Ông Huỳnh Ngọc Chênh, từng là thư ký tòa soạn báo Thanh niên,
nói rằng báo chí Việt Nam ‘chả có vai trò gì hết’ trong cuộc
đấu tranh chống tham nhũng.
“Báo chí chịu sự chỉ đạo của Nhà nước, của Đảng,” ông
Chênh nói, “ Đảng ra lệnh làm việc gì thì người ta làm việc
đó. Vụ (tham nhũng) này cần đánh thì sẽ đánh. Vụ kia cần để
đó thì người ta không đánh.”
Ông nói những vụ việc về tham nhũng mà báo chí Việt Nam đã đưa tin ‘đều là có chỉ đạo’.
“Họ đưa thông tin ra nhằm mục đích gì đó, được chỉ đạo từ đâu đó,” ông nói thêm.
“Đâu đó từ trên cao nói vụ này cần phải đánh thì cơ quan
điều tra mới dám đưa ra tài liệu và phóng viên mới có tài
liệu để viết,” ông nói và khẳng định rằng báo chí ‘chắc chắn
là công cụ’ bị các phe phái trong Đảng ‘lợi dụng để đánh
nhau’.
Ông Chênh dẫn chứng vụ việc về Ban quản lý dự án PMU18 liên
quan đến Bùi Tiến Dũng được khui ra là vì ‘thông tin từ một
nhóm người nào đó thấy rằng có lợi cho họ thì họ tung ra’.
“Nhưng khi phe bên kia bắt đầu phản công lại được thì họ ém
lại và trừng trị những người đã đưa thông tin lẫn những người
viết bài,” ông giải thích.
Ông nói báo chí Việt Nam không thể đánh được tham nhũng do
‘không được quyền hỏi tài liệu hồ sơ ở bất cứ cơ quan nào
hết’ trừ khi các cơ quan điều tra đưa thông tin ra.
“Quyền công bố thông tin cho công chúng là không có,” ông nói
thêm, “Nhà báo không có quyền tới phường gặp công an yêu cầu
người ta cung cấp tài liệu – bất cứ vấn đề gì từ lớn đến
nhỏ.”
Nếu kinh tế Trung Quốc sụp đổ…
Nền kinh tế Trung Quốc đã bộc lộ những dấu hiệu nguy hiểm.
Tốc độ tăng trưởng giảm, tài chính có nguy cơ lâm vào khủng hoảng trầm
trọng… Theo các chuyên gia, đã đến lúc phải tính toán cho kịch bản nền
kinh tế này sụp đổ.
Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đang chậm lại. Nếu kinh tế nước
này sụp đổ, hậu quả có thể sẽ rất tai hại trong ngắn hạn đối với các nền
kinh tế thế giới phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc. Nhận định đó được tiến
sĩ kinh tế học Jean-Joseph Boillot đưa ra trên tạp chí “Thế giới” trong
lúc các nhà quan sát và chuyên gia quốc tế tỏ ra lo ngại trước tình
trạng đi xuống của nền kinh tế thứ hai thế giới.
Rõ ràng tỷ trọng của Trung Quốc trong GDP toàn cầu đang gia tăng,
nhưng việc tăng trưởng của nước này giảm liệu có kéo tăng trưởng của thế
giới giảm theo và ảnh hưởng tới tất cả các nền kinh tế trên thế giới,
cụ thể là ở châu Âu, hay không ?
Theo ông Jean-Joseph Boillot, nếu tăng trưởng của Trung Quốc chững
lại nhiều có thể sẽ ảnh hưởng. Tuy nhiên, ông cho rằng mọi thứ còn phụ
thuộc vào kịch bản sẽ diễn ra như thế nào: chững lại từ từ hay khủng
hoảng tài chính dữ dội.
Trong trường hợp thứ hai, có thể xảy ra hiện tượng dây chuyền đối các
thị trường tài chính của thế giới thông qua một cuộc khủng hoảng tài
chính trên toàn châu Á và qua đó đến toàn bộ các thị trường khác. Có rất
nhiều sản phẩm tài chính hiện phụ thuộc vào việc nền kinh tế Trung Quốc
có lành mạnh hay không, kể cả ở châu Âu.
Nếu căn cứ vào kịch bản theo đó tăng trưởng của Trung Quốc tụt xuống
còn 4% hay 5%/năm như người ta bắt đầu lo ngại, có thể sẽ có hai hậu
quả.
Thứ nhất, về ngắn hạn, hậu quả thực sự sẽ rất tiêu cực đối với cân
bằng thương mại của thế giới. Quả thực, có ít cái để thay thế cho hàng
hóa xuất khẩu từ Trung Quốc và nước này sẽ tiếp tục xuất khẩu các sản
phẩm đó. Các nhà sản xuất Trung Quốc lúc đó sẽ tìm cách xuất khẩu bằng
mọi giá để duy trì nhịp độ sản xuất ở trong nước, đồng thời sẽ giảm mạnh
nhập khẩu trang thiết bị và nguyên liệu vì cầu ở trong nước giảm.
Tình trạng mất cân bằng tổng thể đối với Trung Quốc, vốn đã nghiêm
trọng, có nguy cơ nghiêm trọng hơn chứ không như người ta nghĩ. Tình
hình đó sẽ đặt các nước đã bị thâm hụt vào tình thế rất khó khăn. Các
nước phát triển sẽ không phải là những nước đầu tiên bị ảnh hưởng mà là
các nước mới trỗi dậy như Brazil hay Ấn Độ. Đấy là chưa nói đến châu
Phi, châu lục vốn xuất khẩu ồ ạt tài nguyên thiên nhiên sang Trung Quốc.
Thứ hai, cũng về ngắn hạn, nhưng là đối với các thị trường tài chính.
Từ khi xuất hiện sức ép theo hướng đồng nhân dân tệ (NDT) giảm giá hay
ít nhất là dừng việc tái định giá đồng tiền này bắt đầu từ vài năm nay,
có nguy cơ cuộc chiến tiền tệ – vốn bắt đầu từ hơn một năm qua – sẽ
quyết liệt hơn. Nếu đồng NDT mất giá, tất cả các đồng tiền khác là đối
thủ của đồng NDT sẽ cạnh tranh với nhau và điều đó sẽ đẩy sức ép ngầm
gia tăng, đặc biệt là ở châu Âu vốn là nơi không kiểm soát tỷ giá hối
đoái theo yêu cầu cạnh tranh mà chỉ dựa trên cơ sở lạm phát. Tóm lại, tỷ
giá hối đoái thực của đồng euro sẽ được nâng lên và điều đó hoàn toàn
không có lợi cho việc tạo việc làm.
Hiện tượng thứ hai sẽ xuất hiện trên các thị trường tài chính thông
qua các thị trường chứng khoán. Một phần lớn lợi nhuận của các công ty
Phương Tây, dù của châu Âu hay Mỹ, trên thực tế có được là nhờ các thị
trường mới nổi, cụ thể là ở Trung Quốc, thông qua chi phí sản xuất thấp
và lượng sản phẩm bán được tăng mạnh trong những năm gần đây. Đó là xe
hơi loại sang của Đức với thị trường nước ngoài hàng đầu hiện nay là
Trung Quốc. Nếu lợi nhuận của các công ty này bị ảnh hưởng mạnh bởi tình
trạng tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc chững lại. Điều đó sẽ tác động
đến các thị trường chứng khoán. Các thị trường này lúc đó có thể mất từ
20% đến 25%, qua đó tác động đến nền kinh tế thực thông qua việc giảm
đầu tư cộng với giảm tín dụng và lợi nhận ngân hàng.
Nếu tăng trưởng của Trung Quốc chững lại, điều này có thể sẽ có tác
động nghiêm trọng trong ngắn hạn. Con số quan trọng dĩ nhiên là GDP của
Trung Quốc, hiện cao thứ hai thế giới, và cả sức nặng của nước này trong
thương mại thế giới. Về mặt cơ học, GDP của thế giới có thể sẽ mất
khoảng 6-10%.
Nhận định về việc nước nào sẽ chịu tác động nhiều nhất của cú sốc đó,
ông Jean-Joseph Boillot cho rằng đó là các nước và vùng lãnh thổ ở châu
Á có mối quan hệ “khép kín” với Trung Quốc, như Nhật Bản, Hàn Quốc hay
Đài Loan. Lượng hàng phụ kiện của các nước nói trên xuất sang Trung Quốc
lúc đó sẽ giảm mạnh và các nền kinh tế này khó tránh khỏi chững lại rất
nhiều do phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Nhóm nước thứ hai chịu
tác động là các nước xuất khẩu nguyên liệu sang Trung Quốc.
Tuy nhiên, tăng trưởng của Trung Quốc giảm sẽ thúc đẩy nhanh hơn tiến
trình rút khỏi Trung Quốc của các nhà đàu tư quốc tế. Trào lưu đó có
thể sẽ có lợi cho các nước khác trên thế giới, cụ thể là ở châu Âu và
các nước mới nổi từng bị Trung Quốc cạnh tranh quyết liệt trong 20 năm
trở lại đây.
Trên thực tế, hiệu ứng trung hạn nói trên đang diễn ra. Từ 5-6 năm
nay, người ta thấy hoạt động kinh tế đang dần dần chuyển từ Trung Quốc
sang các nước khác: không những các nước mới nổi như Việt Nam hay
Bangladesh, mà cả các nước châu Âu như Pháp. Vấn đề thực sự ở đây là
trong khoảng một chục năm nữa, thế giới liệu có đi đến chỗ lặng lẽ chấm
dứt sự thống trị của hàng “Made in China” không hay sẽ tạo ra sự hỗn
loạn. Nền kinh tế thế giới không được gì nếu đột ngột kết thúc một hệ
thống mà chính các nước Phương Tây đã góp phần khởi động vào giữa những
năm 80.
Tại Trung Quốc, lượng tiền mặt hiện đang trong tình trạng bức bối với
tỷ giá ngắn hạn lên tới gần 25%. Đó rõ ràng là dấu hiệu cho thấy Ngân
hàng nhân dân Trung Quốc (PBOC) gặp rất nhiều khó khăn trong việc kiểm
soát để không gây ra đổ vỡ tín dụng quy mô lớn. Tình trạng hoảng loạn
trong lĩnh vực này có thể sẽ dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính quy
mô lớn, vì kể cả ở Trung Quốc, các thị trường tài chính về bản chất là
mong manh.
Tuy nhiên, xem xét lượng tiền mặt mà Trung Quốc đổ vào ồ ạt, người ta
có cảm giác Ngân hàng trung ương của nước này sẽ hành xử như Cục dự trữ
liên bang Mỹ thời hậu Lehman Brothers hơn là Ngân hàng trung ương châu
Âu.
Trong trường hợp đồng NDT bị mất giá, ông Jean-Joseph Boillot, người
từng là cố vấn cho Bộ Tài chính Pháp về nhiều vùng mới nổi trong những
năm 1990, khẳng định sẽ dẫn đến hậu quả. Trước hết, chắc chắn là đối với
xuất khẩu, cạnh tranh sẽ không trung thực như người ta thường nói,
nhưng quan trọng nhất là tác động đối với cầu ở trong nước của Trung
Quốc.
Đồng NDT mất giá cũng sẽ tác động xấu đến tiêu thụ ở trong nước, đặc
biệt là đối với hàng nhập khẩu vì sẽ đắt hơn nhiều. Như vậy, chắc chắn
thế giới sẽ không được gì nếu khủng hoảng nổ ra có thể sẽ chặn đứng việc
tái định giá đồng NDT. Trái lại, thế giới cần có một đồng NDT mạnh để
kích thích thị trường trong nước và phục hồi sức cạnh tranh của châu Âu.
THEO Jean-Joseph Boillot/INFONET
Biết từ chối cũng là cách để được kính trọng
Chưa muộn để gửi lời từ chối đăng cai Asiad 2019.
Đừng viện dẫn Thủ tướng đã quyết và đã giao cho Hà Nội. Thủ tướng quyết thì có thể quyết lại vì lợi ích Quốc gia.
Đừng vẽ ra vì lý do vị thế, lợi ích quảng bá, lợi ích thành tích, lợi ích này kia để cố đấm ăn xôi.
Điều giản dị là nước ta còn quá nghèo và đang nợ nần, nước ta chưa và
chưa đủ sức trở thành quốc gia của những thành tích cao trong thể thao
như các nước phát triển.
Điều giản dị là sau đó, sẽ có vô số công trình thể thao với hàng
ngàn, hàng ngàn tỉ đồng đầu tư xây dựng rồi bỏ không, hoặc công suất sử
dụng thấp, lãng phí vô cùng vô tận như đã xảy ra với biết bao công trình
bỏ tiền núi ra làm thời chúng ta đăng cai SEA Games.
Điều còn gây bất an thêm cho nhân dân là nạn tham nhũng, nạn trục lợi
vẫn đang xảy ra nhiều, ở mọi công trình, gần đây là lời tố cáo từ Nhật
Bản khi phải đưa hối lộ 16 tỉ đồng cho quan chức đường sắt Việt Nam để
nhận công trình.
Như trước đây, khi Singapore nhận đăng cai Asiad, dù được vẽ vời, tô
màu những lợi ích sáng chói, nhưng Thủ tướng Lý Quang Diệu và chính phủ
của ông cuối cùng sau những suy tính đã khước từ với lập luận:”Một quốc
gia nhỏ bé như Singapore không cho phép mình phí phạm thời gian cho việc
chạy đua tranh giành những tấm huy chương ở Olympic, Asian Games hay
SEAP Games (tiền thân của SEA Games). Với những cường quốc, điều này sẽ
giúp họ đẩy mạnh nhiều khía cạnh, nhưng thật ngu ngốc và lãng phí nếu
sao chép mô hình này cho các quốc gia nhỏ bé. Sẽ chẳng có lợi ích nào
cho Singapore”.
Từ chối như thế nhưng vị thế, uy tín của quốc gia Singapore nào có giảm sút? Và họ đang là cường quốc.
Chưa muộn chút nào hết, đề nghị Chính phủ nghĩ lại, lúc này là Chính
phủ chứ không còn ở cấp Bộ văn hóa TT&DL nữa, hãy nghĩ lại, và phát
thông điệp từ chối, đây sẽ là thông điệp được lòng dân, và đây còn là
thông điệp góp một phần cứu nguy cho kinh tế nước nhà.
Từ chối đăng cai Asiad là cách để Chính phủ nhận được sự kính trọng
của nhân dân, và sự kính trọng này chính là động lực để tạo ra vị thế
Quốc gia.
Đọc thêm:
Thủ tướng Lý Quang Diệu từng nói “không” với Asiad – Bạn đọc – Tuổi Trẻ Online tuoitre.vn
TT – Trong lịch sử Asiad đã có hai lần quốc gia giành quyền đăng cai bỏ
cuộc vào phút chót, đó là vào các năm 1970 và 1978. Và trong…
THEO BLOG CU VINH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét