sắc tộc bản địa.
Cần lưu ý rằng Việt Nam là một quốc gia cộng sản độc tài, hoàn
toàn phớt lờ quyền tự do tôn giáo, thường xuyên tống giam các thầy tu và nghệ
sỹ chỉ vì họ bày tỏ quan điểm của mình, và đã bị vô số tổ chức nhân quyền chỉ trích về tình trạng tra tấn và lạm dụng quyền lực đối với những người
bị giam giữ. (Trong bức ảnh trên, cảnh sát đang ngăn cản một phóng viên ảnh
chụp hình bên ngoài một phiên toà ở Tp Hồ Chí Minh.)
“Việt Nam đang nhanh chóng trở thành một trong những nhà tù lớn nhất
Đông Nam Á dành cho những người bảo vệ nhân quyền và các nhà hoạt động khác”,
Robert Abbott, chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam thuộc Tổ chức Ân xá Quốc tế
(IA), nhận xét. Vậy nhưng, dưới nhãn quan của Shaheed, những vụ vi phạm như
thế lại ngang bằng với tình trạng các phẩm vật văn hoá bị sử dụng một cách tệ hại
trong ngành du lịch. Những vi phạm khác, nghiêm trọng hơn lại chỉ được dành cho
một đoạn chỉ trích trong bản báo cáo của cô; rõ ràng là chúng không nằm trong
phạm trù với định nghĩa mơ hồ: “quyền văn hoá”. Giờ đây, chính phủ Việt Nam có
thể phớt lờ phần lớn những gì mà Shaheed đã phải lên tiếng; và gạt phăng những chỉ trích của cô, coi đó là hiệu ứng phụ của hoạt động du
lịch.
Trong những năm qua, giới chỉ trích đã chế nhạo thái độ của Hội đồng Nhân quyền LHQ
khi họ sẵn sàng lắng nghe những ý kiến ngược đời của các nhà độc tài tồi tệ
nhất thế giới, những kẻ vẫn xuất hiện nổi bật giữa các thành viên khác của Hội
đồng. (Số thành viên này thậm chí còn tìm cách cấm từ “độc tài” xuất hiện trong các văn bản hội họp của Hội
đồng Nhân quyền.) Tuy nhiên, tấn hài kịch mang tên “quyền văn hoá” lại chỉ là
một triệu chứng của một vấn đề trầm trọng hơn nhiều mà một số người gọi là “hiện
tượng lạm phát quyền văn hoá” (human rights inflation). Các tổ chức càng ngày
càng nêu tên nhiều thứ mà họ cảm thấy mình đáng được hưởng – từ phòng ngủ dự phòng cho đến viện trợ nước ngoài – là một “quyền”. Một nhóm lợi ích
đặc biệt thậm chí còn đang lớn tiếng đòi trao vị thế “quyền” chính thức cho “cơ hội truy cập Internet”, như thể quyền tự do ngôn luận vẫn
còn chưa đủ. Trong khi đó, nhiều đảng phái khác nhau lại khẳng định “quyền” của
mình đối với dịch vụ tư vấn việc làm, nghỉ phép hưởng lương, giáo dục miễn phí đến bậc đại học, và một loại thuế tài chính toàn cầu để chống lại cuộc khủng hoảng kinh
tế.
Ngày nay, chúng ta đã được chứng kiến hiện tượng lạm phát quyền con người – và tất cả chúng đều được khẳng định là quan trọng như nhau và không thể chia tách. Các quyền con người không biến đi đâu. Chúng đã đánh mất giá trị của mình.
Khi Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR) được ký kết vào năm
1948, nó giới hạn thế giới nhân quyền trong 30 điều khoản mà thôi. Các nhà soạn
thảo cảm thấy bị thúc bách phải giữ danh mục nhân quyền sao cho ngắn gọn và
mạnh mẽ. Trong số đó, 18 điều khoản được coi là quyền, những điều khoản áp đặt
nghĩa vụ trực tiếp lên nhà nước ở bình diện cá nhân; 12 điều khoản về kinh tế,
văn hoá và xã hội được coi là khát vọng. Loại điều khoản thứ hai này gây tranh
cãi ngay từ đầu và đó là một trong những lý do giải thích tại sao UDHR không
mang tính ràng buộc và không kèm theo cơ chế thực thi nào. Năm 1976, để giải
quyết những vấn đề này, các quyền được chia tách một cách đúng đắn thành những hiệp
định riêng rẽ mang tính ràng buộc và áp đặt lên nhà nước thông qua các cơ quan
giám sát: Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) và Công ước
Quốc tế về Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hoá (ICESCR).
Đây là thoả hiệp chính trị ra đời từ cuộc đấu tranh ý thức hệ
giữa Hoa Kỳ và Liên bang Soviet toàn trị, quốc gia ủng hộ các quyền xã hội,
kinh tế và văn hoá với cái giá của các quyền dân sự và chính trị. Đến nay Hoa
Kỳ vẫn chưa phê chuẩn ICESCR.
Hậu quả từ cuộc thoả hiệp yểu mệnh đó đã vượt ra ngoài tầm kiểm
soát. Trước năm 2014 đã có 676 điều khoản, từ quyền cá nhân cho đến quyền tập
thể và thậm chí là cả quyền về môi trường. Một số quyền thậm chí còn không áp
đặt nghĩa vụ trực tiếp lên nhà nước – thay vì thế, chúng được thiết lập thông
qua “quá trình hiện thực hoá từng bước”, theo đó nhà nước, với nguồn lực và khả
năng hữu hạn của mình, hứa hẹn là sẽ hoàn thành chúng vào một thời điểm nào đó
trong tương lai.
Hiện tượng sinh sôi nảy nở lạ lùng này bắt nguồn từ thực tế nhân
quyền là một công cụ hữu ích trong tay bất kỳ nhóm áp lực[i] nào ở vào vị thế được
hưởng lợi từ sự mở rộng quyền con người – và điều đó còn bao gồm cả các nước
phi tự do.
Quyền tiếp cận lương thực, chẳng hạn, đã trở thành một quyền khả
dĩ phán xử trên bình diện quốc tế kể từ năm ngoái với việc thông qua nghị định
thư không bắt buộc cho ICESCR. Động thái này nhận được sự ủng hộ nhiệt thành từ
nhiều nước, trong đó có Iran, quốc gia đã lặp đi lặp lại trong nhóm công tác rằng “nghị định thư này đã đem lại
cơ hội để tái khẳng định vị thế bình đẳng của tất cả các quyền con người”.
Trong khi đó, tiếng nói tỉnh táo và mang âm hưởng tự do chủ nghĩa của Vương
quốc Anh lại gần như bị phớt lờ: “Vương quốc Anh vẫn hoài nghi về lợi ích thiết
thực của nghị định thư, với cân nhắc rằng các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá
không phù hợp với sự phân xử theo cùng cái cách mà người ta vẫn phân xử các
quyền dân sự và chính trị.”
Một số người có thể cho rằng, nhìn chung, nhà nước không muốn
sinh ra nhiều quyền bởi lẽ điều đó sẽ áp đặt thêm nhiều nghĩa vụ. Tuy nhiên,
chính xác là bởi tình trạng nhân quyền cứ sinh sôi nảy nở này mà nhiều nước lại
có thể lựa chọn những quyền mà họ có thể hứa hẹn hoàn thành nghĩa vụ vào một
thời điểm nào đó trong tương lai – và qua đó phô bày một hồ sơ nhân quyền “tốt
đẹp”, ngay cả khi họ không bảo vệ được những quyền dân sự và chính trị cơ bản
nhất. Những kết quả đáng mong muốn như nhà ở hay chăm sóc sức khoẻ – cần được
hiểu là những mục tiêu chính trị – được ẩn giấu trong thứ ngôn ngữ nhân quyền hòng
khiến chúng trở nên chính đáng hơn. Quyền tiếp cận một phòng ngủ dự phòng chỉ
còn cách đó một bước chân nữa mà thôi.
Các tổ chức nhân quyền nghiêm túc đã
mở rộng pháp luật về nhân quyền để bao hàm quyền của phụ nữ và quyền của dân
tộc thiểu số cho các dân tộc bản địa, các cá nhân LGBT (đồng tính luyến ái nữ,
đồng tính luyến ái nam, lưỡng tính và chuyển giới), người già và người tàn tật.
Các nhóm phụ nữ và tổ chức nhân quyền ở Saudi Arabia, chẳng hạn, đã huy động
lực lượng để ủng hộ “quyền lái xe”. Tất nhiên, các nhóm này cần được tôn trọng
và nỗ lực của họ cần được ca ngợi – nhưng không cần phải soạn thảo những hiệp định mới hay tạo ra
các quyền mới. Chỉ cần các công cụ nhân quyền truyền thống là đủ. UDHR quy định
rõ ràng rằng không ai cần phải chịu đựng sự phân biệt đối xử vì “chủng tộc, màu
da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay quan điểm khác,
nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, xuất thân, hay địa vị khác” của họ. Bạn không có những quyền đặc
biệt bởi vì bạn là một người đồng tính luyến ái nữ, một người già, một phụ nữ
sống ở Saudi Arabia; bạn có quyền bởi vì bạn là con người.
Mặt trái của hiện tượng nhân quyền cứ sinh sôi nảy nở là ở chỗ,
nó cho phép các nhà độc tài san bằng sân chơi. Hội đồng Nhân quyền LHQ bị tai tiếng là chạy theo mong muốn của các chế độ độc tài vốn háo hức với
việc che đậy tai tiếng của mình. Năm 2007, sau khi từng từ chối các chuyến thăm
của các đại diện đặc biệt LHQ trong hơn 18 năm, Cuba đã chào đón Jean Ziegler, báo cáo viên đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền LHQ
về quyền tiếp cận lương thực. Ziegler đã ca ngợi chính phủ Cuba vì đã bảo vệ
quyền tiếp cận lương thực như một “quyền con người cơ bản”, rồi đi đến đổ lỗi
cho lệnh cấm vận của Hoa Kỳ trước bất kỳ sự thiếu hụt lương thực nào. Các chính
sách của chế độ độc tài cộng sản 55 tuổi này – vốn không cho phép tư hữu, tư
doanh, tự do đi lại và tự do ngôn luận – dường như không liên quan gì đến vấn
đề lương thực. Ziegler đã xem xét quyền tiếp cận lương thực một cách biệt lập, bỏ
qua cả những vụ vi phạm nhân quyền phi lương thực liên quan, và cuối cùng là
giúp nhà cầm quyền Cuba thoát tội. Cuba có thể ca ngợi thành công của họ trong
việc bảo vệ một quyền con người trong khi lại khéo léo phớt lờ toàn bộ nhiều
thất bại khác. Những chế độ chuyên vi phạm nhân quyền quan tâm đến việc làm cho
các quyền con người trở nên mờ nhạt tới mức độ mà ở đó toàn bộ khái niệm nhân
quyền mất đi ý nghĩa của nó.
Jacob Mchangama, đồng sáng lập viên kiêm giám đốc điều hành của
Freedom Rights Project, một tổ chức tìm cách đưa tự do trở lại với nhân quyền,
nhận xét: “Thật đáng buồn, chuyện này hiện đã trở thành chuyện thường ngày mất rồi.”
Gần đây, tổ chức của ông đã tổ chức một cuộc hội thảo tại Quốc hội Đan Mạch về chủ đề: Chuyện gì đã xẩy ra với nhân
quyền quốc tế và cách thức giải quyết.
Một trong những chủ đề trọng tâm của cuộc hội thảo là xu hướng
đáng lo ngại của hiện tượng nhân quyền cứ sinh sôi nảy nở. Các diễn giả đã thách thức sự đồng
thuận giáo điều về tính bất khả chia tách (indivisibility) của nhân quyền và học thuyết về tính cân xứng (proportionality). Emilie Hafner-Burton trình bày một nghiên
cứu cho thấy là có ít ví dụ về việc một nhà nước phi tự do cải thiện nhân
quyền kể cả sau khi các nhà lãnh đạo của nó ký kết một hiệp ước về nhân quyền.
Tại phần lớn các nước độc tài, việc ký kết Công ước Chống Tra Tấn ít tác động đến số vụ tra tấn, và cho phép các chế độ đó tồn tại lâu hơn.
“Khi mọi thứ đều có thể được định nghĩa là quyền con người thì
cái giá để vi phạm những quyền như thế lại rẻ”, Mchangama nhận xét với tôi ở
Copenhagen. “Bằng cách cho thấy mình là kẻ cổ suý nhiệt thành cho những quyền
con người thuộc thế hệ thứ ba này, các nước phi tự do đang tìm cách để vừa tước
bỏ vị thế đạo đức cao quý của các quyền dân sự và chính trị, vừa đạt được tính
chính danh chính trị. Hiện tượng các quyền con người cứ sinh sôi nẩy nở đang được các chính
thể độc tài lạm dụng để ca tụng lẫn nhau, và làm mất đi sự rõ ràng về đạo đức
mà các quyền con người trước kia từng có.”
Có thể chúng ta đang được chứng kiến hiện tượng bong bóng nhân
quyền dần dần bị vỡ. Nếu tôi đầu tư vào giá trị của nhân quyền như một khái
niệm vào năm 1996 (khi ICCPR được thông qua) thì giá trị cổ phần của tôi sẽ đạt
đỉnh vào khoảng năm 1993. Đây là năm mà Tuyên ngôn và Cương lĩnh Hành động
Vienna 1993 (Vienna Declaration and Program of Action of 1993) tuyên bố rằng
tất cả các quyền con người đều khả dĩ phân xử và bất khả chia tách như nhau, một
tuyên bố khiến cho sự khác biệt giữa các quyền dân sự và chính trị với các “quyền” kinh tế, xã hội và hoá trở nên vô nghĩa.
Ít nhất thì tôi cũng có thể luôn tìm thấy sự thoải mái khi chơi
món cồng chiêng của mình – tức là, chừng nào không có du khách nào lấp ló gần đấy
cả. Có phải vậy không, cô Shaheed?
IAN
TIMBERLAKE/AFP/Getty Images
Nguồn: Foreign Policy / Defend The DefendersMồm loa mép dãi
Ông
bà ta ngày xưa thường dùng câu “mồm loa mép dãi” để chỉ những
hạng người có hành động gian manh, thâm độc nhưng lại dùng
những lý lẽ kiểu như hạng lưu manh để biện minh cho hành động
đốn mạt của mình. Hiện nay, nhìn lại thì chúng ta có thể
thấy một cách rõ
ràng là lũ Tàu Cộng đang có cái kiểu “mồm loa mép dãi” bù lu
bù loa, vừa ăn cướp vừa la làng ở trên vùng biển Nhật Bản
cũng như vùng biển Đông.
Khi khổng khi không, chúng hô hoán lên là vùng quần đảo Senkaku do Nhật Bản kiểm soát
là thuộc chủ quyền của chúng. Chúng đã vẽ nên vùng nhận
dạng phòng không tại vùng biển này, chồng lấn lên vùng không
phận quy nước của những nước trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật
Bản, Đài Loan. Chúng thường xuyên cho tàu thuyền của chúng đến
vùng đảo Senkaku để quấy phá. Hành động lưu manh như vậy nhưng
chúng vẫn thường xuyên la làng rằng Nhật Bản đã có những động
thái “làm xấu đi tình hình khu vực”. Thật là miệng lưỡi của
quân mặt dày.
Tình
hình vùng biển Đông thì lại càng tệ hại hơn. Nếu ở vùng
biển Nhật Bản chúng vẫn phải “dè chừng” người Nhật vì dù
sao trong quá khứ chúng cũng đã từng “nếm đòn Nhật Bản”. Còn
ở vùng biển Đông thì chúng hung hăng hơn, ngang ngược hơn, tham
tàn hơn và có những hành vi đốn mạt hơn. Đối với ngư dân Việt
Nam thì khỏi phải nói. Những hành xử của chúng đối với những
ngưừi ngư dân Việt là “trên mức” tưởng tượng của mọi người.
Không hiểu là nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam có “mắc nợ” gì
với Tàu Cộng hay là không mà chúng cũng chỉ phản đối những
hành động tàn ác của Tàu Cộng với ngư dân Việt một cách yếu
ớt. Người dân Việt vì quá bất bình và căm phẫn hành động gian
manh của Tàu Cộng đối với ngư dân Việt Nam đã biểu tình phản
đối thì Cộng Sản Việt Nam lại đàn áp, bắt bớ, đánh đập, giam
cầm người biểu tình một cách thô bạo. Rõ ràng là Cộng Sản
Việt Nam đã sợ Tàu Cộng một phép. Thật là nhục nhã, còn thua
cả nước Philippine.
Philippine
là một nước không có quân đội hùng mạnh, vũ khí tân trang
cũng không đầy đủ, thế nhưng Philippine lại là nước lên tiếng
phản đối Tàu Cộng mạnh mẽ nhất. Chính Philippine còn kiện Tàu
Cộng ra tòa án quốc tế vì những hành xử ngang ngược của Tàu
Cộng tại vùng biển Đông. Khi lũ Tàu Cộng giở thói côn đồ ra
với ngư dân Philippine thì chính phủ Philippine cũng mạnh dạn lên
tiếng phản đối. Cho nên tại vùng biển Đông chỉ có Philippine
“đơn thương độc mã” lên tiếng phản đối Tàu Cộng về mọi phương
diện.
Nếu
như các nước trong khu vực ở vùng biển Nhật Bản cũng như ở
vùng biển Đông cùng mạnh dạn lên tiếng phản đối Tàu Cộng thì
chắc chắn một điều là bè lũ tham tàn Tàu Cộng cũng sẽ dè
chừng và sẽ giảm dần đi cường độ gian tham của chúng.
Việc
này sao mà “khó” còn hơn “mò kim đáy biển “ vì bè lũ Tàu
Cộng vẫn còn một thằng đệ tử ngu xuẩn “cúc cung tặn tụy”!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét