Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 8 tháng 3, 2014

Vượt lên khúc quanh của lịch sử - Yêu nước và nói thật - Tập Cận Bình Ác Hơn Stalin

Chữ tín
 
Bài 3:
 
Vượt lên khúc quanh của lịch sử
 
Nguyễn Trung
 
 

I – Nhận diện khúc quanh của lịch sử

          Lịch sử không thể làm lại, không có chữ “nếu”, song luôn luôn là người thầy trung thực và nghiêm khắc. Con đường đất nước ta đã trải qua kể từ Cách mạng Tháng Tám 1945 cho đến nay đặt ra nhiều vấn đề hệ trọng quá, chưa được nghiên cứu một cách khách quan và nghiêm túc để rút ra những kết luận cần thiết cho đất nước ta hôm nay và trong tương lai. Công việc này trước hết là món nợ lớn của giới sử gia nước ta. Song cũng nên coi đây là món nợ lớn của mỗi người dân ta quan tâm đến vận mệnh đất nước.
 
          Trong khi đó cuộc sống cứ diễn tiến theo nhịp điệu riêng của nó, không thèm chờ đợi, vô luận chúng ta có rút ra được cái gì từ những bài học của lịch sử phải học hay không. Mặt khác, trong dư luận có bao nhiêu vấn đề nghiên cứu được đặt ra, thì trong tranh luận có bằng nấy vấn đề được nhìn nhận với những lý lẽ và kết luận trái ngược nhau, phủ định nhau. Ví dụ, đã có những ý kiến đặt ra những câu hỏi: Cuộc kháng chiến chống Mỹ có nhất thiết phải kéo dài và quyết liệt như thế hay không? Có con đường nào khác đã bị bỏ qua trong việc thống nhất Bắc-Nam? Vân vân…
 
          Xin khất lại cho cả nước món nợ nghiên cứu lịch sử chưa trang trải được mà nó nhất thiết cần sớm được trang trải. Chỉ xin nêu lên ở đây, khi kiến nghị với cả nước nên lựa chọn con đường cải cách để đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng hiện nay và mở ra một trang sử mới – như đã trình bày trong loạt bài chữ tín này, tôi vấp phải một thực tế đau đầu:
 
Nghiên cứu cuộc kháng chiến chống Mỹ, tôi đã đi tới kết luận  cuộc chiến tranh này mang trong lòng nó 6 cuộc chiến tranh khác[1]. Trong đó tôi rút ra một điều: Hệ quả của một số trong những cuộc chiến tranh này là nước ta đã trở thành trận địa nước thứ ba cho cuộc chiến tranh gián tiếp giữa một số nước lớn giành giật ảnh hưởng lẫn nhau. Đến nay, mới chưa đầy 4 thập kỷ trôi qua và chưa có được hòa bình trọn vẹn, thế nhưng cục diện châu Á – Thái Bình Dương hiện nay lại đang một lần nữa lăm le đẩy nước ta vào cái kịch bản mới trận địa nước thứ ba! Số phận của nước ta chẳng lẽ oan nghiệt đến vậy sao? Có phải trời đầy đọa nước ta không? Nước ta đã sẵn sàng mọi mặt chống lại một tai ương mới đang lù lù trước mắt này? Mấy ngày nay đang nóng lên câu chuyện Ukraina...
 
          Nước ta có nhất thiết phải hứng chịu số phận nêu trên không? Đương đầu với nó như thế nào? Cứ èo uột leo dây như thế này liệu có thoát được số phận này không? Tại sao trên thế giới có không ít quốc gia cũng rơi vào các tọa độ nóng chẳng kém gì như của nước ta hay còn nóng hơn nữa, thế mà họ lại dám không cam chịu số phận đen ngòm này, họ thắng được số phận đen ngòm này? Thậm chí có khi thiên hạ còn phải cầu cạnh họ, ví dụ như Thụy Sỹ... Vì sao vậy?..  
 
          Cuộc sống dạy cho tôi đủ hiểu: Đi ăn xin thì bao giờ và mãi mãi vẫn chỉ là thằng ăn xin!
         
          Câu hỏi lại đẩy tôi đến câu hỏi: Lực èo uột, sống phải leo dây như thế này liệu có dám cứng đầu với số phận không?– Cứng đầu ở đây là giữ được phẩm chất ta là ta, không đánh mất ta, không phải cầu xin cái này cái nọ, song cũng không phải là gây gổ. Cứng đầu ở đây là có đủ những điều kiện và tố chất khiến thiên hạ phải tôn trọng ta, thậm chí ta có thể góp một tay vào hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực.
 
          Lấy đâu ra lực phải có để dám cứng đầu như thế với cái số phận đen ngòm này? Hàn Quốc, với xuất phát điểm GDP per capita là 82 USD vào những năm 1950s, chỉ cần 3 thập kỷ sau đó (những năm của thập kỷ 1980s) với mọi nguồn lực huy động được chỉ bằng một nửa nguồn lực nước ta có được cũng trong vòng 30 năm, nhưng Hàn Quốc trở thành nước công nghiệp, còn nước ta hôm nay vẫn đứng rất xa cột mốc này. Làm ăn ươn hèn như thế, số phận đen ngòm này của ta là đích đáng, có phải thế không?
 
          Đúng là đau như cắt để tự hỏi như thế.
 
Càng ngày đất nước ta đang càng rơi sâu vào một khúc quanh mới của lịch sử:  Từ là trận địa nước bên thứ ba thời chiến tranh lạnh hôm qua, nước Việt Nam ta hôm nay – do kiên trì kéo dài mãi sự hèn kém của mình như thế này – chắc lại đang tự trói chân tay mình, sẽ đành chờ cam chịu giao nộp mình cho số phận trận địa nước bên thứ ba của cục diện mới tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương!? Một Việt Nam giầu mạnh, có bản lĩnh đâu chịu dồn ép mình vào số phận này?
 
Chẳng lẽ phải chịu bao nhiêu hy sinh xương máu của bốn cuộc chiến tranh chống xâm lược trong gần hết nửa sau của thế kỷ vừa qua chỉ là để hôm nay đi tiếp trên con đường đang dẫn tới cái số phận đen ngòm mới phía trước hay sao? Hay là niềm tự hào đã đánh thắng được những đế quốc to đang che lấp mất cái số phận đen ngòm mới phía trước đang lăm le hăm dọa đất nước?  
 
          Thời chiến tranh lạnh, nước ta có mời gọi ai đến tranh giành nhau trên đất nước ta đâu, nhưng họ vẫn cứ đến và làm khổ nước ta, không dưới một lần bán đứng nước ta trong chuyện này chuyện nọ, làm cho hai cuộc kháng chiến đầu của nước ta đã khốc liệt càng thêm phần khốc liệt. Ngày nay cũng thế, nước ta không thể kêu gọi Trung Quốc đừng lấn xuống Biển Đông, cũng như không thể đề nghị Mỹ thôi cái “pivot to the Asia-Pacific” đi, để nước ta được yên thân. Làm gì có chuyện đó! Ta có quỳ xin, họ cũng chẳng nghe đâu, họ có việc của họ. Ta cũng không thể bê nước mình đến một địa danh mới được. Mà còn phải leo dây, thì ta còn được bán tiếp.
 
Thế giới ngày nay, một cường quốc vác quân đi xâm lược một nước khác khó lắm. Song thế giới ngày nay có thêm vô vàn thủ đoạn mới và phương tiện mới để khuất phục đối thủ, cái yếu luôn luôn phải trả giá. Kinh nghiệm mấy chục năm độc lập thống nhất dạy nước ta như thế.
 
Sự tụt hậu đáng sợ so với thế giới bên ngoài mà đất nước đang phải đối mặt, những yếu kém quá nhạy cảm của nền kinh tế còn đang thiếu đối sách, sự chênh lệch quá lớn về thực lực so với đối thủ, sự yếu kém của chế độ chính trị, sự phân tán trong lòng dân đối với chế độ, sự xuống cấp các mặt văn hóa – xã hội chưa từng có, khả năng tập hợp mặt trận rất hạn chế vì nước ta đang có nhiều cái lạc lõng trong trào lưu chung của thế giới, tình hình trong khu vực lại có không ít những vấn đề phức tạp… Tất cả những thứ yếu kém này đang dồn nước ta vào thế quốc gia leo dây, cái “sự cân bằng” đang có được nhờ sách lược chẳng bao giờ  bền vững, và trên thực tế không ít thì nhiều đã phải trả giá!..  Trong bối cảnh như thế, nếu sức vươn lên của cả dân tộc cứ bị trói chân trói tay mãi như thế này, liệu có thể đương đầu thắng lợi với cái số phận đen ngòm đang lù lù phía trước được không? Trong khi đó sau cái ADIZ ở biển Hoa Đông là cái ADIZ ở Biển Đông đang lấp ló. Ukraina nóng bỏng đang tạo ra nguy cơ xung đột mới. Trong cái thế giới là cái bình thông nhau này, chẳng có chỗ nào chân không, vùng nóng nơi này mở thêm vùng trống nơi kia, nạn nhân luôn luôn là các nước “bên thứ ba”. Những chuyện tiếp theo khác chỉ là chuyện ngày giờ… Mà thân phận nước ta, ta phải giữ, gửi gắm cho ai được? Nếu ta không dám là chính ta thì làm sao có thể mong đợi sự hậu thuẫn từ bạn bè trên thế giới được?..
 
          Vậy chỉ còn mỗi con đường: Nếu muốn cưỡng lại cái số phận đen ngòm đang cứ tái đi tái lại này, phải nhận diện cho ra khúc quanh của lịch sử để tìm lối thoát.
 
          Nhân đây tôi xin nói một nhận định để tính toán :
 
          Việt Nam không phải là một nước yếu. Xưa nay thế, bây giờ thế, trong tương lai cũng sẽ như thế: Không một kẻ xâm lược nào có thể khuất phục được Việt Nam. Điều này chắc như đinh đóng cột. Nhưng Việt Nam hiện nay chưa đủ mạnh để bứt ra khỏi khúc quanh oan nghiệt của lich sử. Vì lẽ này Việt Nam chưa mang lại được cho chính mình sự phát triển đáng có và hoàn toàn có thế có được. Vì lẽ này Việt Nam chưa làm tốt nghĩa vụ của mình là một thành viên tích cực đối với cộng đồng thế giới đúng với vị thế mà địa lý tự nhiên, địa lý kinh tế và địa lý chính trị của thế giới trao cho Việt Nam. Song đây chỉ là câu chuyện của thời gian. Người viết những dòng chữ này có niềm tin sắt đá: Đây hoàn toàn chỉ là câu chuyện của thời gian, vì không ai có thể bắt dân tộc này ngủ.
 
 
II – Xu hướng đẩy đất nước ngày càng chìm sâu vào khúc quanh của lịch sử
         
          Trong lịch sử cận đại của nước ta, dù mỗi thời một thế, song khúc quanh của lịch sử trình bày trên có thể được xem như một dạng tái bản khúc quanh của lịch sử khi nước ta rơi vào tay chủ nghĩa thực dân Pháp vào đúng giai đoạn Việt Nam độc lập, phát triển và trở nên hoàn chỉnh nhất như cho đến hôm nay kể từ thời Gia Long. Đừng đổ lỗi cho tinh thần yêu nước của các triều đại thời Gia Long kém thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, mà phải nhìn thấy cái lỗi nằm ở chỗ nước ta hồi ấy tụt hậu mất một giai đoạn phát triển; và chính điều này hôm nay vẫn còn nguyên ý nghĩa thời sự.
 
Lịch sử không lặp lại, nhưng sự tái diễn với phiên bản mới, vòng xoáy ốc mới của một kịch bản đã xảy ra một mặt nói lên sự trừng phạt nghiêm khắc cho việc mù tịt hay trốn tránh những bài học của lịch sử. Mặt khác sự tái diễn này cho thấy mức độ phức tạp hơn rất nhiều của những vấn đề phải giải quyết hôm nay. Bây giờ đâu đâu tại các quốc gia có ý thức trên thế giới này cũng bức thiết khẩu hiệu: Thay đổi hay là chết! Còn ở ta: Kiên định định hướng xã hội chủ nghĩa hay là chết?
 
          Đã đến lúc phải tự hỏi: Việt Nam độc lập thống nhất từ 30-04-1975 ứng xử như thế nào với cái thế giới nó đang sống?  (Mọi chuyện trước 30-04-1975 xin tạm gác lại một bên sẽ  bàn sau này khi có dịp).
 
          Trong những lần góp ý kiến với các đại hội đảng IX, X và XI tôi đã trình bày một đánh giá chung, đại ý: Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc kể từ sau 30-04-1975, đường lối của đảng có nhiều sai lầm cơ bản, nguyên nhân chính là không hiểu hết ta, không hiểu đúng thế giới, định hướng sai, khiến cho thành quả đạt được không ngang xứng với nguồn lực và công sức đã bỏ ra, nhiều cơ hội lớn bị bỏ lỡ, đất nước gặp nhiều khó khăn mới.
 
Trong bài chữ tín (bài 1), tôi đã một lần nữa trình bày khái quát đánh giá chung này, nêu lên nguy cơ: sự kìm hãm nặng nề của thể chế chính trị có thể làm bế tắc việc mở ra cho đất nước một thời kỳ phát triển mới.
 
          Cũng trong những đóng góp ý kiến với đảng nhân các dịp khác nhau, tôi đã trình bày từ 30-04-1975 lãnh đạo đã bỏ lỡ mất bốn cơ hội lịch sử:
 
1.  Cơ hội thực hiện hòa giải đoàn kết dân tộc, đưa nước ta đi lên con đường dân tộc - dân chủ ngay sau 30-04-1945, hòa nhập vào cộng đồng quốc tế.
2.  Cơ hội lựa chọn con đường độc lập - dân tộc - dân chủ khi các nước LXĐÂ cũ sụp đổ (1989 – 1991), để từ đây nước ta cùng đi được với cả thế giới, xây dựng vị thế quốc tế mới cho quốc gia, không phải đi theo một bên nào. – nhưng tiếc thay lãnh đạo lại lựa chọn con đường quay về Thành Đô để bảo tồn chế độ xã hội chủ nghĩa.
3.  Cơ hội khoảng nửa đầu thập kỷ 1990 đẩy nhanh quá trình gia nhập ASEAN, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, gia nhập WTO trước Trung Quốc, để đất nước phát triển nhanh và mau chóng thoát khỏi hay giảm bớt sức ép của Trung Quốc.
4.  Cơ hội sửa đổi hiến pháp năm 2013 để cải cách thể chế chính trị của đất nước trong hòa bình, ổn định, đưa đất nước sớm ra khỏi khủng hoảng hiện nay và mở đường đi vào giai đoạn phát triển mới.
 
          Cả bốn lần mất cơ hội lớn đều chung một nguyên nhân sâu xa: Sợ mất chế độ, thực ra là sợ đảng bị lọai bỏ, chưa có tầm nhìn thấu đáo về lợi ích quốc gia trong bối cảnh tương quan lực lượng trên toàn thế giới luôn luôn thay đổi. Trong một giai đoạn ban đầu sau 30-04-1975 và ở chừng mực nhất định, nguyên nhân này có thể là hệ quả của tư duy ý thức hệ sai lầm. Song càng ngày ý thức hệ kiên định giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa càng bị tha hóa trong đảng biến tướng, lấn át. Ngày nay trên thực tế “định hướng XHCN” chỉ còn lại là một thứ “nhân danh”.
 
Bốn cơ hội lịch sử nêu trên cho thấy: Mặc dù bối cảnh thế giới phức tạp như thế nào, khả năng ra khỏi khúc quanh của lịch sử là rất lớn. Điều kiện tiên quyết là phải nhận thức rõ được khúc quanh đau lòng này và nắm lấy những cơ hội đang đến với đất nước. Song mỗi lần cơ hội bị bỏ lỡ như thế, đất nước sau đó lại sa đà sâu hơn nữa vào con đường sai đang đi. Nước ta dù mấy thập kỷ vừa qua phát triển thế nào đi nữa, khoảng cách phát triển giữa ta và các nước phải so sánh (nhất là Trung Quốc, ASEAN…) tiếp tục rộng thêm, các khó khăn hôm nay đối với đất nước lớn hơn hôm qua, nhiều thách thức cũng lớn hơn – kể cả về mặt an ninh quốc phòng. Giữa thập kỷ 1990  đến đầu những năm 2000 bàn về triển vọng kinh tế Việt Nam, thế giới đã từng kỳ vọng về “con hổ” mới là Việt Nam. Từ dăm năm trở lại đây người ta nói “con hổ” Việt Nam không gầm được nữa!..  
 
Cho đến nay, Việt Nam đạt được là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện của tất cả các nước quan trọng trên thế giới. Song vì không có lực chống lưng, nên có tiếng mà không có miếng, trên thực tế Việt Nam vẫn ở vị thế khá chênh vênh – nhất là trong quan hệ với Mỹ, với Trung Quốc. Có thể nói, hiện nay đất nước có những mặt suy yếu hơn khóa đại hội X, khóa đại hội IX, vì tha hóa, và cũng một phần vì các vấn đề bây giờ phải giải quyết nan giải hơn rất nhiều. Làm yếu đất nước, đảng cũng đang tha hóa và suy yếu tiếp, đến mức nhiều khi phải tự vệ bằng nói dối.
 
          Phải nói những nỗ lực bỏ ra cho củng cố chế độ, tăng cường quyền lực của đảng, của nhà nước và của hệ thống chính trị trong các khóa đại hội đảng vừa qua là rất lớn. Song vì sai hướng, vì không nhận ra xu thế đất nước đang ngày càng chìm sâu vào khúc quanh hiện nay của lịch sử, nên mọi nỗ lực bỏ ra ngày càng mang tính chất “siết” – nghĩa là ngày càng mất dân chủ nhiều hơn, ngày càng quẫn bách hơn về nội dung, về phương hướng. Ngoài “siết” ra, hầu như không có cái gì mới để nói, để làm.
 
Trong khi đó đất nước hàng ngày có biết bao nhiêu vấn đề khó, bức xúc không thể chờ đợi, biết bao nhiêu vấn đề thiết thực phải mổ xẻ, phải tìm giải pháp – kể cả về mặt lý luận. Ví dụ: Đưa nông nghiệp và nông dân Việt Nam lên sản xuất quy mô lớn với công nghệ cao như thế nào? Phải giải quyết những mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội gì cho nhiệm vụ này?[2] Cải cách giáo dục làm đi làm lại mãi hai thập kỷ nay không xong.  Còn 6 năm nữa, Việt Nam có thể trở thành nước công nghiệp được không – dù là nói theo cách nào? Một nước Việt Nam công nghiệp thì cần phải đứng ở đâu trong những chuỗi sản phẩm nào của kinh tế thế giới đang thay đổi hiện nay? Cứ giả thử đạt được một nước công nghiệp như thế đi, thể chế chính trị yếu kém và tham nhũng như hiện nay có vận hành nổi không? … Lãnh đạo là trả lời cho dân cho nước những câu hỏi này, chứ không phải là hô hào và đặt câu hỏi cho dân: Trồng cây gì? Nuôi con gì?... …  
 
Còn một nỗi lo bao trùm, âm thầm, không bộc phát quyết liệt ngay trong cuộc sống hàng ngày, song tiềm tàng đe dọa ngày đêm: So với các nước trong khu vực, các công trình và các sản phẩm của cả nền kinh tế nước ta nhìn chung có chất lượng thấp hơn, giá thành cao hơn, ít thân thiện với môi trường. Trước mắt không ít công trình kinh tế lớn cứ ỳ ạch lên ỳ ạch xuống rất tốn kém kiểu như nhà máy lọc dầu Dung Quất. Một số công trình thủy điện đang là ác mộng cho các vùng hạ nguồn. Alumina Tân Rai và Nhân Cơ sẽ đi đến đâu? Rồi đây liệu có tránh khỏi tái diễn thảm kịch “cầu Chu Va 6” hay không? Xa lộ mới vài tháng đưa vào sử dụng đã phải đại tu, cầu Vĩnh Tuy mới hoàn thành nhưng đã có những vết nứt...  Trong toàn bộ nền kinh tế, hàm lượng công nghệ cao trong công nghệ được sử dụng không quá mức 4%. Công nghệ được sử dụng trong cả nền kinh tế chủ yếu là loại 2, loại 3 hoặc thậm chí thấp hơn. Đặc biệt là giá thành công trình kết cấu hạ tầng nhìn chung rất cao, độ bền thấp, thất thoát trong xây dựng ước tính 10 - 20%... Tình trạng tham nhũng đã đáng sợ, tình trạng lãng phí còn đáng sợ hơn… v.v. Cần nhìn nhận nguyên nhân câu chuyện này trước hết là lỗi của hệ thống, song cái lỗi hệ thống này lại do lỗi của toàn bộ hệ thống chính trị gây ra, lỗi riêng của từng con người chỉ là những nguyên nhân sau.
 
Cần đặc biệt lưu ý là (a) mọi ưu ái dành cho vai trò chủ đạo của các tập đoàn kinh tế nhà nước và kinh tế quốc doanh tạo ra đặc quyền đặc lợi lũng đoạn toàn bộ nền kinh tế, (b) quan điểm đất đai sở hữu toàn dân góp phần nghiêm trọng tạo ra bong bóng bất động sản và sự đổ vỡ của nó hiện nay, (c) những yếu kém của thể chế huy động và phân bổ nguồn lực dẫn đến rối loạn, lạm phát và thất thoát lớn, tiêu biểu là tình trạng khó kiểm soát hiện nay của hệ thống tài chính/ngân hàng. Đấy là ba nguyên nhân cơ bản tạo ra khủng hoảng cơ cấu kinh tế trầm trọng hiện nay của nước ta. 
 
Hệ quả: Về tổng thể, nước ta có một nền kinh tế đắt, cơ cấu lạc hậu, ít hiệu quả hơn, ít an toàn hơn so với tiêu chuẩn phải có. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế tiếp tục thấp đi; trong khi đó sự hỗ trợ của các hệ đòn bẩy cũng như của luật pháp vừa bị giảm hiệu quả nghiêm trọng, vừa rất xa sự mong đợi… Toàn bộ tình hình này không phải chỉ là câu chuyện của kinh tế và của kỹ thuật, mà chủ yếu lại là câu chuyện chất lượng của một thể chế chính trị quá nhiều khuyết tật: chồng chéo, quan liêu, ăn bám và tham nhũng. Sự thật là các vấn đề phải tháo gỡ hôm nay khó hơn rất nhiều so với cách đây 10 năm, 15 năm...
 
Ngoài ra, cũng phải thừa nhận chế độ chính trị hiện nay có thêm nhiều bất an mới, phản ánh sự tích tụ những mâu thuẫn nội tại mới trong xã hội. Song có phải chủ yếu là do các thế lực thù địch và sự can thiệp của bên ngoài gây ra hay không? Cứ gia tăng mãi “siết” như thế này, và đồng thời cử dư luận viên đổ hết mọi tội lỗi cho các thế lực thù địch và sự can thiệp của bên ngoài, liệu chế độ có vững chắc hơn không?.. v.v…
 
 Cuộc sống đang cho thấy, càng nỗ lực theo phương châm “siết” như vậy, tình hình các mặt của đất nước chỉ căng thẳng thêm. Bởi vì mọi vấn đề phải giải quyết hầu như còn nguyên vẹn, chẳng nghị quyết, khẩu hiệu nào hay đợt học tập chính trị tư tưởng nào có thể hốt chúng đi được. Các nhóm lợi ích tiếp tục hoành hành, kinh tế cứ xấu đi, trọng tội trọng án nhiều lên, văn hóa - xã hội xuống cấp tệ hại, mê tín dị đoan nẩy nở, mặc dù còn giữ được tăng trưởng kinh tế ở mức thấp, nhưng rất tốn kém.
 
Một biểu hiện bộc lộ đặc chưng cho xu hướng thiên về “siết” là chưa bao giờ thấy ngôn ngữ của Ban Tuyên giáo đầy khẩu khí nhà binh như hiện nay: chỉ đạo và phát huy sức mạnh tổng hợp của các binh chủng, các lực lượng làm công tác tuyên giáo, đội ngũ dư luận viên… để định hướng tư tưởng, tuyên truyền sâu, rộng, để quán triệt…  …  … Đọc những dòng chữ này trong những sách báo và tạp chí lý luận của đảng, tôi nhớ lại hồi là sinh viên học ở CHDC Đức, cuối thập kỷ 1950 tôi đã từng được đọc thứ ngôn ngữ na ná như vậy trong lưu trữ báo chí Đức quốc xã…
 
Tóm lại, đảng như hôm nay, nhất là những cơ quan làm trí tuệ của đảng, đang đứng ở đâu trong cuộc sống đất nước hiện đang dồn nén vô vàn khó khăn thách thức chưa có lời giải như vậy? Ai nói được lối ra nào cụ thể cho đất nước? Lấy từ đâu ra nguồn lực nào, cần bao nhiêu thời gian, cần những nỗ lực nào khác nữa… để cơ bản khắc phục được sự bế tắc nêu trên? Làm thế nào tạo ra cho đất nước động lực đi vào một thời kỳ phát triển mới trong cái thế giới phức tạp hôm nay?.. Trong khi đó luôn luôn đòi khẳng định đảng giữ quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội.
 
Tình hình đất nước nêu trên, cùng với thực tế là chỉ trong vòng chưa đầy bốn thập kỷ lãnh đạo đảng đã bốn lần bỏ lỡ cơ hội lớn, cho thấy đảng hiện nay ở trong trạng thái: bị mù quáng vì ý thức hệ, tư duy bế tắc, tầm nhìn thiển cận và lạc hậu, tâm sức phân tán quá nhiều cho mâu thuẫn nội bộ, đạo đức suy thoái trầm trọng, kỷ cương không nghiêm, thể chế và tư duy nhiệm kỳ loại bỏ nghĩ lớn, nghĩ dài….
 
Nói nghiêm khắc: Sự tha hóa của đảng đã tới mức thủ tiêu tính tiền phong chiến đấu đã được rèn luyện trong các cuộc kháng chiến. Từ 30-04-1975 đến nay tha hóa đang từng bước diễn biến đảng trở thành một lực lượng cai trị ngày càng nhiều mâu thuẫn với lợi ích quốc gia. Dân gian nói thẳng: Mừng đảng rồi mới mừng xuân mà! Đảng bây giờ yêu mình trước đã!.. Đảng đứng trên cả đất trời!.. Đây mới là sự diễn biến hòa bình có thật mà bốn thập kỷ nay đảng quay lưng lại không dám nhìn. Trong khi đó đảng hầu như không tiếc một nỗ lực nào tạo ra sự sùng bái đảng, không ngần ngại chụp mũ cho mọi ý kiến xây dựng tội diễn biến hòa bình, tội suy thoái đạo đức chính trị tư tưởng.., thậm chí còn thẳng tay trấn áp.  
 
Đến đây có thể kết luận: Tình hình đất nước hiện nay và các mối tương quan  giữa các lực lượng trong xã hội nước ta đặt ra tình huống đỡ tổn thất nhất, đỡ xương máu nhất, đáng lựa chọn nhất, và cũng là khả dĩ nhất đi đến thắng lợi bền vững cho quốc gia, là ĐCSVN phải chủ động đề xướng sự nghiệp cải cách duy tân đất nước. Lợi ích quốc gia cao nhất đòi hỏi sự lựa chọn này, chứ không phải phẩm chất và trí tuệ hiện nay của đảng đáp ứng tốt nhất nhiệm vụ trọng đại này. Nói dễ hiểu: đó là sự lựa chọn cực chẳng đã của tình thế đất nước.
 
Đảng cần nhận rõ đòi hỏi khách quan nói trên của đất nước và sự hẫng hụt của bản thân để tự sửa mình, để nâng cao mình đáp ứng đòi hỏi này. Chưa nói đến, nghĩa vụ đảng đã cam kết trong cương lĩnh, món nợ chính trị với đất nước đảng phải trang trải…  Cần đặc biệt nhấn mạnh, tha hóa trong đảng đã tới mức: Đảng nhất thiết phải dựa vào dân thông qua sự nghiệp cải cách duy tân của đất nước lần này để thay đổi chính mình, để trở thành đảng đi với dân tộc, nếu không muốn bị tiêu vong. Song muốn làm được như thế, việc đầu tiên là lãnh đạo hiện nay và toàn thể đảng viên phải tự ý thức được là chính mình – chứ không phải ai khác – đang đẩy đất nước và bản thân mình ngày càng chìm sâu trong khúc quanh quái ác của lịch sử, với hệ quả là đất nước tiếp tục tụt hậu và lạc lõng trong thế giới hôm nay. Chẳng có thế lực thù địch nào làm nổi việc này cả. Cứ nói mãi tự phê bình và phê bình, nhưng tại sao lãnh đạo đảng năm này qua năm khác cứ nhắm mắt bỏ qua việc tự phán xét này? Các đảng viên không dám đặt ra với lãnh đạo đòi hỏi sống còn này cũng phải chịu trách nhiệm. Quan điểm của tôi: Để đất nước lâm vào tình trạng hôm nay, không một đảng viên nào vô can!
 
Nhân đây, xin lưu ý một tâm trạng phổ biến: Nhiều đảng viên tâm huyết với đất nước hỏi nhau trong toàn bộ đội ngũ lãnh đạo cứ như thế này cả thì không biết chọn ai bây giờ? Không có minh chủ, không thấy nhân vật nào có thể gửi gắm được! Mà như thế làm sao đất nước ra khỏi quẫn bách hiện nay!?.. Tôi hiểu được tâm trạng lo âu này, song không muốn tiếp cận vấn đề bằng cách lo tìm người để gửi gắm như thế. Đấy không phải là lối thoát.
 
Quốc gia nào cũng có những thăng trầm quyết liệt, đòi hỏi phải có những suy nghĩ quyết liệt. Cuộc nội chiến Bắc - Nam đẫm máu 1861 – 1865 ở Mỹ đẩy liên bang này đến bờ sụp đổ. Sau khi ra khỏi thảm họa này, tổng thống Lincoln nói, đại ý: Chiếc áo cộng hòa của chúng ta đã bị lấm lem, và vệt bẩn trong đất bụi. Chúng ta hãy giặt sạch cho nó trắng lại, bằng tinh thần, chứ không  phải bằng máu, bằng cách mạng… Đứng trước muôn vàn khó khăn của nước Mỹ 1993, tổng thống Clinton nói: “Không có gì sai với nước Mỹ mà không thể chữa trị bằng cái gì đúng với nước Mỹ.” [3]  Nghĩa là: Quyết định phải là cách đặt vấn đề đúng và giải pháp thích hợp.
 
Dựa vào tinh thần những câu nói rất đáng ngẫm nghĩ trên, tôi cho rằng: Chế độ chính trị của nước ta tích tụ ngày càng nhiều sai trái và thối nát, đang kìm hãm đất nước, đã đến lúc nhân dân ta cần thay đổi nó. Nhưng không phải bằng máu, không phải bằng cách mạng, mà bằng sự giác ngộ của mỗi người dân chúng ta và ý chí thay đổi nó. Tôi cũng nghĩ rằng không một sai lầm nào của chế độ chính trị, cũng như không một khó khăn nào trong đời sống kinh tế - xã hội của nước ta không thể khắc phục được bằng giáo dục, trí tuệ, đạo đức, bằng ý chí tổ quốc trên hết, bằng đoàn kết hòa giải dân tộc đúng với tinh thần một người vì tất cả, tất cả vì một người.  
 
 
III – Bàn thêm về con đường của chủ nghĩa xã hội

          Xin dành cho việc nghiên cứu lý luận cho những công trình lý luận. Trong phần này chỉ xin dựa vào thực tiễn của cuộc sống nêu lên một số ý kiến để tham khảo.
 
          Nói tóm tắt, tôi muốn nhìn nhận sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản (CNCS) và học thuyết Marx  như một bước phát triển trong lịch sử tư duy của nhân loại. Về nhiều phương diện, còn có thể xem CNCS là một nỗ lực của nhân loại tìm đường giải phóng mình ra khỏi quá trình phát triển không ít máu và nước mắt của chủ nghĩa tư bản ở vào thời kỳ đã mở đường ra toàn cầu, vì một tương lai tốt đẹp hơn của tự do. Tính đến khoảng hai thập kỷ đầu tiên sau Chiến tranh Thế giới II, lý tưởng giải phóng này đã chinh phục được 1/3 nhân loại: Đó là các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào các nước thuộc địa giành độc lập dân tộc.
 
Song lý tưởng lãng mạn và cuộc sống thực là hai thực thể khác nhau. Mô hình thể chế chính trị của các nước XHCN ra đời từ lý tưởng lãng mạn này là “nhà nước chuyên chính vô sản + kinh tế kế hoạch hóa tập trung + công hữu tư liệu sản xuất”. Mô hình này không thực hiện được lý tưởng lãng mạn của giải phóng và tự do, nên thất bại. Cuối cùng nó tha hóa thành nhà nước độc tài toàn trị, với mọi tệ hại khủng khiếp vượt ra ngoài trí tưởng tượng. Các nước xã hội chủ nghĩa LXĐÂ tự sụp đổ từ bên trong như một lẽ tất yếu.
 
Tuy nhiên, khát vọng giải phóng và tự do của con người không bao giờ ngừng nghỉ, thua keo này, bày keo khác, vì đó là lẽ sống. Khát vọng này tìm đường đi tiếp trong muôn ngả khác của cuộc sống, trong từng bước tiến bộ mới hàng ngày của văn minh nhân loại. Đã có chứng minh rất thuyết phục: Chông gai, xương máu, rác rưởi làm đau khổ cuộc đời này còn nhiều khắp nơi. Nhưng, nhờ vào sự phát triển mọi mặt của cuộc sống, các giá trị cao đẹp của con người và cuộc sống xã hội được phát huy tới đâu, con người được giải phóng và hoàn thiện tới đó trên con đường bất tận của chân, thiên, mỹ. Chỉ có các triết lý đúng đắn của các giá trị và các giá trị, chứ không có thứ chủ nghĩa nào trên đời này có thể giúp con người thành công trên con đường nó phải đi.
 
Tôi nghiệm thấy như vậy, có niềm tin như vậy, sống theo như vậy, và như thế đối với tôi là đủ.
 
Tôi không quan tâm chuyện có hay không có xu thế tất yếu loài người sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, vì – theo tôi – nó xa vời và quá huyễn hoặc, nếu có thì cũng là là câu chuyện của hàng trăm năm tới, hàng nghìn năm tới. Ai giữ niềm tin vào xu thế tất yếu này, tôi tôn trọng, coi đó là niềm tin tôn giáo của họ, tôi không tham gia tranh luận đúng / sai làm gì. Nhưng nếu muốn đem thứ niềm tin tôn giáo này áp lên đất nước, thì đây lại là vấn đề của cả nước, phải do cả nước quyết định.
 
Cái mà người ta thường nói về con đường của chủ nghĩa xã hội, về định hướng xã hội chủ nghĩa, về các học thuyết và chủ nghĩa liên quan đến chủ đề này, về chủ nghĩa Mác – Lênin… với tính cách là các lý thuyết dẫn dắt mô hình phát triển quốc gia… đã từng gây tranh cãi quyết liệt ở nơi này nơi nọ trên thế giới. Chính F. Engels khi còn sống đã không dưới một lần phản biện lại Tuyên ngôn Cộng sản và phong trào cộng sản. Cuộc tranh cãi này đã đi tới hồi kết ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa  LXĐÂ cũ khi chuyển đổi chế độ, bằng cách từ bỏ lãng mạn đã theo đuổi, quay lại lựa chon con đường đi chung của nhân loại là “kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự”, với các mức thực hiện được rất khác nhau trong từng quốc gia này.  
 
Tôi cho rằng câu chuyện “con đường của chủ nghĩa xã hội” như thế là ngã ngũ, thiên hạ đã tổng kết khá thuyết phục.[4] Câu chuyện “con đường” này chỉ còn đang tiếp tục kéo dài ở Trung Quốc, Việt Nam… Song thực chất đây lại là chuyện chính trị và chuyện ý thức hệ, mà ngay cả cái gọi là chuyện ý thức hệ thì cuối cùng cốt lõi vẫn là chuyện chính trị.
 
Nhìn lại, ta có được bức tranh tổng thể của con đường xã hội chủ nghĩa trên thế giới: (a) các nước LXĐÂ cũ đã xóa bỏ “cả gói” mô hình XHCN (bao gồm cả các đảng dựng lên chế độ XHCN ở những quốc gia này) để quay lại lựa chọn con đường chung của nhân loại, (b) Trung Quốc chỉ xóa bỏ con đường XHCN nhưng giữ nguyên đảng, vì yêu cầu thống trị toàn Trung Quốc và yêu cầu trở thành siêu cường Đại Hán, (c) Việt Nam hiện giữ nguyên đảng, điều chỉnh lại con đường thành “định hướng XHCN” để bảo toàn chế độ toàn trị với kết quả như thực trạng đất nước hôm nay. Cho dù bức tranh tổng thể này có những mảng màu khác nhau như vậy, song vẫn toát lên sự thực cốt lõi là mô hình của CNXH như đã dựng nên đã hoàn toàn phá sản ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. Sự thật là như thế, và nên nhận định dứt khoát như thế trong tư duy cải cách, để gạt bỏ mọi điều còn lấn cấn,   để nghĩ và hành động theo hướng dẫn của trí tuệ và các giá trị, chứ không phải là của ý thức hệ. Nói tất cả vì con người, nói tổ quốc là trên hết, nhất thiết nên để cho trí tuệ và các giá trị quyết định hành động của mình.
 
Xin nhắc lại, cái gọi là chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thực chất chỉ là chủ nghĩa tư bản đặc sắc đại Hán mang khát vọng siêu cường. Nếu nhìn về phương diện đối ngoại, còn phải nói chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc mang nhiều tính chất của thứ chủ nghĩa thực dân mới đặc sắc Trung Quốc mà dư luận thế giới đã phải thừa nhận là nó nguy hiểm hơn và vượt xa chủ nghĩa thực dân mới thế kỷ 20 trên mọi phương diện. Thứ chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc này đang theo đuổi khát vọng bành trướng chẳng những uy hiếp các nước láng giềng mà còn trở thành vấn đề của cả thế giới. Hiểu Trung Quốc là một chuyện, chính sách đối ngoại của nước ta đối với Trung Quốc là chuyện khác. Có hiểu thật đúng Trung Quốc, mới có khả năng tìm ra con đường cho nước ta thực được hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác, láng giềng tốt với Trung Quốc mà nước ta luôn mong muốn.
 
Ở nước ta, những mục tiêu được đề ra cho xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thập kỷ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập thống nhất đã thất bại, dẫn tới phải tiến hành đổi mới kinh tế từ đại hội VI năm 1986, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội được điều chỉnh lại thành định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong gần ba thập kỷ tiếp theo, con đường định hướng xã hội chủ nghĩa này mang lại cho đất nước chỗ đứng như hôm nay và đã được trình bày khái quát trong loạt bài viết này. Hiện nay đất nước ta đứng trước đòi hỏi bức xúc phải thay đổi toàn diện theo hướng cải cách duy tân, để phát triển trên con đường dân tộc và dân chủ. Nói một cách khác, nước ta cũng phải tìm cách trở lại đi chung con đường của cả nhân loại, đó là phát triển đất nước thông qua thể chế kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự.  Từ sau đại hội IX đã có sự thừa nhận nửa vời đối với đòi hỏi khách quan này, đó là thêm cái vỹ ngữ “định hướng XHCN” vào kinh tế thị trường, vào nhà nước pháp quyền, đồng thời thôi không nói đến chuyên chính vô sản nữa. Song cái “đuôi” (“vỹ ngữ”) thêm vào này trên thực tế lại là cái “đầu”, bởi vì nó có sức mạnh lũng đoạn kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền, qua đó nó biến dạng nghiêm trọng toàn bộ hệ thống pháp luật, đạo đức và kỷ cương của đất nước. Một số học giả của đảng đã đề nghị đưa khái niệm “xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa” vào hệ thống chính trị, nhưng đến nay chưa được chấp nhận.  Thêm vào những cái “đuôi” để đối phó như vậy, chung cuộc chỉ dựng lên được cho đất nước: Chế độ chính trị toàn trị + nền kinh tế thị trường kém phát triển như hôm nay + môi trường tự nhiên bị xâm phạm nghiêm trọng (cũng có ý nghiên cứu cho rằng Việt Nam đang ở thời kỳ của chủ nghĩa tư bản hoang dã).
 
 Nhìn về lâu dài và khi điều kiện cho phép, có nhiều vấn đề của lịch sử nhất thiết phải nghiên cứu cho rành rẽ để tiếp tục tạo ra chỗ đứng vững chắc và tầm nhìn đúng đắn trong việc cân nhắc đại sự của đất nước. Cả một quá khứ đã đặt Việt Nam lên đường ray của chủ nghĩa xã hội suốt bốn thập kỷ như thế đang để lại để trang trải rất nhiều vấn đề và hệ quả cho hôm nay cũng như cho tương lai. Đó là sự thật khách quan.
 
Song cuộc sống của đất nước không thể chờ đợi, trong khi đó năng lực làm việc của con người chỉ có hạn. Do đó nên tập trung sức lực cho tiến hành cải cách với tinh thần khép lại quá khứ, nhưng không trốn tránh giải quyết những vấn đề sống còn của đất nước do quá khứ để lại. Cần bình tĩnh và tỉnh táo đặt ra cách tiếp cận này, đơn giản vì không thể nôn nóng cùng một lúc giải quyết mọi việc, mà toàn là những việc nhạy cảm, bức xúc, nóng bỏng, nhiều việc chưa có lời giải...
 
Tối ưu nhất là đảng chủ động huy động trí tuệ cả nước dựng nên một chiến lược cải cách duy tân đất nước, kế hoạch tổng thể thực hiện chiến lược này, lộ trình tiến hành. Đồng thời, đảng cần vận động toàn dân – trước hết là đảng viên – trau dồi hiểu biết và phấn đấu hết mình cho sự nghiệp cải cách duy tân đất nước với tinh thần Diên Hồng.
 
Cải cách đòi hỏi một cuộc vận động, giáo dục, học tập sâu rộng và lâu bền trong toàn quốc. Cứ nhìn công sức và nguồn lực đã bỏ ra cho nhiệm vụ “giữ vững định hướng” – như qua các đợt học tập chính trị, qua đợt vận động quá nhiều hình thức giả dối cho việc sửa đổi hiến pháp, vân vân.., có thể nói dứt khoát: Đất nước dù còn nghèo, song hoàn toàn không thiếu nguồn lực cho thực hiện cuộc vận động vỹ đại này để phục vụ sự nghiệp cải cách duy tân đất nước, bắt đầu từ học tập. Chỉ có chuyện nguồn lực này cố ý được sử dụng cho những mục đích khác! Sử dụng nguồn lực như thế là sự lãng phí đầy tội lỗi, là sự tham nhũng cơ hội của đất nước…
 
Đất nước ta, dân tộc ta đã phải chịu đựng quá nhiều tàn phá và đau thương rồi. Bây giờ, ngay trong cải cách và sau đó, không cần thiết phải mất thêm một giọt máu, không cần thêm một sự tàn phá, không cần phải có thêm một trận chiến tương tàn! Người Việt với người Việt là con một nhà, là anh em, hãy tất cả cho cải cách! Hãy tha thứ cho nhau và vì nhau để cải cách thành công bằng được! Hãy giúp nhau hiểu biết để ai cũng có thể tham gia vào sự nghiệp đổi đời chính bản thân mình và đổi đời đất nước mình! Hãy bảo vệ nhau và hợp tác với nhau đến cùng cho cải cách duy tân đất nước! Ê chề trước thiên hạ vì nghèo hèn, danh dự dân tộc bị xúc phạm, tất cả như thế là quá đủ rồi! Hãy quyết bảo nhau trong cải cách: Thiên hạ làm được thì người Việt ta cũng làm được!
 
Lại hỏi: Trước sau đảng vẫn khước từ cải cách duy tân đất nước thì sao?
 
Đáp: Câu hỏi này đã trả lời rồi.
 
 
Thay lời kết: Thông điệp của nhân dân 
         
Một nhân vật lịch sử, một anh hùng dân tộc sống mãi trong lòng dân. Sự kiện dân làm đám tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói lên rất rõ điều này. Cả nước đã nói lên điều này, không có gì phải bàn thêm nữa.
 
          Song việc hàng triệu người dân cả nước trực tiếp chia tay với Đại tướng một cách thành kính, tha thiết, không chỉ biểu thị một tấm lòng với người đã khuất, mà còn là lời gửi gắm, lời nhắn nhủ.., và nhất là còn là một lời nhắc nhở không thể bỏ qua đối với người còn sống.
 
          Hàng triệu người trong cả nước, không ai bảo ai, cũng chẳng ai đứng ra tổ chức, tất cả cùng nhau trang nghiêm tiễn đưa Đại tướng, trong một trật tự tự giác chưa từng thấy… Sự việc này trịnh trọng nói lên ý chí của nhân dân, biểu thị mãnh liệt quyết tâm và khả năng của nhân dân trong việc thực hiện ý chí của mình. Không gì có thể cản nổi! Xưa nay hiếm thấy một đám tang nào như thế dành cho một đảng viên từ khi đảng còn trứng nước, một vị tướng được nhân dân coi là của mình, một con người nhân dân ngưỡng mộ. Cả nước được chứng kiến: Ý chí trở thành triệu người một khối, lừng lững, hòa bình… Hiếm thấy một đám tang nào nói lên nhiều điều như thế đối với cả nước, nhất là trong bối cảnh của đất nước hôm nay.
 
          Tôi thầm hiểu, thế nào là nhân dân muôn người như một trong một nguyện vọng, trong một ý chí, trong một hành động. Nói đến cải cách duy tân đất nước hôm nay, nếu khởi xướng lên được với tất cả tinh thần và nội dung thiêng liêng của sự nghiệp đổi đời này, đất nước ta chắc chắn sẽ có nhân dân muôn người như một, trong một ý chí, trong một hành động.  
         
Tôi tin rằng sẽ có một ngày như vậy./.
  
Võng Thị - Hà Nội, ngày 01-03-2014
 
     

[1] Tìm xem các bài liên quan tôi đã viết trong khoảng 10 năm trở lại đây, trong: http://nguyentrung-vt.blogspot.com
[2] Nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới như đang được đề ra không thể giải quyết vấn đề này.
[3] Nguyễn Xuân Xanh: Diễn văn Gettysburg - huyền thoại của Abraham Lincoln http://sgtt.vn/Quoc-te/187634/Bai-dien-van-Gettysburg-huyen-thoai-cua-Abraham-Lincoln.html
[4] Nguyễn Trung: Diễn văn của Tổng thống Joachim Gauck kỷ niệm 150 năm đảng Dân Chủ Xã Hội Đức,  http://viet-studies.info/NguyenTrung/MguyenTrung_DienVanTongThongDuc.htm
  Tác giả gửi cho viet-studies ngày 6-3-14
Chữ tín
Bài 4: 
Yêu nước và nói thật
Nguyễn Trung


I – Hãy đối mặt với sự thật
Đọc lại nhiều ý kiến tâm huyết từ rất nhiều nơi trong nước trong các năm 2010, 2011 góp ý cho đảng nhân dịp đại hội XI, tôi thấy hầu như chẳng có ý kiến nào được tiếp thu. Mọi vấn đề được đặt ra hồi ấy, hôm nay vẫn còn nguyên vẹn. Khác chăng là tình hình mọi mặt của đất nước và của đảng hôm nay có nhiều mặt xấu hơn so với cách đây ba, bốn năm, xấu hơn nhiều so với các năm khóa X, khóa IX... Tình hình đòi hỏi phải chặn đứng xu thế này.
Thực tế đại hội XII phải đối mặt là:
1.  Kinh tế khủng hoảng cơ cấu nghiêm trọng, đặt ra nhiều vấn đề nan giải, nguồn lực mọi mặt (kể cả chất xám, năng lực quản trị đất nước, nguồn nhân lực) để cải tạo cơ cấu cũng như để chuyển nền kinh tế đi vào một thời kỳ phát triển mới đều rất hạn chế, trong khi đó cạnh tranh kinh tế ngày càng quyết liệt, bối cảnh chính trị quốc tế đặt ra nhiều thách thức mới.
2.  Thể chế chính trị nói chung, thể chế nhà nước nói riêng ngày càng lạc hậu so với sự phát triển của đất nước và mọi đòi hỏi mới đặt ra; tha hóa, quan liêu và tham nhũng không kiểm soát được; hiến pháp vừa mới sửa đổi trong thể chế hiện hành khó có khả năng cải thiện tình hình. Trong khi đó đời sống văn hóa xã hội tiếp tục xuống cấp và ngày càng nhiều bất cập; đặc biệt sự tụt hậu xa về giáo dục đang băng hoại nhiều giá trị, làm suy yếu phẩm chất con người và nguồn nhân lực quốc gia, để lại nhiều hậu quả lâu dài cho tương lai.
3.  Đảng hôm nay tiếp tục tha hóa về phẩm chất, trí tuệ và năng lực; tổ chức của đảng ngày càng bất cập trước sự phát triển, trước tình hình và nhiệm vụ mới của đất nước nói chung và của đảng nói riêng; năng lực lãnh đạo của đảng ngày càng mờ nhạt vì bế tắc về quan điểm đường lối; hệ quả là đảng đang rơi tiếp trong xu thế từ một đảng lãnh đạo xuống thành một lực lượng chính trị độc quyền.
Toàn bộ tình hình trên đặt ra đòi hỏi sống còn: Cải cách thể chế chính trị và triệt để đổi mới đảng là lối thoát duy nhất để đưa đất nước đi vào một thời kỳ phát triển năng động mới, đáp ứng đòi hỏi cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, đồng thời để có thực lực đối mặt được với mọi thách thức mới. Đòi hỏi này đã chín muồi từ trước khi họp đại hội X, đại hội XI, được rất nhiều ý kiến tâm huyết của cả nước thôi thúc, song đã bị làm ngơ. 
Đã đến lúc đảng phải có ý chí nhìn thẳng vào sự thật với tinh thần trách nhiệm cao nhất, nghiên cứu mổ xẻ thực trạng mọi mặt của đất nước, của đảng, và tìm giải pháp. Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế cho thấy đòi hỏi cải cách toàn diện đất nước đã tới thời điểm chín muồi trên hai phương diện cực kỳ quan trọng:
-  Tha hóa và nguy cơ sụp đổ đã đến mức không thể trì hoãn cải cách canh tân đất nước.  
-  Thực lực và tình hình mọi mặt của đất nước và bối cảnh quốc tế cho thấy hiện nay còn đủ sức và có cơ hội tiến hành cải cách thành công; lúc này tiến hành cải cách là tối ưu nhất đối với đất nước. Càng để muộn, triển vọng này sẽ mất đi nhanh chóng, đồng thời nguy cơ hiểm họa tăng lên.
Với cách đặt vấn đề như trên, đề nghị ngay từ bây giờ nên bắt tay vào mọi công việc của đại hội XII với nhận thức và ý chí hoàn toàn khác, không bị ràng buộc vào ý thức hệ hay bất kỳ tiền lệ hoặc công thức nào, chỉ có đòi hỏi quyết liệt hiện nay của lợi ích quốc gia quyết định tất cả.
Không nên tiến hành chuẩn bị đại hội XII như cách đang làm của đường mòn lâu nay.
Rất nên huy động chất xám đánh giá khách quan tình hình mọi mặt của đất nước và kiến nghị giải pháp, trên cơ sở này xây dựng chiến lược cải cách canh tân đất nước (gọi tắt là cải cách), vì những lý do sau đây:
-  Giai đoạn của công cuộc đổi mới đã làm làm xong nhiệm vụ của nó. Ở chỗ đứng hiện nay và trước những vấn đề mới đặt ra, giai đoạn phát triển mới của đất nước nên bắt đầu bằng cải cách, mở ra triển vọng mới của đất nước độc lập thống nhất. Cải cách như thế nên được thiết kế như một giai đoạn phát triển mới, để đưa Việt Nam đi tiếp trên con đường trở thành nước phát triển.
-  Mục tiêu năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại – theo suy nghĩ của tôi – là không thể hoàn thành được, dù nhìn theo bất kỳ phương diện nào. Hơn thế nữa sau 3 thập kỷ phát triển ban đầu, sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước hiện nay đang mất phương hướng, hay là đang đi vào hướng sai ngày càng bế tắc – đấy là hướng trở thành nước cho thuê, nước đi làm thuê.
-  Đất nước đang ngày càng tích tụ nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nan giải. Đồng thời sự tha hóa hiện nay của chế độ chính trị khách quan cũng đặt ra đòi hỏi phải thực hiện một quá trình cải cách, với mục đích tìm đường ra khỏi hướng đi bế tắc hiện tại và tạo ra sự phát triển mới của đất nước.
Với cách đặt vấn đề như vậy, tôi cho rằng 5 – 10 năm tới sẽ là thời kỳ vô cùng quan trọng: phải ra khỏi những khó khăn rất lớn hiện nay, đồng thời phải thực hiện được những bước đầu tiên của sự nghiệp cải cách, đặt nền móng cho một quá trình phát triển mới bền vững. Có thể nói kể từ khi đất nước độc lập thống nhất, sự nghiệp cải cách lần này mở đầu sự nghiệp đổi đời đất nước, để kiên định bước đi trên con đường trở thành một nước phát triển.
Đặt ra vấn đề phải cải cách, còn vì lẽ có quá nhiều di sản tai hại và nặng nề của quá khứ xa xưa nay còn bám rễ hoặc thậm chí đang có phát triển mới trong lòng chế độ hôm nay.
Đặt ra vấn đề phải cải cách, còn vì lẽ những hiện tượng tha hóa trong 4 thập kỷ đầu tiên của đất nước độc lập thống nhất cũng tạo ra một thứ di sản văn hóa không thể được dung dưỡng trong một nước phát triển.
Nếu nhận định trên là đúng, nhiệm vụ chính trị của đại hội XII sẽ phải là chặn đứng xu thế phát triển nguy hiểm hiện nay, thông qua cải cách mở ra một thời kỳ phát triên mới của đất nước và của đảng.
Sự thật là trong đảng viên cũng có người nghĩ: Đảng ngày nay hư hỏng và tham nhũng đến thế này rồi thì không thể cải tạo được nữa! Cứ để cho nó sụp đổ quách đi cho xong, lập lại cuộc đời! Níu kéo mãi sự ê chề này khổ dân khổ nước lắm, nhục lắm!.. Thậm chí suy nghĩ này còn viện dẫn Yeltsin giấy trắng mực đen làm cơ sở.
 Suy nghĩ nói trên có thể thông cảm được, song là cách nhìn tiêu cực và nguy hiểm, đồng nghĩa như chịu bó tay trước thảm họa đang đến. Mặt khác, tự che khuất nguy cơ thảm họa bằng những suy nghĩ thiển cận, hoặc bằng cách giấu dân, lừa dân, tình hình đất nước không vì thế mà bớt xấu đi.
Lãnh đạo đảng và toàn đảng nên sớm tạo ra nhận định thống nhất của cả nước và trong đảng về toàn bộ thực tế đất nước nêu trên, đồng lòng tìm đường tiến hành cải cách thay đổi tình hình đất nước.
 
II – Tinh thần Cách mạng Tháng Tám – Tuyên ngôn Độc lập – Hiến pháp 1946
         
Đó là tinh thần toàn dân một lòng đứng lên giành lại đất nước, dựng lên chế độ do mình làm chủ. Đó là con đường dân tộc – dân chủ. Trong sự nghiệp này, lúc ấy ĐCSVN là người tổ chức, người dẫn đường, và tự mình đã xả thân cùng toàn thể dân tộc chiến đấu cho sự nghiệp này.
Nói công bằng, dấy lên được tinh thần này và đưa Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi, công đầu là của ĐCSVN thời kỳ tinh hoa của nó. Về sau, tinh thần này đã bị xâm phạm. Đây là một chuyện khác, rồi đây cần được mổ xẻ để rút ra những bài học cho sự nghiệp cải cách canh tân đất nước.
Tinh thần dân tộc – dân chủ ấy hiển nhiên là sự kế thừa các triết lý và các giá trị của văn minh nhân loại, không thể tìm thấy trong tinh thần này bất kỳ một thứ “chủ nghĩa” nào. Tinh thần này đã làm nên sự nghiệp. Đất nước ta hiện nay chỉ có vấn đề vứt bỏ tinh thần này, không trung thành với tinh thần này, đang cố chôn vùi tinh thần này bằng “chủ nghĩa”, nô dịch đất nước bằng chủ nghĩa. Nước ta hiện nay không có vấn đề tinh thần này đã lỗi thời, mà chỉ có vấn đề tinh thần này cần được đánh thức lại và phải được hun đúc hơn bao giờ hết.
Tinh thần này được ghi lại trong lời nói đầu của Hiến pháp sửa đổi 2013. Song đấy chỉ là cái bia dựng lên cho nấm mộ của những việc đã qua, nội dung của Hiến pháp 2013 không có gì liên quan đến và thậm chí đi ngược tinh thần này.
Cả tình cảm và lý trí, riêng tôi rất mong sự nghiệp cải cách nên được khởi xướng với tinh thần này, được nuôi dưỡng bằng tinh thần bất hủ này. Cũng phải nói ra một tình cảm rất riêng tư nữa, trong đại gia đình mình, tôi có cha chú mình cống hiến cho tinh thần này từ trước năm 1945 với tất cả trí tuệ và nhiệt huyết của thời ấy, nên tôi có sự gắn bó thiêng liêng, tôi không thay đổi được mình. Bản thân tôi cũng được nuôi dưỡng và bước vào đời với tinh thần này. Bây giờ kinh nghiệm đường đời giữ cho tôi kiên trì với tinh thần này.
Tôi không giấu diếm, kiên trì với tinh thần này cũng là thái độ tôi lựa chọn đối với mọi thứ “chủ nghĩa” và mọi “thần tượng”. Trong tôi có khát khao của tự do và có người tôi yêu, nên chẳng lúc nào thích hợp với “chủ nghĩa” và “thần tượng”. Đấy là trong tư duy cho riêng mình thì như thế. Song trong việc của đất nước, tôi khuyến nghị tạm thời gạt mọi tranh luận về “chủ nghĩa” sang một bên cho lúc nào đó sẽ hay, đừng để nó đánh lạc hướng mình. Việc này trước sau sẽ phải làm, song trước mắt khoan khoan đã, và nếu làm cũng phải từng bước.
Việc cả nước bây giờ, cả nước nên tập trung mọi trí tuệ, nỗ lực và giải pháp của những việc phải làm cho cải cách, theo sự mách bảo của lẽ phải, của các kinh nghiệm thất bại và thành công trong nước mình cũng như của thiên hạ, với tinh thần ta làm chủ bản thân mình chứ không chịu làm nô lệ cho bất kỳ ý thức hệ nào.
Xin dành cho chất xám cả nước vạch ra chiến lược cải cách và các công việc đại hội XII nên làm. Đây là việc của cả nước. Về phần riêng, chỉ xin góp ý: Mọi việc nên bắt đầu từ việc dễ làm nhất, hứa hẹn thành công. Nên đi từ dễ đến khó, từ việc trước đến việc sau, với một sự kiên định tuyệt đối nói đi đôi với làm. Việc mở đầu của mọi việc, đặt tiền đề cho mọi việc có lẽ là thực hiện nói thật, công khai minh bạch và dân chủ.
Nên kiên định tìm đường thực hiện cải cách của giác ngộ và của ý thức trách nhiệm, chứ không phải cải cách của cảm xúc và thói quen bầy đàn. Chỉ có thể đạt được điều này thông qua học tập.  Hơn nữa, có sự thật là trình độ quan trí, dân trí, ý thức về dân chủ, sự giác ngộ về trách nhiệm công dân, ý thức về tôn trong pháp luật… trong cả nước nói chung còn thấp, đất nước còn nhiều phong tục tập quán hủ lậu.  Hơn thế nữa, việc thực hiện dân chủ, đoàn kết, hòa giải dân tộc với tinh thần khép lại quá khứ, không ngoái lại quá khứ, không hồi tố, sẽ có nhiều điểm khác hoặc thậm chí trái ngược với những thứ chế độ chính trị  hiện tại cho là đúng hay coi là chuẩn mực, đòi hỏi phải đặt lại, học tập lại, có nhiều điểm thậm chí phải học lại từ đầu, phải qua các cuộc vận động mới thực hiện được… V… v… Toàn bộ thực tế này trên phương diện nhất định còn là hệ quả những yếu kém 40 năm của chế độ chính trị. Tất cả những điều này cho thấy cải cách không thể ăn sống nuốt tươi được, quá trình học tập để cải cách có một ý nghĩa quyết định.
Tạo mọi điều kiện cho dân học hỏi được đến đâu, dứt khoát dân sẽ đòi và tự thực hiện được cải cách đến đấy với tất cả hiểu biết và ý thức trách nhiệm của mình. Vậy muốn đẩy nhanh cải cách, thì trước hết người dân cũng phải tự đẩy nhanh quá trình học tập, giác ngộ của chính mình. Ở vị trí người cầm quyền, phải làm hết mình thúc đẩy quá trình trưởng thành nhận thức của người dân, coi đây là nhiệm vụ thề phải thực hiện trước tổ quốc, trước toàn dân.
Cả nước một lòng phấn đấu làm sao tạo nên được sự nghiệp cải cách của giác ngộ và trách nhiệm, dứt khoát loại bỏ mọi phản lực ngược lại.
Đặt vấn đề tiến hành cải cá ch như thế, sẽ có thể tiến hành cải cách trong hòa bình, ổn định, sẽ có đủ can đảm để tiến hành cải cách.
Thực ra, không đến nỗi phải bắt tay vào việc với con số không. Nhặt chỗ này chỗ khác từng điểm ngay trong các nghị quyết chính thức của ĐCSVN khóa XI, sẽ có nhiều việc đúng, đáng làm. Cái khúc mắc là ở chỗ: nói nhưng không làm được dù muốn, nói chỉ để cho đẹp, nói rồi để đấy không làm, hoặc làm không đến nơi đến chốn, nói thế nhưng làm khác… Thông điệp đầu năm của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu lên được nhiều việc đích đáng phải làm, cả nước đang chờ đợi xem sẽ được làm như thế nào. Có hiến pháp mới rồi – dù là nó không mới lắm, có nhiều lời nói hay, nói đúng về nó rồi, nhưng trong cuộc sống hiện nay vẫn là tiếp diễn và tái diễn nhiều chuyện trấn áp cũ. Cứ để cho nói khác với làm như thế, dứt khoát không thể cải cách được và sớm muộn sẽ mất hết, phá hủy hết; chính đây là khó khăn đầu tiên phải loại bỏ để tiến hành cải cách.
Cuộc đời có muôn vàn lối đi đến lẽ phải và hướng về chân lý, đâu có nhất thiết cứ phải trải qua những “cuộc cách mạng” hoa này hay hoa khác? Cuộc đời cũng chứng minh sự vận động như một tính quy luật: chỉ có ý chí nhưng trí tuệ chưa đủ tầm, chưa tạo ra được những yếu tố phải có khác, cũng không thể làm nên sự nghiệp cải cách. Bất kỳ sự hẫng hụt nào cũng phải trả giá. Hơn nữa, nước ta có một lịch sử khác, mọi điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội khác, nay bị tụt hậu và lạc hướng, thì nhất thiết phải tìm ra cách riêng của ta để bước vào và đi chung trên con đường đi chung của nhân loại. Vả lại, nước ta đã làm cách mạng đủ rồi, bây giờ nên dồn hết trí tuệ, ý chí và mọi sức lực cho phát triển. Chia sẻ ý kiến này, tôi mong mỏi được trao đổi về sự lựa chọn của nước ta hôm nay, để cả nước cân nhắc, quyết định làm những việc phải làm.
 Nói lại chuyện cũ: Cách đây nhiều năm, UNESCO đề nghị nhà nước ta tìm lại văn bản gốc có bút tích người soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945. Lý do UNESCO đưa ra: Đấy là sự lên tiếng của một dân tộc bị áp bức, dám bằng trí tuệ và tinh thần giải phóng của nhân loại đứng lên tự khẳng định mình, tự giải phóng chính mình. Một văn bản như thế phải được lưu giữ trong kho tàng văn hóa của nhân loại. Tiếc thay, hồi ấy thời trứng nước, và chiến tranh ập đến sớm quá, không sao tìm lại được văn bản gốc có bút tích viết tay của người soạn thảo.
Ngày đêm, nhiều lần tôi tự hỏi mình, để tìm ra câu trả lời cho chính mình: Thực hiện cải cách như thế, ĐCSVN hôm nay sẽ còn hay mất? Lật đi lật lại, cân nhắc phải đến hàng trăm lần, cuối cùng vẫn chỉ là một câu trả lời: ĐCSVN hôm nay sẽ mất cái xác, mất luôn cả các thứ chủ nghĩa đeo bòng nó, để sống trở lại là cái đảng của tinh thần Cách mạng Tháng Tám, Tuyên Ngôn Độc Lập, Hiến pháp 1946. Võ Văn Kiệt nói đúng: Đó chính là đảng của dân tộc! Đây cũng là câu trả lời tôi chọn làm lẽ sống cho mình.
 
III – Nói đi đôi với làm

-  những bước phát triển vượt bậc của đất nước ta đều gắn liền với những đổi mới có tính quyết định về thể chế, bản chất là mở rộng dân chủ”.
-  “Nguồn động lực đó phải đến từ Đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân”. … , 
-  “Nhà nước phải làm tốt chức năng kiến tạo phát triển.”
-  “Nhà nước phải tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng theo cơ chế thị trường; kiểm soát chặt chẽ và xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp cũng như những cơ chế chính sách dẫn đến bất bình đẳng trong cạnh tranh. Pháp luật và cơ chế chính sách phải tạo thuận lợi nhất cho mọi người dân và doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh. Tài nguyên, nguồn lực của quốc gia phải được phân bổ tới những chủ thể có năng lực sử dụng mang lại hiệu quả cao nhất cho đất nước.”
-  “Nhà nước phải có chính sách đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển. Phải chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ đất nước.”
-  “Nhà nước phải xây dựng cho được bộ máy tinh gọn, hiệu lực hiệu quả với đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực và tính chuyên nghiệp cao. Mọi cơ quan, công chức đều phải được giao nhiệm vụ rõ ràng”.
-  Vân vân*
(Trích thông điệp của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng).
Những điều nói trên mang tính quy luật khách quan, bất kể sự tiến bộ kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội ở quốc gia nào xưa và nay đều phải tổng kết, tuân thủ.
Thiết nghĩ người đứng đầu và các cơ quan đầu não của đảng rất nên mời chất xám của đất nước giải quyết bài toán: Làm thế nào thực hiện những vấn đề có ý nghĩa sống còn và mang tính quy luật khách quan nêu trên cho cải cách?  
Thật ra chẳng cần phải chờ đến lời mời này, không ít người có trí tuệ và tâm huyết với đất nước ngày đêm vẫn đau đáu suy nghĩ mình có thể làm gì cho đất nước, bất chấp cái giá phải trả cho tự do tư duy. Vấn đề của đất nước là những nỗ lực này bị bóp nghẹt, chứ không phải là chuyện nào khác.
Như đã nói nhiều lần và xin nhắc lại: Đất nước này không thiếu trí tuệ và những điều kiện khác cho sự nghiệp cải cách; kinh nghiệm thế giới và những điều kiện của thời đại tin học ngày nay trong thế giới toàn cầu hóa mang lại rất nhiều thuận lợi cho cải cách thành công. Chỉ cần đừng hoang tưởng dựa trên các chủ nghĩa, chỉ cần trả lại quyền làm chủ của dân cho dân, đất nước này sẽ làm nên tất cả.
Kinh nghiệm vượt qua những khúc thăng trầm của đất nước và kinh nghiệm làm nên công cuộc đổi mới của nước ta rất giầu trí tuệ. Đồng thời ngay trước mắt, nước ta có nhiều điều rất đáng học từ Myanmar hôm nay, từ Hàn Quốc, Israel, Thụy Sỹ…  Thiết nghĩ hoàn toàn có thể thiết kế nên một chiến lược cải cách, với một lộ trình bắt đầu từ nhiệm vụ chính trị của khóa đại hội XII: Đó là mở ra những bước đi đầu tiên cho toàn bộ sự nghiệp cải cách canh tân đất nước trong một hai thập kỷ tới – với phương châm: Lấy giáo dục, công khai minh bạch và dân chủ thúc đẩy cải cách, làm cho tiến bộ kinh tế đồng hành với tiến bộ cải cách,  kinh tế và cải cách đạt tới đâu mở rộng cải cách tới đấy, lấy cải cách xây dựng nên nhà nước dân tộc và dân chủ kiến tạo phát triển, với cái đích đưa Việt Nam trở thành nước phát triển.
Nói một cách khái quát, lấy cải cách để đưa đất nước tiến bước thành công trên con đường của kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự, thực hiện thắng lợi sự nghiệp dân giầu nước mạnh – xã hội dân chủ công bằng văn minh.
Xin nhấn mạnh một lần nữa, theo suy nghĩ chủ quan của tôi, muốn cứu nước cứu đảng, khóa đại hội XII phải đứng ra nhận lấy sứ mệnh lịch sử là huy động trí tuệ và nghị lực cả nước, đặt cho được những viên gạch đầu tiên của nền móng phải xây nên cho sự nghiệp cải cách canh tân đất nước. Đấy chính là chương trình nghị sự 5 năm của nhiệm kỳ khóa đại hội XII trong khuôn khổ chương trình nghị sự trung hạn của đất nước trên con đường trở thành nước phát triển. Phải quyết liệt, nhưng kiên trì như dời núi lấp biển, vì chẳng có Kim tự tháp nào được xây dựng nên trong một một đêm cả.
Hai năm tới đến đại hội XII là đủ thời gian làm mọi việc để tổ chức đại hội XII với tinh thần và nội dung như thế. Năm năm của nhiệm kỳ khóa đại hội XII là đủ thời gian đổi mới đảng cho phù hợp để tham gia vào tiến trình cải cách của đất nước.
Tôi không quan tâm trong quá trình cải cách này ĐCSVN hôm nay mất hay còn, mà chỉ quan tâm đến cái đảng mình đã từng giơ tay tuyên thệ gia nhập thời trai tráng rồi đây sẽ nắm bắt được hay bỏ lỡ mất câu chuyện: một ngày nào đó trong nước Cộng hòa Dân Chủ Việt Nam có một đảng Lao động Việt Nam... Tư duy như thế, vì tôi không muốn chơi game bằng xương máu của đất nước. Nghĩ như thế, có người sẽ bảo tôi đấy là niềm tin tôn giáo. Tôi chấp nhận, đa nguyên là như vậy mà, mỗi người mỗi vẻ.
Đối với tôi, thiết nghĩ mọi chuyện đã rõ, không còn gì là mơ hồ hay phải vấn vương nữa. Chỉ cần nói đi đôi với làm sẽ tạo ra cú hích đầu tiên chuyển động cả đất nước. Ngày 04-01-2014 trong cuôc gặp đầu năm với báo Tuổi trẻ nhân bàn về thông điệp đầu năm của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tiếng nói của trí thức rất rõ ràng: Chỉ cần làm đi, sẽ có chuyển biến ngay. Bắt đầu từ trả lại tự do cho những người bất đồng chính kiến bị kết án tù tội, thôi dùng báo chí lề phải và dư luận viên trấn áp lẽ phải, thực hiện ngay những quyền của công dân được ghi trong hiến pháp vừa mới được thông qua, hãy nói thật và thôi nói dối… vân vân…
 Một chuyện cũ lúc này nên kể lại: Cố tổng bí thư Trường Chinh kiên định một cách rất lý trí lập trường của mình về chủ nghĩa xã hội. Rất khó hình dung một người như thế mà cuối cùng đã giữ vai trò quyết định ở đại hội VI, dẫn đến công cuộc đổi mới. Nhiều đảng viên làm việc gần cố tổng bí thư giải thích: Không nghe tiếng nói của cuộc sống và của dân, không có trí tuệ cần thiết, không đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, cố tổng bí thư Trường Chinh có lẽ không thể chấp nhận một nghị quyết mà trên thực tế là đi ngược 180 độ đường lối kinh tế kinh điển của đảng lúc bây giờ và của chính bản thân mình. Tôi thấy giải thích này có lý và khâm phục phẩm chất quý báu này.
Tôi biết rất rõ đổi mới trước hết bắt đầu từ dân với muôn vàn việc làm vô cùng sáng tạo, khác hẳn với đường lối quan điểm chính thống, và vượt xa tầm nhìn của đảng lúc bây giờ. Qua ví dụ này thấy được, vì nước cố tổng bí thư đã học dân, đảng đã học dân, và học được. Cuối cùng, đổi mới vì lợi ích của đất nước, đảng đã chấp nhận đưa cuộc sống vào nghị quyết của đảng. Ví dụ này hôm nay vẫn có ý nghĩa rất thời sự, là tấm gương cho đảng trong khắc phục cái bệnh đưa nghị quyết của đảng vào cuộc sống – nghĩa là khiên cưỡng, duy ý chí, áp đặt… Luôn luôn đúng sẽ phải là: đưa cuộc sống vào nghị quyết của đảng, để làm cho lòng dân trở thành ý chí của đảng (chứ không phải ý đảng lòng dân), để tất cả vì dân vì nước.
Như vậy, cái gì trong sự nghiệp cải cách hiện nay đảng chưa biết, dân có thể hoàn toàn giúp được, dựa vào dân hoàn toàn có thể làm được.
 
Mong muốn của người đứng bên lề cuộc sống

Gần hai thập kỷ đứng bên lề cuộc sống, tôi thực sự không đủ tư cách, không đủ thông tin để đưa ra bất kể một đề nghị gì  - dù là của cá nhân - về công việc của đất nước. Tôi cũng không muốn làm như vậy. Chưa nói đến hiểu biết của tôi ngày càng hạn chế, vì cuộc sống không đứng một chỗ. Tất cả những gì tôi viết ra, xin hiểu cho đấy chỉ là sự chia sẻ suy tư để mọi người tham khảo.
(1) Viết đến đây, về phần kinh tế, tôi ước mong: Làm sao chế độ này, nhà nước này có chính sách hay “bửu bối” nào đó, khiến cho không một đồng bạc nào của nền kinh tế - dù là thuộc hình thức sở hữu nào, dù là dưới dạng nào (tiền, đất, vàng, chất xám, know-how, sức lao động, của cải…) chịu nằm yên. Mỗi đồng bạc đều ngứa ngáy hay được chỉ dẫn, được khuyến khích chui ra thị trường sinh sôi nẩy nở một cách công khai, chân chính – nghĩa là đúng với luật pháp và đàng hoàng trong luật chơi. Càng sinh sôi nảy nở nhiều, càng được bảo hộ, ưu đãi, cổ vũ, vinh danh… Trong những đồng bạc ấy, tôi nghĩ đến cả những đồng bạc do hôm qua “trót” tham nhũng mà có, nay được hưởng quy chế “khép lại quá khứ, không hồi tố” pháp luật thôi không “rờ” đến nữa. Mỗi đồng bạc thi nhau làm giầu chính đáng, có lợi cho mình và cho đất nước, để có cái trích ra một phần từ cái lợi làm ra được ấy làm giầu lại cho cộng đồng, cho đất nước. Nền kinh tế nên được vận hành theo cách khuyến khích gà đẻ trứng vàng, ngày càng nhiều gà đẻ trứng vàng, chứ không phải là đi săn gà đẻ trứng vàng, tất cả với nguyên tắc có làm – có ăn, không có gì cho không, chống ăn cắp, khuyến khích những đồng bạc dám mạo hiểm làm giầu. Vấn đề sở hữu cũng vậy, khuyến khích mỗi đồng bạc tự dồn về không gian nào thích hợp cho nó nhất, nó có thể sinh lợi nhiều nhất. Vai trò “chủ đạo” không phải là duy ý chí hay chạy vạy cửa sau gán cho một lọai sở hữu nào đó, mà là để cho đồng bạc nào sinh lợi nhiều nhất với tinh thần vừa nêu trên tự giành lấy. Quyết sách kinh tế nên bao hàm cả quan điểm “lọt sàng xuống nia”, với nghĩa, dù mỗi đồng bạc vì lý do nào đấy “lọt” mất xuống nia cũng được khuyến khích sinh sôi nảy nở, và gần như bắt buộc (hay là bắt buộc – nếu nhà nước có tài) không được phép nằm im dưới gối. Các lực lượng vũ trang dứt khoát không được làm kinh tế.
Làm cho (a) nền kinh tế không có đồng bạc nào chịu nhàn rỗi, và (b) thực hành tiết kiệm – nên coi đấy là 2 quốc sách kinh tế hàng đầu.
Bên cạnh việc đưa nền kinh tế ra khỏi đáy khủng hoảng, tái cấu trúc nền kinh tế để có một cơ cấu mới từng bước đưa nền kinh tế ra khỏi cơ cấu lạc hậu hiện nay là vấn đề sống còn. Vì lẽ này, tăng trưởng GDP cần thiết đến thế nào chăng nữa, nhưng không nên coi là đòi hỏi quyết định. Cái đích cần tập trung sức nhằm vào là tăng trưởng đạt chất lượng cao, mang lại cải thiện thật sự cho nền kinh tế, và tạo ra được sản phẩm mới cho từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới. Trong nhiệm vụ này vai trò lựa chọn chiến lược kinh tế và quy hoạch phát triển phải có kiến thức và tầm nhìn mới.
(2) Về thể chế chính trị, tôi ước mong toàn bộ hệ thống chính trị hiện nay của đất nước cũng như từng công dân tập trung trí tuệ và nghị lực xây dựng nên được một nhà nước kiến tạo sự phát triển, hoạt động trên nền tảng kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự. Tôi thiển nghĩ, trước hết đấy là một nhà nước làm hết sức mình phục vụ vai trò làm chủ đất nước của nhân dân, coi nhiệm vụ phục vụ này là tối thượng. Nhà nước này lấy việc nâng cao sự giác ngộ về quyền làm chủ như vậy của nhân dân là con đường phát triển con người nói riêng và nguồn nhân lực quốc gia nói chung. Nhà nước này mang lại cho đất nước sự phát triển dựa trên nguồn nhân lực có sự giác ngộ cao nhất về quyền làm chủ đất nước của các công dân của nó, tạo ra động lực của phát triển  của đất nước là trí tuệ và văn hóa thường xuyên thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, giáo dục trở thành nền móng của phát triển quốc gia.
Thiết nghĩ, chìa khóa cho toàn bộ sự nghiệp cải cách là tự do, dân chủ và công khai minh bạch.

Cuộc đời dứt dây động rừng

Ta làm việc cải cách hoàn toàn là công việc nội bộ của nước ta. Thế nhưng trong cái thế giới phức tạp chúng ta đang sống, sẽ khó tránh khỏi người thích kẻ chê, cả những kẻ xúi bẩy, thọc gậy bánh xe nữa, kẻ đâm bị thóc chọc bị gạo, kẻ đục nước béo cò, kẻ cướp cờ, kẻ tìm cách ngăn cản gián tiếp hay trực tiếp, kẻ dọa dẫm…  Song nước ta không thể chọn được thế giới, vì thế cần phải có bản lĩnh, thông minh, luôn luôn tạo ra trong dân sự đồng thuận cao nhất dựa trên trí tuệ và ý chí, để có điều kiện tốt nhất ta kiên định công việc của ta, không ngả nghiêng. Càng thấy, nâng cao dân trí và dân chủ là đòi hỏi vô cùng quan trọng cho mọi tình huống. Diên Hồng cũng là thế chứ gì! Trong cải cách, nhất thiết phải tránh cho bằng được kịch bản Việt Nam rơi vào số phận bị giằng xé như Ukraina lúc này. Toàn dân hiểu điều này và một lòng, dứt khoát sẽ tránh được.
Xin lưu ý, nguy cơ các nước lớn trực tiếp đánh nhau hiện nay vẫn tương đối ít. Song nguy cơ đang gia tăng là: Ở mọi nơi, các nước lớn tiếp tục giành giật nhau trên trận địa nước thứ ba hoặc các nước bên thứ ba. Bởi vì cục diện thế giới hậu chiến tranh lạnh đã chấm dứt, khoảng từ một thập kỷ nay đã đi vào cục diện quốc tế của một siêu đa cường, trong đó một số cường quốc đang nổi lên hơn trước với những đòi hỏi mới, nhất là Trung Quốc. Cuộc sống của thế giới hiện tại đang có nhiều tranh chấp mới, đang diễn ra một quá trình “tái cấu trúc” (xin tạm dùng khái niệm này cho gọn) trật tự kinh tế và chính trị. Tất cả càng thôi thúc Việt Nam phải sớm là một nước phát triển đứng vững chắc trên đôi chân của chính mình, chậm một ngày lo ngay ngáy một ngày, thua thiệt một ngày.
Song lúc này, sẽ là sai lầm phải trả giá, nếu lấy câu chuyện Ukraina bây giờ, hay chuyện biểu tình của đảng ông Sam Rainsy đang phá kết quả bầu cử ở Campuchia, chuyện các thế lực khác nhau ở Thái Lan đang mượn áo đỏ - áo vàng tranh giành nhau… để đi tới kết luận cho nước ta là cứ an phận thủ thường cam chịu như thế này là thượng sách, thậm chí để hù dọa khát vọng cải cách.
Sẽ là một tội lỗi phải lên án, nếu vin vào những chuyện như thế và nhân danh giữ ổn định để trấn áp mọi khát vọng tự do dân chủ của nhân dân…
Nhìn vào bất kể biến động quốc gia nào trên thế giới ngày nay, mầm mống ban đầu đều xuất phát từ bất công xã hội và mất dân chủ bên trong, kinh tế đổ vỡ. Một khi biến động ấy đã trở thành vấn đề quốc gia hay ở quy mô quốc gia, ngay lập tức nó biến quốc gia này thành “con mồi” – thành trận địa nước bên thứ ba – cho các thế lực lớn bên ngoài tranh giành nhau. Nói hình ảnh là thế này: Một con vật ốm yếu giữa hoang dã, ngay lập tức nó sẽ được các loài thú khác bu đến xâu xé. Vậy kết của câu chuyện là con vật này không được để mình rơi vào trạng thái ốm yếu, chứ không phải là tìm đường đi theo loài thú nào để mong có sự bảo hộ cho mình, hoặc nếu có tìm cách chê loài thú này và nịnh hót loài thú kia cũng chẳng được yên thân…
Trí tuệ, dân chủ, sự công bằng – đấy mới là nền tảng vững chắc của ổn định quốc gia, không một “định hướng xã hội chủ nghĩa” nào có thể thay thế được. Hơn thế nữa, phải có lực, có bản lĩnh, phải lựa chọn đi với cả nhân loại tiến bộ, để có thể cùng đi được với cả nhân loại tiến bộ và đồng thời để luôn luôn tranh thủ được hậu thuẫn của nhân loại tiến bộ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bối cảnh thế giới lựa chọn cho đất nước ta là phấn đấu cho hòa bình, hữu nghị và hợp tác với mọi quốc gia, dứt khoát không đi với bên nào chống lại bên nào. Đơn độc, lạc lõng, bị cô lập, bị lệ thuộc đều dẫn đến chỗ chết. Không một chủ nghĩa hay tư duy ý thức hệ nào có thể đảo ngược được quy luật khắc nghiệt này của cuộc sống – kể cả chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Muốn ta là ta thì phải phấn đấu ta trở thành như vậy.  
Vì thế, dĩ bất biến ứng vạn biến trong cái thế giới quyết liệt này chỉ có thể bằng cách: Ta phải là chính ta trên nền móng của sự ổn định quốc gia và ta nhất quyết đứng trên đôi chân của ta. Chỉ có một Việt Nam của dân chủ và tự do mới có đủ trí tuệ, bản lĩnh và nghị lực tạo ra được cho đất nước vị thế ta là ta như thế! Khẩu hiệu “Nước Việt Nam của người Việt Nam!” đã từng vực cả nước đứng lên trong Cách mạng Tháng Tám, hôm nay mang một nội dung mới như thế.
Hơn bao giờ hết, đất nước ta bây giờ cần làm sống lại với nội dung mới của thời đại chúng ta đang sống tinh thần Cách mạng Tháng Tám, Tuyên Ngôn Độc Lập, Hiến pháp 1946.
 
Đôi điều tâm sự

Viết loạt bốn bài chữ tín, đối với tôi là cái nghiệp với lọn nghĩa của từ “nghiệp” - nghĩa là phải viết, dù trong tôi cũng chống lại quyết liệt.
Có nhiều lẽ lắm. Trong đó có nỗi lo tầm nhìn của mình không bao quát được vấn đề mình viết ra, trách nhiệm lớn quá... Trong đó có nỗi lo rước vạ vào thân…  Trong đó có những ray rứt của tôi về thất bại của những người đi trước, nỗi ray rứt từ món nợ của riêng tôi đối với những người đi trước, trong đó có anh Nguyễn Cơ Thạch…
 Vì những điều ngổn ngang chưa ngã ngũ này, sau khi viết xong bài 1, cái chủ nghĩa “makeno” trong tôi quẳng việc này đi hàng chục ngày, mặc dù nội dung cho cả bốn bài đã định hình trong đầu, chỉ cần ngồi vào bàn một, hai ngày là xong.
 Cái ray rứt kéo tôi lại vào bàn. Tôi không thể ngồi yên nhìn, cứ mỗi lần đại hội đảng đến, là một lần đảng bước thêm một bước vào khóa tha hóa mới. Bốn thập kỷ vừa qua ở vị trí độc quyền, đảng đã phạm không ít sai lầm nghiêm trọng đối với đất nước, đối với chính bản thân sự nghiệp của của đảng. Nhưng hiển nhiên cách khắc phục như đã làm cho đến nay không sao đảo ngược được xu thế đảng tha hóa ngày càng trầm trọng. Đất nước trong những thập kỷ vừa qua tuy có phát triển (thật ra là tự nó nhiều hơn) nhưng đắt quá, để lại quá nhiều hậu quả mà chung cuộc chưa ai nói trước được sẽ ra sao. Trong khi đó có nhiều vấn đề rất khó đất nước phải đối mặt vượt quá bản lĩnh chính trị của đảng và năng lực quản trị của nhà nước. Mặt khác năng lực của quốc gia đang bị kìm hãm, trí tuệ rởm xua đuổi trí tuệ chân chính, cái ác vẫn cứ thắng cái thiện. Hiện tại đang ngổn ngang bao nhiêu vấn đề sống còn, đại hội XII cứ theo đường mòn thế này, đất nước sẽ đi đâu? về đâu?..
 Người tôi tâm sự nhiều nhất trong những ngày ray rứt viết loạt bài chữ “tín” này là cố thủ tướng Võ Văn Kiệt, tác giả bức thư ngày 09-08-1995 gửi Bộ Chính trị ĐCSVN: Tôi lục lại trí nhớ về sự thất bại của bức thư này để rút kinh nghiệm cho mình. Bức thư này đánh dấu kết thúc sự nghiệp của tôi là cán bộ viên chức của bộ máy nhà nước.
 Chuyện cũ là thế này, bức thư thật ra chỉ mang những kiến nghị rất sơ khởi ban đầu và rất thận trọng – anh Võ Văn Kiệt chủ tâm như thế để đi từng bước. Nhưng bức thư vẫn bị bác bỏ rất quyết liệt, gây ra cho anh nhiều khó khăn mà tôi là người giúp việc cũng không hình dung nổi. Trong những phê phán nặng nề dành cho anh Kiệt về bức thư này, có một ý cho là do anh Kiệt dùng tôi làm trợ lý nên mới sinh chuyện ra như vậy. Khi ý này đến được tai tôi, ngay ngày hôm sau tôi gửi anh Kiệt bức thư xin thôi nhiệm vụ trợ lý và về hưu, coi đấy là sự phản đối của tôi về “cái ý” khó nghe ấy. Đưa thư xong tôi không trở lại nhiệm sở nữa, cũng không chờ quyết định của cơ quan. Vì tình cảm giữa hai chúng tôi cũng bịn rịn, để anh Kiệt khỏi buồn, kèm theo cái thư “từ quan” (xin tạm gọi như vậy cho vui) tôi tặng anh một bài thơ và một chai rượu tôi tự làm để chia tay, với hứa hẹn: Tôi sẽ giúp anh nhiều hơn với tư cách là người tự do. Tôi đã giữ được lời hứa này.
 Bây giờ chỉ còn một món nợ lớn đối với anh Võ Văn Kiệt tôi chưa trả được: - Ráng đóng góp vào việc đổi mới đảng!.. Tôi không ngờ đấy lại là lời dặn dò cuối cùng của anh khi chúng tôi mỗi người mỗi việc chia tay nhau – khoảng hai tuần sau, anh đi xa…
 Có thể nói, cuối cùng ray rứt vì món nợ không trả được, tôi quyết viết bằng xong 4 bài này, đúng – sai sau này sẽ tính thêm, sửa thêm, cứ phải viết xuống giấy cái đã, nếu không lại nhụt trí mất.
 Câu chuyện đáng nói ở đây là thế này, những vấn đề nêu trong bức thư 09-08-1995 còn nguyên vẹn tính thời sự đối với đất nước với đảng hôm nay. Thông điệp đầu năm 2014 của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu lại được một phần những vấn đề còn nguyên vẹn của bức thư đã được viết cách đây 19 năm. Tôi muốn nhìn nhận thông điệp này là sự thú nhận gián tiếp và không tự giác về tình trạng trì trệ và xuống cấp tiếp của đảng, của nhà nước. Ngẫm nghĩ như thế, viết 4 bài này tôi tự hỏi: Đất nước ta, dân tộc ta có đáng phải chịu đứng chết trong một khúc quanh như vậy của lịch sử hay không, một trạng thái trì trệ gần như một thứ bệnh hoại thư?..
 Viết bốn bài này, một lần nữa tôi thú nhận mình cũng không vô can về những gánh nặng đất nước đang phải chịu đựng./.
 
Võng Thị - Hà Nội, ngày 05-03-2014
 
* Thông điệp đầu năm của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
 Tác giả gửi cho viet-studies ngày 6-3-14

Tập Cận Bình Ác Hơn Stalin

Mới lên ngôi không bao lâu, Chủ Tịch Tập cận Bình đã tỏ ra ác độc hơn Stalin trong việc thanh trừng đồng chí đối thủ trong Đảng Nhà Nước Trung Cộng. Nếu Stalin lấy tội gọi là âm mưu lật đổ chánh quyền do chính Stalin dàn dựng, để ám hại, giết chết nhiều nhân vật đại công thần chánh trị cũng như quân sự của CS Liên xô như Leon Trotsky, Kamenev, Zinoviev bị giết và hàng nhiều trăm ngàn đảng viên khác bị Stalin đưa đi đày chết trong tù, thì Tập Chủ tịch lấy danh nghĩa chống tham nhũng, từ con ruồi đến con hổ, để ‘đào tận gốc trốc tận rể’ những đồng chí Ô. Tập nghi đã có ý tranh giành chức vụ quyền lực với Ông.

Tiêu biểu là Bí Thư kiêm Chủ Tịch Trùng Khánh, Uỷ viên Bộ Chánh trị Trung ương đảng Bạc Hy Lai. Ông Bạc này cũng là một hoàng tử đỏ như Ô. Bình, người có tham vọng trở thành nhân vật số 1 của Đảng Nhà Nước TC, bị Tập Chủ Tịch diệt tán gia bại sản, bằng tội tham nhũng. Vợ của Ô. Bạc hy Lai bị án tử hình treo, còn Ô. Bạc tù chung thân, tịch thu tài sản, con trai lang thang không được về nước.

Mới đây là Chu vĩnh Khang, là một trong 9 người của Bộ Chánh Trị, có quyền lực nhứt của Đảng Nhà Nước TC. Ô. Khang là người từng nắm bộ máy an ninh nội chính toàn quốc, chuyên trấn áp ‘lực lượng thù địch’, với một ngân sách lớn hơn ngân sách quốc phòng của TC. Đích thân Tập Chủ Tịch mới đây chẳng những ra lịnh bắt Khang, mà bắt hàng trăm những tay em vi cánh của Khang nữa, cũng với tội tham nhũng.

Như ông Lưu Hán, một tài phiệt ở tỉnh Tứ Xuyên, thân thiết với con trai ông Chu. Ô Lưu Hán là một nhà kinh doanh, từng mua hầm mỏ ở Úc, từng được coi như ‘điễn hình tiên tiến’, chọn làm một trong những người rước đuốc cho thế vận hội Olympic 2008. Nhưng khi bị Tập Chủ Tịch ra lịnh bắt thì truyền hình CCTV của Đảng Nhà Nước TC nói công ty Hàn Long của ông Lưu Hán là một nhóm mafia có tầm cỡ, chèn ép, cướp bóc nhiều công ty thuộc nhiều lĩnh vực và rửa tiền trong các casino tại Ma Cao. Ô Lưu Hán là người cầm đầu tổ chức tội ác, có một băng giết người chuyên nghiệp, giết những ai cản trở công việc làm ăn của ông Lưu.

Như Ô. Giám đốc an ninh thành phố Bắc Kinh đã bị bắt giữ trong một bữa ăn tối vì phe Tập Chủ Tịch nghi đã gián tiếp cung cấp cho hãng tin tài chính Mỹ Bloomberg những tài liệu về gia tài giấu giếm của gia đình Chủ tịch Tập Cận Bình hồi đầu năm 2012.

Như Ô. Chu Nguyên Thanh và vợ, một đại gia ở Trung Quốc vốn là em trai ruột của Ô Chu vĩnh Khang bị bắt từ tháng 12/2013 ở nhà riêng ở tỉnh Giang Tây, nhưng tin này chỉ được tiết lộ mới đây. “Báo đài” của Đảng Nhà Nước tố vợ của Chu Nguyên Thanh, bà Chu Linh Anh là một doanh nhân giàu có, một trong những nhà đầu tư chính hằng trăm triệu đôla vào hãng xe hơi Đức Audi và còn tham gia vào một dự án khai thác khí đốt trong khuôn khổ một hợp đồng với một công ty chi nhánh của tập đoàn dầu khí nhà nước Trung Quốc, mà Ô Khang từng làm giám đốc.

Nhờ những cuộc đấu đá nhau mà công luận thế giới và dân chúng TQ biết được thâm cung bí sử của TC. Chớ người dân Trung Quốc không dễ tin ‘báo đài” của Đảng Nhà Nước. Dân báo ở Trung Quốc và báo Liberation của Pháp cho biết nhiều thông tin, nghị luận. Rằng Ông Chu Vĩnh Khang là một uỷ viên thế lực ở Bộ Chánh Trị từng ủng hộ Bạc Hy Lai, một hoàng tử đỏ hoài Mao, chống tham nhũng, được lòng dân trong tỉnh của Ông, và là một đối thủ đáng gờm của Ô Bình trong khi tranh giành chức vụ Chủ Tịch Đảng Nhà Nước TC.
Ngoài ra, Chu vĩnh Khang là một người nắm ngành an ninh nội chính trong ngoài đảng, trong ngoài nước nên Ô Bình nghi Ô. Chu cho người tiết lộ cho báo chí Mỹ về tài sản kếch sù gởi giấu ở ngoại quốc của các cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Giang Trạch Dân. Do vậy Chủ Tich Tập quét láng tay chân bộ hạ của Chủ Tịch Chu để bịt miệng và trừ hậu hoạn, sợ có thể khui ra những tham ô nhũng lạm của hai nhân vật từng ủng hộ Ô Bình.

Dù Tập Chủ Tịch thắng rồi, Chu vĩnh Khang đã hồi hưu, Tập Chủ Tịch vẫn còn lo sợ Ô. Chu nắm trong tay hồ sơ nhiều gia đình các quan chức cao cấp và nếu một ngày nào đó ông công bố các hồ sơ trên thì sẽ gây ra hậu quả khó lường được.

Qua một chuỗi hành động mà Tập Chủ Tịch bề ngoài tuyên truyền là bài trừ tham nhũng từ con ruồi đến con hổ, nhưng bên trong chánh yếu là để triệt hạ đối thủ và phe đảng đã chống Ông, một cách không gớm tay.

Ở VNCS cũng vậy. Tổng Trọng bên Đảng CS muốn diệt Nguyễn tấn Dũng bên nhà nước cũng dùng đòn chống tham nhũng để mưu hại nhau. Cuộc đấu đá tuy âm thầm nhưng khốc liệt, nếu cần có thể bức tử một thượng tướng, một thứ trưởng công an như Thượng Tướng Phạm Quý Ngọ.

Chớ CS thừa biết độc tài đảng trị toàn diện của Đảng CS là cha sanh mẹ đẻ của tham nhũng. Chỉ có cán bộ, đảng viên của Đảng mới có quyền thế để tham nhũng, chớ người dân không quyền không thế thì làm sao mà tham nhũng được. Cho nên nếu Đảng Nhà Nước diệt hết tham nhũng thì hết cán bộ, đảng viền, còn ai đâu mà xài. Với quyền hành tuyệt đối và toàn diện, Đảng Nhà Nước CS có thể diệt chủng, chớ đừng nói diệt tham nhũng. Nhưng vì quyền lợi của CS, họ chỉ dùng chánh nghĩa, vũ khí chống tham nhũng để xì bất mãn của dân, để diệt đối thủ trong nội bộ và để làm dây thòng lọng trị đảng viên bằng mặc cảm tội lỗi./.(Vi Anh)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét