Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 2 tháng 3, 2014

Thuế Má & Chó Má - Chúng ta đang cần một cơn ‘đại hồng thủy’? Trò chơi” giữa Việt Nam-Trung Quốc trong gỡ bỏ cấm vận

Thuế Má & Chó Má

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến  -RFA

Ôi! Có ở đâu như ở đây.
Trần Hồng Tâm
Năm ngoái, tôi được nghe Thượng Tọa Tuệ Sĩ kể lại câu một chuyện (hơi) buồn:
Tại xã Hương Thọ huyện Hương Trà tỉnh Thừa Thiên có một gia đình nghèo khổ sống lênh đênh trên một chiếc đò. Khi cơn lụt ập đến, gia đình này là duy nhất có ghe ở địa phương miền núi này, do đó đã vớt được trên 80 người khỏi cảnh chết chìm. Sau nước rút, thỉnh thoảng có vài phái đoàn đến cứu trợ. 
 
Các gia đình khác đều nhận được cứu trợ. Chỉ trừ gia đình anh. Lý do:không có hộ khẩu, vì lâu nay gia đình này nghèo quá, phải sống “vô gia cư” phiêu bạt trên các sông suối nên không có hộ khẩu thường trú. Dân làng biết ơn anh, xin chính quyền địa phương cấp hộ khẩu cho. Nhưng thiếu điều kiện nhập hộ: gia đình anh không có đủ 400,000 đồng VN để hối lộ...
 
Thay vì “lênh đênh trên một chiếc đò” (vì không có hộ khẩu) dân Việt có thể lựa chọn một cách sống “vô gia cư” khác: chui (mẹ) vô …  rừng. Báo Xã Luận, số ra ngày 15 tháng 2 năm 2014, mới đi tin “Phát Hiện Cô Bé Người Rừng Ở Khánh Hoà. ” Xin  ghi lại nguyên văn, không sót một chữ, để rộng đường dư luận:
Mấu Thị Ni đã được 7 tuổi, (SN 2007, người dân tộc Rắc-lây) nhưng chỉ nhỏ bé như một đứa trẻ lên 5 và mọi sinh hoạt đều gặp hạn chế vì những chứng bệnh bẩm sinh của mình (do quá trình mẹ em mang thai bị Rubela). Từ ngày sinh ra cho đến tận lúc được sư thầy cùng các phật tử phát hiện giúp đỡ, Ni không biết nói, không thấy đường, cũng chẳng thể nghe và đi lại được, bị hẹp van tim và phổi…
Em nằm yên một chỗ giữa cái nền nhà trơ trọi cát đất và chờ sự chăm sóc từ những người thân. Bi kịch chưa dừng lại ở đó với Ni. Năm em lên 2 tuổi, mẹ em đột ngột qua đời để lại Ni cho người cha nghèo già yếu. 4 năm sau (tháng 11/2013), trải qua một quá trình bệnh nặng không có tiền chữa trị, người cha – người thân duy nhất còn lại của em cũng qua đời vì ung thư gan. Đứa bé dị tật câm – điếc – mù và nhiều chứng bệnh nặng khác chính thức bước vào con đường “người rừng” do không ai chăm sóc.
Khi được một sư thầy đã vô tình phát hiện ra, cô bé “người rừng” Mấu Thị Ni đang trong tình trạng báo động về thể chất và tinh thần, rất cần giúp đỡ. Nhận được sự trợ giúp, hiện cô bé đáng thương này đã được đem về chùa Phú Quang (thuộc tỉnh Khánh Hòa) để tập dần với cuộc sống người thường và chờ kêu gọi hỗ trợ để chữa trị bệnh tật.
Nguồn ảnh:xaluan.com
Bán tin thượng dẫn dài 275 chữ. Hạn từ “giúp đỡ” và “rất cần giúp đỡ” được lập đi lập lại đến đôi lần nhưng không một chữ nào – nửa chữ cũng không luôn – nhắc đến Đảng, Nhà Nước, Ủy Ban Nhân Dân, hay Mặt Trận Tổ Quốc (cùng với hàng trăm thứ cơ quan, ban ngành, đoàn thể, hội hè … thổ tả gì đó) của tỉnh Khánh Hoà.
Người rừng Mấu Thị Ni được “sư thầy cùng các phật tử vô tình phát hiện” rồi mang về chùa, “… chờ kêu gọi hổ trợ để chữa trị bệnh tật.” Tất nhiên là “kêu gọi hổ trợ” từ những đồng bào (trong hay ngoài nước) chứ không phải từ phía chính quyền.
Đảng, Nhà Nước và Nhân Dân là ba phạm trù luôn luôn đi liền, và gắn bó mật thiết với nhau, khi có nhu cầu tuyên truyền hay đóng góp – kể cả chuyện đóng góp máu xương cho cách mạng: đâu cần nhân dân có, đâu khó có nhân dân. Khó trăm lần, dân liệu cũng xong. Tuy thế, khi Nhân Dân trăm họ bị bệnh tật hay gặp chuyện khó khăn thì đó lại là chuyện (riêng) của mỗi người. Đảng và Nhà Nước hoàn toàn vô can và vô trách nhiệm.
Cứ thử google bốn chữ “cần được giúp đỡ” coi. Trong vòng 25 giây, hiện ra 3,300, 000 “kết quả.” Rảnh, xin xem qua vài ba để … mở mang kiến thức:
          – Thân nhân liệt sĩ gặp khó khăn cần được giúp đỡ.  Đó là gia đình bà Hà Thị Thủy, 74 tuổi, trú tại thôn Cái Tắt, xã An Đồng (An Dương, thành phố Hải Phòng)… Thời kỳ chiến tranh, bà là thanh niên xung phong. Bà gặp và kết hôn cùng ông Nguyễn Văn Viền là bộ đội. Ông Viền hy sinh năm 1968, khi con gái vừa mới sinh. Bản thân bà là người ngoại tỉnh, gia cảnh lại neo đơn không có anh em ruột thịt, bà phải gửi con nhỏ về quê Nam Định cho mẹ già chăm sóc. Bà lăn lộn kiếm tiền gửi về cho mẹ nuôi con gái. Mọi sự giúp đỡ xin gửi về bà Hà Thị Thủy hoặc bà Vũ Thị Hải – Trưởng văn phòng đại diện Báo Nông Thôn Ngày Nay tại Hải Phòng – số 31 Điện Biên Phủ, quận Hồng Bàng, ĐT: 0903212789; hoặc Báo Nông Thôn Ngày Nay – 13 Thụy Khuê, Hà Nội, tài khoản 1506311002117, chi nhánh Ngân hàng NNPTNT Tây Hồ, Hà Nội.
 
          - Gia đình anh Dũng rất cần được giúp đỡ. Hoàn cảnh của gia đình anh Nguyễn Ngọc Dũng, (tên thường gọi là Đất) ở xóm Bàu Cả, thôn Phú Vang, xã Bình Kiến (TP Tuy Hòa) rất đáng thương, cần được các tấm lòng hảo tâm và cộng đồng chung tay giúp đỡ…Mọi sự giúp đỡ xin được gửi về anh Nguyễn Ngọc Dũng (xóm Bàu Cả, thôn Phú Vang, xã Bình Kiến, TP Tuy Hòa, Phú Yên) hoặc Phòng Bạn đọc – Ban công tác Xã hội – Từ thiện Báo Phú Yên, 62 Lê Duẩn, TP Tuy Hòa, Phú Yên. ĐT: 057 3841043.
          – Chị Tâm cần được giúp đỡ. Nói đến gia đình chị Trần Thị Tâm (tổ 74, khu 9, phường Cao Thắng, TP Hạ Long), bà con sống xung quanh ai cũng thấy ái ngại cho hoàn cảnh của chị. Chị Nguyễn Thị Châm, cán bộ LĐ-TB&XH phường Cao Thắng cho biết: “Chồng mất sớm, chị Tâm lam lũ nuôi hai con. Dù rất cố gắng nhưng gia đình chị Tâm vẫn không thể thoát nghèo…”… Mọi sự giúp đỡ xin gửi về một trong các địa chỉ: Chị Trần Thị Tâm, tổ 74, khu 9, phường Cao Thắng, TP Hạ Long hay Quỹ Xã hội từ thiện Báo Quảng Ninh (71 Nguyễn Văn Cừ, TP Hạ Long, tài khoản 010704060014495 – Ngân hàng Quốc tế Chi nhánh Quảng Ninh), số điện thoại 0915771582.
          – Một hoàn cảnh thương tâm cần được giúp đỡ. Là trụ cột của gia đình nhưng tháng 9-2013, anh Nguyễn Hoàng Hiệp, trú tại 646/34A đường 30-4 (TP.Vũng Tàu) đã phát hiện mình bị ung thư máu trong khi cuộc sống gia đình đang khó khăn chồng chất… Hơn lúc nào hết, gia đình anh Hiệp rất cần sự chung tay của những tấm lòng hảo tâm để giúp gia đình anh vượt qua khó khăn, chiến thắng bệnh tật. Mọi sự đóng góp có thể gửi trực tiếp tới gia đình anh Hiệp, số điện thoại 0962571933 hoặc thông qua Quỹ tấm lòng vàng Báo Bà Rịa-Vũng Tàu, địa chỉ: Số 28 Trần Hưng Đạo, phường 1 (TP.Vũng Tàu).
Từ hai phần ba thế kỷ qua, ngoài việc thu thuế (và thu thêm hàng trăm khoản tiền bà rằn khác nữa) Đảng & Nhà Nước tuyệt nhiên và tuyệt đối không có bổn phận hay trách nhiệm gì ráo trọi trong đời sống của bất cứ ai – bất kể là người rừng hay người thành thị.
Mỗi tuần tôi nhận được qua bưu điện bốn tờ tuần báo: Sống (phát hành từ Westminster, California) Thời Báo (Cheektowaga, New York) Trẻ (Dallas, Texas) và Việt Tribune (San Jose, California). Trừ tờ cuối cùng, ba tờ còn lại đều có mục “Những Tấm Lòng Vàng” hay “Trang Tương Trợ” với tên tuổi, địa chỉ, và hình ảnh những đồng bào đang lâm trọng bệnh hay rơi vào hoàn cảnh cực kỳ bi đát – ở quê nhà – cùng với lời kêu gọi xin độc giả hảo tâm giúp đỡ.
Sự giúp đỡ không chỉ giới hạn ở bình diện cá nhân.  Nếu google vài chữ khác nữa,  “giúp đỡ xây cầu” chả hạn, trong vòng năm mươi giây cũng sẽ hiện ra hơn chục ngàn “kết quả” – đại loại như:
               
 
Ảnh Nguyễn Thành Chung. Nguồn: Dân Trí
Chớ cái Chính Phủ của nước Cộng Hoà  Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc) làm gì và ở đâu, vậy Trời? Một cá nhân, một gia đình, hoặc ngay cả một tập thể người (đôi lúc) cũng cần đến sự trợ giúp của tha nhân khi lâm hoạn nạn nhưng một quốc gia thì không thể theo đuổi chính sách sống nhờ vào lòng từ thiện, vào kiều hối, hay vay vốn ODA nước ngoài – mãi mãi – như vậy được.
Câu hỏi cũng cần được đặt ra là nhà nước Việt Nam làm gì với thuế má của dân mà lại điều hành xã hội một cách chó má như thế. Đã thế, hôm 18 tháng 2 năm 2014 còn nghe BBC đi tin:
“Tòa phúc thẩm TP Hà Nội vừa y án 30 tháng tù giam vì Tội Trốn thuế theo Điều 161 Bộ Luật Hình sự đối với luật sư bất đồng chính kiến Lê Quốc Quân. Luật sư Hà Huy Sơn, một trong bốn luật sư bào chữa cho ông Quân ngày 18/2, cho biết ngoài án tù giam, doanh nghiệp của ông Quân còn phải bồi thường một khoản tiền phạt 1,29 tỷ đồng.”
 
Luật sư Lê Quốc Quân tại Tòa án nhân dân Hà Nội hôm 18/2/2014.  Ảnh: AFP 
Theo blogger Nguyễn Ngọc Già: “Tên gọi ‘trốn thuế’ phủ chụp luật sư Lê Quốc Quân đều được đại đa số gọi là sự trả thù hiển hiện của chế độ cộng sản Việt Nam mang màu sắc chính trị. Nó cũng được xem là đòn dằn mặt tiếp tục cho bất kỳ ai đòi dân chủ. Blogger Nguyễn Hữu Vinh nói thêm đây là “chuyện gắp lửa bỏ tay người.
Việt Nam – có lẽ – là nơi duy nhất mà người dân có thể bị cầm tù (thay vì xử phạt) với tội danh trốn thuế, dù không ai biết là bọn chó má đã xử dụng thuế má của người dân đóng góp ra sao, từ hơn nửa thế kỷ qua?

Lê Diễn Đạt - Thử mổ xẻ phiên toà xét xử Trương Duy Nhất

Chỉ còn hai hôm nữa nhà báo Trương Duy Nhất ra tòa. Anh bị xét xử vì bị cáo buộc vi phạm điều 258 Bộ Luật Hình sự “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.
 
Nhà báo Trương Duy Nhất cũng nói lên nguyện vọng mong muốn nhân sĩ, trí thức và các nhà báo tới tham dự phiên toà.
 
Cần phải lưu ý rằng, Trương Duy Nhất không phải là một nhà tranh đấu dân chủ, đúng hơn, anh là một người cầm bút phê phán hiện thực xã hội.
 
Là người sống và lớn lên trong chế độ, có ít nhiều sự ưu ái trong cuộc sống, Trương Duy Nhất không thuộc các đối tượng chống đối nhà nước CHXHCN Việt Nam, không bao giờ anh muốn phá hoại hay lật đổ hệ thống chính trị này mà chỉ muốn nó thay đổi, dẹp bỏ những tiêu cực, nạn cựa quyền, tham nhũng, bè phái, tự sửa chữa và hoàn thiện để tốt hơn lên.
 
Sự luận tội của bản cáo trạng qua 12 bài viết của anh là sự vu khống, áp đặt, khôi hài và nhố nhăng. Nếu như có một cái gì đó được gọi là quyền tự do ngôn luận, quyền tự do dân chủ và trách nhiệm đối với xã hội của công dân, thì những bài viết của anh phản ánh sự thật, nói lên những bức xúc, trăn trở, suy tư của dư luận và của bản thân. Có thể nói chưa bao giờ anh đi quá giới hạn của một con người như nhận định phía trên của tôi.
 
Trong 12 bài viết có 11 bài của Trương Duy Nhất, theo bản cáo trạng, "có nội dung không đúng sự thật, tuyên truyên, xuyên tạc đuờng lối chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, bôi nhọ lãnh đạo Đảng và Nhà nước; Đưa ra cái nhìn bi quan một chiều, gây hoang mang lo lắng, làm ảng huởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của ĐCSVN, Nhà nước CHXHCNVN".
 
Con mắt của một nhà báo độc lập là quan sát, phân tích sự kiện và đưa ra nhận định, nhiều khi chủ quan, nhưng không chịu bị lèo lái, đưa đẩy bởi bất kỳ thế lực khác, cho nên nói cái nhìn của Trương Duy Nhất một chiều là ấu trĩ, ngớ ngẩn.
 
Cái nhìn của anh chẳng theo cái chiều định hướng của Ban tuyên giáo, nó mang thông tin đôi khi ngược chiều hoàn toàn, để dư luận so sánh, đối chiếu, kiểm chứng và mổ xẻ. Đây là cách xử lý lương thiện của một người cầm bút. Những chủ đề mà Trương Duy Nhất đề cập đụng có chạm đến các vị "tứ trụ" của triều đình thì cũng chỉ trong khuôn khổ của sự phê phán những cái xấu xa có thật, mang nhiều tính xây dựng, với tâm nguyện mong muốn thay đổi.
 
Đã hết rồi thời kỳ đặt bút xuống là ngợi ca các vị lãnh tụ. Nếu dòng thông tin "một chiều" ấy,ví dụ, trong các bài "Chấm điểm Thủ tướng", "Chấm điểm Bộ tứ nguyên thủ","Chất lượng Chính phủ; quá tệ", "Tổng Bí thư và Chủ tịch nước nên ra đi", "Bỏ phiếu cùng Quốc hội"... đụng chạm và thực sự "gây hoang mang lo lắng, làm ảnh huởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), Nhà nước CHXHCN Việt Nam" thì cần phải nhìn nhận môt cách thành tâm và bình thản. Bởi vì vạch ra những vấn nạn yếu kém và đề xuất giải pháp chính là vì lợi ích sống còn của chế độ, chứ không phải ngược lại. Cây ngay không bao giờ sợ chết đứng! Còn hơn 800 tờ báo của đảng trong hệ thống tuyên truyền cơ mà! Há gì một trang blog cá nhân có thể "nói xấu"?
 
Sống ở Đà Nẵng, từng làm phóng viên của báo Công an Đà Nẵng, được tháp tùng nhiều lãnh đạo đi nước ngoài và có mối quan hệ gần gũi với lãnh đạo thành phố Đà Nẵng, nắm bắt được thông tin và tâm tư riêng của một số lãnh đạo cao cấp, Trương Duy Nhất đã chủ quan khi tấn công vào Nguyễn Tấn Dũng, tường thành của chế độ, đặc biệt vào chính sách phò Trung Quốc của ĐCSVN.
 
Cũng có vẻ như dựa thế của Nguyễn Bá Thanh, cựu Bí thư thành uỷ, khi được điều ra Hà Nội nhận chức Trưởng Ban Nội chính và Phó Ban Phòng Chống Tham nhũng Trung ương, Trương Duy Nhất đã không khá mạnh tay bút với Nguyễn Tấn Dũng. Thậm chí, anh còn làm một cuộc thăm dò uy tín riêng cho thủ tướng, cho thấy số phiếu rất thấp.
 
Sau Hội nghị Trung ương VI, khi cái tên "X" được mang ra đàm tiếu, Trương Duy Nhất đã thẳng thừng:
 
"Tại sao cái tên của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng - người bị Bộ Chính Trị yêu cầu kỷ luật cũng không dám công khai, phải nói trại ra là “một đồng chí ủy viên BCT” như kiểu không dám gọi đích danh mấy loại tàu cướp của Trung Quốc mà phải gọi là “tàu lạ” vậy? Đến mức khi giải trình với cử tri, Chủ tịch nước vẫn không dám nêu tên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mà phải gọi là “đồng chí X”. Đây là sự tế nhị, là nguyên tắc bảo vệ "tình đồng chí" trong đảng, hay là sự thỏa hiệp, là thái độ hèn hạ, bất lực? Thế thì làm sao còn dám kêu gọi người dân đừng sợ hãi, đừng sợ trù úm để cùng đảng chống tham nhũng?".
 
Thế nhưng cuộc chơi đã đi không đúng dự tính. Nguyễn Bá Thanh bị loại khỏi cơ cấu vào Bộ Chính Trị, còn Nguyễn Tấn Dũng thì củng cố được vị thế của mình sau hội nghị Trung ương 7. Và Trương Duy Nhất bị bắt.
 
Trương Duy Nhất là nạn nhân của sự tranh chấp quyền lực, mà thực chất là cuộc chiến chống lại sự chuyên quyền và lạm quyền của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
 
Phiên toà diễn ra sau cái chết của Thứ trưởng công an Phạm Quý Ngọ. Nguyễn Bá Thanh bị hụt hẫng vì đánh mất cơ hội ngàn vàng để có thể đi sâu khai thác vụ tham nhũng lớn nhắm vào Nguyễn Tấn Dũng. Trong bối cảnh này, phần bất lợi sẽ nằm ở phía Trương Duy Nhất. Trương Duy Nhất khó thoát khỏi cú trả đũa dằn mặt.
 
Tôi tin rằng anh Trương Duy Nhất sẽ có đầy đủ bản lĩnh, lý luận để giải trình và chứng minh mình vô tội trong khuôn khổ luật pháp của CHXHCN Việt Nam và các công ước quốc tế về quyên dân sự, chính trị mà Việt Nam đã ký kết.
 
Tôi cũng tin rằng các bài viết của anh mang lại lợi ích cho cộng đồng xã hội, và Nhà nước, nếu như Nhà nước ấy hiểu được ý của anh và hướng thiện.
 
Thế nhưng, kết luận của bản cáo trạng là "tính chất mức độ thuộc phạm tội nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội", là bằng chứng muốn dằn mặt, trừng trị Trương Duy Nhất và cảnh báo cho tất cả những người cầm bút trong nước có ý đồ phê phán lãnh đạo và các chính sách của nhà nước.
 
Do đó, tối thiểu mức án 3-4 năm giam tù từ mức án cao nhất 7 năm của điều 258 Bộ Luật Hình Sự hoàn toàn có thể xảy ra với Trương Duy Nhất, không nhẹ nhàng như một số người nhận định.
  Lê Diễn Đạt
  (Quê choa)

Diệt Khẩu Tướng Ngọ?


Cuộc đấu đá của Tổng bí thư Trọng nắm đảng, hậu thân của CS Bắc Việt, thủ cựu thân TC chống phe Thủ Tướng Dũng nắm nhà nước, hậu thân của CS Nam bộ, đổi mới, hướng về Mỹ dẩn đến con đường cùng, trong vụ Phe Tổng Trọng gọi là đại án tham nhũng. Cựu chủ tịch Vinalines Dương Chí Dũng người bị án tử hình trong vụ Vinalines làm thiệt hại khoảng 3 tỷ Mỹ Kim, với tư cách nhân chứng trong một vụ án của người em là đại tá Phó Sở Công an Hải Phòng, đã khai trước toà, y đã hối lộ 500 ngàn Đô la cho Thượng Tướng Phạm Quý Ngọ, Thứ trưởng Bộ Công An Việt Nam, trưởng ban chuyên án trong vụ này để được mật báo cho y trốn ra ngoại quốc trước khi bị truy tố. Cả mấy tháng trời im lặng, không thấy chuyển động gì về pháp lý đối với Thượng Tướng Ngọ. Đùng một cái, có tin của Phó Ban Nội Chính bên Đảng lên tiếng, rằng Tướng Ngọ có thể bị đình chỉ công tác để điều tra. Chỉ một ngày sau là có tin báo từ Phó Văn Phòng của Bộ Công an, rằng Tướng Ngọ qua đời vì bịnh ung thư gan tại bịnh viện quân đội 108. Cái chết bất đắc kỳ tử của người công an lên chức rất nhanh, trung ương uỷ viên, thứ trưởng bộ có quyền họp hội đồng nội các, đứng đầu ngành điều tra xét hỏi của bộ công an, tức toàn quốc, chết một cách đột ngột chỉ một ngày ngay sau khi phe bên Đảng tuyên bố có thể sẽ đình chỉ công tác để điều tra – quả là một tin chấn động.
Trong hoàn cảnh hai bên, Đảng với Tổng Trọng và Nhà Nước với TT Dũng đấu đá nhau lâu nay, dùng vũ khí chống tham nhũng để triệt hạ nhau như trận sóng ngầm mà cái chết bất thần của Tướng Ngọ là bọt biển. Trong tình hình cố hữu của thâm cung bí sử của CS với báo chí một chiều của Đảng, những chuyện úp úp mở mở như thế này, ít khi công luận tin những công bố chánh thức của Đảng Nhà Nước cũng như thông tin nghị luận của 700 báo đài của Đảng Nhà Nước. Tin làm sao được Ô. Hồ chí Minh chết mà phe đảng soán quyền Lê Duẩn, Lê đức Thọ còn đổi ngày, sửa di chúc, huống hồ gì một tướng công an, phe đảng CS vo tròn bóp méo dễ như chơi.
Nhưng thời đại tin học, bên cạnh công luận một chiều do Đảng Nhà Nước đưa ra, còn có dư luận của dân báo, của ngoại quốc có toà đại sứ, phóng viên thường trú ở Hà nội, đa dạng, đa diện, nhiều chiều, thông tin nghị luận sát thực tế, hấp dẫn, khiến tờ báo Nhân Dân tiếng nói chánh thức của Đảng CSVN trở thành báo mà người dân Việt chơi chữ gọi là tờ báo không có người dân nào đọc; trái lại dân báo là nguồn tin mà các cơ quan truyền thông quốc tế rất thường dùng.
Trở lại cái chết của Tướng Ngọ, nhiều dấu chỉ cho thấy không phải là cái chết bình thường, theo dư luận của những người theo dõi sát thời cuộc trong nước. Đài phát thanh VOA, tiếng nói chánh thức của chánh quyền Mỹ, trong tin phân tích sâu sắc, có âm chứng từ trong nước, có liệt kê ra những dấu chỉ khả nghi về cái chết đột ngột của Tướng Ngọ. Tin ông Ngọ được bộ Công an loan báo chết vì ung thư gan, tại bịnh viên quân sự, xuất hiện chỉ 1 ngay sau khi Phó Trưởng Ban Nội chính Trung Ương đề nghị đình chỉ công tác Thứ trưởng Công an Ngọ để phục vụ điều tra ông đã tiết lộ bí mật trong vụ án Dương Chí Dũng.
Một tháng trước Tướng Ngọ còn làm đám cưới con trai, hình ảnh, lời nói, tướng đi dáng đứng của Ông không có triệu chứng gì như một người bịnh như tờ báo Petrotimes của nhà nước mô tả là dấu chỉ trong ba tháng nay phải chống chọi với căn bệnh ung thư gan giai đoạn cuối.
Giờ chết của Tướng Ngọ do báo đài của Đảng Nhà Nước loan báo cũng tréo ngoe, làm dư luận thêm nghi ngờ, thắc mắc về cái chết bất thường của Tướng Ngọ, một cán bộ đảng viên cao nhứt tham nhũng, trong vụ án tham nhũng lớn nhứt là 3 tỷ Mỹ Kin của Vinalines, hai phe đảng Nhà Nước đang dùng làm vũ khí hại nhau.
VOA có trích dẫn một ý kiến của “Một nhà quan sát từng là cán bộ trong Ban An ninh Nội chính Thành ủy nhận định sự ra đi của Thứ trưởng Phạm Quý Ngọ xoay chuyển tình thế giữa các thế lực chính trị Việt Nam và làm phá sản công cuộc chống tham nhũng của nhà nước.
Báo đài của Đảng Nhà Nước CSVN loan tin Tướng Ngọ chết chỉ nói tiểu sử và thành tích của giới chức quá cố này – hoàn toàn không một chữ nào nhắc lại đại án của Tướng Ngọ đại tham nhũng. Tờ Đời sống và Pháp luật thuộc Hội Luật gia Việt Nam còn đăng tải tâm nguyện của ông Ngọ, đó là được đưa về quê an táng và cơ quan chức năng minh oan cho mình.
Tang lễ của Tướng Ngọ được Bộ Công An Cộng Sản Việt Nam tổ chức theo nghi lễ cấp cao, đưa về quê an táng ở Thái Bình theo ý nguyện của gia đình.
Hầu hết những luật sư độc lập, những người theo dõi thời cuộc vô tư đều cho Tướng Ngọ đột tử, không phải do cái chết bình thường. Như Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng nhận định trên đài VOA, “Dư luận đang đặt vấn đề nghi ngờ rất nhiều về cái chết rất bất thường này. Người ta không thể nghĩ ông chết bất đắc kỳ tử vì trước đó không hề có thông tin bệnh tật của ông được thông báo chính thức. Sự ra đi của ông Ngọ bị xem như có thể có một tác động nào đó không nhất thiết từ quá trình sinh học tự nhiên của cơ thể, mà có thể do một tác động khác từ bên ngoài vào. Hôm nay, Tòa án Nhân dân Hà Nội đã chính thức công bố vụ án làm lộ bí mật phải đình chỉ căn cứ điều 107 Bộ Luật Hình sự vì đối tượng bị tình nghi đã chết.”
Đáng lưu ý Tướng Ngọ ăn hối lộ nửa triệu Đô la là lời khai ngay tại toà, không thể dấu nhẹm được, là do Dương chí Dũng người đứng đầu tập đoàn Vinalines. Người thành lập tập đoàn quốc doanh này, cử Dương chí Dũng làm chủ tịch Tập đoàn – là TT Dũng. TT Dũng cũng là người nâng đỡ Tướng Ngọ lên làm Thứ Trưởng đặc trách công an, rồi đặc trách điều tra xét hỏi khi quyền bài trừ tham nhũng chưa bị Tổng Trọng gỡ tay đưa về bên Đảng, giao cho Nguyễn bá Thanh phụ trách.
Chính Chủ Tịch Trương tấn Sang ký phong Tướng Ngọ lên hàng Thượng Tướng, quá nhanh, quá sớm so với tuổi đời và tuổi nghề của ngưòi công an.
Lưu ý thứ hai, có tính nguyên tắc của CS. Mọi cuộc hối lộ, ăn cắp của công, người làm dù ở phe nào cũng khó ăn trót lọt một mình, mà phải chia chát, đóng hụi chết cho trên, những viên chức cầm cán bên Đảng cũng như nhà nước.Trong vu Vinalines thiệt hại cả 3 tỷ Mỹ Kim, không bao giờ, không thể một mình Dương chí Dũng ăn. Cũng không phải một mình bên Nhà Nước, Chủ Tịch Sang, TT Dũng được chia, mà thế nào cũng phải chia bên Đảng của Tổng Trọng. Tướng Ngọ vào trung ương uỷ viên Đảng, được phe Trọng hồ hơi, phấn khỏi, nhất trí đồng tình.
Vụ Tướng Ngọ tham nhũng hai bên Đảng và Nhà Nước không thể dấu nhẹm vì đã bị khai công khai ở toà và công luận đều biết. Chỉ còn có cách cho Tướng Ngọ theo Bác Hồ, chết là hết chuyện. Cả hai phe khỏi bị văng miển, chết chùm./.
Vi Anh
(Tổ quốc)

Chúng ta đang cần một cơn ‘đại hồng thủy’?

Cứ theo logic này mà xét thì có lẽ không chỉ ở thế hệ này mà cả chục thế hệ nữa chúng ta cũng không thể đuổi kịp họ (trừ khi có đại hồng thủy).

Trong lịch sử của mình, Việt Nam đã một vài lần không biết nắm lấy cơ hội và để tuột mất thời cơ có thể thay đổi vận mệnh và đẳng cấp dân tộc. Sự dễ hài lòng, dễ chấp nhận và ngại thay đổi trong tính cách Việt đã ngăn cản chúng ta vượt ra khỏi lũy tre làng để tiến đến với chiếc xe Lexus. Những nước biết tận dụng cơ hội đã làm rất tốt để âm thầm vượt qua chúng ta và dần dần định vị mình trên bản đồ văn minh thế giới.
Cứ theo logic này mà xét thì có lẽ không chỉ ở thế hệ này mà cả chục thế hệ nữa chúng ta cũng không thể đuổi kịp họ (trừ khi có đại hồng thủy). Vấn đề là, trong tiến trình phát triển của một dân tộc, các nguyên tắc của Toán thống kê không phải lúc nào cũng đúng. Đây có thể là một trong những nguyên nhân kìm hãm tầm nhìn của chúng ta, khiến ta không dám mơ về “phía bên kia đường chân trời” khi nhìn thấy các thông tin được đưa ra.
Một khi đã bị một cái ngưỡng nào đấy khống chế, con người sẽ tự nguyện nghĩ và đi dưới cái ngưỡng này và không dám ước mơ cao xa hơn.
Ngoài ra nếu dựa vào kết quả thống kê thì chắc hẳn chúng ta sẽ không dám mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực vốn đã là thị phần của các nước lớn và mãi mãi bị bỏ lại phía sau. Nhìn vào trường hợp của Flappy Bird, có thể nhận ra rằng, trong một thế giới có vẻ như đã an bài về vị thế này, vẫn còn nhiều đất cho chúng ta nếu ta dám nghĩ, dám ước mơ và dám mạo hiểm. Đặc biệt chúng ta không nhất thiết phải đi theo những gì mà mọi người đã vạch ra theo lối tư duy thông thường.
Trung Quốc, kinh tế, Việt Nam
Đã có ai như Quang Trung – Nguyễn Huệ dám nghĩ là chúng ta có thể tự cường để một ngày nào đó đánh bại người láng giềng phương bắc và thay đổi lại vị thế của hai nước? Ảnh: Kiến thức
Tự do hay khuôn phép?
Trong một bài phát biểu của mình, một quan chức của Bộ GD-ĐT đã khẳng định:”tuy có nhiều bất cập và lo ngại cho nền giáo dục nước nhà, nhưng cũng cần phải công nhận là chất lượng giáo dục của chúng ta đã có nhiều tiến bộ trong mấy thập niên qua”. Đứng trên bình diện kiến thức tuyệt đối mà xét thì điều này hoàn toàn đúng, nhưng nếu đứng trên bối cảnh hội nhập quốc tế mà xét thì có lẽ chúng ta cần phải nhìn lại một cách nghiêm túc hơn.
Từ bao đời nay, bất chấp sự lo lắng của các bật tiền bối, các thế hệ con cháu vẫn phất được lá cờ của thế hệ mình khi đến lượt họ. Trong xu thế mới của giáo dục hiện nay, khái niệm “công dân toàn cầu” hay “công dân của thế kỷ 21″ đang rất phổ biến. Thay vì việc tranh cãi xem phương pháp hay cách tiếp cận nào là tốt, chuẩn hay phù hợp nhất cho giáo dục nước nhà, người ta có vẻ quan tâm hơn đến thuật ngữ “kết quả học tập” (learning outcomes). Có nghĩa rằng bạn có thể được đào tạo ở môi trường nào, thể chế nào hay quốc gia nào cũng được, nhưng khi tốt nghiệp bạn cần phải nắm được một lượng kiến thức và kỹ năng cơ bản, đủ để sống, làm việc trong môi trường toàn cầu.
Một nền giáo dục khai phóng tự do có thể mang lại cho học sinh nhiều khả năng sáng tạo và lối tư duy độc lập hơn, nhưng nó chưa hẳn là yếu tố then chốt quyết định sự văn minh của một cá nhân hay một thế hệ. Sự văn minh của người Nhật nơi ít nhiều chữ “phạm” (khuôn phép) vẫn có vai trò nhất định trong nền giáo dục có thể là một ví dụ cần tham khảo.
An sinh xã hội
Trong cơ chế vận hành của mình, ở hầu hết các quốc gia, đảm bảo an sinh xã hội thuộc về trách nhiệm của Nhà nước (hay còn gọi là chủ thể có trách nhiệm). Nhà nước, thông qua các cơ quan đại diện của mình có trách nhiệm cung cấp các dịch vụ công thiết yếu để đảm bảo đời sống của người dân và duy trì ít nhiều sự bình đẳng trong xã hội thông qua các chính sách cụ thể hoặc các ưu đãi dành cho phụ nữ hoặc người bị thiệt thòi trong xã hội.
Dịch vụ công được cung cấp tốt chính là trách nhiệm của nhà nước bởi vì nhà nước thu thuế của dân và có trách nhiệm phải phục vụ nhân dân thông qua việc cung cấp các dịch vụ công thiết yếu như Y tế, Giáo dục , nước sạch,an ninh, trật tự…
Các giá trị xã hội vừa là nguyên nhân quyết định chất lượng của dịch vụ công nhưng cũng vừa là đầu ra phản ánh chất lượng của một nền dịch vụ công. Để một xã hội, nơi người dân được đảm bảo về an sinh, có cuộc sống yên bình và phẩm giá con người được tôn trọng thì xã hội đó cần phải có một nền dịch vụ công tốt và công bằng.
Để làm được điều này thì trước hết ba nguyên tắc trong số rất nhiều nguyên tắc của một nền Quản trị công bằng và dân chủ cần được đảm bảo, bao gồm (i) Thượng tôn pháp luật, (ii) Minh bạch và (iii) Trách nhiệm giải trình.
Nếu chúng ta đều thượng tôn pháp luật, minh bạch trong thông tin của mọi khâu trong quá trình cung cấp dịch vụ và chiu trách nhiệm trước nhân dân (chủ thể giữ Quyền – khách hàng) về những dịch vụ mình cung cấp thì không cần đợi đến các thế hệ sau, người Việt chúng ta đã có thể văn minh và có đạo đức dân sự ngay từ thế hệ này.
Quan trọng là các thế hệ tương lai sẽ khó mà văn minh được nếu như chúng ta không chung tay hành động ngay từ bây giờ để hạn chế các nguy cơ hiện hữu và những thách thức tiêm tàng. Một dân tộc vĩ đại là một dân tộc có thể vượt qua được cái “ngưỡng phát triển” của chính mình để tiến lên một “nấc” khác và qua đó định vị chính mình trong cả kinh tế và chính trị thế giới. Việt Nam chưa bao giờ làm được như vậy, nhưng tại sao chúng ta không dám ước mơ và không đặt tham vọng cùng với các kế hoạch chiến lược cho từng giai đoạn cụ thể. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể tự mình văn minh lên được.
Trần Văn Tuấn
Chuyên gia vận động phát triển về quyền con người, từng hoạt động tại nhiều nước, bao gồm các quốc gia Châu Á và Châu Phi.

Bài cùng tác giả:
Người Việt định kiến?
Ngoài sàn chứng khoán Nairobi Stock Exchange (NSE). Nairobi là một thành phố năng động, xếp thứ 12 tại Châu Phi về độ lớn với diện tích khoảng 630 km2 và dân số gần 4 triệu người.
 

Trò chơi” giữa Việt Nam-Trung Quốc trong gỡ bỏ cấm vận

“Có nhiều lần một thành viên của phái đoàn trả lời câu hỏi của tôi như là “Thưa Ông Sauvageot, chúng tôi rất quan tâm đến tình hình nhân quyền tại Việt Nam, nên có lẽ chưa gỡ bỏ cấm vận được.”  Họ vô tình đã tạo cơ hội cho tôi giải thích cho họ rằng tình hình nhân quyền tại Việt Nam luôn tốt hơn Trung Quốc về rất nhiều mặt”
LTS: Trong số những người ủng hộ việc gỡ bỏ cấm vận có Đại tá về hưu Andre Sauvageot. Ông là người sau chục năm làm phiên dịch cho các Trưởng đoàn Mỹ vào VN để thảo luận hợp tác về MIA/POW, một trong những tiền đề quan trọng để gỡ bỏ cấm vận, cuối năm 1992 đã trở thành Trưởng Đại diện của Công ty General Electric tại Việt Nam. Andre Sauvageot chia sẻ những khó khăn trong quá trình vận động bỏ cấm vận.
Việt Nam, Trung Quốc, cấm vận, phát triển, nhân quyền
Cửa hàng mậu dịch quốc doanh, hình ảnh quen thuộc một thời ở Việt Nam thời kỳ bị cấm vận kinh tế. Ảnh tư liệu
Vì sao Mỹ kéo dài cấm vận Việt Nam?
Ông có thể cho biết những thế lực nào tại Mỹ cản trở việc gỡ bỏ cấm vận?
Sau khi Liên Xô tan rã cuối năm 1991, và không còn cái gọi là “chiến tranh lạnh” giữa hai siêu cường, Mỹ không có lý do gì về chiến lược để cấm vận Việt Nam. Tuy nhiên, sau khi mất “lý do” chiến lược, Mỹ vẫn tiếp tục cấm vận Việt Nam vì nhiều nguyên nhân.  Ví dụ:
(a) Sau nhiều năm chiến đấu trên chiến trường Việt Nam, nhiều người dân Mỹ cùng công chức trong Chính phủ, có ác cảm đối với Việt Nam, mặc dù chiến tranh do chính Mỹ gây ra! Vì thường dân Mỹ lúc bấy giờ tự coi nước mình có chính nghĩa để giới hạn sự mở rộng của các nước cộng sản nói chung, và các đồng minh của Liên Xô (cũ) nói riêng.
Thêm vào đó, nhiều người Mỹ tin rằng Việt Nam vẫn giữ một số tù binh còn sống, mặc dù nhờ sự hợp tác tích cực của Chính phủ Việt Nam, Chính phủ Mỹ hiểu dần dần rằng Việt Nam đã giao lại tất cả tù binh, cũng như rất tích cực giúp kiểm điểm quân nhân Mỹ đã bị mất tích.
Cũng có một lý do nữa về tâm lý là Mỹ đã thua trong cuộc chiến tranh Việt Nam!  Một cường quốc đã chiến thắng 3 nước phát xít, Đức, Ý, Nhật, trong đại chiến thứ 2, làm sao thua tại Việt Nam?  Câu hỏi đó chạm lòng tự ái của nhiều người, trong suốt nhiều năm.
(b) Liên minh các gia đình (League of families) có quân nhân bị mất tích trong chiến tranh Mỹ tại Việt Nam đã tin rằng nếu nhanh chóng mở rộng quan hệ với Việt Nam, Mỹ sẽ mất khả năng gây áp lực để khuyến khích Việt Nam hợp tác.
Tôi nhớ nhiều lần mà tôi ra Hà Nội để phiên dịch cho các Trưởng đoàn Mỹ thăm Việt Nam để thảo luận vấn đề tìm kiếm di hài của quân nhân Mỹ bị mất tích, như Ông Richard Armitage, Trợ lý Bộ trưởng, Bộ Quốc phòng Mỹ, về quốc tế sự vụ trong lĩnh vực an ninh, Cựu Đại tướng John Vessey, Đặc phái viên của hai Tổng Thống là Reagan và Bush (bố), và Thượng Nghị sĩ John Kerry, Chủ tịch của Liên Minh các gia đình được phép đi theo, và tham dự tất cả các cuộc thảo luận.
(c) Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ 4 năm của cựu Tổng Thống Bush (1989-1992) cũng có nhiều chính trị gia và tổ chức tại Mỹ bắt đầu nghĩ nên bỏ cấm vận.  Chính cựu Tổng Thống Bush, hồi tháng 4, năm 1992, mặc dù không bỏ cấm vận, đã sửa đổi chính sách một phần như sau: (1) cho phép cho các công ty Mỹ thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam; (2) Bỏ cấm vận cho 4 thứ sản phẩm là thiết bị y tế, thiết bị nông nghiệp, nhu yếu phẩm và dược phẩm.
Tiếp theo có tổng tuyển cử giữa Tổng Thống đương kim (Bush) và ứng cử viên Bill Clinton, Đảng Dân Chủ, được trúng cử.  Tôi đã có ấn tượng rằng nếu Tổng Thống Bush đã trúng cử, cho nhiệm kỳ thứ 2, ông Bush có lẽ sẽ bỏ cấm vận ngay trong năm 1993, vì chính ông đã bắt đầu mở rộng quan hệ với Việt Nam thêm một chút.  Hơn nữa về mặt chính trị, Tổng Thống Bush là cựu chiến binh đã chiến đấu trong đại chiến thứ 2, có thể dễ bỏ cấm vận và không trở thành mục tiêu chỉ trích của Đảng đối lập.
Thách thức cho Tổng thống Bill Clinton
Việt Nam, Trung Quốc, cấm vận, phát triển, nhân quyền
ÔngAndre Sauvageot
Như vậy, Tổng Thống Clinton có những khó khăn cá nhân nào trong dỡ bỏ cấm vận, nên ông đã không làm được ngay sau trúng cử?
Trái lại với cựu Tổng Thống Bush, việc bỏ lệnh cấm vận là một khó khăn đáng kể cho Tổng Thống Clinton. Vì Đảng Cộng hoà thiên hữu, dễ tố cáo Tổng Thống Clinton là người đã trốn “nghĩa vụ” tham dự chiến tranh “chống cộng sản” tại Việt Nam.
Mặc dù, như chúng ta biết Tổng Thống Clinton vì nhìn xa, trông rộng và đủ can đảm, bỏ lệnh cấm vận ngày 3/2/1994, đúng ngày kỷ niệm thứ 64 Cố Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng Sản VN.  Đương nhiên, vì việc này Tổng Thống Clinton bị thành phần cực hữu phê bình nặng nề.
Lực lượng ủng hộ gỡ bỏ cấm vận là những ai? Họ hành động như thế nào để ủng hộ Tổng Thống?
Tổng Thống Clinton được sự hỗ trợ của một số chính trị gia và tổ chức tại Mỹ. Đáng kể là sự hỗ trợ của Thượng Nghị Sĩ John McCain, vừa là người của Đảng Cộng hoà (đối lập đảng Dân Chủ của Clinton) và vừa là cựu chiến binh đã bị bắn rơi trên Miền Bắc, bị bắt và là tù binh trong trại giam Hoả lò, Hà Nội.  Cũng có một số cựu chiến binh khác đáng kể, như Thượng Nghị sĩ John kerry và cá nhân tôi, rất mong bỏ qua quá khứ hướng tới tương lai vì lợi ích của cả hai nước.
Hai TNS Kerry và McCain đã đoàn kết để hỗ trợ Tổng Thống Clinton bò lệnh cấm vận. Ví dụ TNS Kerry với tư cách là Chủ tịch Uỷ ban đặc biệt về lính Mỹ bị mất tích trong chiến tranh tại Việt Nam đã thăm Việt Nam nhiều lần để gặp cấp lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Chính phủ Việt Nam.
Cũng có lúc TNS McCain đi theo.  Vì vậy, có lúc tôi là người phiên dịch cho cả hai vị, kể cả một lần lúc thăm Hoả lò, trại giam mà McCain đã là tù binh. Lúc về Mỹ, hai TNS đều báo cáo đúng sự thật về sự hợp tác của Chính phủ và nhân dân Việt Nam để giúp tìm ra các di hài và thông tin về lính Mỹ đã bị mất tích.  Như thế, môi trường chính trị tại Mỹ đã bắt đầu thay đổi.
Thêm vào đó, một số công ty Mỹ bắt đầu thành lập các văn phòng đại diện tại Việt Nam sau sự nới lỏng của Tổng thống Bush vào tháng 4.1992.  Các công ty này, đương nhiên, mong chính phủ Mỹ bỏ cấm vận để có thể mở thị trường, bán sản phẩm của mình tại Việt Nam.
Cũng từ đó, đương nhiên, các công ty, các doanh nghiệp của Mỹ đạt được sự chú ý, sự hỗ trợ của một số hạ nghị sĩ, thượng nghị sĩ mà có thiện chí giúp các công ty trong khu vực của họ, và mở rộng thị trường xuất khẩu cho các công ty trong quận, hay tiểu bang của họ.
Bản thân ông, cả với tư cách người ủng hộ tăng cường mối quan hệ giữa hai nước, vừa là đại diện công ty General Electric đang mong muốn bản sản phẩm ở Việt Nam, đã sử dụng những biện pháp nào để thúc đẩy việc gỡ bỏ cấm vận?
(a) Như đã nói trên, phiên dịch cho TNS Kerry nói riêng, và các phái đoàn của Quốc hội Mỹ thăm Việt Nam nói chung, để giúp họ tìm hiểu thêm sự thật về Việt Nam cùng chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, và thiện chí hợp tác để cải thiện quan hệ Việt-Mỹ, trên cơ sở nguyên tắc hai bên đều cùng có lợi.
(b) Giới thiệu nhiều doanh nhân cao cấp Mỹ cho quan chức Nhà nước Việt Nam để hai bên quen biết nhau, thêm phấn khởi làm ăn với nhau, và sẵn sàng vận động chính phủ Mỹ bỏ cấm vận.
(c) Đặc biệt và hữu ích đối với tôi là nhiều cơ hội gặp các phái đoàn Quốc hội Mỹ lúc họ thăm Việt Nam để tìm hiểu tình hình, và thảo luận với một số doanh nhân Mỹ đã bắt đầu thường trú tại Việt Nam. Vì tôi là Trưởng Đại diện của công ty General Electric (GE), một công ty lớn bao gồm nhiều doanh nghiệp mà có khả năng đóng góp vào hạ tầng cơ sở của Việt Nam như thiết bị năng lượng, động cơ máy bay, máy bay cho thuê, đầu máy xe lửa, tôi thường được mời gặp họ nhằm trao đổi ý kiến, hay phát biểu, nhân danh GE.
Có một điều tế nhị là GE vừa hoanh nghênh cho tôi làm như thế, miễn là không đạt được sự chú ý của báo chí Mỹ. Bởi vì GE thừa biết tại nước Mỹ vẫn có nhiều người dân chưa đồng ý làm kinh doanh với Việt Nam, và việc vận động gỡ bỏ lệnh cấm vận có thể làm mất lòng của một số khách hàng Mỹ, thường mua sản phẩm GE như là tủ lạnh, bóng đèn, thì bất lợi cho GE.  Vì vậy, tôi rút kinh nghiệm luôn luôn hỏi các phái đoàn tham quan, rằng “Thưa quý vị hôm nay có báo chí tham dự không?”
Nếu có, tôi không dám nói nhiều, chỉ một vài câu an toàn như: “Công ty GE chúng tôi rất vui mừng Tổng Thống cho phép thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam, và chúng tôi rất phấn khởi tìm hiểu tiềm năng của thị trường Việt Nam.  Trong quá trình nghiên cứu thì chúng tôi sẽ theo chặt chẽ chính sách của Chính phủ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.”
Tuy nhiên, lúc không có báo chí, tôi đi thẳng vào việc giải thích đủ các lý do lệnh cấm vận là vô lý, bất lợi cho cả hai nước, như mất cơ hội tạo ra việc làm cho nhân dân lao động tại Mỹ như là tại các phân xưởng chế tạo tua khí, tua bin hơi, tua bin nước, máy phát điện, động cơ máy bay, đầu máy xe lửa…
Trong những cuộc thảo luận, tôi đã hiểu nhiều nghị sĩ Mỹ và các thành viên trong đoàn có nhiều định kiến sai lầm về Việt Nam, xuất phát từ chiến tranh và tuyên truyền của chính phủ Mỹ trong chiến tranh và một phần sau khi chiến tranh chấm dứt. Nên tôi phát triển một biện pháp giúp họ xoá bỏ định kiến sai lầm như sau:
Tôi mở lời phát biểu bằng lời khen cựu Tổng Thống Bush (bố) đã vận động Quốc hội Mỹ mở rộng quan hệ thương mại với Trung Quốc. Sau đó, tôi đạt câu hỏi tại sao không mở quan hệ thương mại với Việt Nam.  Mặc dù thị trường Việt Nam là nhỏ hơn Trung Quốc, thì nguyên tắc đa dạng hoá quan hệ thương mại của Mỹ toàn cầu cũng như thế.
Có nhiều lần một thành viên của phái đoàn trả lời câu hỏi của tôi như là “Thưa Ông Sauvageot, chúng tôi rất quan tâm đến tình hình nhân quyền tại Việt Nam, nên có lẽ chưa gỡ bỏ cấm vận được.”  Họ vô tình đã tạo cơ hội cho tôi giải thích cho họ rằng tình hình nhân quyền tại Việt Nam luôn tốt hơn Trung Quốc về nhiều mặt.
Và như thế là tôi thường áp dụng một kỹ thuật gọi là “game” – tức là đặt một số câu hỏi cho ai đó trong đoàn trả lời. Nếu họ trả lời đúng thì tôi nói đúng, nếu không tôi giải thích cho họ tại sao họ sai.
Ví dụ tôi hỏi các câu hỏi, trong hơn 190 nước trên thế giới, các vấn đề chỉ liên quan tới Trung Quốc và Việt Nam, và khả năng đoán đúng của họ là 50%.
Chẳng hạn, tôi nếu những hiện tượng như “Trăm hoa đua nở”, “Đại Nhảy Vọt”, “Cách mạng Văn hóa”, “Hồng vệ binh”, rồi “Nước nào đã hy sinh xương máu để cứu Căm-pu-chia, lật đổ Khmer Đỏ để người dân Khmer được tự do thoát khỏi ách nô lệ, khủng bố của Khmer Đỏ”…
Rồi với từng trường hợp tôi luôn trả lời “Đúng” hoặc “Sai”, kèm theo lời giải thích cụ thể với các thành viên trong đoàn.
Sau khi đàm thoại với họ, tôi hỏi: Như thế tại sao nước Mỹ lại cấm vận Việt Nam?  Xin quý vị về Mỹ hãy suy nghĩ và vận động các đại biểu khác, cũng như bên hành pháp, bỏ lệnh cấm vận Việt Nam.
Kết quả là nhiều nghị sĩ và thành viên trong đoàn, sau khi về nước, đã viết thư cảm ơn tôi đã mở mắt cho họ về thực tế ở Việt Nam.
Xin cám ơn ông!
Huỳnh Phan (Thực hiện)
Bài 1: Món quà Tết của Tổng thống Bill Clinton
Bài 2: Việt Nam bỏ lỡ một cơ hội cải cách

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét