Chữ tín
Bài 3:
Vượt lên khúc quanh của lịch sử
Nguyễn Trung
I – Nhận diện khúc quanh của lịch sử
Lịch sử không thể làm lại, không có chữ “nếu”, song
luôn luôn là người thầy trung thực và nghiêm khắc. Con đường đất
nước ta đã trải qua kể từ Cách mạng Tháng Tám 1945 cho đến nay đặt
ra nhiều vấn đề hệ trọng quá, chưa được nghiên cứu một cách khách
quan và nghiêm túc để rút ra những kết luận cần thiết cho đất nước
ta hôm nay và trong tương lai. Công việc này trước hết là món nợ lớn
của giới sử gia nước ta. Song cũng nên coi đây là món nợ lớn của mỗi
người dân ta quan tâm đến vận mệnh đất nước.
Trong khi đó cuộc sống cứ diễn tiến theo nhịp điệu riêng của nó,
không thèm chờ đợi, vô luận chúng ta có rút ra được cái gì từ những
bài học của lịch sử phải học hay không. Mặt khác, trong dư luận có
bao nhiêu vấn đề nghiên cứu được đặt ra, thì trong tranh luận có
bằng nấy vấn đề được nhìn nhận với những lý lẽ và kết luận trái
ngược nhau, phủ định nhau. Ví dụ, đã có những ý kiến đặt ra những
câu hỏi: Cuộc kháng chiến chống Mỹ có nhất thiết phải kéo dài và
quyết liệt như thế hay không? Có con đường nào khác đã bị bỏ qua
trong việc thống nhất Bắc-Nam? Vân vân…
Xin khất lại cho cả nước món nợ nghiên cứu lịch sử chưa trang trải
được mà nó nhất thiết cần sớm được trang trải. Chỉ xin nêu lên ở
đây, khi kiến nghị với cả nước nên lựa chọn con đường cải cách để
đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng hiện nay và mở ra một trang sử mới –
như đã trình bày trong loạt bài
chữ tín
này, tôi vấp phải một thực tế đau đầu:
Nghiên cứu cuộc kháng chiến chống Mỹ, tôi đã đi tới kết luận
cuộc chiến tranh này mang trong lòng nó 6 cuộc chiến tranh khác[1].
Trong đó tôi rút ra một điều: Hệ quả của một số trong những cuộc
chiến tranh này là nước ta đã trở thành trận địa nước thứ ba
cho cuộc chiến tranh gián tiếp giữa một số nước lớn giành giật ảnh
hưởng lẫn nhau. Đến nay, mới chưa đầy 4 thập kỷ trôi qua và chưa có
được hòa bình trọn vẹn, thế nhưng cục diện châu Á – Thái Bình Dương
hiện nay lại đang một lần nữa lăm le đẩy nước ta vào cái kịch bản
mới trận địa nước thứ ba! Số phận của nước ta chẳng lẽ
oan nghiệt đến vậy sao? Có phải trời đầy đọa nước ta không? Nước ta
đã sẵn sàng mọi mặt chống lại một tai ương mới đang lù lù trước mắt
này? Mấy ngày nay đang nóng lên câu chuyện Ukraina...
Nước ta có nhất thiết phải hứng chịu số phận nêu trên không? Đương
đầu với nó như thế nào? Cứ èo uột leo dây như thế này liệu có
thoát được số phận này không? Tại sao trên thế giới có không ít quốc
gia cũng rơi vào các tọa độ nóng chẳng kém gì như của nước ta hay
còn nóng hơn nữa, thế mà họ lại dám không cam chịu số phận đen ngòm
này, họ thắng được số phận đen ngòm này? Thậm chí có khi thiên hạ
còn phải cầu cạnh họ, ví dụ như Thụy Sỹ... Vì sao vậy?..
Cuộc sống dạy cho tôi đủ hiểu: Đi ăn xin thì bao giờ và mãi mãi vẫn
chỉ là thằng ăn xin!
Câu hỏi lại đẩy tôi đến câu hỏi: Lực èo uột, sống phải leo dây
như thế này liệu có dám cứng đầu với số phận không?– Cứng đầu ở đây
là giữ được phẩm chất ta là ta, không đánh mất ta, không phải cầu
xin cái này cái nọ, song cũng không phải là gây gổ. Cứng đầu ở đây
là có đủ những điều kiện và tố chất khiến thiên hạ phải tôn trọng
ta, thậm chí ta có thể góp một tay vào hòa bình, ổn định và phát
triển trong khu vực.
Lấy đâu ra lực phải có để dám cứng đầu như thế với cái số phận đen
ngòm này? Hàn Quốc, với xuất phát điểm GDP per capita là 82
USD vào những năm 1950s, chỉ cần 3 thập kỷ sau đó (những năm của
thập kỷ 1980s) với mọi nguồn lực huy động được chỉ bằng một nửa
nguồn lực nước ta có được cũng trong vòng 30 năm, nhưng Hàn Quốc trở
thành nước công nghiệp, còn nước ta hôm nay vẫn đứng rất xa cột mốc
này. Làm ăn ươn hèn như thế, số phận đen ngòm này của ta là đích
đáng, có phải thế không?
Đúng là đau như cắt để tự hỏi như thế.
Càng ngày đất nước ta đang càng rơi sâu vào một
khúc quanh
mới của lịch sử: Từ là trận địa nước
bên thứ ba thời chiến tranh lạnh hôm qua, nước Việt Nam ta
hôm nay – do kiên trì kéo dài mãi sự hèn kém của mình như thế này –
chắc lại đang tự trói chân tay mình, sẽ đành chờ cam chịu
giao nộp mình cho số phận trận địa nước bên thứ ba của
cục diện mới tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương!? Một Việt Nam
giầu mạnh, có bản lĩnh đâu chịu dồn ép mình vào số phận này?
Chẳng lẽ phải chịu bao nhiêu hy sinh xương máu của
bốn cuộc chiến tranh chống xâm lược trong gần hết nửa sau của thế kỷ
vừa qua chỉ là để hôm nay đi tiếp trên con đường đang dẫn tới cái số
phận đen ngòm mới phía trước hay sao? Hay là niềm tự hào đã đánh
thắng được những đế quốc to đang che lấp mất cái số phận đen ngòm
mới phía trước đang lăm le hăm dọa đất nước?
Thời chiến tranh lạnh, nước ta có mời gọi ai đến tranh giành nhau
trên đất nước ta đâu, nhưng họ vẫn cứ đến và làm khổ nước ta, không
dưới một lần bán đứng nước ta trong chuyện này chuyện nọ, làm cho
hai cuộc kháng chiến đầu của nước ta đã khốc liệt càng thêm phần
khốc liệt. Ngày nay cũng thế, nước ta không thể kêu gọi Trung Quốc
đừng lấn xuống Biển Đông, cũng như không thể đề nghị Mỹ thôi cái “pivot
to the Asia-Pacific” đi, để nước ta được yên thân. Làm gì có
chuyện đó! Ta có quỳ xin, họ cũng chẳng nghe đâu, họ có việc của họ.
Ta cũng không thể bê nước mình đến một địa danh mới được. Mà còn
phải leo dây, thì ta còn được bán tiếp.
Thế giới ngày nay, một cường quốc vác quân đi xâm
lược một nước khác khó lắm. Song thế giới ngày nay có thêm vô vàn
thủ đoạn mới và phương tiện mới để khuất phục đối thủ, cái yếu luôn
luôn phải trả giá. Kinh nghiệm mấy chục năm độc lập thống nhất dạy
nước ta như thế.
Sự tụt hậu đáng sợ so với thế giới bên ngoài mà đất
nước đang phải đối mặt, những yếu kém quá nhạy cảm của nền kinh tế
còn đang thiếu đối sách, sự chênh lệch quá lớn về thực lực so với
đối thủ, sự yếu kém của chế độ chính trị, sự phân tán trong lòng dân
đối với chế độ, sự xuống cấp các mặt văn hóa – xã hội chưa từng có,
khả năng tập hợp mặt trận rất hạn chế vì nước ta đang có nhiều cái
lạc lõng trong trào lưu chung của thế giới, tình hình trong khu vực
lại có không ít những vấn đề phức tạp… Tất cả những thứ yếu kém này
đang dồn nước ta vào thế quốc gia leo dây, cái “sự cân bằng”
đang có được nhờ sách lược chẳng bao giờ bền vững, và trên
thực tế không ít thì nhiều đã phải trả giá!.. Trong bối cảnh như
thế, nếu sức vươn lên của cả dân tộc cứ bị trói chân trói tay mãi
như thế này, liệu có thể đương đầu thắng lợi với cái số phận đen
ngòm đang lù lù phía trước được không? Trong khi đó sau cái ADIZ ở
biển Hoa Đông là cái ADIZ ở Biển Đông đang lấp ló. Ukraina nóng bỏng
đang tạo ra nguy cơ xung đột mới. Trong cái thế giới là cái bình
thông nhau này, chẳng có chỗ nào chân không, vùng nóng nơi này mở
thêm vùng trống nơi kia, nạn nhân luôn luôn là các nước “bên thứ
ba”. Những chuyện tiếp theo khác chỉ là chuyện ngày giờ… Mà thân
phận nước ta, ta phải giữ, gửi gắm cho ai được? Nếu ta không dám là
chính ta thì làm sao có thể mong đợi sự hậu thuẫn từ bạn bè trên thế
giới được?..
Vậy chỉ còn mỗi con đường: Nếu muốn cưỡng lại cái số phận đen ngòm
đang cứ tái đi tái lại này, phải nhận diện cho ra khúc quanh
của lịch sử
để tìm lối thoát.
Nhân đây tôi xin nói một nhận định để tính toán :
Việt Nam không phải là một nước yếu. Xưa
nay thế, bây giờ thế, trong tương lai cũng sẽ như thế: Không một kẻ
xâm lược nào có thể khuất phục được Việt Nam. Điều này chắc như đinh
đóng cột. Nhưng Việt Nam hiện nay chưa đủ mạnh để bứt ra khỏi khúc
quanh oan nghiệt của lich sử. Vì lẽ này Việt Nam chưa mang lại được
cho chính mình sự phát triển đáng có và hoàn toàn có thế có được. Vì
lẽ này Việt Nam chưa làm tốt nghĩa vụ của mình là một thành viên
tích cực đối với cộng đồng thế giới đúng với vị thế mà địa lý tự
nhiên, địa lý kinh tế và địa lý chính trị của thế giới trao cho Việt
Nam. Song đây chỉ là câu chuyện của thời gian. Người viết những dòng
chữ này có niềm tin sắt đá: Đây hoàn toàn chỉ là câu chuyện của thời
gian, vì không ai có thể bắt dân tộc này ngủ.
II – Xu
hướng đẩy đất nước ngày càng chìm sâu vào khúc quanh của lịch sử
Trong lịch sử cận đại của nước ta, dù mỗi thời một thế, song khúc
quanh của lịch sử trình bày trên có thể được xem như một dạng tái
bản khúc quanh của lịch sử khi nước ta rơi vào tay chủ nghĩa thực
dân Pháp vào đúng giai đoạn Việt Nam độc lập, phát triển và trở nên
hoàn chỉnh nhất như cho đến hôm nay kể từ thời Gia Long. Đừng đổ lỗi
cho tinh thần yêu nước của các triều đại thời Gia Long kém thời
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, mà phải nhìn thấy cái lỗi nằm
ở chỗ nước ta hồi ấy tụt hậu mất một giai đoạn phát triển; và
chính điều này hôm nay vẫn còn nguyên ý nghĩa thời sự.
Lịch sử không lặp lại, nhưng sự tái diễn với phiên
bản mới, vòng xoáy ốc mới của một kịch bản đã xảy ra một mặt nói lên
sự trừng phạt nghiêm khắc cho việc mù tịt hay trốn tránh những bài
học của lịch sử. Mặt khác sự tái diễn này cho thấy mức độ phức tạp
hơn rất nhiều của những vấn đề phải giải quyết hôm nay. Bây giờ đâu
đâu tại các quốc gia có ý thức trên thế giới này cũng bức thiết khẩu
hiệu: Thay đổi hay là chết! Còn ở ta: Kiên định định hướng xã hội
chủ nghĩa hay là chết?
Đã đến lúc phải tự hỏi: Việt Nam độc lập thống nhất từ 30-04-1975
ứng xử như thế nào với cái thế giới nó đang sống? (Mọi chuyện trước
30-04-1975 xin tạm gác lại một bên sẽ bàn sau này khi có dịp).
Trong những lần góp ý kiến với các đại hội đảng IX, X và XI tôi đã
trình bày một đánh giá chung, đại ý: Trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc kể từ sau 30-04-1975, đường lối của đảng có nhiều sai lầm
cơ bản, nguyên nhân chính là không hiểu hết ta, không hiểu đúng thế
giới, định hướng sai, khiến cho thành quả đạt được không ngang xứng
với nguồn lực và công sức đã bỏ ra, nhiều cơ hội lớn bị bỏ lỡ, đất
nước gặp nhiều khó khăn mới.
Trong bài
chữ tín
(bài 1), tôi đã một lần nữa trình bày khái quát đánh giá chung này,
nêu lên nguy cơ: sự kìm hãm nặng nề của thể chế chính trị có thể làm
bế tắc việc mở ra cho đất nước một thời kỳ phát triển mới.
Cũng trong những đóng góp ý kiến với đảng nhân các dịp khác nhau,
tôi đã trình bày từ 30-04-1975 lãnh đạo đã bỏ lỡ mất bốn cơ hội lịch
sử:
1.
Cơ hội thực hiện hòa giải đoàn kết dân tộc, đưa nước
ta đi lên con đường dân tộc - dân chủ ngay sau 30-04-1945,
hòa nhập vào cộng đồng quốc tế.
2.
Cơ hội lựa chọn con đường độc lập - dân tộc - dân
chủ khi các nước LXĐÂ cũ sụp đổ (1989 – 1991), để từ đây nước ta
cùng đi được với cả thế giới, xây dựng vị thế quốc tế mới cho quốc
gia, không phải đi theo một bên nào. – nhưng tiếc thay lãnh đạo lại
lựa chọn con đường quay về Thành Đô để bảo tồn chế độ xã hội chủ
nghĩa.
3.
Cơ hội khoảng nửa đầu thập kỷ 1990 đẩy nhanh quá
trình gia nhập ASEAN, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, gia nhập WTO
trước Trung Quốc, để đất nước phát triển nhanh và mau chóng thoát
khỏi hay giảm bớt sức ép của Trung Quốc.
4.
Cơ hội sửa đổi hiến pháp năm 2013 để cải cách thể chế
chính trị của đất nước trong hòa bình, ổn định, đưa đất nước sớm ra
khỏi khủng hoảng hiện nay và mở đường đi vào giai đoạn phát triển
mới.
Cả bốn lần mất cơ hội lớn đều chung một nguyên nhân sâu xa: Sợ mất
chế độ, thực ra là sợ đảng bị lọai bỏ, chưa có tầm nhìn thấu đáo về
lợi ích quốc gia trong bối cảnh tương quan lực lượng trên toàn thế
giới luôn luôn thay đổi. Trong một giai đoạn ban đầu sau 30-04-1975
và ở chừng mực nhất định, nguyên nhân này có thể là hệ quả của tư
duy ý thức hệ sai lầm. Song càng ngày ý thức hệ kiên định giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa càng bị tha hóa trong đảng biến tướng,
lấn át. Ngày nay trên thực tế “định hướng XHCN” chỉ còn lại là một
thứ “nhân danh”.
Bốn cơ hội lịch sử nêu trên cho thấy: Mặc dù bối cảnh
thế giới phức tạp như thế nào, khả năng ra khỏi khúc quanh của lịch
sử là rất lớn. Điều kiện tiên quyết là phải nhận thức rõ được khúc
quanh đau lòng này và nắm lấy những cơ hội đang đến với đất nước.
Song mỗi lần cơ hội bị bỏ lỡ như thế, đất nước sau đó lại sa đà sâu
hơn nữa vào con đường sai đang đi. Nước ta dù mấy thập kỷ vừa qua
phát triển thế nào đi nữa, khoảng cách phát triển giữa ta và các
nước phải so sánh (nhất là Trung Quốc, ASEAN…) tiếp tục rộng thêm,
các khó khăn hôm nay đối với đất nước lớn hơn hôm qua, nhiều thách
thức cũng lớn hơn – kể cả về mặt an ninh quốc phòng. Giữa thập kỷ
1990 đến đầu những năm 2000 bàn về triển vọng kinh tế Việt
Nam, thế giới đã từng kỳ vọng về “con hổ” mới là Việt Nam. Từ dăm
năm trở lại đây người ta nói “con hổ” Việt Nam không gầm được nữa!..
Cho đến nay, Việt Nam đạt được là đối tác chiến lược,
đối tác toàn diện của tất cả các nước quan trọng trên thế giới. Song
vì không có lực chống lưng, nên có tiếng mà không có miếng, trên
thực tế Việt Nam vẫn ở vị thế khá chênh vênh – nhất là trong quan hệ
với Mỹ, với Trung Quốc. Có thể nói, hiện nay đất nước có những mặt
suy yếu hơn khóa đại hội X, khóa đại hội IX, vì tha hóa, và cũng một
phần vì các vấn đề bây giờ phải giải quyết nan giải hơn rất nhiều.
Làm yếu đất nước, đảng cũng đang tha hóa và suy yếu tiếp, đến mức
nhiều khi phải tự vệ bằng nói dối.
Phải nói những nỗ lực bỏ ra cho củng cố chế độ, tăng cường quyền lực
của đảng, của nhà nước và của hệ thống chính trị trong các khóa đại
hội đảng vừa qua là rất lớn. Song vì sai hướng, vì không nhận ra xu
thế đất nước đang ngày càng chìm sâu vào khúc quanh hiện nay của
lịch sử, nên mọi nỗ lực bỏ ra ngày càng mang tính chất “siết” –
nghĩa là ngày càng mất dân chủ nhiều hơn, ngày càng quẫn bách hơn về
nội dung, về phương hướng. Ngoài “siết” ra, hầu như không có cái gì
mới để nói, để làm.
Trong khi đó đất nước hàng ngày có biết
bao nhiêu vấn đề khó, bức xúc không thể chờ đợi, biết bao nhiêu vấn
đề thiết thực phải mổ xẻ, phải tìm giải pháp – kể cả về mặt lý luận.
Ví dụ: Đưa nông nghiệp và nông dân Việt Nam lên sản xuất quy mô lớn
với công nghệ cao như thế nào? Phải giải quyết những mối quan hệ
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội gì cho nhiệm vụ này?[2]
Cải cách giáo dục làm đi làm lại mãi hai thập kỷ nay không xong.
Còn 6 năm nữa, Việt Nam có thể trở thành nước công nghiệp được
không – dù là nói theo cách nào? Một nước Việt Nam công nghiệp thì
cần phải đứng ở đâu trong những chuỗi sản phẩm nào của kinh tế thế
giới đang thay đổi hiện nay? Cứ giả thử đạt được một nước công
nghiệp như thế đi, thể chế chính trị yếu kém và tham nhũng như hiện
nay có vận hành nổi không? … Lãnh đạo là trả lời cho dân cho nước
những câu hỏi này, chứ không phải là hô hào và đặt câu hỏi cho dân:
Trồng cây gì? Nuôi con gì?... …
Còn một nỗi lo bao trùm, âm thầm, không bộc phát
quyết liệt ngay trong cuộc sống hàng ngày, song tiềm tàng đe dọa
ngày đêm: So với các nước trong khu vực, các công trình và các sản
phẩm của cả nền kinh tế nước ta nhìn chung có chất lượng thấp hơn,
giá thành cao hơn, ít thân thiện với môi trường. Trước mắt không ít
công trình kinh tế lớn cứ ỳ ạch lên ỳ ạch xuống rất tốn kém kiểu như
nhà máy lọc dầu Dung Quất. Một số công trình thủy điện đang là ác
mộng cho các vùng hạ nguồn. Alumina Tân Rai và Nhân Cơ sẽ đi đến
đâu? Rồi đây liệu có tránh khỏi tái diễn thảm kịch “cầu Chu Va 6”
hay không? Xa lộ mới vài tháng đưa vào sử dụng đã phải đại tu, cầu
Vĩnh Tuy mới hoàn thành nhưng đã có những vết nứt... Trong
toàn bộ nền kinh tế, hàm lượng công nghệ cao trong công nghệ được sử
dụng không quá mức 4%. Công nghệ được sử dụng trong cả nền kinh tế
chủ yếu là loại 2, loại 3 hoặc thậm chí thấp hơn. Đặc biệt là giá
thành công trình kết cấu hạ tầng nhìn chung rất cao, độ bền thấp,
thất thoát trong xây dựng ước tính 10 - 20%... Tình trạng tham nhũng
đã đáng sợ, tình trạng lãng phí còn đáng sợ hơn… v.v. Cần nhìn nhận
nguyên nhân câu chuyện này trước hết là lỗi của hệ thống, song cái
lỗi hệ thống này lại do lỗi của toàn bộ hệ thống chính trị gây ra,
lỗi riêng của từng con người chỉ là những nguyên nhân sau.
Cần đặc biệt lưu ý là (a) mọi ưu ái dành cho vai trò
chủ đạo của các tập đoàn kinh tế nhà nước và kinh tế quốc doanh tạo
ra đặc quyền đặc lợi lũng đoạn toàn bộ nền kinh tế, (b) quan điểm
đất đai sở hữu toàn dân góp phần nghiêm trọng tạo ra bong bóng bất
động sản và sự đổ vỡ của nó hiện nay, (c) những yếu kém của thể chế
huy động và phân bổ nguồn lực dẫn đến rối loạn, lạm phát và thất
thoát lớn, tiêu biểu là tình trạng khó kiểm soát hiện nay của hệ
thống tài chính/ngân hàng. Đấy là ba nguyên nhân cơ bản tạo ra khủng
hoảng cơ cấu kinh tế trầm trọng hiện nay của nước ta.
Hệ quả: Về tổng thể, nước ta có một nền kinh tế đắt,
cơ cấu lạc hậu, ít hiệu quả hơn, ít an toàn hơn so với tiêu chuẩn
phải có. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế tiếp tục thấp đi; trong
khi đó sự hỗ trợ của các hệ đòn bẩy cũng như của luật pháp vừa bị
giảm hiệu quả nghiêm trọng, vừa rất xa sự mong đợi… Toàn bộ tình
hình này không phải chỉ là câu chuyện của kinh tế và của kỹ thuật,
mà chủ yếu lại là câu chuyện chất lượng của một thể chế chính trị
quá nhiều khuyết tật: chồng chéo, quan liêu, ăn bám và tham nhũng.
Sự thật là các vấn đề phải tháo gỡ hôm nay khó hơn rất nhiều so với
cách đây 10 năm, 15 năm...
Ngoài ra, cũng phải thừa nhận chế độ chính trị hiện
nay có thêm nhiều bất an mới, phản ánh sự tích tụ những mâu thuẫn
nội tại mới trong xã hội. Song có phải chủ yếu là do các thế lực thù
địch và sự can thiệp của bên ngoài gây ra hay không? Cứ gia tăng mãi
“siết” như thế này, và đồng thời cử dư luận viên đổ hết mọi tội lỗi
cho các thế lực thù địch và sự can thiệp của bên ngoài, liệu chế độ
có vững chắc hơn không?.. v.v…
Cuộc
sống đang cho thấy, càng nỗ lực theo phương châm “siết” như vậy,
tình hình các mặt của đất nước chỉ căng thẳng thêm. Bởi vì mọi vấn
đề phải giải quyết hầu như còn nguyên vẹn, chẳng nghị quyết, khẩu
hiệu nào hay đợt học tập chính trị tư tưởng nào có thể hốt chúng đi
được. Các nhóm lợi ích tiếp tục hoành hành, kinh tế cứ xấu đi, trọng
tội trọng án nhiều lên, văn hóa - xã hội xuống cấp tệ hại, mê tín dị
đoan nẩy nở, mặc dù còn giữ được tăng trưởng kinh tế ở mức thấp,
nhưng rất tốn kém.
Một biểu hiện bộc lộ đặc chưng cho xu hướng thiên về
“siết” là chưa bao giờ thấy ngôn ngữ của Ban Tuyên giáo đầy khẩu khí
nhà binh như hiện nay: …chỉ
đạo và phát huy sức mạnh tổng hợp của các binh chủng, các lực lượng
làm công tác tuyên giáo, đội ngũ dư luận viên… để định hướng tư
tưởng, tuyên truyền sâu, rộng, để quán triệt…
… … Đọc những dòng chữ này trong những sách báo và tạp chí lý
luận của đảng, tôi nhớ lại hồi là sinh viên học ở CHDC Đức, cuối
thập kỷ 1950 tôi đã từng được đọc thứ ngôn ngữ na ná như vậy trong
lưu trữ báo chí Đức quốc xã…
Tóm lại, đảng như hôm nay, nhất là những cơ quan làm
trí tuệ của đảng, đang đứng ở đâu trong cuộc sống đất nước hiện đang
dồn nén vô vàn khó khăn thách thức chưa có lời giải như vậy? Ai nói
được lối ra nào cụ thể cho đất nước? Lấy từ đâu ra nguồn lực nào,
cần bao nhiêu thời gian, cần những nỗ lực nào khác nữa… để cơ bản
khắc phục được sự bế tắc nêu trên? Làm thế nào tạo ra cho đất nước
động lực đi vào một thời kỳ phát triển mới trong cái thế giới phức
tạp hôm nay?.. Trong khi đó luôn luôn đòi khẳng định đảng giữ quyền
lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Tình hình đất nước nêu trên, cùng với thực tế là chỉ
trong vòng chưa đầy bốn thập kỷ lãnh đạo đảng đã bốn lần bỏ lỡ cơ
hội lớn, cho thấy đảng hiện nay ở trong trạng thái:
bị mù quáng vì ý thức hệ, tư duy bế tắc, tầm nhìn
thiển cận và lạc hậu, tâm sức phân tán quá nhiều cho mâu thuẫn nội
bộ, đạo đức suy thoái trầm trọng, kỷ cương không nghiêm, thể
chế và tư duy nhiệm kỳ loại bỏ nghĩ lớn, nghĩ dài….
Nói nghiêm khắc: Sự tha hóa của đảng đã tới mức thủ
tiêu tính tiền phong chiến đấu đã được rèn luyện trong các cuộc
kháng chiến. Từ 30-04-1975 đến nay tha hóa đang từng bước diễn biến
đảng trở thành một lực lượng cai trị ngày càng nhiều mâu thuẫn với
lợi ích quốc gia. Dân gian nói thẳng: Mừng đảng rồi mới mừng xuân
mà! Đảng bây giờ yêu mình trước đã!.. Đảng đứng trên cả đất trời!..
Đây mới là sự diễn biến hòa bình có thật mà bốn thập kỷ nay đảng
quay lưng lại không dám nhìn. Trong khi đó đảng hầu như không tiếc
một nỗ lực nào tạo ra sự sùng bái đảng, không ngần ngại chụp mũ cho
mọi ý kiến xây dựng tội diễn biến hòa bình, tội suy thoái đạo đức
chính trị tư tưởng.., thậm chí còn thẳng tay trấn áp.
Đến đây có thể kết luận: Tình hình đất nước hiện nay
và các mối tương quan giữa các lực lượng trong xã hội nước ta
đặt ra tình huống đỡ tổn thất nhất, đỡ xương máu nhất, đáng lựa chọn
nhất, và cũng là khả dĩ nhất đi đến thắng lợi bền vững cho quốc gia,
là
ĐCSVN phải chủ động đề xướng sự nghiệp cải cách duy tân đất nước.
Lợi ích quốc gia cao nhất đòi hỏi sự lựa chọn này, chứ không phải
phẩm chất và trí tuệ hiện nay của đảng đáp ứng tốt nhất nhiệm vụ
trọng đại này. Nói dễ hiểu: đó là sự lựa chọn cực chẳng đã của tình
thế đất nước.
Đảng cần nhận rõ đòi hỏi khách quan nói trên của đất
nước và sự hẫng hụt của bản thân để tự sửa mình, để nâng cao mình
đáp ứng đòi hỏi này. Chưa nói đến, nghĩa vụ đảng đã cam kết trong
cương lĩnh, món nợ chính trị với đất nước đảng phải trang trải… Cần
đặc biệt nhấn mạnh, tha hóa trong đảng đã tới mức: Đảng nhất thiết
phải dựa vào dân thông qua sự nghiệp cải cách duy tân của đất nước
lần này để thay đổi chính mình, để trở thành đảng đi với dân tộc,
nếu không muốn bị tiêu vong. Song muốn làm được như thế, việc
đầu tiên là lãnh đạo hiện nay và toàn thể đảng viên phải tự
ý thức được là chính mình – chứ không phải ai khác – đang đẩy đất
nước và bản thân mình ngày càng chìm sâu trong khúc quanh quái ác
của lịch sử, với hệ quả là đất nước tiếp tục tụt hậu và lạc lõng
trong thế giới hôm nay. Chẳng có thế lực thù địch nào làm nổi việc
này cả. Cứ nói mãi tự phê bình và phê bình, nhưng tại sao lãnh đạo
đảng năm này qua năm khác cứ nhắm mắt bỏ qua việc tự phán xét này?
Các đảng viên không dám đặt ra với lãnh đạo đòi hỏi sống còn này
cũng phải chịu trách nhiệm. Quan điểm của tôi: Để đất nước lâm vào
tình trạng hôm nay, không một đảng viên nào vô can!
Nhân đây, xin lưu ý một tâm trạng phổ biến: Nhiều
đảng viên tâm huyết với đất nước hỏi nhau trong toàn bộ đội ngũ
lãnh đạo cứ như thế này cả thì không biết chọn ai bây giờ? Không có
minh chủ, không thấy nhân vật nào có thể gửi gắm được! Mà như thế
làm sao đất nước ra khỏi quẫn bách hiện nay!?.. Tôi hiểu được
tâm trạng lo âu này, song không muốn tiếp cận vấn đề bằng cách lo
tìm người để gửi gắm như thế. Đấy không phải là lối thoát.
Quốc gia nào cũng có những thăng trầm quyết liệt, đòi
hỏi phải có những suy nghĩ quyết liệt. Cuộc nội chiến Bắc - Nam đẫm
máu 1861 – 1865 ở Mỹ đẩy liên bang này đến bờ sụp đổ. Sau khi ra
khỏi thảm họa này, tổng thống Lincoln nói, đại ý:
Chiếc áo cộng hòa của chúng ta đã bị lấm lem, và vệt
bẩn trong đất bụi. Chúng ta hãy giặt sạch cho nó trắng lại, bằng
tinh thần, chứ không phải bằng máu, bằng cách mạng…
Đứng trước muôn vàn khó khăn của nước Mỹ 1993, tổng thống Clinton
nói:
“Không có gì sai với nước Mỹ mà không thể chữa trị bằng cái gì đúng
với nước Mỹ.”
[3]
Nghĩa là: Quyết định phải là cách đặt vấn đề đúng và giải pháp thích
hợp.
Dựa vào tinh thần những câu nói rất đáng ngẫm nghĩ
trên, tôi cho rằng: Chế độ chính trị của nước ta tích tụ ngày càng
nhiều sai trái và thối nát, đang kìm hãm đất nước, đã đến lúc nhân
dân ta cần thay đổi nó. Nhưng không phải bằng máu, không phải bằng
cách mạng, mà bằng sự giác ngộ của mỗi người dân chúng ta và ý chí
thay đổi nó. Tôi cũng nghĩ rằng không một sai lầm nào của chế độ
chính trị, cũng như không một khó khăn nào trong đời sống kinh tế -
xã hội của nước ta không thể khắc phục được bằng giáo dục, trí tuệ,
đạo đức, bằng ý chí tổ quốc trên hết, bằng đoàn kết hòa giải dân tộc
đúng với tinh thần một người vì tất cả,
tất cả vì một người.
III –
Bàn thêm về con đường của chủ nghĩa xã hội
Xin dành cho việc nghiên cứu lý luận cho những công trình lý luận.
Trong phần này chỉ xin dựa vào thực tiễn của cuộc sống nêu lên một
số ý kiến để tham khảo.
Nói tóm tắt, tôi muốn nhìn nhận sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản
(CNCS) và học thuyết Marx như một bước phát triển trong lịch
sử tư duy của nhân loại. Về nhiều phương diện, còn có thể xem CNCS
là một nỗ lực của nhân loại tìm đường giải phóng mình ra khỏi quá
trình phát triển không ít máu và nước mắt của chủ nghĩa tư bản ở vào
thời kỳ đã mở đường ra toàn cầu, vì một tương lai tốt đẹp hơn của tự
do. Tính đến khoảng hai thập kỷ đầu tiên sau Chiến tranh Thế giới
II, lý tưởng giải phóng này đã chinh phục được 1/3 nhân loại: Đó là
các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào các nước thuộc địa giành độc
lập dân tộc.
Song lý tưởng lãng mạn và cuộc sống thực là hai thực
thể khác nhau. Mô hình thể chế chính trị của các nước XHCN ra đời từ
lý tưởng lãng mạn này là “nhà nước chuyên chính vô sản + kinh
tế kế hoạch hóa tập trung + công hữu tư liệu sản xuất”. Mô
hình này không thực hiện được lý tưởng lãng mạn của giải phóng và tự
do, nên thất bại. Cuối cùng nó tha hóa thành nhà nước độc tài toàn
trị, với mọi tệ hại khủng khiếp vượt ra ngoài trí tưởng tượng. Các
nước xã hội chủ nghĩa LXĐÂ tự sụp đổ từ bên trong như một lẽ tất
yếu.
Tuy nhiên, khát vọng giải phóng và tự do của con
người không bao giờ ngừng nghỉ, thua keo này, bày keo khác, vì đó là
lẽ sống. Khát vọng này tìm đường đi tiếp trong muôn ngả khác của
cuộc sống, trong từng
bước tiến bộ mới hàng ngày của văn minh nhân loại. Đã có
chứng minh rất thuyết phục: Chông gai,
xương máu, rác rưởi làm đau khổ cuộc đời này còn nhiều khắp nơi.
Nhưng, nhờ vào sự phát triển mọi mặt của cuộc sống, các giá trị cao
đẹp của con người và cuộc sống xã hội được phát huy tới đâu, con
người được giải phóng và hoàn thiện tới đó trên con đường bất tận
của chân, thiên, mỹ. Chỉ có các triết lý đúng đắn của các giá trị và
các giá trị, chứ không có thứ chủ nghĩa nào trên đời này có thể giúp
con người thành công trên con đường nó phải đi.
Tôi nghiệm thấy như vậy, có niềm tin như vậy, sống
theo như vậy, và như thế đối với tôi là đủ.
Tôi không quan tâm chuyện có hay không có xu thế tất
yếu loài người sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, vì
– theo tôi – nó xa vời và quá huyễn hoặc, nếu có thì cũng là là câu
chuyện của hàng trăm năm tới, hàng nghìn năm tới. Ai giữ niềm tin
vào xu thế tất yếu này, tôi tôn trọng, coi đó là niềm tin tôn giáo
của họ, tôi không tham gia tranh luận đúng / sai làm gì. Nhưng nếu
muốn đem thứ niềm tin tôn giáo này áp lên đất nước, thì đây lại là
vấn đề của cả nước, phải do cả nước quyết định.
Cái mà người ta thường nói về con đường của chủ nghĩa
xã hội, về định hướng xã hội chủ nghĩa, về các học thuyết và chủ
nghĩa liên quan đến chủ đề này, về chủ nghĩa Mác – Lênin… với tính
cách là các lý thuyết dẫn dắt mô hình phát triển quốc gia… đã từng
gây tranh cãi quyết liệt ở nơi này nơi nọ trên thế giới. Chính F.
Engels khi còn sống đã không dưới một lần phản biện lại Tuyên ngôn
Cộng sản và phong trào cộng sản. Cuộc tranh cãi này đã đi tới hồi
kết ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa LXĐÂ cũ khi chuyển đổi chế
độ, bằng cách từ bỏ lãng mạn đã theo đuổi, quay lại lựa chon con
đường đi chung của nhân loại là “kinh tế thị trường, nhà nước
pháp quyền, xã hội dân sự”, với các mức thực hiện được rất
khác nhau trong từng quốc gia này.
Tôi cho rằng câu chuyện “con đường
của chủ nghĩa xã hội” như thế là ngã ngũ, thiên hạ đã tổng kết
khá thuyết phục.[4]
Câu chuyện “con đường” này chỉ còn đang tiếp tục kéo dài ở Trung
Quốc, Việt Nam… Song thực chất đây lại là chuyện chính trị và chuyện
ý thức hệ, mà ngay cả cái gọi là chuyện ý thức hệ thì cuối cùng cốt
lõi vẫn là chuyện chính trị.
Nhìn lại, ta có được bức tranh tổng thể của con đường
xã hội chủ nghĩa trên thế giới: (a) các nước LXĐÂ cũ đã xóa bỏ “cả
gói” mô hình XHCN (bao gồm cả các đảng dựng lên chế độ XHCN ở những
quốc gia này) để quay lại lựa chọn con đường chung của nhân loại,
(b) Trung Quốc chỉ xóa bỏ con đường XHCN nhưng giữ nguyên đảng, vì
yêu cầu thống trị toàn Trung Quốc và yêu cầu trở thành siêu cường
Đại Hán, (c) Việt Nam hiện giữ nguyên đảng, điều chỉnh lại con đường
thành “định hướng XHCN” để bảo toàn chế độ toàn trị với kết quả như
thực trạng đất nước hôm nay. Cho dù bức tranh tổng thể này có những
mảng màu khác nhau như vậy, song vẫn toát lên sự thực cốt lõi là mô
hình của CNXH như đã dựng nên đã hoàn toàn phá sản ở tất cả
các nước xã hội chủ nghĩa. Sự thật là như thế, và nên nhận định dứt
khoát như thế trong tư duy cải cách, để gạt bỏ mọi điều còn lấn cấn,
để nghĩ và hành động theo hướng dẫn của trí tuệ và các giá trị,
chứ không phải là của ý thức hệ. Nói tất cả vì con người, nói tổ
quốc là trên hết, nhất thiết nên để cho trí tuệ và các giá trị quyết
định hành động của mình.
Xin nhắc lại, cái gọi là chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc thực chất chỉ là chủ nghĩa tư bản đặc sắc đại Hán mang
khát vọng siêu cường. Nếu nhìn về phương diện đối ngoại, còn phải
nói chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc mang nhiều tính chất của thứ
chủ nghĩa thực dân mới đặc sắc Trung Quốc mà dư luận thế giới đã
phải thừa nhận là nó nguy hiểm hơn và vượt xa chủ nghĩa thực dân mới
thế kỷ 20 trên mọi phương diện. Thứ chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc này đang theo đuổi khát vọng bành trướng chẳng những uy hiếp
các nước láng giềng mà còn trở thành vấn đề của cả thế giới. Hiểu
Trung Quốc là một chuyện, chính sách đối ngoại của nước ta đối với
Trung Quốc là chuyện khác. Có hiểu thật đúng Trung Quốc, mới có khả
năng tìm ra con đường cho nước ta thực được hiện chính sách đối
ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác, láng giềng tốt với Trung Quốc mà
nước ta luôn mong muốn.
Ở nước ta, những mục tiêu được đề ra cho xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong thập kỷ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập thống
nhất đã thất bại, dẫn tới phải tiến hành đổi mới kinh tế từ đại hội
VI năm 1986, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội được điều chỉnh lại
thành
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong gần ba thập kỷ tiếp theo, con
đường định hướng xã hội chủ nghĩa này mang lại cho đất nước chỗ đứng
như hôm nay và đã được trình bày khái quát trong loạt bài viết này.
Hiện nay đất nước ta đứng trước đòi hỏi bức xúc phải thay đổi toàn
diện theo hướng cải cách duy tân, để phát triển trên con đường dân
tộc và dân chủ. Nói một cách khác, nước ta cũng phải tìm cách trở
lại đi chung con đường của cả nhân loại, đó là phát triển đất nước
thông qua thể chế kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội
dân sự. Từ sau đại hội IX đã có sự thừa nhận nửa vời đối với đòi
hỏi khách quan này, đó là thêm cái vỹ ngữ “định hướng XHCN” vào kinh
tế thị trường, vào nhà nước pháp quyền, đồng thời thôi không nói đến
chuyên chính vô sản nữa. Song cái “đuôi” (“vỹ ngữ”) thêm vào này
trên thực tế lại là cái “đầu”, bởi vì nó có sức mạnh lũng đoạn kinh
tế thị trường và nhà nước pháp quyền, qua đó nó biến dạng nghiêm
trọng toàn bộ hệ thống pháp luật, đạo đức và kỷ cương của đất nước.
Một số học giả của đảng đã đề nghị đưa khái niệm “xã hội dân sự
định hướng xã hội chủ nghĩa” vào hệ thống chính trị, nhưng đến
nay chưa được chấp nhận. Thêm vào những cái “đuôi” để đối phó
như vậy, chung cuộc chỉ dựng lên được cho đất nước: Chế độ
chính trị toàn trị + nền kinh tế thị trường kém phát triển như hôm
nay + môi trường tự nhiên bị xâm phạm nghiêm trọng (cũng có
ý nghiên cứu cho rằng Việt Nam đang ở thời kỳ của chủ nghĩa tư bản
hoang dã).
Nhìn về lâu dài và khi điều kiện cho phép, có nhiều
vấn đề của lịch sử nhất thiết phải nghiên cứu cho rành rẽ để tiếp
tục tạo ra chỗ đứng vững chắc và tầm nhìn đúng đắn trong việc cân
nhắc đại sự của đất nước. Cả một quá khứ đã đặt Việt Nam lên đường
ray của chủ nghĩa xã hội suốt bốn thập kỷ như thế đang để lại để
trang trải rất nhiều vấn đề và hệ quả cho hôm nay cũng như cho tương
lai. Đó là sự thật khách quan.
Song cuộc sống của đất nước không thể chờ đợi, trong
khi đó năng lực làm việc của con người chỉ có hạn. Do đó nên tập
trung sức lực cho tiến hành cải cách với tinh thần khép lại quá khứ,
nhưng không trốn tránh giải quyết những vấn đề sống còn của đất nước
do quá khứ để lại. Cần bình tĩnh và tỉnh táo đặt ra cách tiếp cận
này, đơn giản vì không thể nôn nóng cùng một lúc giải quyết mọi
việc, mà toàn là những việc nhạy cảm, bức xúc, nóng bỏng, nhiều việc
chưa có lời giải...
Tối ưu nhất là đảng chủ động huy động trí tuệ cả nước
dựng nên một chiến lược cải cách duy tân đất nước, kế hoạch tổng thể
thực hiện chiến lược này, lộ trình tiến hành. Đồng thời, đảng cần
vận động toàn dân – trước hết là đảng viên – trau dồi hiểu biết và
phấn đấu hết mình cho sự nghiệp cải cách duy tân đất nước với tinh
thần Diên Hồng.
Cải cách đòi hỏi một cuộc vận động, giáo dục, học tập
sâu rộng và lâu bền trong toàn quốc. Cứ nhìn công sức và nguồn lực
đã bỏ ra cho nhiệm vụ “giữ vững định hướng” – như qua các đợt học
tập chính trị, qua đợt vận động quá nhiều hình thức giả dối cho việc
sửa đổi hiến pháp, vân vân.., có thể nói dứt khoát: Đất nước dù còn
nghèo, song hoàn toàn không thiếu nguồn lực cho thực hiện cuộc vận
động vỹ đại này để phục vụ sự nghiệp cải cách duy tân đất nước, bắt
đầu từ học tập. Chỉ có chuyện nguồn lực này cố ý được sử dụng cho
những mục đích khác! Sử dụng nguồn lực như thế là sự lãng phí đầy
tội lỗi, là sự tham nhũng cơ hội của đất nước…
Đất nước ta, dân tộc ta đã phải chịu đựng quá nhiều
tàn phá và đau thương rồi. Bây giờ, ngay trong cải cách và sau đó,
không cần thiết phải mất thêm một giọt máu, không cần thêm một sự
tàn phá, không cần phải có thêm một trận chiến tương tàn! Người Việt
với người Việt là con một nhà, là anh em, hãy tất cả cho cải cách!
Hãy tha thứ cho nhau và vì nhau để cải cách thành công bằng được!
Hãy giúp nhau hiểu biết để ai cũng có thể tham gia vào sự nghiệp đổi
đời chính bản thân mình và đổi đời đất nước mình! Hãy bảo vệ nhau và
hợp tác với nhau đến cùng cho cải cách duy tân đất nước! Ê chề trước
thiên hạ vì nghèo hèn, danh dự dân tộc bị xúc phạm, tất cả như thế
là quá đủ rồi! Hãy quyết bảo nhau trong cải cách: Thiên hạ làm được
thì người Việt ta cũng làm được!
Lại hỏi:
Trước sau đảng vẫn khước từ cải cách duy tân đất nước thì sao?
Đáp:
Câu hỏi này đã trả lời rồi.
Thay lời kết: Thông điệp của nhân dân
Một nhân vật lịch sử, một anh hùng dân tộc sống mãi
trong lòng dân. Sự kiện dân làm đám tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp
nói lên rất rõ điều này. Cả nước đã nói lên điều này, không có gì
phải bàn thêm nữa.
Song việc hàng triệu người dân cả nước trực tiếp chia tay với Đại
tướng một cách thành kính, tha thiết, không chỉ biểu thị một tấm
lòng với người đã khuất, mà còn là lời gửi gắm, lời nhắn nhủ.., và
nhất là còn là một lời nhắc nhở không thể bỏ qua đối với người còn
sống.
Hàng triệu người trong cả nước, không ai bảo ai, cũng chẳng ai đứng
ra tổ chức, tất cả cùng nhau trang nghiêm tiễn đưa Đại tướng, trong
một trật tự tự giác chưa từng thấy… Sự việc này trịnh trọng nói lên
ý chí của nhân dân, biểu thị mãnh liệt quyết tâm và khả năng của
nhân dân trong việc thực hiện ý chí của mình. Không gì có thể cản
nổi! Xưa nay hiếm thấy một đám tang nào như thế dành cho một đảng
viên từ khi đảng còn trứng nước, một vị tướng được nhân dân coi là
của mình, một con người nhân dân ngưỡng mộ. Cả nước được chứng kiến:
Ý chí trở thành triệu người một khối, lừng lững, hòa bình… Hiếm thấy
một đám tang nào nói lên nhiều điều như thế đối với cả nước, nhất là
trong bối cảnh của đất nước hôm nay.
Tôi thầm hiểu, thế nào là nhân dân muôn người như một trong một
nguyện vọng, trong một ý chí, trong một hành động. Nói đến cải cách
duy tân đất nước hôm nay, nếu khởi xướng lên được với tất cả tinh
thần và nội dung thiêng liêng của sự nghiệp đổi đời này, đất nước ta
chắc chắn sẽ có nhân dân muôn người như một, trong một ý chí, trong
một hành động.
Tôi tin rằng sẽ có một ngày như vậy./.
Võng Thị - Hà Nội, ngày 01-03-2014
[1] Tìm xem các bài
liên quan tôi đã viết trong khoảng 10 năm trở lại đây,
trong:
http://nguyentrung-vt.blogspot.com
[2] Nhiệm vụ xây dựng
nông thôn mới như đang được đề ra không thể giải quyết vấn
đề này.
[3]
Nguyễn Xuân Xanh: Diễn văn Gettysburg - huyền thoại của
Abraham Lincoln
http://sgtt.vn/Quoc-te/187634/Bai-dien-van-Gettysburg-huyen-thoai-cua-Abraham-Lincoln.html
[4] Nguyễn Trung: Diễn
văn của Tổng thống Joachim Gauck kỷ niệm 150 năm đảng Dân
Chủ Xã Hội Đức,
http://viet-studies.info/NguyenTrung/MguyenTrung_DienVanTongThongDuc.htm
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 6-3-14
Chữ tín
Bài 4:
Yêu nước và nói thật
Nguyễn Trung
I – Hãy đối mặt với sự thật
Đọc lại nhiều ý kiến tâm huyết từ rất nhiều nơi trong nước trong các
năm 2010, 2011 góp ý cho đảng nhân dịp đại hội XI, tôi thấy hầu như
chẳng có ý kiến nào được tiếp thu. Mọi vấn đề được đặt ra hồi ấy,
hôm nay vẫn còn nguyên vẹn. Khác chăng là tình hình mọi mặt của đất
nước và của đảng hôm nay có nhiều mặt xấu hơn so với cách đây ba,
bốn năm, xấu hơn nhiều so với các năm khóa X, khóa IX... Tình hình
đòi hỏi phải chặn đứng xu thế này.
Thực tế đại hội XII phải đối mặt là:
1.
Kinh tế khủng hoảng cơ cấu nghiêm
trọng, đặt ra nhiều vấn đề nan giải, nguồn lực mọi mặt (kể cả chất
xám, năng lực quản trị đất nước, nguồn nhân lực) để cải tạo cơ cấu
cũng như để chuyển nền kinh tế đi vào một thời kỳ phát triển mới đều
rất hạn chế, trong khi đó cạnh tranh kinh tế ngày càng quyết liệt,
bối cảnh chính trị quốc tế đặt ra nhiều thách thức mới.
2.
Thể chế chính trị nói chung, thể
chế nhà nước nói riêng ngày càng lạc hậu so với sự phát triển của
đất nước và mọi đòi hỏi mới đặt ra; tha hóa, quan liêu và tham nhũng
không kiểm soát được; hiến pháp vừa mới sửa đổi trong thể chế hiện
hành khó có khả năng cải thiện tình hình. Trong khi đó đời sống văn
hóa xã hội tiếp tục xuống cấp và ngày càng nhiều bất cập; đặc biệt
sự tụt hậu xa về giáo dục đang băng hoại nhiều giá trị, làm suy yếu
phẩm chất con người và nguồn nhân lực quốc gia, để lại nhiều hậu quả
lâu dài cho tương lai.
3.
Đảng hôm nay tiếp tục tha hóa về
phẩm chất, trí tuệ và năng lực; tổ chức của đảng ngày càng bất cập
trước sự phát triển, trước tình hình và nhiệm vụ mới của đất nước
nói chung và của đảng nói riêng; năng lực lãnh đạo của đảng ngày
càng mờ nhạt vì bế tắc về quan điểm đường lối; hệ quả là đảng đang
rơi tiếp trong xu thế từ một đảng lãnh đạo xuống thành một lực lượng
chính trị độc quyền.
Toàn bộ tình hình trên đặt ra đòi hỏi sống còn: Cải
cách thể chế chính trị và triệt để đổi mới đảng là lối thoát duy
nhất để đưa đất nước đi vào một thời kỳ phát triển năng động mới,
đáp ứng đòi hỏi cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, đồng
thời để có thực lực đối mặt được với mọi thách thức mới. Đòi hỏi này
đã chín muồi từ trước khi họp đại hội X, đại hội XI, được rất nhiều
ý kiến tâm huyết của cả nước thôi thúc, song đã bị làm ngơ.
Đã đến lúc đảng phải có ý chí nhìn thẳng vào sự thật
với tinh thần trách nhiệm cao nhất, nghiên cứu mổ xẻ thực trạng mọi
mặt của đất nước, của đảng, và tìm giải pháp. Tình hình đất nước và
bối cảnh quốc tế cho thấy đòi hỏi cải cách toàn diện đất nước đã tới
thời điểm chín muồi trên hai phương diện cực kỳ quan trọng:
-
Tha hóa và nguy cơ sụp đổ đã đến
mức không thể trì hoãn cải cách canh tân đất nước.
-
Thực lực và tình hình mọi mặt của
đất nước và bối cảnh quốc tế cho thấy hiện nay còn đủ sức và có cơ
hội tiến hành cải cách thành công; lúc này tiến hành cải cách là tối
ưu nhất đối với đất nước. Càng để muộn, triển vọng này sẽ mất đi
nhanh chóng, đồng thời nguy cơ hiểm họa tăng lên.
Với cách đặt vấn đề như trên, đề nghị ngay từ bây giờ
nên bắt tay vào mọi công việc của đại hội XII với nhận thức và ý chí
hoàn toàn khác, không bị ràng buộc vào ý thức hệ hay bất kỳ tiền lệ
hoặc công thức nào, chỉ có đòi hỏi quyết liệt hiện nay của lợi ích
quốc gia quyết định tất cả.
Không nên tiến hành chuẩn bị đại hội XII như cách
đang làm của đường mòn lâu nay.
Rất nên huy động chất xám đánh giá khách quan tình
hình mọi mặt của đất nước và kiến nghị giải pháp, trên cơ sở này xây
dựng chiến lược cải cách canh tân đất nước (gọi tắt là cải cách), vì
những lý do sau đây:
-
Giai đoạn của công cuộc đổi mới
đã làm làm xong nhiệm vụ của nó. Ở chỗ đứng hiện nay và trước những
vấn đề mới đặt ra, giai đoạn phát triển mới của đất nước nên bắt đầu
bằng cải cách, mở ra triển vọng mới của đất nước độc lập thống nhất.
Cải cách như thế nên được thiết kế như một giai đoạn phát triển mới,
để đưa Việt Nam đi tiếp trên con đường trở thành nước phát triển.
-
Mục tiêu năm 2020 cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại – theo suy nghĩ của
tôi – là không thể hoàn thành được, dù nhìn theo bất kỳ phương diện
nào. Hơn thế nữa sau 3 thập kỷ phát triển ban đầu, sự nghiệp công
nghiệp hóa đất nước hiện nay đang mất phương hướng, hay là đang đi
vào hướng sai ngày càng bế tắc – đấy là hướng trở thành nước cho
thuê, nước đi làm thuê.
-
Đất nước đang ngày càng tích tụ
nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nan giải. Đồng thời
sự tha hóa hiện nay của chế độ chính trị khách quan cũng đặt ra đòi
hỏi phải thực hiện một quá trình cải cách, với mục đích tìm đường ra
khỏi hướng đi bế tắc hiện tại và tạo ra sự phát triển mới của đất
nước.
Với cách đặt vấn đề như vậy, tôi cho rằng 5 – 10 năm
tới sẽ là thời kỳ vô cùng quan trọng: phải ra khỏi những khó khăn
rất lớn hiện nay, đồng thời phải thực hiện được những bước đầu tiên
của sự nghiệp cải cách, đặt nền móng cho một quá trình phát triển
mới bền vững.
Có thể nói kể từ khi đất nước độc lập thống nhất, sự nghiệp cải cách
lần này mở đầu sự nghiệp đổi đời đất nước, để kiên định bước đi trên
con đường trở thành một nước phát triển.
Đặt ra vấn đề phải cải cách, còn vì lẽ có quá nhiều
di sản tai hại và nặng nề của quá khứ xa xưa nay còn bám rễ hoặc
thậm chí đang có phát triển mới trong lòng chế độ hôm nay.
Đặt ra vấn đề phải cải cách, còn vì lẽ những hiện
tượng tha hóa trong 4 thập kỷ đầu tiên của đất nước độc lập thống
nhất cũng tạo ra một thứ di sản văn hóa không thể được dung dưỡng
trong một nước phát triển.
Nếu nhận định trên là đúng, nhiệm vụ chính trị của
đại hội XII sẽ phải là chặn đứng xu thế phát triển nguy hiểm hiện
nay, thông qua cải cách mở ra một thời kỳ phát triên mới của đất
nước và của đảng.
Sự thật là trong đảng viên cũng có người nghĩ:
Đảng ngày nay hư hỏng và tham nhũng đến thế này rồi thì không thể
cải tạo được nữa! Cứ để cho nó sụp đổ quách đi cho xong, lập lại
cuộc đời! Níu kéo mãi sự ê chề này khổ dân khổ nước lắm, nhục lắm!..
Thậm chí suy nghĩ này còn viện dẫn Yeltsin giấy trắng mực đen làm cơ
sở.
Suy nghĩ nói trên có thể thông cảm được, song là
cách nhìn tiêu cực và nguy hiểm, đồng nghĩa như chịu bó tay trước
thảm họa đang đến. Mặt khác, tự che khuất nguy cơ thảm họa bằng
những suy nghĩ thiển cận, hoặc bằng cách giấu dân, lừa dân, tình
hình đất nước không vì thế mà bớt xấu đi.
Lãnh đạo đảng và toàn đảng nên sớm tạo ra nhận định
thống nhất của cả nước và trong đảng về toàn bộ thực tế đất nước nêu
trên, đồng lòng tìm đường tiến hành cải cách thay đổi tình hình đất
nước.
II – Tinh thần Cách mạng Tháng Tám – Tuyên ngôn Độc
lập – Hiến pháp 1946
Đó là tinh thần toàn dân một lòng đứng lên giành lại
đất nước, dựng lên chế độ do mình làm chủ. Đó là con đường dân
tộc – dân chủ. Trong sự nghiệp này, lúc ấy ĐCSVN là người tổ
chức, người dẫn đường, và tự mình đã xả thân cùng toàn thể dân tộc
chiến đấu cho sự nghiệp này.
Nói công bằng, dấy lên được tinh thần này và đưa Cách
mạng Tháng Tám đến thắng lợi, công đầu là của ĐCSVN thời kỳ tinh hoa
của nó. Về sau, tinh thần này đã bị xâm phạm. Đây là một chuyện
khác, rồi đây cần được mổ xẻ để rút ra những bài học cho sự nghiệp
cải cách canh tân đất nước.
Tinh thần dân tộc – dân chủ ấy hiển
nhiên là sự kế thừa các triết lý và các giá trị của văn minh nhân
loại, không thể tìm thấy trong tinh thần này bất kỳ một thứ “chủ
nghĩa” nào. Tinh thần này đã làm nên sự nghiệp. Đất nước ta hiện nay
chỉ có vấn đề vứt bỏ tinh thần này, không trung thành với tinh thần
này, đang cố chôn vùi tinh thần này bằng “chủ nghĩa”, nô dịch đất
nước bằng chủ nghĩa. Nước ta hiện nay không có vấn đề tinh thần này
đã lỗi thời, mà chỉ có vấn đề tinh thần này cần được đánh thức lại
và phải được hun đúc hơn bao giờ hết.
Tinh thần này được ghi lại trong lời nói đầu của Hiến
pháp sửa đổi 2013. Song đấy chỉ là cái bia dựng lên cho nấm mộ của
những việc đã qua, nội dung của Hiến pháp 2013 không có gì liên quan
đến và thậm chí đi ngược tinh thần này.
Cả tình cảm và lý trí, riêng tôi rất mong sự nghiệp
cải cách nên được khởi xướng với tinh thần này, được nuôi dưỡng bằng
tinh thần bất hủ này. Cũng phải nói ra một tình cảm rất riêng tư
nữa, trong đại gia đình mình, tôi có cha chú mình cống hiến cho tinh
thần này từ trước năm 1945 với tất cả trí tuệ và nhiệt huyết của
thời ấy, nên tôi có sự gắn bó thiêng liêng, tôi không thay đổi được
mình. Bản thân tôi cũng được nuôi dưỡng và bước vào đời với tinh
thần này. Bây giờ kinh nghiệm đường đời giữ cho tôi kiên trì với
tinh thần này.
Tôi không giấu diếm, kiên trì với tinh thần này cũng
là thái độ tôi lựa chọn đối với mọi thứ “chủ nghĩa” và mọi “thần
tượng”. Trong tôi có khát khao của tự do và có người tôi yêu, nên
chẳng lúc nào thích hợp với “chủ nghĩa” và “thần tượng”. Đấy là
trong tư duy cho riêng mình thì như thế. Song trong việc của đất
nước, tôi khuyến nghị tạm thời gạt mọi tranh luận về “chủ nghĩa”
sang một bên cho lúc nào đó sẽ hay, đừng để nó đánh lạc hướng mình.
Việc này trước sau sẽ phải làm, song trước mắt khoan khoan đã, và
nếu làm cũng phải từng bước.
Việc cả nước bây giờ, cả nước nên tập trung mọi trí
tuệ, nỗ lực và giải pháp của những việc phải làm cho cải cách, theo
sự mách bảo của lẽ phải, của các kinh nghiệm thất bại và thành công
trong nước mình cũng như của thiên hạ, với tinh thần ta làm chủ bản
thân mình chứ không chịu làm nô lệ cho bất kỳ ý thức hệ nào.
Xin dành cho chất xám cả nước vạch ra chiến lược cải
cách và các công việc đại hội XII nên làm. Đây là việc của cả nước.
Về phần riêng, chỉ xin góp ý: Mọi việc nên bắt đầu từ việc dễ làm
nhất, hứa hẹn thành công. Nên đi từ dễ đến khó, từ việc trước đến
việc sau, với một sự kiên định tuyệt đối nói đi đôi với làm.
Việc mở đầu của mọi việc, đặt tiền đề cho mọi việc có lẽ là thực
hiện nói thật, công khai minh bạch và
dân chủ.
Nên kiên định tìm đường thực
hiện cải cách của giác ngộ và của ý thức trách nhiệm, chứ không phải
cải cách của cảm xúc và thói quen bầy đàn. Chỉ có thể đạt được điều
này thông qua học tập. Hơn nữa, có sự thật là trình độ quan trí,
dân trí, ý thức về dân chủ, sự giác ngộ về trách nhiệm công dân, ý
thức về tôn trong pháp luật… trong cả nước nói chung còn thấp, đất
nước còn nhiều phong tục tập quán hủ lậu. Hơn thế nữa, việc thực
hiện dân chủ, đoàn kết, hòa giải dân tộc với tinh thần khép lại quá
khứ, không ngoái lại quá khứ, không hồi tố, sẽ có nhiều điểm khác
hoặc thậm chí trái ngược với những thứ chế độ chính trị hiện
tại cho là đúng hay coi là chuẩn mực, đòi hỏi phải đặt lại, học tập
lại, có nhiều điểm thậm chí phải học lại từ đầu, phải qua các cuộc
vận động mới thực hiện được… V… v… Toàn bộ thực tế này trên phương
diện nhất định còn là hệ quả những yếu kém 40 năm của chế độ chính
trị. Tất cả những điều này cho thấy cải cách không thể ăn sống nuốt
tươi được, quá trình học tập để cải cách có một ý nghĩa quyết định.
Tạo mọi điều kiện cho dân
học hỏi được đến đâu, dứt khoát dân sẽ đòi và tự thực hiện được cải
cách đến đấy với tất cả hiểu biết và ý thức trách nhiệm của mình.
Vậy muốn đẩy nhanh cải cách, thì trước hết người dân cũng phải tự
đẩy nhanh quá trình học tập, giác ngộ của chính mình. Ở vị trí người
cầm quyền, phải làm hết mình thúc đẩy quá trình trưởng thành nhận
thức của người dân, coi đây là nhiệm vụ thề phải thực hiện trước tổ
quốc, trước toàn dân.
Cả nước một lòng phấn đấu
làm sao tạo nên được
sự nghiệp cải cách của giác ngộ và
trách nhiệm, dứt khoát loại bỏ mọi phản
lực ngược lại.
Đặt vấn đề tiến hành cải cá ch như thế, sẽ có thể
tiến hành cải cách trong hòa bình, ổn định, sẽ có đủ can đảm để tiến
hành cải cách.
Thực ra, không đến nỗi phải bắt tay vào việc với con
số không. Nhặt chỗ này chỗ khác từng điểm ngay trong các nghị quyết
chính thức của ĐCSVN khóa XI, sẽ có nhiều việc đúng, đáng làm. Cái
khúc mắc là ở chỗ: nói nhưng không làm được dù muốn, nói chỉ để cho
đẹp, nói rồi để đấy không làm, hoặc làm không đến nơi đến chốn, nói
thế nhưng làm khác… Thông điệp đầu năm của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
nêu lên được nhiều việc đích đáng phải làm, cả nước đang chờ đợi xem
sẽ được làm như thế nào. Có hiến pháp mới rồi – dù là nó không mới
lắm, có nhiều lời nói hay, nói đúng về nó rồi, nhưng trong cuộc sống
hiện nay vẫn là tiếp diễn và tái diễn nhiều chuyện trấn áp cũ. Cứ để
cho nói khác với làm như thế, dứt khoát không thể cải cách được và
sớm muộn sẽ mất hết, phá hủy hết; chính đây là khó khăn đầu tiên
phải loại bỏ để tiến hành cải cách.
Cuộc đời có muôn vàn lối đi đến lẽ phải và hướng về
chân lý, đâu có nhất thiết cứ phải trải qua những “cuộc cách mạng”
hoa này hay hoa khác? Cuộc đời cũng chứng minh sự vận động như một
tính quy luật: chỉ có ý chí nhưng trí tuệ chưa đủ tầm, chưa tạo ra
được những yếu tố phải có khác, cũng không thể làm nên sự nghiệp cải
cách. Bất kỳ sự hẫng hụt nào cũng phải trả giá. Hơn nữa, nước ta có
một lịch sử khác, mọi điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội khác, nay bị tụt hậu và lạc hướng, thì nhất thiết phải
tìm ra cách riêng của ta để bước vào và đi chung trên con đường đi
chung của nhân loại. Vả lại, nước ta đã làm cách mạng đủ rồi, bây
giờ nên dồn hết trí tuệ, ý chí và mọi sức lực cho phát triển. Chia
sẻ ý kiến này, tôi mong mỏi được trao đổi về sự lựa chọn của nước ta
hôm nay, để cả nước cân nhắc, quyết định làm những việc phải làm.
Nói lại chuyện cũ: Cách đây nhiều năm,
UNESCO đề nghị nhà nước ta tìm lại văn bản gốc có bút tích người
soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945. Lý do UNESCO
đưa ra: Đấy là sự lên tiếng của một dân tộc bị áp bức, dám bằng
trí tuệ và tinh thần giải phóng của nhân loại đứng lên tự khẳng định
mình, tự giải phóng chính mình. Một văn bản như thế phải được lưu
giữ trong kho tàng văn hóa của nhân loại. Tiếc thay, hồi ấy thời
trứng nước, và chiến tranh ập đến sớm quá, không sao tìm lại được
văn bản gốc có bút tích viết tay của người soạn thảo.
Ngày đêm, nhiều lần tôi tự hỏi mình, để tìm ra câu
trả lời cho chính mình: Thực hiện cải cách như thế, ĐCSVN hôm nay sẽ
còn hay mất? Lật đi lật lại, cân nhắc phải đến hàng trăm lần, cuối
cùng vẫn chỉ là một câu trả lời: ĐCSVN hôm nay sẽ mất cái xác,
mất luôn cả các thứ chủ nghĩa đeo bòng nó, để sống trở lại là cái
đảng của tinh thần Cách mạng Tháng Tám, Tuyên Ngôn Độc Lập, Hiến
pháp 1946. Võ Văn Kiệt nói đúng: Đó chính là đảng của dân tộc!
Đây cũng là câu trả lời tôi chọn làm lẽ sống cho mình.
III – Nói đi đôi với làm
-
“…những
bước phát triển vượt bậc của đất nước ta đều gắn liền với
những đổi mới có tính quyết định về thể chế, bản chất là mở rộng
dân chủ”.
-
“Nguồn động lực đó phải đến từ Đổi mới thể chế và
phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân”. … ,
-
“Nhà nước phải làm tốt chức năng kiến tạo phát
triển.”
-
“Nhà nước phải tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng
theo cơ chế thị trường; kiểm soát chặt chẽ và xóa bỏ độc quyền
doanh nghiệp cũng như những cơ chế chính sách dẫn đến bất bình đẳng
trong cạnh tranh. Pháp luật và cơ chế chính sách phải tạo thuận lợi
nhất cho mọi người dân và doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh
doanh. Tài nguyên, nguồn lực của quốc gia phải được phân bổ tới
những chủ thể có năng lực sử dụng mang lại hiệu quả cao nhất cho đất
nước.”
-
“Nhà nước phải có chính sách đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao và huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển. Phải chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để
xây dựng và bảo vệ đất nước.”
-
“Nhà nước phải xây dựng cho được bộ máy tinh gọn,
hiệu lực hiệu quả với đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng
lực và tính chuyên nghiệp cao. Mọi cơ quan, công chức đều phải được
giao nhiệm vụ rõ ràng”.
-
Vân vân*…
(Trích thông điệp của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng).
Những điều nói trên mang tính quy luật khách quan,
bất kể sự tiến bộ kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội ở quốc gia
nào xưa và nay đều phải tổng kết, tuân thủ.
Thiết nghĩ người đứng đầu và các cơ quan đầu não của
đảng rất nên mời chất xám của đất nước giải quyết bài toán: Làm
thế nào thực hiện những vấn đề có ý nghĩa sống còn và mang tính quy
luật khách quan nêu trên cho cải cách?
Thật ra chẳng cần phải chờ đến lời mời này, không ít
người có trí tuệ và tâm huyết với đất nước ngày đêm vẫn đau đáu suy
nghĩ mình có thể làm gì cho đất nước, bất chấp cái giá phải trả cho
tự do tư duy. Vấn đề của đất nước là những nỗ lực này bị bóp nghẹt,
chứ không phải là chuyện nào khác.
Như đã nói nhiều lần và xin nhắc lại: Đất nước này
không thiếu trí tuệ và những điều kiện khác cho sự nghiệp cải cách;
kinh nghiệm thế giới và những điều kiện của thời đại tin học ngày
nay trong thế giới toàn cầu hóa mang lại rất nhiều thuận lợi cho cải
cách thành công. Chỉ cần đừng hoang tưởng dựa trên các chủ nghĩa,
chỉ cần trả lại quyền làm chủ của dân cho dân, đất nước này sẽ làm
nên tất cả.
Kinh nghiệm vượt qua những khúc thăng trầm của đất
nước và kinh nghiệm làm nên công cuộc đổi mới của nước ta rất giầu
trí tuệ. Đồng thời ngay trước mắt, nước ta có nhiều điều rất đáng
học từ Myanmar hôm nay, từ Hàn Quốc, Israel, Thụy Sỹ… Thiết nghĩ
hoàn toàn có thể thiết kế nên một chiến lược cải cách, với một lộ
trình bắt đầu từ nhiệm vụ chính trị của khóa đại hội XII: Đó là mở
ra những bước đi đầu tiên cho toàn bộ sự nghiệp cải cách canh tân
đất nước trong một hai thập kỷ tới – với phương châm:
Lấy giáo dục, công khai minh bạch và dân chủ thúc đẩy
cải cách, làm cho tiến bộ kinh tế đồng hành với tiến bộ cải cách,
kinh tế và cải cách đạt tới đâu mở rộng cải cách tới đấy, lấy cải
cách xây dựng nên nhà nước dân tộc và dân chủ kiến tạo phát triển,
với cái đích đưa Việt Nam trở thành nước phát triển.
Nói một cách khái quát, lấy cải cách để đưa đất nước
tiến bước thành công trên con đường của kinh tế thị trường, nhà nước
pháp quyền, xã hội dân sự, thực hiện thắng lợi sự nghiệp dân giầu
nước mạnh – xã hội dân chủ công bằng văn minh.
Xin nhấn mạnh một lần nữa, theo suy nghĩ chủ quan của
tôi, muốn cứu nước cứu đảng, khóa đại hội XII phải đứng ra nhận lấy
sứ mệnh lịch sử là huy động trí tuệ và nghị lực cả nước, đặt cho
được những viên gạch đầu tiên của nền móng phải xây nên cho sự
nghiệp cải cách canh tân đất nước. Đấy chính là chương trình nghị sự
5 năm của nhiệm kỳ khóa đại hội XII trong khuôn khổ chương trình
nghị sự trung hạn của đất nước trên con đường trở thành nước phát
triển. Phải quyết liệt, nhưng kiên trì như dời núi lấp biển, vì
chẳng có Kim tự tháp nào được xây dựng nên trong một một đêm cả.
Hai
năm tới đến đại hội XII là đủ thời gian làm mọi việc để tổ chức đại
hội XII với tinh thần và nội dung như thế. Năm năm của nhiệm kỳ khóa
đại hội XII là đủ thời gian đổi mới đảng cho phù hợp để tham gia vào
tiến trình cải cách của đất nước.
Tôi không quan tâm trong quá trình cải cách này ĐCSVN
hôm nay mất hay còn, mà chỉ quan tâm đến cái đảng mình đã từng giơ
tay tuyên thệ gia nhập thời trai tráng rồi đây sẽ nắm bắt được hay
bỏ lỡ mất câu chuyện: một ngày nào đó trong nước Cộng hòa Dân Chủ
Việt Nam có một đảng Lao động Việt Nam... Tư duy như thế, vì tôi
không muốn chơi game bằng xương máu của đất nước. Nghĩ như thế, có
người sẽ bảo tôi đấy là niềm tin tôn giáo. Tôi chấp nhận, đa nguyên
là như vậy mà, mỗi người mỗi vẻ.
Đối với tôi, thiết nghĩ mọi chuyện đã rõ, không còn
gì là mơ hồ hay phải vấn vương nữa. Chỉ cần nói đi đôi với làm sẽ
tạo ra cú hích đầu tiên chuyển động cả đất nước. Ngày 04-01-2014
trong cuôc gặp đầu năm với báo Tuổi trẻ nhân bàn về thông điệp đầu
năm của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tiếng nói của trí thức rất rõ
ràng: Chỉ cần làm đi, sẽ có chuyển biến ngay. Bắt đầu từ trả lại
tự do cho những người bất đồng chính kiến bị kết án tù tội, thôi
dùng báo chí lề phải và dư luận viên trấn áp lẽ phải, thực hiện ngay
những quyền của công dân được ghi trong hiến pháp vừa mới được thông
qua, hãy nói thật và thôi nói dối… vân vân…
Một chuyện cũ lúc này nên kể lại: Cố tổng bí
thư Trường Chinh kiên định một cách rất lý trí lập trường của mình
về chủ nghĩa xã hội. Rất khó hình dung một người như thế mà cuối
cùng đã giữ vai trò quyết định ở đại hội VI, dẫn đến công cuộc đổi
mới. Nhiều đảng viên làm việc gần cố tổng bí thư giải thích: Không
nghe tiếng nói của cuộc sống và của dân, không có trí tuệ cần thiết,
không đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, cố tổng bí thư Trường Chinh
có lẽ không thể chấp nhận một nghị quyết mà trên thực tế là đi ngược
180 độ đường lối kinh tế kinh điển của đảng lúc bây giờ và của chính
bản thân mình. Tôi thấy giải thích này có lý và khâm phục phẩm chất
quý báu này.
Tôi biết rất rõ đổi mới trước hết bắt đầu từ dân với
muôn vàn việc làm vô cùng sáng tạo, khác hẳn với đường lối quan điểm
chính thống, và vượt xa tầm nhìn của đảng lúc bây giờ. Qua ví dụ này
thấy được, vì nước cố tổng bí thư đã học dân, đảng đã học dân, và
học được. Cuối cùng, đổi mới vì lợi ích của đất nước, đảng đã chấp
nhận đưa cuộc sống vào nghị quyết của đảng. Ví dụ này hôm nay
vẫn có ý nghĩa rất thời sự, là tấm gương cho đảng trong khắc phục
cái bệnh
đưa nghị quyết của đảng vào cuộc sống – nghĩa là khiên cưỡng,
duy ý chí, áp đặt… Luôn luôn đúng sẽ phải là: đưa cuộc sống vào
nghị quyết của đảng, để làm cho lòng dân trở thành ý chí của đảng
(chứ không phải ý đảng lòng dân), để tất cả vì dân vì nước.
Như vậy, cái gì trong sự nghiệp cải cách hiện nay
đảng chưa biết, dân có thể hoàn toàn giúp được, dựa vào dân hoàn
toàn có thể làm được.
Mong muốn của người đứng bên lề cuộc sống
Gần hai thập kỷ đứng bên lề cuộc sống, tôi thực sự
không đủ tư cách, không đủ thông tin để đưa ra bất kể một đề nghị gì
- dù là của cá nhân - về công việc của đất nước. Tôi cũng không muốn
làm như vậy. Chưa nói đến hiểu biết của tôi ngày càng hạn chế, vì
cuộc sống không đứng một chỗ. Tất cả những gì tôi viết ra, xin hiểu
cho đấy chỉ là sự chia sẻ suy tư để mọi người tham khảo.
(1)
Viết đến đây, về phần kinh
tế,
tôi ước mong: Làm sao chế độ này, nhà nước này có chính sách hay
“bửu bối” nào đó, khiến cho không một đồng bạc nào của nền kinh tế -
dù là thuộc hình thức sở hữu nào, dù là dưới dạng nào (tiền, đất,
vàng, chất xám, know-how, sức lao động, của cải…) chịu nằm yên. Mỗi
đồng bạc đều ngứa ngáy hay được chỉ dẫn, được khuyến khích chui ra
thị trường sinh sôi nẩy nở một cách công khai, chân chính – nghĩa là
đúng với luật pháp và đàng hoàng trong luật chơi. Càng sinh sôi nảy
nở nhiều, càng được bảo hộ, ưu đãi, cổ vũ, vinh danh… Trong những
đồng bạc ấy, tôi nghĩ đến cả những đồng bạc do hôm qua “trót” tham
nhũng mà có, nay được hưởng quy chế “khép lại quá khứ, không hồi
tố” pháp luật thôi không “rờ” đến nữa. Mỗi đồng bạc thi nhau làm
giầu chính đáng, có lợi cho mình và cho đất nước, để có cái trích ra
một phần từ cái lợi làm ra được ấy làm giầu lại cho cộng đồng, cho
đất nước. Nền kinh tế nên được vận hành theo cách khuyến khích gà đẻ
trứng vàng, ngày càng nhiều gà đẻ trứng vàng, chứ không phải là đi
săn gà đẻ trứng vàng, tất cả với nguyên tắc có làm – có ăn,
không có gì cho không, chống ăn cắp, khuyến khích những đồng
bạc dám mạo hiểm làm giầu. Vấn đề sở hữu cũng vậy, khuyến khích mỗi
đồng bạc tự dồn về không gian nào thích hợp cho nó nhất, nó có thể
sinh lợi nhiều nhất. Vai trò “chủ đạo” không phải là duy ý
chí hay chạy vạy cửa sau gán cho một lọai sở hữu nào đó, mà
là để cho đồng bạc nào sinh lợi nhiều nhất với tinh thần vừa nêu
trên tự giành lấy. Quyết sách kinh tế nên bao hàm cả quan điểm “lọt
sàng xuống nia”, với nghĩa, dù mỗi đồng bạc vì lý do nào đấy
“lọt” mất xuống nia cũng được khuyến khích sinh sôi nảy nở, và gần
như bắt buộc (hay là bắt buộc – nếu nhà nước có tài) không được phép
nằm im dưới gối. Các lực lượng vũ trang dứt khoát không được làm
kinh tế.
Làm cho (a) nền kinh tế không có đồng bạc nào chịu
nhàn rỗi, và (b) thực hành tiết kiệm – nên coi đấy là 2 quốc sách
kinh tế hàng đầu.
Bên cạnh việc đưa nền kinh tế ra khỏi đáy khủng
hoảng, tái cấu trúc nền kinh tế để có một cơ cấu mới từng bước đưa
nền kinh tế ra khỏi cơ cấu lạc hậu hiện nay là vấn đề sống còn. Vì
lẽ này, tăng trưởng GDP cần thiết đến thế nào chăng nữa, nhưng không
nên coi là đòi hỏi quyết định. Cái đích cần tập trung sức nhằm vào
là tăng trưởng đạt chất lượng cao, mang lại cải thiện thật sự cho
nền kinh tế, và tạo ra được sản phẩm mới cho từng bước hình thành cơ
cấu kinh tế mới. Trong nhiệm vụ này vai trò lựa chọn chiến lược kinh
tế và quy hoạch phát triển phải có kiến thức và tầm nhìn mới.
(2) Về thể chế chính trị, tôi ước mong
toàn bộ hệ thống chính trị hiện nay của đất nước cũng như từng công
dân tập trung trí tuệ và nghị lực xây dựng nên được một nhà
nước kiến tạo sự phát triển, hoạt động trên nền tảng kinh tế
thị trường – nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự. Tôi thiển nghĩ,
trước hết đấy là một nhà nước làm hết sức mình phục vụ vai trò
làm chủ đất nước của nhân dân, coi nhiệm vụ phục vụ này là
tối thượng. Nhà nước này lấy việc nâng cao sự giác ngộ về quyền làm
chủ như vậy của nhân dân là con đường phát triển con người nói riêng
và nguồn nhân lực quốc gia nói chung. Nhà nước này mang lại cho đất
nước sự phát triển dựa trên nguồn nhân lực có sự giác ngộ cao nhất
về quyền làm chủ đất nước của các công dân của nó, tạo ra động lực
của phát triển của đất nước là trí tuệ và văn hóa thường xuyên
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, giáo
dục trở thành nền móng của phát triển quốc gia.
Thiết nghĩ, chìa khóa cho toàn bộ sự nghiệp cải cách
là tự do, dân chủ và công khai minh bạch.
Cuộc đời dứt dây động rừng
Ta làm việc cải cách hoàn toàn là công việc nội bộ
của nước ta. Thế nhưng trong cái thế giới phức tạp chúng ta đang
sống, sẽ khó tránh khỏi người thích kẻ chê, cả những kẻ xúi bẩy,
thọc gậy bánh xe nữa, kẻ đâm bị thóc chọc bị gạo, kẻ đục nước béo
cò, kẻ cướp cờ, kẻ tìm cách ngăn cản gián tiếp hay trực tiếp, kẻ dọa
dẫm… Song nước ta không thể chọn được thế giới, vì thế cần phải có
bản lĩnh, thông minh, luôn luôn tạo ra trong dân sự đồng thuận cao
nhất dựa trên trí tuệ và ý chí, để có điều kiện tốt nhất ta kiên
định công việc của ta, không ngả nghiêng. Càng thấy, nâng cao dân
trí và dân chủ là đòi hỏi vô cùng quan trọng cho mọi tình huống.
Diên Hồng cũng là thế chứ gì! Trong cải cách, nhất thiết phải tránh
cho bằng được kịch bản Việt Nam rơi vào số phận bị giằng xé như
Ukraina lúc này. Toàn dân hiểu điều này và một lòng, dứt khoát sẽ
tránh được.
Xin lưu ý, nguy cơ các nước lớn trực tiếp đánh nhau
hiện nay vẫn tương đối ít. Song nguy cơ đang gia tăng là: Ở mọi nơi,
các nước lớn tiếp tục giành giật nhau trên trận địa nước thứ ba hoặc
các nước bên thứ ba. Bởi vì cục diện thế giới hậu chiến tranh lạnh
đã chấm dứt, khoảng từ một thập kỷ nay đã đi vào cục diện quốc tế
của một siêu đa cường, trong đó một số cường quốc đang nổi lên hơn
trước với những đòi hỏi mới, nhất là Trung Quốc. Cuộc sống của thế
giới hiện tại đang có nhiều tranh chấp mới, đang diễn ra một quá
trình “tái cấu trúc” (xin tạm dùng khái niệm này cho gọn) trật tự
kinh tế và chính trị. Tất cả càng thôi thúc Việt Nam phải sớm là một
nước phát triển đứng vững chắc trên đôi chân của chính mình, chậm
một ngày lo ngay ngáy một ngày, thua thiệt một ngày.
Song lúc này, sẽ là sai lầm phải trả giá, nếu lấy câu
chuyện Ukraina bây giờ, hay chuyện biểu tình của đảng ông Sam Rainsy
đang phá kết quả bầu cử ở Campuchia, chuyện các thế lực khác nhau ở
Thái Lan đang mượn áo đỏ - áo vàng tranh giành nhau… để đi tới kết
luận cho nước ta là cứ an phận thủ thường cam chịu như thế này là
thượng sách, thậm chí để hù dọa khát vọng cải cách.
Sẽ là một tội lỗi phải lên án, nếu vin vào những
chuyện như thế và nhân danh giữ ổn định để trấn áp mọi khát vọng tự
do dân chủ của nhân dân…
Nhìn vào bất kể biến động quốc gia nào trên thế giới
ngày nay, mầm mống ban đầu đều xuất phát từ bất công xã hội và mất
dân chủ bên trong, kinh tế đổ vỡ. Một khi biến động ấy đã trở thành
vấn đề quốc gia hay ở quy mô quốc gia, ngay lập tức nó biến quốc gia
này thành “con mồi” – thành trận địa nước bên thứ ba – cho các thế
lực lớn bên ngoài tranh giành nhau. Nói hình ảnh là thế này: Một con
vật ốm yếu giữa hoang dã, ngay lập tức nó sẽ được các loài thú khác
bu đến xâu xé. Vậy kết của câu chuyện là con vật này không được để
mình rơi vào trạng thái ốm yếu, chứ không phải là tìm đường đi theo
loài thú nào để mong có sự bảo hộ cho mình, hoặc nếu có tìm cách chê
loài thú này và nịnh hót loài thú kia cũng chẳng được yên thân…
Trí tuệ, dân chủ, sự công bằng – đấy mới là nền tảng
vững chắc của ổn định quốc gia, không một “định hướng xã hội chủ
nghĩa” nào có thể thay thế được. Hơn thế nữa, phải có lực, có bản
lĩnh, phải lựa chọn đi với cả nhân loại tiến bộ, để có thể cùng đi
được với cả nhân loại tiến bộ và đồng thời để luôn luôn tranh thủ
được hậu thuẫn của nhân loại tiến bộ cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc. Bối cảnh thế giới lựa chọn cho đất nước ta là phấn đấu
cho hòa bình, hữu nghị và hợp tác với mọi quốc gia, dứt khoát không
đi với bên nào chống lại bên nào. Đơn độc, lạc lõng, bị cô lập, bị
lệ thuộc đều dẫn đến chỗ chết. Không một chủ nghĩa hay tư duy ý thức
hệ nào có thể đảo ngược được quy luật khắc nghiệt này của cuộc sống
– kể cả chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Muốn ta là ta
thì phải phấn đấu ta trở thành như vậy.
Vì thế, dĩ bất biến ứng vạn biến trong cái thế giới
quyết liệt này chỉ có thể bằng cách: Ta phải là chính ta trên nền
móng của sự ổn định quốc gia và ta nhất quyết đứng trên đôi chân của
ta. Chỉ có một Việt Nam của dân chủ và tự do mới có đủ trí tuệ, bản
lĩnh và nghị lực tạo ra được cho đất nước vị thế ta là ta
như thế! Khẩu hiệu “Nước Việt Nam của người Việt Nam!” đã từng vực
cả nước đứng lên trong Cách mạng Tháng Tám, hôm nay mang một nội
dung mới như thế.
Hơn bao giờ hết, đất nước ta bây giờ cần làm sống lại
với nội dung mới của thời đại chúng ta đang sống tinh thần Cách mạng
Tháng Tám, Tuyên Ngôn Độc Lập, Hiến pháp 1946.
Đôi điều tâm sự
Viết loạt bốn bài chữ
tín,
đối với tôi là cái nghiệp với lọn nghĩa của từ “nghiệp” - nghĩa là
phải viết, dù trong tôi cũng chống lại quyết liệt.
Có nhiều
lẽ lắm. Trong đó có nỗi lo tầm nhìn của mình không bao quát được vấn
đề mình viết ra, trách nhiệm lớn quá... Trong đó có nỗi lo rước vạ
vào thân… Trong đó có những ray rứt của tôi về thất bại của những
người đi trước, nỗi ray rứt từ món nợ của riêng tôi đối với những
người đi trước, trong đó có anh Nguyễn Cơ Thạch…
Vì
những điều ngổn ngang chưa ngã ngũ này, sau khi viết xong bài 1, cái
chủ nghĩa “makeno” trong tôi quẳng việc này đi hàng chục ngày, mặc
dù nội dung cho cả bốn bài đã định hình trong đầu, chỉ cần ngồi vào
bàn một, hai ngày là xong.
Cái ray
rứt kéo tôi lại vào bàn. Tôi không thể ngồi yên nhìn, cứ mỗi lần đại
hội đảng đến, là một lần đảng bước thêm một bước vào khóa tha hóa
mới. Bốn thập kỷ vừa qua ở vị trí độc quyền, đảng đã phạm không ít
sai lầm nghiêm trọng đối với đất nước, đối với chính bản thân sự
nghiệp của của đảng. Nhưng hiển nhiên cách khắc phục như đã làm cho
đến nay không sao đảo ngược được xu thế đảng tha hóa ngày càng trầm
trọng. Đất nước trong những thập kỷ vừa qua tuy có phát triển (thật
ra là tự nó nhiều hơn) nhưng đắt quá, để lại quá nhiều hậu quả mà
chung cuộc chưa ai nói trước được sẽ ra sao. Trong khi đó có nhiều
vấn đề rất khó đất nước phải đối mặt vượt quá bản lĩnh chính trị của
đảng và năng lực quản trị của nhà nước. Mặt khác năng lực của quốc
gia đang bị kìm hãm, trí tuệ rởm xua đuổi trí tuệ chân chính, cái ác
vẫn cứ thắng cái thiện. Hiện tại đang ngổn ngang bao nhiêu vấn đề
sống còn, đại hội XII cứ theo đường mòn thế này, đất nước sẽ đi đâu?
về đâu?..
Người
tôi tâm sự nhiều nhất trong những ngày ray rứt viết loạt bài chữ “tín”
này là cố thủ tướng Võ Văn Kiệt, tác giả bức thư ngày 09-08-1995 gửi
Bộ Chính trị ĐCSVN: Tôi lục lại trí nhớ về sự thất bại của bức thư
này để rút kinh nghiệm cho mình. Bức thư này đánh dấu kết thúc sự
nghiệp của tôi là cán bộ viên chức của bộ máy nhà nước.
Chuyện
cũ là thế này, bức thư thật ra chỉ mang những kiến nghị rất sơ khởi
ban đầu và rất thận trọng – anh Võ Văn Kiệt chủ tâm như thế để đi
từng bước. Nhưng bức thư vẫn bị bác bỏ rất quyết liệt, gây ra cho
anh nhiều khó khăn mà tôi là người giúp việc cũng không hình dung
nổi. Trong những phê phán nặng nề dành cho anh Kiệt về bức thư này,
có một ý cho là do anh Kiệt dùng tôi làm trợ lý nên mới sinh chuyện
ra như vậy. Khi ý này đến được tai tôi, ngay ngày hôm sau tôi gửi
anh Kiệt bức thư xin thôi nhiệm vụ trợ lý và về hưu, coi đấy là sự
phản đối của tôi về “cái ý” khó nghe ấy. Đưa thư xong tôi không trở
lại nhiệm sở nữa, cũng không chờ quyết định của cơ quan. Vì tình cảm
giữa hai chúng tôi cũng bịn rịn, để anh Kiệt khỏi buồn, kèm theo cái
thư “từ quan” (xin tạm gọi như vậy cho vui) tôi tặng anh một bài thơ
và một chai rượu tôi tự làm để chia tay, với hứa hẹn: Tôi sẽ giúp
anh nhiều hơn với tư cách là người tự do. Tôi đã giữ được lời
hứa này.
Bây giờ
chỉ còn một món nợ lớn đối với anh Võ Văn Kiệt tôi chưa trả được: -
Ráng đóng góp vào việc đổi mới đảng!.. Tôi không ngờ đấy lại là
lời dặn dò cuối cùng của anh khi chúng tôi mỗi người mỗi việc chia
tay nhau – khoảng hai tuần sau, anh đi xa…
Có thể
nói, cuối cùng ray rứt vì món nợ không trả được, tôi quyết viết bằng
xong 4 bài này, đúng – sai sau này sẽ tính thêm, sửa thêm, cứ phải
viết xuống giấy cái đã, nếu không lại nhụt trí mất.
Câu
chuyện đáng nói ở đây là thế này, những vấn đề nêu trong bức thư
09-08-1995 còn nguyên vẹn tính thời sự đối với đất nước với đảng hôm
nay. Thông điệp đầu năm 2014 của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu lại
được một phần những vấn đề còn nguyên vẹn của bức thư đã được viết
cách đây 19 năm. Tôi muốn nhìn nhận thông điệp này là sự thú nhận
gián tiếp và không tự giác về tình trạng trì trệ và xuống cấp tiếp
của đảng, của nhà nước. Ngẫm nghĩ như thế, viết 4 bài này tôi tự
hỏi: Đất nước ta, dân tộc ta có đáng phải chịu đứng chết trong một
khúc quanh như vậy của lịch sử hay không, một trạng thái trì trệ gần
như một thứ bệnh hoại thư?..
Viết
bốn bài này, một lần nữa tôi thú nhận mình cũng không vô can về
những gánh nặng đất nước đang phải chịu đựng./.
Võng Thị - Hà Nội, ngày 05-03-2014
*
Thông điệp đầu năm của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Tập Cận Bình Ác Hơn Stalin
Mới lên ngôi không bao lâu, Chủ Tịch Tập cận Bình đã tỏ ra ác độc hơn Stalin trong việc thanh trừng đồng chí đối thủ trong Đảng Nhà Nước Trung Cộng. Nếu Stalin lấy tội gọi là âm mưu lật đổ chánh quyền do chính Stalin dàn dựng, để ám hại, giết chết nhiều nhân vật đại công thần chánh trị cũng như quân sự của CS Liên xô như Leon Trotsky, Kamenev, Zinoviev bị giết và hàng nhiều trăm ngàn đảng viên khác bị Stalin đưa đi đày chết trong tù, thì Tập Chủ tịch lấy danh nghĩa chống tham nhũng, từ con ruồi đến con hổ, để ‘đào tận gốc trốc tận rể’ những đồng chí Ô. Tập nghi đã có ý tranh giành chức vụ quyền lực với Ông.Tiêu biểu là Bí Thư kiêm Chủ Tịch Trùng Khánh, Uỷ viên Bộ Chánh trị Trung ương đảng Bạc Hy Lai. Ông Bạc này cũng là một hoàng tử đỏ như Ô. Bình, người có tham vọng trở thành nhân vật số 1 của Đảng Nhà Nước TC, bị Tập Chủ Tịch diệt tán gia bại sản, bằng tội tham nhũng. Vợ của Ô. Bạc hy Lai bị án tử hình treo, còn Ô. Bạc tù chung thân, tịch thu tài sản, con trai lang thang không được về nước.
Mới đây là Chu vĩnh Khang, là một trong 9 người của Bộ Chánh Trị, có quyền lực nhứt của Đảng Nhà Nước TC. Ô. Khang là người từng nắm bộ máy an ninh nội chính toàn quốc, chuyên trấn áp ‘lực lượng thù địch’, với một ngân sách lớn hơn ngân sách quốc phòng của TC. Đích thân Tập Chủ Tịch mới đây chẳng những ra lịnh bắt Khang, mà bắt hàng trăm những tay em vi cánh của Khang nữa, cũng với tội tham nhũng.
Như ông Lưu Hán, một tài phiệt ở tỉnh Tứ Xuyên, thân thiết với con trai ông Chu. Ô Lưu Hán là một nhà kinh doanh, từng mua hầm mỏ ở Úc, từng được coi như ‘điễn hình tiên tiến’, chọn làm một trong những người rước đuốc cho thế vận hội Olympic 2008. Nhưng khi bị Tập Chủ Tịch ra lịnh bắt thì truyền hình CCTV của Đảng Nhà Nước TC nói công ty Hàn Long của ông Lưu Hán là một nhóm mafia có tầm cỡ, chèn ép, cướp bóc nhiều công ty thuộc nhiều lĩnh vực và rửa tiền trong các casino tại Ma Cao. Ô Lưu Hán là người cầm đầu tổ chức tội ác, có một băng giết người chuyên nghiệp, giết những ai cản trở công việc làm ăn của ông Lưu.
Như Ô. Giám đốc an ninh thành phố Bắc Kinh đã bị bắt giữ trong một bữa ăn tối vì phe Tập Chủ Tịch nghi đã gián tiếp cung cấp cho hãng tin tài chính Mỹ Bloomberg những tài liệu về gia tài giấu giếm của gia đình Chủ tịch Tập Cận Bình hồi đầu năm 2012.
Như Ô. Chu Nguyên Thanh và vợ, một đại gia ở Trung Quốc vốn là em trai ruột của Ô Chu vĩnh Khang bị bắt từ tháng 12/2013 ở nhà riêng ở tỉnh Giang Tây, nhưng tin này chỉ được tiết lộ mới đây. “Báo đài” của Đảng Nhà Nước tố vợ của Chu Nguyên Thanh, bà Chu Linh Anh là một doanh nhân giàu có, một trong những nhà đầu tư chính hằng trăm triệu đôla vào hãng xe hơi Đức Audi và còn tham gia vào một dự án khai thác khí đốt trong khuôn khổ một hợp đồng với một công ty chi nhánh của tập đoàn dầu khí nhà nước Trung Quốc, mà Ô Khang từng làm giám đốc.
Nhờ những cuộc đấu đá nhau mà công luận thế giới và dân chúng TQ biết được thâm cung bí sử của TC. Chớ người dân Trung Quốc không dễ tin ‘báo đài” của Đảng Nhà Nước. Dân báo ở Trung Quốc và báo Liberation của Pháp cho biết nhiều thông tin, nghị luận. Rằng Ông Chu Vĩnh Khang là một uỷ viên thế lực ở Bộ Chánh Trị từng ủng hộ Bạc Hy Lai, một hoàng tử đỏ hoài Mao, chống tham nhũng, được lòng dân trong tỉnh của Ông, và là một đối thủ đáng gờm của Ô Bình trong khi tranh giành chức vụ Chủ Tịch Đảng Nhà Nước TC.
Ngoài ra, Chu vĩnh Khang là một người nắm ngành an ninh nội chính trong ngoài đảng, trong ngoài nước nên Ô Bình nghi Ô. Chu cho người tiết lộ cho báo chí Mỹ về tài sản kếch sù gởi giấu ở ngoại quốc của các cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Giang Trạch Dân. Do vậy Chủ Tich Tập quét láng tay chân bộ hạ của Chủ Tịch Chu để bịt miệng và trừ hậu hoạn, sợ có thể khui ra những tham ô nhũng lạm của hai nhân vật từng ủng hộ Ô Bình.
Dù Tập Chủ Tịch thắng rồi, Chu vĩnh Khang đã hồi hưu, Tập Chủ Tịch vẫn còn lo sợ Ô. Chu nắm trong tay hồ sơ nhiều gia đình các quan chức cao cấp và nếu một ngày nào đó ông công bố các hồ sơ trên thì sẽ gây ra hậu quả khó lường được.
Qua một chuỗi hành động mà Tập Chủ Tịch bề ngoài tuyên truyền là bài trừ tham nhũng từ con ruồi đến con hổ, nhưng bên trong chánh yếu là để triệt hạ đối thủ và phe đảng đã chống Ông, một cách không gớm tay.
Ở VNCS cũng vậy. Tổng Trọng bên Đảng CS muốn diệt Nguyễn tấn Dũng bên nhà nước cũng dùng đòn chống tham nhũng để mưu hại nhau. Cuộc đấu đá tuy âm thầm nhưng khốc liệt, nếu cần có thể bức tử một thượng tướng, một thứ trưởng công an như Thượng Tướng Phạm Quý Ngọ.
Chớ CS thừa biết độc tài đảng trị toàn diện của Đảng CS là cha sanh mẹ đẻ của tham nhũng. Chỉ có cán bộ, đảng viên của Đảng mới có quyền thế để tham nhũng, chớ người dân không quyền không thế thì làm sao mà tham nhũng được. Cho nên nếu Đảng Nhà Nước diệt hết tham nhũng thì hết cán bộ, đảng viền, còn ai đâu mà xài. Với quyền hành tuyệt đối và toàn diện, Đảng Nhà Nước CS có thể diệt chủng, chớ đừng nói diệt tham nhũng. Nhưng vì quyền lợi của CS, họ chỉ dùng chánh nghĩa, vũ khí chống tham nhũng để xì bất mãn của dân, để diệt đối thủ trong nội bộ và để làm dây thòng lọng trị đảng viên bằng mặc cảm tội lỗi./.(Vi Anh)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét