Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 24 tháng 3, 2014

Luân chuyển: Sự tiếm quyền đúng qui trình - HIỆN TƯỢNG XUỐNG CẤP VÀ NHU CẦU CẢI CÁCH của nền giáo dục Việt Nam hiện nay

Xích Tử - Luân chuyển: Sự tiếm quyền đúng qui trình

Xích Tử
Tác giả gửi tới Dân Luận
Liên quan đến việc luân chuyển một số cán bộ trung ương về các địa phương để chuẩn bị “nguồn” cho nhiệm kỳ mới, vài ngày qua, hàng loạt báo lề phải đăng bài với tiêu đề rất thống nhất “Danh tính 44 cán bộ trung ương luân chuyển”.
Từ “danh tính” ở đây dùng rất đúng, phù hợp với bản chất của quá trình, nhưng cũng rất ác. Bởi, lâu nay, trên báo chí Việt Nam, từ này chỉ thường được sử dụng cho những đương sự có liên quan đến những vụ án hình sự, do chưa điều tra được hoặc chưa công bố được; khi lộ ra thì gọi là danh tính. Ở một cách khác, tên tuổi, lý lịch khái quát của một ai đó, khi được gọi là danh tính, thường là sau một quá trình mờ ám, bí mật, thiếu minh bạch, thận trọng trong công bố.
Trường hợp 44 vị cán bộ luân chuyển này cũng giống như vậy, ở cả 2 khía cạnh. Cách làm, chuẩn bị cán bộ, nhân sự như là hệ quả của một quá trình hành chính hóa, quan liêu hóa tối đa, chưa có tiền lệ, sai điều lệ trong hoạt động của đảng như vậy là một quá trình đầy mờ ám, không lành mạnh. Nó thể hiện một giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng, một sự bế tắc cùng cực trên nhiều phương diện của công tác đảng.
Thử hỏi, được bao nhiêu trong số 44 vị đó, khi đưa vào diện luân chuyển để chuẩn bị cho qui hoạch là tự trưởng thành, sàng lọc bằng chính phẩm chất, năng lực của mình. Tôi cam đoan và thách thức với sự thật (chứ không phải công lý thể hiện qua điều tra, vì điều đó không có giá trị gì trên đất nước này) rằng, một phần rất lớn các vị ấy, để đến được chức vị hiện tại trước khi luân chuyển, đều “ trưởng thành” bằng những bệ đỡ : lý lịch, nhóm lợi ích (cánh hẩu, đồng hương và các thứ đồng khác), chạy bằng tiền, bằng tình, bằng chia sẻ, tặng hiến cho nhau một lợi ích gì đó…
Cứ đem trường hợp Nguyễn Thanh Nghị con của ông Nguyễn Tấn Dũng ra mà xét, so, rồi suy luận, sẽ rõ. Cả 3 người con của vị Thủ tướng này đều được đi học nước ngoài. Chuyện thi cử để được đi học đó không rõ. 2 người con trai không làm một thủ tục nào đối với nghĩa vụ quân sự. Cậu nhỏ thì ở hẳn nước ngoài mười mấy năm để làm giảm ấn tượng về vi phạm sinh con thứ ba. Nguồn học bổng cấp cho cả ba nghe nói cũng rất mờ ám, có liên quan đến hoa hồng của những hợp đồng kinh tế đối ngoại tầm cỡ quốc gia. Nội dung, kết quả thực chất của việc học không biết thế nào, song tất cả đều học từ “tư bản”, dứt khoát không học chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh bắt buộc như trong nước. Riêng cậu Nghị, khi về nước thì được “tuyển” ngay vào Viện Đại học mở Hà Nội, với chức danh trưởng phòng. Rồi từ đó phóng thẳng lên Phó hiệu trưởng Đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh, rồi Thứ trưởng. Tất cả đều đúng qui trình một cách mờ ám, có liên quan đến đường dây lợi ích giữa bố của Nghị, Viện trưởng Viện Đại học mở, 3 Bộ trưởng Giáo dục – Đào tạo từ thời Nghị tốt nghiệp về nước đến ông Chủ tịch MTTQ hiện nay, Thứ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo kiêm giám đốc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Hiệu trưởng Đại học Kiến trúc TP. Hồ Chí Minh. Nếu không phải là con ông Dũng, liệu Nghị và 2 người con còn lại có được như vậy không ?
Suy cho cùng, đã đến lúc, bằng mọi cách, đảng phải tiếm quyền, quyền của nhân dân trong việc chọn bầu ra người cai trị mình, quyền của toàn bộ đảng viên ở những địa phương bị luân chuyển cán bộ về trong việc chọn ra những người trưởng thành từ trong tập thể của mình để “chấp hành” mình như lịch sử công tác đảng, bản chất của chính đảng “đạo đức, văn minh” được thể hiện trong những tuyên bố tự sướng và trong điều lệ.
Khi thực hiện qui trình này, trong yêu cầu làm việc với địa phương, Ban tổ chức trung ương chỉ hỏi ý kiến của thường trực cấp ủy tỉnh, thành, thậm chí trực tiếp bí thư, xem như việc đã rồi. Hoàn toàn không một đảng viên nào, kể cả tổ chức thường vụ được biết. Do đó, sau khi công bố luân chuyển, tuy đã qui hoạch, đã xét tiêu chuẩn, song cũng giống như những “đại biểu” được bầu của quốc hội hay HĐND, đảng không yên tâm về chất lượng nên phải tổ chức lớp bồi dưỡng rất tốn kém tiền của dân rồi mới chuyển về.
Cách làm công tác nhân sự, chất lượng của nhân sự không lấy gì bảo đảm qua đánh giá toàn dân như thế, được đào tạo từ tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế, chỉ có thể bảo vệ chế độ, tức là quyền lực và lợi ích; rất khó tin rằng sẽ bảo vệ được Tổ quốc và bảo đảm cho “định hướng xã hội chủ nghĩa” được. Và cũng suy cho cùng, cái nghị quyết 4 mà ngài Tổng bí thư rất dụng công và kỳ vọng, chẳng là cái gì cả.
Xích Tử

Trần Kiêm Đoàn

HIỆN TƯỢNG XUỐNG CẤP VÀ NHU CẦU CẢI CÁCH
của nền giáo dục Việt Nam hiện nay

 

         Khi nói đến giáo dục, phải nói đến cả hai yếu tố tương tác quan trọng: Kiến thức và đạo đức. Có kiến thức mà thiếu đạo đức, nhà trường sẽ biến thành “chợ chữ”. Khi nhà trường thành nơi mua văn bán chữ thì quan hệ thầy trò sẽ trở thành quan hệ con buôn và khách hàng. Trong một hoàn cảnh như thế thì chữ nghĩa và kiến thức sẽ trở thành mặt hàng trao đổi và đạo đức học đường sẽ vắng bóng.

Là một người đã trực tiếp làm công việc giảng dạy tại các trường trung học ở Việt Nam trước và sau năm 1975; cũng như giảng dạy tại các đại học Mỹ, tôi có cơ hội tiếp cận nhà trường, học sinh và sinh viên trong cả ba môi trường giáo dục có nội dung lẫn hình thức khác nhau. Thật không đơn giản và dễ dàng để nói đến sự thăng tiến hay suy đồi của một nền giáo dục thông qua cảm tính và hiện tượng. Tuy nhiên, người ta có thể nhìn thấy những hình ảnh trở thành quá phổ biến của thanh niên trong độ tuổi lao động la cà ở quán nhậu, tiệm cà-phê trong giờ làm việc hay tuổi đi học lêu lổng ngoài đường trong giờ học tập ở trường hoặc quan hệ thô bạo, phi giáo dục của thầy trò trong lớp… để làm “chỉ dấu” hé mở bước đầu cho sự quan sát, tìm hiểu, phân tích về một quá trình xã hội và giáo dục đang trên đà tiếp diễn.

Theo các nhà giáo dục có tên tuổi trong nuớc thì nền giáo dục Việt Nam trong gần 40 năm qua có khuynh hướng đi theo một vòng tròn xoáy trôn ốc mà đỉnh nằm ngược chiều xuống dưới. Tình trạng tham nhũng, hối lộ, tôn sùng giá trị vật chất của xã hội đã làm nhiễm độc môi trường giáo dục: Lương y không còn là từ mẫu, quan chức không còn phát huy vai trò biểu tượng là cha mẹ dân và thiên chức nhà giáo bị xô giạt vào nếp sinh hoạt thực dụng, bon chen cộng với sự áp đặt tư tưởng chính trị một chiều là nguyên nhân trực tiếp cho khuynh hướng thoái trào của chương trình giáo dục Việt Nam trong gần bốn thập niên qua. Sự đổ vỡ về mục đích đào tạo nhân tài và uốn nắn thế hệ trẻ thành người tốt cho tương lai đất nước đang trên đà thoái hóa. Sinh hoạt học đường và quan hệ thầy trò; mối liên lạc giữa trường học gia đình và xã hội xuống cấp ngày càng nghiêm trọng.

Sáng hôm nay, 19-2-2014, tôi vừa được xem một màn “hỗn chiến” giữa thầy và trò tại một trường trung học ở Bình Định trên mạng lưới Youtube [1]. Thầy là một giáo viên trẻ và học trò là học sinh lớp 11A2. Trong đoạn phim ngắn, có lẽ thu bằng I-phone ngay trong lớp, lý do không rõ nhưng người thầy giáo đã đánh một học sinh nam ngay trên bục giảng, trước mặt lớp học gồm cả nam nữ học sinh. Cách đánh của người thầy giáo quá tàn nhẫn và thô bạo bằng những cú tát dồn dập, đấm thẳng vào mặt học trò với tiếng bốp chát thu trong máy nghe rõ mồn một, làm vênh cả đầu và mặt người học trò. Nạn nhân và bạn trong lớp phản ứng, dồn thầy giáo vào góc tường với hai tay đưa ra trong thế chống đỡ. Tuy đoạn phim ngắn không đủ nêu lên toàn cảnh diễn tiến nhưng cách trừng phạt của thầy giáo đối với học trò bằng hành động vũ lực như thế là hoàn toàn phi giáo dục và cách phản ứng đánh lại thầy giáo là hành động thiếu luân lý. Nói tóm lại là cả thầy lẫn trò trong trường hợp nêu dẫn đều hành động sai trái và biến lớp học thành đất hè phố của giới đầu khấu, lâu la.

Quan hệ thầy trò đã bị chao đảo vì áp lực của quyền thế, kinh tế, xã hội và đây không phải là trường hợp cá biệt loạn động lần đầu xảy ra trong nhà trường Việt Nam.

Theo truyền thống giáo dục mọi thời và mọi nơi, thầy giáo là người truyền đạt và học trò là kẻ tiếp thu kiến thức. Dẫu cho ở thời nào, khung cảnh xã hội nào và bối cảnh nhân văn nào thì quan hệ thầy trò là một quan hệ giáo dưỡng. Người xưa coi thầy trọng hơn cha. Ngày nay tuy có khác nhưng không thể nào đặt quan hệ thầy trò theo mô thức “cá đối bằng đầu” được. Thầy cần có ân và có uy. Trò cần có kính và có lễ. Dẫu cho trong khung cảnh cổ xưa, cụ đồ nho có phạt học trò cũng dùng cái ân của kẻ bề trên và cái uy của bậc cha mẹ mà ra roi hay xuống lệnh chứ không thể nào sử dụng kiểu đánh đập tùy tiện, nói lời dung tục và phản ứng “mày bằng ao, tao bằng giếng” của phường vô học, bất tri lý, đá cá lăn dưa như thế được.

Nếu quan tâm theo dõi tình hình sinh hoạt cụ thể trong nhà trường Việt Nam các cấp trong ba bốn thập niên qua sẽ thấy được phần nào sự chuyển động của một tiến trình giáo dục theo hướng thoái trào.

Việt Nam đã thông báo về sự bắt đầu chuyển động của một cuộc “Cách tân giáo dục để đáp ứng với những yêu cầu của thời đại mới.” Dẫu cho có muộn còn hơn không nhưng sự thành bại còn tùy thuộc vào việc làm cụ thể của giới cầm quyền có trách nhiệm. Những hình thức diễn văn và khẩu hiệu để trang hoàng không thật với chính mình, dối trá nhau và lừa mỵ quần chúng cần phải phân định rõ ràng với thực tâm, thực chất và nhu cầu đổi mới.

Sau đây là một vài ý kiến mà tôi đã viết trên báo Xuân Lao Động năm 2014.

Trong đợt nghiên cứu và thăm dò của PEW, một trung tâm nghiên cứu hàng đầu của Mỹ tại Washington DC, trong mùa Xuân 2013 về tình hình cải cách giáo dục toàn cầu trong thời đại mới thì đã có 127 trên tổng số 195 quốc gia tiến hành cải cách giáo dục trong thập niên đầu thế kỷ 21. Động cơ và lý do của nhu cầu cải cách và canh tân giáo dục rất đơn giản và hiển nhiên: Thời đại mới có những nhu cầu và thách thức mới. Trong lúc giáo dục là phương tiện cốt lõi để đào tạo con người trong thế hệ mới nên phải chuyển mình theo hướng tiến phù hợp với tình hình mới là điều kiện tất yếu.

Ba mươi tám năm (1975-2013), thời gian trung bình của một thế hệ, vấn đề cải cách giáo dục Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu chuyển động. Nhận định và viễn kiến có thể khác nhau, nhưng nỗi ưu tư và lòng mong muốn thì thật tương đồng:

Mối ưu tư chung là chương trình giáo dục và đào tạo Việt Nam chưa phát huy tác dụng cụ thể và thiết thực. Nền giáo dục Việt Nam, cả hình thức lẫn nội dung, quá nặng về tính chất “biểu kiến”, nghĩa là dày bề mặt mà mỏng chiều sâu nên không đáp ứng nhạy bén được nhu cầu phát triển và ứng dụng tri thức vào những vấn đề quốc kế dân sinh của toàn đất nước trong thời đại kinh tế thị trường và toàn cầu hóa hiện nay. Những nguyên lý giáo dục đề ra để đối trị cấp thời với hoàn cảnh chiến tranh và tình trạng sản xuất tập thể, kinh tế bao cấp trong quá khứ – vô hình chung – vẫn còn năng lực quán tính tạo ra sức cản nặng nề. Do đó, chức năng sáng tạo và chủ động là xương sống của tinh thần giáo dục lành mạnh không có điều kiện phát huy. Hệ quả khó tránh khỏi là hiện tượng học từ chương, suy tôn bằng cấp, trí thức theo đuôi và tốt nghiệp thiếu khả năng ứng dụng nên không được sử dụng đúng mức.

Mong muốn chung là cần có một cuộc cách tân giáo dục nghiêm cẩn và toàn diện.
Duyệt xét và cải cách chương trình giáo dục cũ. Áp dụng một chương trình giáo dục mới phù hợp với nhu cầu văn hóa, xã hội và giáo dục hiện đại. Tái huấn luyện và đào tạo lực lượng giảng dạy. Cần xây dựng và phát huy một không gian nghiệp vụ lành mạnh với sự giảm thiểu hay tách rời ảnh hưởng và sức ép chính trị trực tiếp trên giáo dục.

Thiết lập quan hệ với các đại học nước ngoài. Mời giáo sư và chuyên viên ưu tú giảng dạy và tăng cường chương trình trao đổi sinh viên quốc tế.

Giới hạn và chỉ đạo chặt chẽ hay hủy bỏ các chương trình học chuyên tu, tại chức. Thành lập những hội đồng giám khảo các ngành chuyên môn ở tầm mức quốc gia để duyệt xét các tiểu luận tốt nghiệp thạc sĩ và luận án tiến sĩ để tránh tình trạng tiêu cực lạm phát bằng cấp và hạ thấp giá trị học vị.

Cách tân giáo dục là cải cách hệ thống giáo dục, có can đảm loại bỏ và sửa đổi tất cả những gì còn vướng mắc để giải quyết nhằm khắc phục những ưu tư và canh tân để đề ra những phương thức đúng đắn nhằm đạt những mong muốn rất cơ bản như đã trình bày ở phần trên. Khuynh hướng cách tân giáo dục Việt Nam là một nhu cầu cấp thiết của đất nước trước những thách thức thời đại và yêu cầu chính đáng mang tính quyết định cho tương lai dân tộc. Vấn đề quá hiển nhiên và đã chín muồi nên im lặng là buông xuôi và đầu hàng, phó mặc cho thói quen và định kiến đóng vai trò quyết định. Đại chúng ao ước từ lâu đã đành, nhưng giới lãnh đạo cũng bắt đầu lên tiếng. Ngày 31-7-2013, tại hội nghị nâng cao chất lượng giáo dục tại Hà Nội, bà Phó chủ tịch Nước Nguyễn Thị Doan đã lên tiếng rằng “khâu quản lý thi cử và quản lý chất lượng người thầy đã bị buông lỏng cần được chấn chỉnh”. Ngày 19-9-2013, thứ trưởng bộ Giáo dục Đào tạo Việt Nam Nguyễn Vinh Hiển đã thông báo việc hoàn thành sửa dổi dự thảo Đế án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

Điểm then chốt cần nghi nhận ở dây là lá bùa“Định hướng Xã hội chủ nghĩa.” Đó là một cụm từ tối tăm, mơ hồ, sáo mòn mang tính bùa chú nặng nề kinh điển hơn là thực dụng. Nếu càng đi sâu vào sự phân tích chi li, càng nhận ra ảo tưởng xa vời của nó. “Định hướng” mà không có chỗ dựa và cũng chẳng có một nội hàm tri thức nào có giá trị thực tiễn làm căn bản cho bước tiến giáo dục trong thời đại mới là một sự lệch hướng hay mất phương hướng mà thôi.

Bản chất của giáo dục nói chung là một hệ thống phương tiện đào tạo và huấn luyện thế hệ trẻ thành những người công dân có năng lực phục vụ, sinh tồn, phát huy và lãnh đạo xã hội trong một môi trường văn hóa, chính trị và kinh tế cụ thể nào đó. Bởi thế, mỗi hình thái chính trị xã hội có một nguyên lý giáo dục riêng.

Dạy học ở nhà trường Mỹ, tôi không hề nghe ai hô hào cải cách, nhưng chương trình, nội dung và phương tiện giáo dục thay đổi nhanh chóng từng năm học; thậm chí, thay đổi từng học kỳ, học khóa. Nếu có một sự xuống cấp, một hiện tượng thoái trào trong nội dung giáo dục ở cấp thành phố, hay tiểu bang xảy tới là tức thời được đưa ra công luận mổ xẻ và sửa sai ngay. Có lẽ nhờ vậy mà dòng lịch sử trẻ trung của Mỹ đã đưa chất lượng giáo dục lên hàng ưu thế với 2683 trường đại học năm 2013. Cụ thể là trong số 20 trường đại học được xếp loại hàng đầu thế giới, Mỹ chiếm 17 trường, Anh chiếm 2 trường (Oxford và Cambridge), Thụy Sĩ chiếm 1 trường (Zurich).

Khi còn đứng trên bục giảng ở trong nước, nhất là sau năm 1975 khi cả thầy trò đều phải lao đao với miếng cơm manh áo, hễ nghe nói đến trí thức nước ngoài, từ Mỹ, từ Pháp, Liên Xô, Nhật Bản, Đại Hàn… về nước, mình vẫn có cái mặc cảm tự ti thua kém. Nhưng đến khi có cơ hội chen vai thích cánh bình đẳng với cộng đồng thế giới, cả khi ngồi trong lớp học và lúc đứng trên bục giảng, đã bao lần tôi xúc động với lòng tự hào dân tộc là dân Việt mình không hề thua kém trí thông minh, óc nhạy bén và nghệ thuật sống còn khéo léo, phản ứng quyền biến linh động trong mọi hoàn cảnh so với các dân tộc khác. Tuy nhiên, trong một số lớp học tôi phụ trách có sinh viên Việt Nam mới qua Mỹ du học đều có một khuyết điểm rất lớn là tính thụ động. Các em học hành rất siêng năng, chăm chỉ, làm bài tập ở nhà cũng như ở lớp nghiêm túc nhưng rất hiếm khi có em nào tham gia vào các sinh hoạt kể cả nội khóa và ngoại khóa. Nội khóa thì âm thầm ôm sách học gạo đạt điểm cao chứ không tham gia sinh hoạt của lớp. Ngoại khóa thì các em không có khả năng chơi thể thao, âm nhạc, sinh hoạt dã ngoại. Lúc đầu tôi cứ nghĩ sinh viện Việt Nam thụ động là do trở ngại về ngôn ngữ và văn hóa. Nhưng sau khi trao đổi, chia sẻ và phân tích với các em, tôi mới thấy rõ đó là do hậu quả của một chương trình giáo dục còn nhiều khiếm khuyết từ trong nước. Trong đó, sự áp đặt và khống chế của những nguyên tắc chính trị lỗi thời, ảo tưởng đã kéo lùi bước tiến của tri thức, giáo dục.

Năm 2011, bộ Giáo Dục và Đào Tạo Việt Nam cho biết là có hơn 100.000 sinh viên Việt Nam từ trong nước đi du học tại 49 nước trên thế giới. Tại Mỹ có 14.888 sinh viên Việt và 90 phần trăm trong số đó là du học tự túc. Con số nầy đang trên đà tăng nhanh. Xin đừng biến đây thành một cuộc “tỵ nạn giáo dục” ồ ạt của thế hệ con em thuộc gia đình quan chức, đại gia tham nhũng, gian thương sống phè phỡn… trên đầu trên cổ người dân lương thiện đang còn chịu khó khăn thiếu thốn trăm bề.

Hơn ba mươi năm qua đến hiện tại, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam luôn luôn định vị hướng đi của nền giáo dục nước nhà phải gắn liền với “định hướng Xã hội Chủ nghĩa”. Với con số 90 phần trăm du học tự túc trong hoàn cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay, có vẻ như đây là chỉ dấu của một hiện tượng phát triển nghịch lý và ngược chiều giữa “định hướng Xã hội Chủ nghĩa” và thực tế xã hội (?!).

Thế hệ Chiến tranh Việt Nam của giới đàn anh đang lụi tàn. Thế hệ đàn em hậu chiến đang vươn lên thay thế từng bước trách nhiệm xây dựng và vai trò lãnh đạo đất nước. Nhưng vấn đề cách tân giáo dục cũng chỉ mới ở mức độ một câu hỏi đặt vấn đề hơn là một câu trả lời có nội dung ứng dụng được. Đã đến lúc cần chấm dứt tình trạng nhìn thực tế qua ảo tưởng rồi đem ảo tưởng làm thực tế. Sử dụng mà không tiếm dụng, ứng dụng mà không vô dụng, thực dụng mà không lạm dụng là nguyên tắc dùng người và dùng phương tiện trong giáo dục ngày nay.

Sacramento, mùa Xuân năm 2014
Trần Kiêm Đoàn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét