Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

Thứ Ba, 18-02-2014 - Ta đánh đây là đánh cho Trung Quốc!?

“Tướng Ngọ từ trần” – vậy là lời khuyên cho Ban Nội chính không kịp thành hiện thực (Chép Sử Việt). “Tuy nhiên, các cơ quan chức năng có tin và chấp nhận rằng sự ra đi đột ngột này là hoàn toàn bình thường, do trọng bệnh, tức là không phải do nguyên nhân “bên ngoài hoặc từ … chính ông”, để không tiến hành một thủ tục giám định pháp y hay không, lại là câu chuyện khác. “ CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
- Đức Thành: Suy nghĩ về ‘nhạy cảm vùng biên’ (Boxitvn).
1
<- Hà Nội: Biểu tình chống TQ nhân kỷ niệm chiến tranh biên giới (VOA). - Cựu binh TQ bị ‘lừa dối và quên lãng’ (BBC). - Nói lên sự thật không là kích động chủ nghĩa dân tộc (DV).
- Tưởng niệm Ngày Biên giới Việt Nam 17 tháng Hai chống tàu khựa xâm lược (DLB). – HÔM NAY, NGÀY 17/2 (Nguyễn Quang Vinh). – NHÂN DÂN SẼ KHÔNG QUÊN 17/02/1979 – 17/02/2014 (Thành). – 17-2, xin nhắc mãi những điều đã nhắc… (FB Lê Đức Dục/ Quê Choa). – Những Ngày Xuân Khói Lửa Kỷ Mùi (1979): Cuộc xâm lăng Việt Nam của Ðặng Tiểu Bình (Hợp Lưu). – Ngày mai anh lên đường… (DCVOnline).  – Chiến tranh trong mắt ai (Đào Tuấn).

- Người Việt tại Philippines làm lễ tưởng niệm 35 năm chiến tranh biên giới (DLB). – REMEMBER 1979 | Vietnamese, Filipinos issue pointed reminder to China of perils of war (InterAksyon).  – Hoàn Cầu Thời báo đăng lại bài của AFP về tưởng niệm cuộc chiến biên giới Việt – Trung 1979:  Vietnam anti-China activists mark 1979 border war in central Hanoi (Global Times).
Cuộc chiến Trung-Việt 79′, đám cưới con TBT Lê Duẩn cùng bài học cảnh giác và đạo lý (Chép sử Việt). “Với bản chất kiêu ngạo, và sẵn sàng thí quân miễn là chiến thắng, có tiếng của TBT Lê Duẩn, thì việc dù có biết trước 1,2 ngày cuộc chiến sẽ nổ ra, nhưng vẫn không hoãn đám cưới con, có lẽ cũng dễ lý giải.”- Đám cưới ngày 17.2.1979 của con trai Tổng bí thư (DLB). – Ngày 17-2-1979 bạn ở đâu? (Hiệu Minh).  - Chút ký ức và nghĩ ngợi nhân 17/2 (Nguyễn Vĩnh).
- Mẹ Nấm: Ngày 17/02/1979 – Ai muốn quên? (DLB). – Đinh Minh Đạo: Không thể cắt, xóa lịch sử (ĐCV). – JB Nguyễn Hữu Vinh: Xin hiểu cho rằng: Họ không thuộc về nhân dân (Blog RFA). “Cũng như nhiều người mẹ, người cha, nhiều người con của các anh đã phải cảm nhận những tiếng khóc thương, những lời ai điếu, những tưởng nhớ đến chiến công hiển hách, đến sự hi sinh lặng thầm của các anh một cách ấm ức và uất nghẹn. Xin các anh linh hiểu cho rằng: Đó không phải lòng dân“. – Bài hát: Lời Đau của Đá – sáng tác Trần Bảo Như – tiếng hát Hướng Việt (baonhu tran).
- Phát biểu của đội trưởng No-U (DĐXHDS). – MỘT SỐ THÂN HỮU ĐÀ LẠT Mạn đàm nhân Kỷ niệm cuộc chiến Biên giới Việt Trung tháng 2 năm 1979 (DĐXHDS). - Hà Sĩ Phu: Một số thân hữu Đà Lạt mạn đàm nhân Kỷ niệm cuộc chiến Biên giới Việt Trung tháng 2 năm 1979 (Boxitvn). – Thơ của Võ Trung Hiếu: Mười bảy tháng hai (DĐXHDS).
- Thấy gì ở ngày chủ nhật vừa qua (Người Buôn Gió).
- Liệt sĩ CSVN bị chính quyền ‘hạ nhục’ (Người Việt). – Thư ngỏ gửi các người nhảy đầm tại sân thờ cụ Lý Thái Tổ ngày 16-2 vừa qua (Lương Kháu Lão). “Những người nhảy đầm theo kiểu ương ca của Trung Quốc có biết chiến tranh xâm lược ở biên giới phía Bắc không. Chắc chắn 10 người thì ít nhất có 5 người biết vì họ đều lớn tuổi , có khi trong số họ có người còn phải tham gia hoặc có con tham gia đánh Tàu hồi đó . Nhưng họ thuộc loại vô cảm với thời cuộc, vô cảm với nỗi đau của dân tộc nên mắc mưu nhà cầm quyền phơi mặt ra cho thiên hạ chửi“. – Điệu nhảy lưu manh láu cá… (Đinh Tấn Lực). – Đội quân khiên giáp của đảng Hà nội (Xuân VN).
- Những bước nhảy đầy ấn tượng trước tượng đài vua Lý (RFA). – An Kháu Lão: Thư ngỏ gửi các người nhảy đầm tại sân thờ tượng cụ Lý Thái Tổ ngày 16-2 vừa qua (DĐXDHS).
- Chuyện bây giờ mới kể – TRỐN HAY KHÔNG TRỐN? CHẶN HAY KHÔNG CHẶN? (Phương Bích).
- Tuần duyên Trung Quốc lại thâm nhập vùng biển Senkaku/Điếu Ngư (RFI).
Phát hiện khiến Mỹ giật mình về tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc (Soha). - Biển Đông: Mối quan tâm hàng đầu của Mỹ (ĐS&PL). - An ninh Á châu phụ thuộc COC (BBC). - Đánh ‘Rồng’ từ… dưới biển (Tin tức).
- Ngoại trưởng Mỹ: Biển Đông cần có Quy tắc Ứng xử để giúp châu Á ổn định (RFI). – Mỹ-Châu Á : Ba trục trặc trong chiến lược xoay trục (RFI).
- Nhất Phương: Mã tầm mã, ngưu tầm ngưu (Boxitvn).
- Thư gửi nhóm No-U và phản hồi độc giả Danlambao (DLB).
- HÀO KHÍ ĐÔNG A (THƠ) (Sơn Thi Thư).
- Lê Phú Khải: Nguyễn Khắc Viện – người bạn vong niên đáng kính của tôi (Boxitvn).
Ông Đinh Đăng Định: Nhà nước Việt Nam là công cụ của chế độ CS độc tài (VOA). - Ông Đinh Đăng Định ‘không hối tiếc’ (BBC).
HRW kêu gọi xóa bản án với LS Quân (BBC). – Trước ngày xử LS Quân, CA Đống Đa ‘dọa’ linh mục chính xứ Thái Hà (DLB). – Công an Nghệ An bắt cóc và ép người dân ký “cam kết không tham dự phiên tòa xét Luật sư Lê Quốc Quân” (DCCT).  – Căng thẳng tại Việt Nam trước phiên xử phúc thẩm LS Lê Quốc Quân (tiếp theo) (DLB). – Cận kề ngày ra tòa, sức khỏe LS Lê Quốc Quân suy kiệt vì tuyệt thực (DLB). – Nhóm Thiện Chí VRNs sinh hoạt và cầu nguyện cho Ls. Lê Quốc Quân tại Hamburg (DCCT). – Ảnh: Cộng đoàn Vinh hướng về Ls Lê Quốc Quân ở phiên tòa Phúc Thẩm (FB JB Nguyễn Hữu Vinh).
- Công an huyện Lấp Vò (Đồng Tháp) thông báo tạm giữ đối với Bùi Thị Minh Hằng (Nguyễn Tường Thụy). – Thêm một tín đồ PGHH bị công an Đồng Tháp đàn áp (DCCT). – Công an Đà Nẵng hành hung Nguyễn Văn Thạnh (Nguyễn Tường Thụy). – Tù nhân lương tâm Hồ Văn Oanh: Từ ngục tù, tôi luôn bình an khi có Chúa (DCCT).
- MELBOURNE LẠC QUYÊN – QÙA TẾT CHO TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM (Nguyễn Tường Thụy).
- Chống Mỹ là nhầm rồi (Jonathan London). “Chúng ta không thể thay đổi lịch sử, nhưng chúng ta cũng không nên trở thành những tù nhân của lịch sử. Tôi phản đối quyết liệt chiến dịch này không phải vì tôi là người Mỹ mà… vì nó hoàn toàn nhầm mục tiêu và phản ánh một tư duy rất hạn chế và mị dân“.  – Không phải họ “nhầm” mà là hèn và ngu! (FB Tin Không Lề).
- Nguyễn Ngọc Già: Chế độ cộng sản cần phải được loại bỏ (DLB). - Cách tốt nhất để thay đổi chính thể (DLB).

- Con trai cựu ủy viên bộ chính trị làm phó bí thư Đà Nẵng? (DLB).
- Thứ trưởng Công an Phạm Quý Ngọ có thể bị đình chỉ công tác (RFI). – Đình chỉ Thứ trưởng công an Phạm Quý Ngọ? Coi chừng “đại án” thành “bại án”! (Chép Sử Việt). - Bộ Chính trị ‘sẽ quyết vụ ông Ngọ’ (BBC). - Bùi Công Tự: PHẠM QUÝ NGỌ ĐỐI MẶT NGUYỄN BÁ THANH (Tễu). - Còn phụ thuộc nhiều yếu tố (NLĐ).
- Trần Đình Bá: Nhà báo Nguyễn Như Phong và 3 ông thầy bói mù (Ba Sàm).
Vụ bầu Kiên: làm rõ chi tiết đầu tư chứng khoán gây thiệt hại 687 tỷ đồng (ĐTCK). - Bầu Kiên có bao nhiêu tài sản? (NLĐ).
Đại gia phạm luật: Ai dám xử? (DT).
- TƯỜNG THUẬT PHIÊN TÒA BÍ THƯ, CHỦ TỊCH “BẢO KÊ” CHO “CÁT TẶC” (Tân Châu). - Ngày mai 18-2, xét xử lãnh đạo huyện bảo kê “cát tặc” (TT).
- Về tin “Ai trục lợi bất động sản?”: Chưa biết à ? CHÓ ĐẤY MÀ ! (Lê Khả Sỹ).
Tổ chức thi hành Hiến pháp mới và bài học kinh nghiệm Nhật Bản (ĐBND).
1Thanh Hóa: Bằng khen vẫn chưa đến tay người tố cáo Nicotex Thanh Thái (DV). =>
- THUA CẢ KAMPUCHIA VÌ ĐÂU? (Huỳnh Ngọc Chênh).
- Độc đáo với bất cứ giá nào ! (Vương Trí Nhàn).
Lộ ảnh tình ái của quan chức Trung Quốc trước kì họp Quốc hội (MTG). - Trung Quốc mở chiến dịch truy quét tham nhũng ở Tứ Xuyên (VOA).
- LHQ cáo buộc Bắc Triều Tiên về tội ác chống lại nhân dân của mình (Kichbu). – Liên Hiệp Quốc đe dọa đưa Kim Jong Un ra Tòa án Hình sự Quốc tế (RFI). – Một dân biểu Hàn Quốc bị 12 năm tù vì tội phản quốc (RFI). - Giới lãnh đạo Triều Tiên bị đề nghị xét xử tại tòa án ICC (TTXVN). - Nghị sĩ Hàn Quốc âm mưu đảo chính vì…ngưỡng mộ Triều Tiên (ANTĐ).  LHQ ra phúc trình về tội trạng Bắc Hàn (BBC). - Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc thăm Triều Tiên 4 ngày (GDVN).
- Bangkok : Người biểu tình bao vây tòa nhà chính phủ (RFI). - Thái Lan: Từ “ngòi nổ” đến đòi “đối thoại tay đôi” (Tầm nhìn). - Nông dân Thái Lan biểu tình, kinh tế tiếp tục suy thoái mạnh (SM). - Thái Lan: Người biểu tình xây tường chắn tòa nhà chính phủ (NLĐ). - Bà Yingluck bị bao vây (NLĐ).
- Ukraina : Luật ân xá cho người biểu tình bắt đầu có hiệu lực (RFI). - Phe đối lập Ukraine lập chính phủ riêng (NLĐ).

- Trần Mạnh Hảo – 35 năm! Hãy nhảy múa ăn mừng (Dân Luận). “Ngày 17-2-1979 tại biên giới Việt Trung/ 60 vạn Hoa quân nhập Việt/ Ngày 16-2-2014 trước tượng đài vua Lý Thái Tổ – Hồ Gươm/ Hàng trăm cặp đôi khiêu vũ ăn mừng/  Mừng sáu vạn chiến sĩ đồng bào Việt Nam ngã xuống/ Mừng tình hữu nghị Việt – Trung/ 35 năm xây bằng núi xương sông máu/ Trước tượng đài vua Lý rưng rưng/ Các đồng chí hãy múa hát tưng bừng…“. – Việt Nam: Nhảy múa trên những vết thương 1979 (Diplomat/ TCPT). – Dịch từ bài: Vietnam: Dancing with the Scars of ‘79 (Diplomat).  - Đường cưa hèn mạt và bước nhảy nhục vong (DLB).
- Lâm Bình Duy Nhiên – Hãy thôi đục bỏ lòng yêu nước! (Dân Luận). “Xin thắp một nén nhang bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến đồng bào và chiến sĩ, bất luận chế độ, tư tưởng chính trị, đã ngã xuống để bảo vệ vẹn toàn chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, để hồn thiêng sông núi Việt mãi mãi bất tử trong trái tim của mỗi công dân Việt Nam“.
- TS Trần Công Trục giải đáp về Luật Biển: Vùng Tiếp giáp lãnh hải là gì? (Infonet).
- Đừng ngạo mạn trong ngu dốt nữa! (FB Nguyễn Đình Bổn). “Và cũng vì vậy, với những ai còn xem Campuchia, hay Lào là đất nước đàn em, hãy tĩnh mộng, hãy thôi ngạo mạn, và nếu cần hãy đọc lại lịch sử để so sánh xem chúng ta và họ, ai có tầm cao hơn về văn học, kiến trúc, hội họa và bây giờ là điện ảnh!
Kim Jong-un và hàng trăm quan chức sắp bị xét xử? (Infonet). - Trung Quốc sẽ phản đối bất cứ cáo buộc nào của LHQ kết tội Triều Tiên (GDVN). - Mặc dân đói khổ, Kim Jong Un còn mạnh tay vung tiền hơn cha! (MTG). - Triều Tiên giận dữ chỉ trích báo cáo LHQ là “giả mạo” (MTG). - Tàn bạo như Đức Quốc xã, Kim Jong Un bị đòi đưa ra tòa quốc tế (MTG). - Cuộc sống khắc nghiệt ở Triều Tiên: Tẩy não, khủng bố tinh thần, tử hình công khai (MTG). - Triều Tiên bác báo cáo vi phạm nhân quyền (NLĐ). - Bị cáo buộc chống loài người, Triều Tiên lên tiếng (VTC). - Vì sao Triều Tiên đồng ý tổ chức chương trình đoàn tụ gia đình bị li tán? (NCT).

KINH TẾ
- Toàn cảnh kinh tế Việt Nam 17-2-2014 (VietFin). - Cần nỗ lực lớn mới đạt tăng trưởng 5,8% (HQ).
- Những nguyên tắc cải cách thuế (VietFin).
Cổ phiếu ngân hàng vẫn chưa thể hấp dẫn nhà đầu tư (TC).
Vàng ngày 17/2: Thử các đỉnh cao mới (ĐTCK). - Bất thường giá vàng (NLĐ).
Cổ phiếu cần quan tâm ngày 18/2 (ĐTCK). - Nhận định chứng khoán ngày 18/2: “Vẫn hướng về vùng 590” (VnEco).
Cà Mau: Nhiều dự án BĐS trở thành hoang hóa (HQ). - Người mua nhà muốn gì từ chủ đầu tư? (TBKTSG). - Ngân hàng tiết kiệm nhà ở có lặp lại vết xe đổ của quỹ tiết kiệm nhà ở không? (ĐBND).
Ngăn EVN “đội” giá điện (NLĐ).
Giá sữa tăng vì quản lý nhà nước kém (MTG).
Lập lại trật tự ngành xi măng (VnM).
1<- Hàng trăm tiểu thương đình công vì giá ki ốt quá cao (Tầm nhìn).
- Mờ nhạt thức ăn nhanh Việt: Đi tìm bí quyết (NLĐ).
Rau rừng về phố: có an toàn? (PNTP).
Khó khăn trong chống buôn lậu và gian lận thương mại (ĐBND).
Tăng trưởng của nền kinh tế Nhật Bản thấp hơn dự kiến (TTXVN).
- Pháp tìm cách thu hút đầu tư ngoại quốc để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (RFI).


VĂN HÓA-THỂ THAO
1Buôn thần, bán thánh, hối lộ… Phật (LĐ). - “Dám trèo lên bàn thờ cướp lộc thì đi lễ để làm gì?” (ĐS&PL). =>
Đi đến đâu xả rác đến đó: đừng đổ do nghèo (TT).
Đã chỉnh sửa các lỗi trong triển lãm “Danh tướng Việt Nam” (PLTP).
Xứ Thuận – Quảng trên tranh cuộn Nhật Bản (TT).
ÂM BẢN Truyện ngắn của PHAN CUNG VIỆT (ĐBND).
- Năm Việt Nam tại Pháp 2014 (RFI).
- CHÚC MỪNG VÀ MỜI THAM DỰ CHƯƠNG TRÌNH LỚN CỦA NHÀ THƠ VI THÙY LINH (VILI) (Nguyễn Quang Vinh).
- YÊU THỜI ĐỒ ĐỂU: KỲ 114 (Nhật Tuấn).
- Cưỡng Đoạt (Da Màu).
- ĐẦU XUÂN, THĂM NHÀ VĂN BÙI NGỌC TẤN VÀ THĂM VĂN MIẾU MAO ĐIỀN (Tễu).
- HUẾ: ĐÊM TƯỞNG NHỚ DANH CA HÀ THANH 17.2.2014 (Võ Quê).
- MỘT QUẢ BOM KHỦNG BỐ DỊCH THUẬT (Đào Hiếu).
- “Cứ cho hắn uống đi” (Nguyễn Đình Đăng).
- Ảnh về người nhập cư đạt giải Ảnh báo chí thế giới 2014 (Sống News).
10 nghi thức tang lễ kỳ lạ nhất thế giới (ĐS&PL).


Tin Xuân  (TiaSáng).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
Bộ bảo miễn, Sở xin không (PT).
Giảm số môn thi tốt nghiệp sẽ giảm áp lực thi cử? (VOV).
Đổi mới hình thức thi ở bậc học phổ thông bắt đầu từ khâu ra đề thi (GD&TĐ).
Đào tạo nghề trình độ cao đến 2020 (ĐBND).
Dự báo 6 ngành “hot” trong mùa tuyển sinh 2014 (Infonet).
Giáo viên đình công đòi trục xuất phó giám đốc (PNTP).
1Hà Nội tuyển dụng mới 303 viên chức giáo dục (DT).
<- Ưu tiên đầu tư cho trường học vùng biên giới (GD&TĐ).

Sẽ bỏ điểm sàn? (KTĐT). - Quý hồ tinh… (ĐĐK).

XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
Tiềm ẩn dịch bệnh ở biên giới (TP). - Ứng phó khẩn cấp phòng chống cúm gia cầm lây lan (VOV). - Quảng Ngãi: Dịch cúm A-H5N1 lan ra ba huyện (PLTP).
1- Sau Tết, lao động nghèo khăn gói trở lại thành phố (RFA).
Buốt ruột nhìn trâu chết rét mổ bán la liệt ở Sa Pa (VTC). =>
Mùa dịch, tiết canh vẫn đắt hàng (NLĐ).
Vụ xe khách đâm xe tải: mọi thứ kinh hoàng sau tiếng nổ (TT).
Chuyện khó tin về người đàn ông mù biết đi xe đạp và có… 10 vợ (LĐ).
Mất 1,3% GDP vì kém vệ sinh (NLĐ).
- Thời tiết ngày càng diễn biến thất thường (RFI). - Ông Kerry kêu gọi ‘quyết tâm chính trị’ chống biến đổi khí hậu (VOA).


QUỐC TẾ
- Tham mưu trưởng một liên minh nổi dậy Syria thân phương Tây bị cách chức  (RFI). - Quân đội Giải phóng Syria có tư lệnh mới (VOA).
EU hỗ trợ 12 triệu euro để tiêu hủy vũ khí hóa học Syria (TTXVN). - Nga thực hiện mọi cam kết để giải quyết khủng hoảng Syria (TTXVN).
- Một nhóm thân Al Qaida có thể là thủ phạm vụ khủng bố du khách Hàn Quốc tại Ai Cập (RFI).
Chính sách cân bằng Đông – Tây (ĐBND).
1<- Palestine lần đầu cảnh báo khả năng sụp đổ chính quyền (TTXVN). - Cảnh báo nguy cơ sụp đổ chính quyền Palestine (VOV).
Hòa đàm Pakistan-Taliban ngưng trệ vì cái chết của 23 binh sĩ (VOA).
- Venezuela trục xuất ba nhà ngoại giao Mỹ (RFI).
Chiến đấu cơ J-16 của Trung Quốc thực sự có gì? (Tin tức).
Trung Quốc ép Tây Ban Nha sửa luật? (PT). - Trung Quốc “do thám” Đức (NLĐ).
Ngoại trưởng Mỹ kết thúc chuyến công du Châu Á (VOA).
Cận cảnh ‘kẻ hủy diệt’ Iskander-M khai hỏa (TP).
Italy trao quyền lập chính phủ cho thị trưởng 39 tuổi (Tin tức). - Tân Thủ tướng Italy chuẩn bị thành lập chính phủ mới (VOV).
Venezuela trục xuất 3 viên chức tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Caracas (VOA).



* VTV: + Chào buổi sáng – 17/02/2014; + Tài chính kinh doanh sáng – 17/02/2014; + Thời sự 12h – 17/02/2014; + Tài chính kinh doanh trưa – 17/02/2014; + Tài chính tiêu dùng – 17/02/2014; + Thời sự 19h – 17/02/2014; + Tài chính kinh doanh tối – 17/02/2014; + Thế giới trong ngày – 17/02/2014.

Dương Trung Quốc - ‘Cần tôn vinh thế hệ đã hy sinh trong chiến tranh biên giới 1979’

"Đề cập cuộc chiến năm 1979 không phải để kích động hận thù mà là rút ra những bài học trách nhiệm với hoà bình. Một cuộc chiến chống xâm lược phải là niềm tự hào cần tôn vinh", sử gia Dương Trung Quốc chia sẻ với VnExpress.
- Trước lúc tiến hành cuộc chiến, lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố “dạy cho Việt Nam một bài học”. Theo ông thực chất của việc phát động cuộc chiến biên giới 1979 là gì ?

- Trước hết, tự thân lời tuyên bố của ông Đặng Tiểu Bình vào thời điểm ấy cho thấy thái độ kẻ cả của một nước lớn với Việt Nam. Ông Đặng không nói ra nội dung "bài học gì" nhưng theo tôi với một cuộc chiến tranh thì cuối cùng, cả bên đánh lẫn bên đỡ, bên được hay bên thua... đều rút ra được những bài học thích đáng.

Thời điểm Bắc Kinh phát động cuộc chiến, mục tiêu đầu tiên là cứu vãn chế độ diệt chủng Pol Pot-Khmer Đỏ vừa bị đánh bật khỏi Phnom Penh và có nguy cơ diệt vong ở Campuchia. Đây là kết quả cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam của Việt Nam và giúp đỡ lực lượng yêu nước Campuchia chống chế độ diệt chủng Khmer Đỏ.

Mục tiêu tiếp theo của Trung Quốc là khẳng định với Mỹ không còn ràng buộc gì với yếu tố hệ tư tưởng giữa các quốc gia từng là một khối liên minh chống Mỹ và là đồng minh của Việt Nam trong cuộc chiến tranh mà Mỹ vừa thất bại. Mục tiêu đó cũng phù hợp với chính sách của Mỹ là duy trì cấm vận và thù địch mang “hội chứng Việt Nam”.

Nói cách khác, cuộc chiến này giúp tăng cường mối liên minh với Mỹ được xác lập từ sau chuyến thăm Trung Quốc của tổng thống Mỹ Nixon khi chiến tranh Việt Nam đang diễn ra (1972).
duongtrungquoc-1349875729-480x-2295-6286
Theo nhà sử học Dương Trung Quốc một cuộc chiến tranh chống xâm lược như chiến tranh biên giới 1979 cần tôn vinh công lao và sự hy sinh của một thế hệ.  
Cuộc chiến tranh này cũng nhằm đối phó với mối quan hệ Việt-Xô được tăng cường, trong bối cảnh căng thẳng Trung-Xô ngày càng tăng, đã xảy ra xung đột vũ trang trên biên giới Trung-Xô. Nói cách khác, Trung Quốc đã đảo chiều chiến lược từ chỗ là đồng minh với Liên Xô thành đồng minh của Mỹ chống Liên Xô. Điều đó cũng gắn với mục tiêu cơ bản nhất là muốn Việt Nam phải trở lại vòng ảnh hưởng luôn được giới lãnh đạo Trung Quốc coi là mang tính “truyền thống”.

Và cũng không thể không nói đến ý đồ của Trung Quốc với Biển Đông mà cuộc đánh chiếm Hoàng Sa đầu năm 1974 là bước thăm dò quan trọng, trong đó có thái độ thoả hiệp của Mỹ.

- Vậy những bài học ấy đã được nhận thức như thế nào?

- 35 năm sau cuộc chiến tranh ấy, có rất nhiều bài học được rút ra không phải theo cách tuyên truyền mà bằng thực tế những gì đã diễn ra và chắc không chỉ có bài học với riêng Việt Nam.

Đầu tiên là bài học về hoà bình. Trong quá khứ, nếu cộng tất cả thời gian diễn ra các cuộc động binh của phương Bắc đánh vào nước ta và những cuộc kháng chiến của người Việt qua các triều đại, thì chiến tranh rất ngắn so với thời gian duy trì quan hệ hoà hiếu giữa hai nước. Qua trải nghiệm, ông cha ta đã tạo được bản lĩnh biết cách tồn tại cạnh một nước Trung Hoa có nhiều thăng trầm và có sức mạnh bành trướng, cũng như nguồn lực văn minh, để cùng một lúc vừa giữ được hoà hiếu vừa giữ được chủ quyền.

Khi Trung Quốc động binh ào ạt đánh chiếm các tỉnh biên giới phía Bắc, bài học rút ra là sự trưởng thành về nhận thức của người Việt Nam. Không thể ảo tưởng rằng có những giá trị cao hơn tinh thần và lợi ích dân tộc, đương nhiên không phải chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Thực tiễn cho thấy Việt Nam vẫn đứng vững là một quốc gia độc lập, tự chủ và có chủ quyền.

Sau đổi mới là tiến trình hội nhập sâu rộng với thế giới, trong đó có việc xác lập quan hệ hợp tác ngày càng có hiệu quả với các quốc gia trên thế giới. Quan hệ giữa Việt Nam và các quốc gia từng thù địch trong quá khứ, đặc biệt là Pháp và Mỹ hay Hàn Quốc, Nhật Bản... là những bằng chứng sống động về bài học rút ra từ các cuộc chiến tranh. Bài học rút từ chiến tranh luôn là bài học để gìn giữ hoà bình.
Ban-do-1979-JPG-9760-1392355066.jpg
Nhấn vào các mũi tên trên bản đồ để xem chi tiết diễn biến cuộc chiến năm 1979.
Với Trung Quốc, trong 35 năm qua chúng ta cũng chứng kiến những bước đi dài và đầy khó khăn từ chỗ bình thường hoá đến việc xác lập quan hệ đối tác chiến lược, toàn diện như ngày nay. Đó là cơ sở để chúng ta tiếp tục phát triển mối quan hệ với nước láng giềng nhiều tiềm năng, đồng thời giải quyết những vấn đề của quá khứ liên quan đến chủ quyền giữa hai nước mà nổi cộm nhất là quần đảo Hoàng Sa và Biển Đông, cùng với cộng đồng quốc tế. Không có môi trường hoà bình sẽ không bao giờ giải quyết được những vấn đề của quá khứ. Cho dù biết trước là rất khó khăn nhưng đó là cuộc đấu tranh kiên trì và không chỉ của riêng hai nước.

Việc Toà án quốc tế đang tiếp tục hoàn thành việc xét xử tập đoàn diệt chủng Pol Pot như tội phạm chiến tranh; việc cố Quốc vương Norodom Xihanuc hay những nhà lãnh đạo Campuchia đương đại xác nhận sự đóng góp to lớn và quyết định, bằng xương máu của nhân dân Việt Nam trong việc tiêu diệt Khmer Đỏ giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng là bằng chứng thuyết phục để thế giới hiểu hơn về cuộc chiến tranh Trung Quốc đã phát động  35 năm về trước.

Hành động của Trung Quốc thời kỳ đó đã khiến Việt Nam phải mất ngót một thập kỷ mới giúp đỡ nhân dân Campuchia tiêu diệt được hoàn toàn Khmer Đỏ. Người dân Việt Nam không chỉ hy sinh xương máu mà còn bị thế giới cô lập vì tuyên truyền của Trung Quốc lên án Việt Nam xâm lăng Campuchia.

Trên bình diện quốc tế, những xung đột lợi ích của Trung Quốc với Mỹ (đồng minh cách đây 35 năm), đòi hỏi quá đáng và không căn cứ của Trung Quốc với chủ quyền nhiều nước khác trên biển, trong đó có Biển Đông, cho thấy bài học quá khứ vẫn còn giá trị trong những nỗ lực phát triển mối quan hệ hoà hiếu với “người láng giềng định mệnh” này. Người Việt Nam vẫn phải thuộc bài học lớn nhất, mà tổ tiên qua bao thế hệ đúc kết, là phải biết đoàn kết bên trong thì mới giữ vững chủ quyền và phát triển đất nước, mới giữ được mối quan hệ hoà hiếu thực sự với thiên hạ bên ngoài mà Trung Quốc luôn có một vị thế quan trọng.

- Ông nghĩ sao về việc nhiều năm nay giai đoạn lịch sử này gần như biến mất khỏi chính sử, sách giáo khoa, giáo trình đại học?

- Hiện tượng nêu trên là có thật. Trong các bảo tàng lịch sử hiện đại, khoảng trống này đôi khi đặt ra những câu hỏi rất đáng suy nghĩ của các khách tham quan, nhất là các bạn trẻ.

Tôi tin, trong công tác nghiên cứu, chiến tranh biên giới phía Bắc vẫn được quan tâm vì quan hệ với Trung Quốc mãi mãi là một nhân tố rất quan trọng. Những tài liệu lưu trữ hay hiện vật lịch sử có thể còn, nhưng việc không được đưa vào giảng dạy, trưng bày và để cho các thế hệ biết tới, theo tôi là sai lầm.

Vấn đề là cách trình bày, thông điệp của chúng ta khi đề cập tới những sự kiện loại này không nhằm kích động hận thù mà là những bài học về trách nhiệm với hoà bình. Nhân dân nước nào cũng ưa chuộng hoà bình. Ứng xử của chúng ta với những giai đoạn lịch sử thời kháng chiến chống Pháp hoặc chống Mỹ là những bằng chứng. Bảo tàng chứng tích chiến tranh ở TP HCM thu hút không chỉ khách trong nước mà cả khách nước ngoài và những người từng ở bên kia chiến tuyến đến xem, mang lại hiệu ứng rất tích cực. Tại sao Chiến tranh biên giới 1979 lại ngoại lệ? Một cuộc chiến tranh chống xâm lược phải là niềm tự hào cần tôn vinh với công lao và sự hy sinh của một thế hệ.

Phải chăng ai đó vẫn viện vào cái phương châm “khép lại quá khứ để hướng tới tương lai?”. Hiểu khép lại như thế nào là đúng mới quan trọng. Chiến tranh là một hiện tượng mà nhiều dân tộc đã trải qua, phải đối diện với những di sản của nó.

Giới sử học nhiều nước từng có chung mong muốn là làm sao sách giáo khoa không che giấu sự thật về các cuộc chiến tranh trong quá khứ, đồng thời không khoét sâu tâm lý thù địch giữa các dân tộc, quốc gia. Nói cách khác là thái độ của chúng ta trước những hố sâu ngăn cách bởi những cuộc chiến tranh trong quá khứ như thế nào. Khoét sâu thêm thù hận? Lấp đầy bằng sự quên lãng? Cuối cùng, cách tốt nhất là trân trọng giữ lại nguyên vẹn sự thật của quá khứ như những trải nghiệm đau thương và vượt qua hố sâu đó bằng một cây cầu hữu nghị mà mỗi bên đều có trách nhiệm xây đắp.

Nguyễn Hưngthực hiện
(VnExpress)

Thư giãn cuối tuần: MÀN KHIÊU VŨ VÀ CHỢ QUẦN ÁO DƯỚI CHÂN TƯỢNG VUA LÝ

...cc : Xem cái hình đầu tiên tôi  nhớ cái hồi được “cách mạng” dạy cho cái văn hóa văn minh Cọng sản”: (sau 1975)
- Ăn đũa 2 đầu – ăn một đầu bị chửi “bán nước nên theo bọn mọi rợ ăn ở mất vệ sinh quen rồi”- Sao nay ăn đũa một đầu??? mọi rợ cả lũ nhỉ.
-  Nữ mặc quần nhìn nổi 2 đường gân như đĩ điếm (cái quần xì líp nữ may đường biên dày do theo mốt nổi lên quần ngoài khi đi hay ngồi)- ăn mặc lòi  vú dơ mông thấy bại hoại nhân cách.
- Tại sao tiếng Việt có chữ “chố ỉa chỗ đái” không dùng lại dùng “Tiêu Tiểu”…( lại cũng do bán nước)- Nhiều lắm nhắc lại không hết về việc được dạy văn minh văn hóa XHCN.  
     Cái bọn Việt gian liếm đít Trung cộng nó nhiều lắm , Cụ Đức mà có kêu ai thì cũng vậy thôi- Nó nguyện theo Trung cộng đến cùng và nó ăn mừng ngày Đồng bào ta kỷ niệm sự hy sinh vĩ đại của Chiến sĩ và Đồng bào chống Trung cộng xâm lược bị Trung cộng tàn sát dã man, nó đem ra đây ăn uống là nó tiếc chưa uống được máu của Chiến sĩ và Đồng bào ta đấy- Nó có tự ái Dân tộc gì đâu mà nó còn hảnh diện là đàng khác, nay mai  đồng chí Tập chủ tịch sẽ gởi đồ ăn sang cho chúng.Xem cung cách ăn mặc…toàn là bọn “Vô sản giàu có”. Và là dân Hán mà, đâu phải Dân Việt, nên nó coi thường Tổ tiên Việt nam ta là phải rồi, nhưng bao lần ôm đầu máu chạy về Tầu.

Tễu

http://ttxcc6.files.wordpress.com/2014/02/d0b53-1012042_448199871976298_627401992_n.jpg
 Chỉ cần xem hình, không cần bình luận đã muốn nôn ói rồi!  -(Bìa phải là cụ Lê Hiền Đức)
Lê Hiền Đức:  – Xưa nay tôi vốn dĩ đã ghét những phụ nữ ăn mặc hở hang ( thỉnh thoảng đi chợ mà gặp những nữ sinh viên mặc cái quần bò trễ cạp..,đang ngồi lê la ở chợ ăn quà,tôi ngứa mắt thường lấy chân đá vào mông chúng mà nói:”con gái,con đứa ăn mặc cho kín đáo 1 tí,bà nhìn thấy cái mông của cháu hở hang,bà buồn nôn quá…’đây lại là phụ nữ lớn tuổi,tôi càng kinh tởm hơn !!!khi nhìn thấy phụ nữ này ăn mặc hở hang,nhố nhăng….mà đây lại là nơi trang nghiêm (trước tượng đài Lý Thái Tổ,hơn nữa hôm nay lại là ngày lễ Tưởng niêm các vị anh hùng,liệt sỹ…Hỏi rằng: làm sao tôi không “điên tiết lên??? Khó chịu quá: tôi dùng tay kéo cái (dây áo) của hắn,mà rằng:”Cháu có phải là người Phụ nữ hay không???”,hắn vội kéo cái dây áo lên,và múa tay trước mặt tôi…Nhìn hình ảnh thì các bạn thấy rõ rồi đó !. Chuyện này có lẽ tôi phải gặp phó chủ tich UBND thành phố Hà nội để chất vấn mấy câu ,có nen không?các bạn nhỉ ??? – Sáng qua chỉ vì ngày lễ nên tôi không muốn gây rắc rối,to chuyện,nên tôi chỉ gọi cái người phụ nữ lăng loàn ,uốn éo,nhố nhăng ra “chỉ bảo”vài điều với tính thiện chí như 1 người mẹ dạy con cái…không ngờ tên (mặc áo ” 2 dây”) này nó lại còn múa trước mặt để trêu ngươi tôi !!!tôi định làm to chuyện …nhưng vì nghĩ:”Hôm nay là ngày lễ thiêng liêng”nên tôi đã kìm hãm,nhưng tôi sẽ không bỏ qua,đề nghị các bạn tim hiểu xem tên phụ nữ “áo 2 dây” nó ở đâu?làm nghề nghiệp gì???có phải “gái mại dâm” không??? để có thể cho hăn “1 bài học” !!!Tôi vừa gọi điện cho Nguyễn thị Bích Ngọc …nhưng không thưa máy,chắc phải gọi cho chị nguyễn thị Doan thôi ,có nên không hả các bạn??? http://ttxcc6.files.wordpress.com/2014/02/526cf-1908255_448199808642971_1796932518_n.jpg Lê Hiền Đức: Chúng nó thường đi dẹp các chợ, vậy hôm nay sao chúng nó lại cho bầy quần áo la liệt ở nơi linh thiêng này???Đây có phải là “chợ bán quần áo không???
Hà Nội ăn mừng ngày Trung Quốc nổ súng tấn công toàn tuyến biên giới Phía Bắc tháng 2 năm 1979 thật xôm trò!
http://ttxcc6.files.wordpress.com/2014/02/c15a1-p1320212.jpg http://ttxcc6.files.wordpress.com/2014/02/89bc0-p1320213.jpg http://ttxcc6.files.wordpress.com/2014/02/ad53c-5498_728723257161623_205935025_n.jpg http://ttxcc6.files.wordpress.com/2014/02/93c8b-1901330_206725166193960_1357781319_n.jpg http://ttxcc6.files.wordpress.com/2014/02/b969c-1957978_206725149527295_454030648_n.jpg http://ttxcc6.files.wordpress.com/2014/02/aac30-1912091_728534927180456_1583354898_n.jpg http://ttxcc6.files.wordpress.com/2014/02/0e900-75944_452843361510728_750454003_n.jpg http://ttxcc6.files.wordpress.com/2014/02/a04d7-1601109_452843441510720_1742965309_n.jpg http://ttxcc6.files.wordpress.com/2014/02/de109-1898065_452843598177371_1045446315_n.jpg http://ttxcc6.files.wordpress.com/2014/02/1db32-1926912_452843148177416_1006057547_n.jpg http://ttxcc6.files.wordpress.com/2014/02/aa8ff-1960044_452843261510738_445100135_n.jpg
 Hà Nội ăn mừng ngày Trung Quốc nổ súng tấn công toàn tuyến biên giới Phía Bắc  tháng 2 năm 1979 thật xôm trò!
NỖI ĐAU NÀO ĐAU HƠN?
THÁNG HAI 35 năm trước, chiến sỹ QĐNDVN Việt Nam bị ĐỒNG CHÍ Tàu bắn nát ngực.
THÁNG HAI 35 năm sau Việt gian CHỬI người đi tưởng niệm 6 vạn chiến sỹ đồng bào đã chết dưới tay bọn bành trướng là những kẻ quậy phá SỰ BÌNH YÊN CỦA những đôi nhảy nhót theo tiếng nhạc Tàu trước tượng Cụ Lý Thái tổ
* FBker Thùy Trang – https://www.facebook.com/photo.php?v=478705485575196 đã chứng minh bản nhạc để NHẢY NHÓT ĂN MỪNG sáng nay là nhạc Tàu, ĐƯỢC nhạc sĩ Hồ Quang Hiếu ĐẠO NHẠC, đặt lời Việt là “Con bướm xuân”.  
Nguyên bản của bài hát “中國恰恰” (TRUNG QUỐC CHÍNH NGHĨA).  
Mời các bạn nghe Video do ca sĩ TRUNG QUỐC 吳秀珠 NGÔ TIỂU NHƯ trình bày để so sánh bản nhạc trong video Clip NHẢY NHÓT tại vườn hoa LÝ THÁI TỔ ngày hôm nay 16-2-2014.    https://www.facebook.com/photo.php?v=478647002247711

CHÍNH QUYỀN HÀ NỘI SỬ DỤNG BẢN NHẠC TRUNG QUỐC CHÍNH NGHĨA 中國恰恰

Thùy Trang chứng minh cho các bạn thấy rằng CHÍNH QUYỀN HÀ NỘI đã sử dụng bản nhạc TRUNG QUỐC CHÍNH NGHĨA (中國恰恰) để NHẢY NHÓT ĂN MỪNG NGÀY TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC 17-2-1979.
 
Bản nhạc nầy ra đời cách đây gần 30 năm bài nầy bị nhạc sĩ Hồ Quang Hiếu ĂN CẮP (ĐẠO NHẠC) sửa lại lời Việt là “Con bướm xuân”. Nguyên bản của bài hát “中國恰恰” (TRUNG QUỐC CHÍNH NGHĨA), do ca sỹ diễn viên nổi tiếng Trung Quốc – Kim Khánh trình bày. Mời các bạn nghe Video do ca sĩ TRUNG QUỐC 吳秀珠 NGÔ TIỂU NHƯ trình bày bài “中國恰恰” (TRUNG QUỐC CHÍNH NGHĨA) . Để so sánh bản nhạc trong video Clip NHẢY NHÓT tại vườn hoa LÝ THÁI TỔ ngày hôm nay 16-2-2014. https://www.facebook.com/photo.php?v=478647002247711
Thái Hữu Tình  Vong quốc nô nhảy bài…Vong quốc vũ !
 
Mười bảy tháng hai năm bảy chín
Sáu mươi vạn quân Tàu giày xéo Bắc biên cương
Có viên tướng Cộng sản ngang nhiên làm nội ứng
Dạy rằng Trung quốc tốt với ta
Báo động quá làm chi
Hãy ăn ngủ bình thường, súng ống cất vào kho! (1)
Một ngày sau, giặc đến!
Nhưng chiến sĩ ta phản ứng kiên cường
Không tiếc máu xương, đẩy lùi quân giặc.
Giá Tự do bao giờ cũng đắt
Sáu vạn con người ngã xuống
Mấy đọi máu đào một tấc đất quê hương?
Nay đến ngày kỷ niệm
Không quốc tang, quốc lễ, quảng trường
Không một nén nhang
Tri ân những anh hùng tử trận?
Lại xua một lũ “bất tri vong quốc hận
Nhảy múa lăng nhăng cho đẹp ý quân thù!
Hà nội hay Bắc kinh ra lệnh,
Tổ quốc tồn vong ai có biết?
Bốn nghìn năm sao người Việt bỗng hèn ngu?
Họ múa điệu gì vậy?
Nào, cứ nhảy múa lên
“Bạn vàng” đã chiếm biển khơi
Đã kiểm soát bầu trời
Đã rải quân đến từng thành phố
Đã len lỏi đến từng hang ổ
Từng khoáng sản, núi rừng, hầm mỏ
Đại gia đình chủ nghĩa búa liềm ơi…
Vui quá là vui
Oai quá là oai
Những bước chân
Vong quốc nô
Vứt liêm sỉ, nhảy bài… Vong quốc vũ!
Thái Hữu Tình – 16-2-2014
—-
(1) Chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979:  Trước ngày quân bành trướng nổ súng, đại tướng Văn Tiến Dũng ra lệnh giảm cấp báo động, vũ khí cất vào kho, cán bộ về nhà nghỉ phép. 

Luật cư trú và chuyện công an gõ cửa nhà dân vào lúc đêm khuya


Không biết ở các nước Tư bản Chủ nghĩa có hay xảy ra tình trạng cảnh sát gõ cửa nhà người dân vào lúc đêm khuya chỉ để kiểm tra nhân khẩu hay không? Còn tại Việt Nam, chuyện này rất thường xảy ra, khoảng từ 23h cho đến 00h30, công an khu vực thường hay đi làm công việc này.

Công việc của họ là kiểm tra trong nhà đang bao gồm những ai, có đăng ký tạm vắng, tạm trú, chủ hộ có tiến hành đăng ký lưu trú cho người thân, bạn bè đã ở lại qua đêm tại nhà mình hay không...

Chuyện kiểm tra lần đầu tiên

Vì tính tôi ham vui, có chút nhậu nhẹt là tôi không muốn về sớm. Cũng chính vì thế mà sau khi chè chén xong thì trời đã khuya, người lại xay xỉn nên thường ngủ qua đêm tại nhà bạn.

Nhờ thế nên tôi có cơ may được trải nghiệm 2 lần cảnh công an gõ cửa nhà bạn tôi vào lúc đêm khuya để kiểm tra nhân khẩu.

Lần đầu tiên là lúc 23h30, khá đông công an mặc thường phục và sắc phục, cùng nhiều dân phòng đứng trước cổng gõ cửa gọi tên chủ nhà.

Nghe tiếng gõ cửa và gọi tên, bạn tôi ra hỏi có chuyện gì, thì một người trong số họ trả lời: "chúng tôi đến để kiểm tra nhân khẩu".

Bạn tôi hỏi lại: "các anh đến kiểm tra thì cần gì đi đông thế này? Các anh vào nhà tui đông thế này, tui không theo dõi được hết, lỡ nhà tui mất đồ thì sao?

Một công an trả lời: "chúng tôi là công an thì sao nhà anh mất đồ được".

Bạn tôi đáp: "Ai mà biết được các anh. Vì người đàng hoàng không ai đi gõ cửa nhà người khác vào giờ này. Nếu nhà các anh bị người ta gõ cửa làm phiền vào giờ này thì các anh thấy như thế nào?

Thế nhưng bạn tôi vẫn mở cổng cho họ vào nhưng cương quyết chỉ cho 2 người công an mặc đồng phục vào nhà, và yêu cầu tất cả những người còn lại phải đứng bên ngoài.

Khi 2 công an chen qua cánh cổng sắt vào nhà, một người ngồi tại phòng khách ghi biên bản, còn một người yêu cầu bạn tôi dẫn đi khắp nhà để kiểm tra. Cứ mỗi lần đi qua bất kỳ phòng nào, người công an này cũng đưa mắt vào từng phòng mà ngó vào, kể cả phòng ngủ của chị em phụ nữ, và họ cũng không quên thò đầu vào cái toilet xem có ai "trốn" trong đó không.

Sau khi đi khắp nhà kiểm tra xong, họ cùng nhau lập biên bản về việc có chấp hành việc đăng ký lưu trú hay không.

Không đợi công an hỏi về việc thông báo lưu trú của chúng tôi, chúng tôi đã chủ động nói "chúng tôi đến đây lúc 23h01', nên mai chúng tôi mới thông báo lưu trú". Chắc có lẽ, công an kiểm tra cũng biết cái lợi hại ở chỗ 01 phút đó, thế là họ không đá động gì tới chúng tôi nữa.

Trong lúc ngồi lập biên bản, bạn tôi hỏi: "sao giờ này các anh không ở nhà ngủ với vợ con mà lại đi làm những việc như thế này?"

Một công an viết biên bản trả lời: "chúng tôi cũng muốn thế nhưng vì nhiệm vụ nên phải làm thôi!"

Sau đó họ ra về mà không phát hiện được gì, và một phép lịch sự tối thiểu là "xin lỗi vì làm phiền chủ nhà" cũng không có.

Lần thứ hai

Khoảng 20 ngày sau, lúc 12h đêm, cũng với quân số như lần đầu tiên, họ tiếp tục gõ của thực hiện "nhiệm vụ" này một lần nữa ở nhà bạn tôi.

Không biết xui rủi hay sao mà hôm đó tôi cũng có mặt tại ngôi nhà đó. Tất nhiên, lần này bạn tôi không giấu được vẻ bực bội, văng tục mấy câu rồi phán: "dek mở cửa nữa!”.

Sau đó tắt đèn rồi bỏ lên lầu nhìn xuống mặc cho họ gõ cửa và gọi tên bạn tôi.

Qua 10 phút gõ cửa nhưng không thấy bạn tôi lên tiếng trả lời, họ không biết làm gì hơn là người đứng, người ngồi, người thì đi tới đi lui trước cửa nhà, đặc biệt người mặc thường phục tay cầm điện thoại nói chuyện liên tục như để "xin chỉ đạo", nhưng họ đều có điểm chung là cứ nhìn đăm đăm vào nhà.

Không thấy hồi đáp từ chủ nhà, chắc có lẽ những người này muốn gỡ gạc chút ít cho "nhiệm vụ" của mình, bằng cách gõ cửa ngôi nhà sát bên cạnh để kiểm tra.

Thế là nhà bên cạnh mở đèn lên, chúng tôi đứng ở trên nhìn xuống, cảm giác rằng công an khu vực kiểm tra nhân khẩu như đang cần chút ánh sáng cho nhiệm vụ của mình.

Đứng trên lầu nhìn xuống, bạn tôi bình luận: "Giả sử hai vợ chồng nhà kế bên đang giữa lúc cao trào chuẩn bị "lên đỉnh", mà tụi nó lại đập cửa, réo tên người ta lên thế này, Đ.M chịu sao nổi.

"M. vô Hội đồng Nhân quyền cái đ. gì? Quyền tự nhiên sung sướng nhất của con người là lúc nửa đêm vợ chồng người ta đang "chịch chịch" mà cũng muốn phá là sao?

Rồi sau này vợ chồng người ta đang nuôi con nhỏ, nửa đêm cũng phải phải mở cửa cho tụi nó thò đầu vô coi", bạn tôi lắc đầu nói. Chính vì thế nên bạn tôi quyết định: "Sẽ không bao giờ mở cửa nữa, cho vào một lần rồi ăn quen!"

Thế là sau khoảng 30 phút vật vờ trước cửa nhà, việc vào bạn tôi để nhà kiểm tra nhân khẩu trở thành một "nhiệm vụ bất khả thi" do sự quyết liệt của một "thanh niên cứng" như bạn tôi, nên công an đành kéo nhau ra về.

Và lần kiểm tra thứ ba

Cứ tưởng sau vụ kiểm tra bất thành này, họ thấy có chút gì hổ thẹn mà không làm cái “nhiệm vụ” này nữa. Nhưng không ngờ đúng một tuần sau, lực lượng kiểm tra lần này được tăng cường còn đông hơn hai lần trước, gần 20 người, bao gồm công an và dân phòng, và rất đông người mặc thường phục.

Rất tiếc là đêm đó tôi không có mặt, nhưng nghe bạn tôi nói lại rằng không biết có phải cay cú vì không hoàn thành "nhiệm vụ" lần trước, và rút ra được kinh nghiệm từ cái "01 phút" của chúng tôi như lần kiểm tra đầu tiên hay không, mà lần này công an khu vực lại "canh me" đúng 23h01' thì họ kéo đến.

Cũng sự quyết liệt như mọi lần, có 3 công an mặc sắc phục, có bảng tên đàng hoàng thì bạn tôi mới cho vào, và thêm một bà tổ trưởng tổ dân phố.

Cũng như mọi khi, bên công an yêu cầu dẫn đi kiểm tra xem trong nhà có bao nhiêu người và đề nghị những người trong nhà xuất trình CMND để lập biên bản. Lần này Công an bắt đầu lập biên bản bạn tôi vi phạm lưu trú vì không thông báo lưu trú cho một người sinh viên vừa vào nhà ở trọ vào lúc sáng.

Tuy nhiên, bạn tôi nhất quyết không ký biên bản mà ra khóa cửa lại để công an khu vực ngồi nghe chị em của anh ta "giảng" về luật pháp và cũng như cách hành xử của những người thực thi pháp luật.



Video được thực hiện bởi blogger Châu Văn Thi
“Luật vớ vẩn”

Như vậy, qua câu chuyện nhà của một người dân bị công an gõ cửa vào lúc đêm khuya đến 3 lần chỉ trong thời gian một tháng, nhưng không phát hiện được gì, cũng không xử phạt được, có cho thấy điều gì bất ổn từ luật pháp và những người thi hành luật pháp hay không?

Điều 31 Luật cư trú quy định về việc Lưu trú và thông báo lưu trú

1. Lưu trú là việc công dân ở lại trong một thời gian nhất định tại địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn ngoài nơi cư trú của mình và không thuộc trường hợp phải đăng ký tạm trú.
2. Gia đình, nhà ở tập thể, cơ sở chữa bệnh, khách sạn, nhà nghỉ, cơ sở khác khi có người từ đủ mười bốn tuổi trở lên đến lưu trú có trách nhiệm thông báo việc lưu trú với Công an xã, phường, thị trấn. Việc thông báo lưu trú được thực hiện trực tiếp hoặc bằng điện thoại. Công an xã, phường, thị trấn có trách nhiệm thông báo địa điểm, số điện thoại nơi tiếp nhận thông báo lưu trú cho nhân dân biết.
3. Việc thông báo lưu trú được thực hiện trước 23 giờ, nếu người đến lưu trú sau 23 giờ thì thông báo lưu trú vào sáng ngày hôm sau; trường hợp ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, anh, chị, em ruột đến lưu trú nhiều lần thì chỉ cần thông báo lưu trú một lần.

Thứ nhất, Điều luật này định nghĩa: Lưu trú là việc công dân ở lại trong một thời gian nhất định tại địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn ngoài nơi cư trú của mình.

Vậy để làm rõ cụ thể cho quy định "ở lại trong một thời gian nhất định" là ở lại trong bao lâu thì cần tiến hành đăng lý lưu trú? Hiện nay không có quy định nào nói rằng “ở lại trong một thời gian nhất định” là như thế nào? Nếu đã không xác định được "ở lại trong một thời gian nhất định" là bao lâu (đến mấy giờ và đi mấy giờ), thì sẽ không có ai là đối tượng điều chỉnh của việc lưu trú.

Thứ hai, nếu chiếu theo khoản 3 của điều luật luật này, tức là lấy mốc thời gian trước và sau 23h để thực hiện công việc thông báo lưu trú, thì người kiểm tra lưu trú cũng sẽ chẳng phạt được ai.

Bởi lẽ, công an chỉ được phép tiến hành kiểm tra đăng ký lưu trú sau 23h, thì người bị kiểm tra cũng đều có thể trả lời như rằng "tôi đến đây vào lúc 23h01', nên tôi sẽ thông báo lưu trú vào ngày mai".

Không lẽ công an "núp lùm" ghi hình lại hình ảnh người đó vào nhà trước 23h để để lấy đó làm bằng chứng đợi tới sau 23h mà không thấy chủ nhà thực hiện việc thông báo lưu trú thì tiến hành kiểm tra để xử phạt?

Giả sử người kiểm tra có "canh me" gõ cửa thực thi nhiệm vụ vào lúc đúng 23h01' như lần thứ ba ở nhà bạn tôi, thì ai cũng có thể trả lời rằng: “tôi đang gọi điện để đăng ký lưu trú đây, nếu các anh đã đến thì bây giờ tôi đăng ký luôn.”

Qua đó cho thấy điều luật này vớ vẩn ở chỗ dù gọi là luật nhưng ai đã từng đọc qua nó thì đều có thể lách được. Cái điều luật này chỉ có thể dành phạt vạ cho những người dân ít có cơ hội tiếp xúc với luật, hay "giở trò" cúp máy khi người dân gọi điện đến thông báo lưu trú, để rồi sau đó kiểm tra và sách nhiễu, như trường hợp của bạn tôi.

Công an được phép gõ cửa kiểm tra trong trường hợp nào?

Theo khoản 1, điều 26 thông tư số 52/2010/TT-BCA quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cư trú, Nghị định số 107/2007/NĐ-CP ngày 25-6-2007 và Nghị định số 56/2010/NĐ-CP ngày 24-5-2010, thì “hình thức kiểm tra cư trú được tiến hành định kỳ, đột xuất, hoặc do yêu cầu phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh, trật tự”.

Cũng theo khoản 4, điều 26, Thông tư 52 thì “cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân được giao quản lý cư trú tại địa bàn có quyền kiểm tra trực tiếp việc chấp hành pháp luật về cư trú đối với công dân, hộ gia đình, cơ quan, tổ chức thuộc địa bàn quản lý."

Những văn bản pháp luật này là cơ sở cho phép công an khu vực gõ cửa lúc nửa đêm bất kỳ nhà người dân nào.

Cũng qua một khu rừng luật quy định về việc cư trú này thì ta mới được biết việc gõ cửa nhà dân lúc nửa đêm là do yêu cầu... "phòng chống tội phạm, gìn giữ an ninh, trật tự."

Với lý do “phòng chống tội phạm, gìn giữ an ninh, trật tự”, công an khu vực có thể gõ cửa bất kỳ nhà người dân nào nếu họ muốn.

Không biết công an đã phát hiện và bắt được bao nhiêu tội phạm nhờ vào việc gõ cửa nhà người dân vào lúc đêm khuya như thế này? Nhưng qua 3 lần đến kiểm tra một ngôi nhà, ung dung đi vào rồi lại lủi thủi đi ra, cũng đủ cho chúng ta thấy hiệu quả của việc phát hiện và bắt tội phạm bằng phương pháp này.

Mà nếu có bắt được tội phạm trong trường hợp này cũng thật đáng ngại vì nó cho thấy sự yếu kém của của những người bảo vệ pháp luật. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào việc may rủi, giống như việc gõ cửa đại, hên thì biết đâu trúng một kẻ đang có lệnh truy nã, và thế là sẽ có thành tích, bất chấp việc gây phiền hà và sách nhiễu cho người dân.

Còn việc gìn giữ an ninh, trật tự thì không biết tới đâu, nhưng trước mắt dễ dàng nhận ra rằng với một "đội ngũ hùng hậu" công an, dân phòng vác gậy đi lon ton giữa đêm khuya, tiến hành kiểm tra một căn nhà trong một khu phố, dù các anh có đi chầm chậm, nhẹ nhàng như lê gót hồng, hay có phép lịch sự tối thiểu là tắt máy xe ở đằng xa đi chăng nữa, thì đám chó cũng sẽ đánh hơi ra và sủa lên, làm huyên náo một khu phố vào đêm khuya.

Ở các thành phố thì còn đỡ vì mỗi nhà thường có cửa kiếng cách âm và ít chó. Nhưng ở những vùng quê thì hầu như nhà nào cũng nuôi chó cả bầy, nửa đêm khuya mà chúng đua nhau sủa thì cho dù có hiền như Bụt cũng không tránh khỏi bật dậy, và phàn nàn: "Mấy con chó này! Sao giờ này mà sủa hoài, không để cho ai nghỉ nghơi!"

Từ chỗ thực thi nhiệm vụ gìn giữ an ninh, trật tự nhưng những người thực hiện nhiệm vụ này lại trở thành người gây mất an ninh, trật tự, làm ảnh hưởng đến sự bình yên nhân dân.

Về thẩm quyền kiểm tra cho việc cư trú này, chỉ cần là công an xã, phường thì đều có quyền thực hiện việc gõ cửa bất kỳ nhà người dân nào trên địa bàn mà mình đang quản lý để kiểm tra.

Người dân nào chỉ cần làm họ phật lòng thì đều có khả năng bị gõ cửa "định kỳ hoặc đột xuất" vào lúc nửa đêm.

Bởi vậy người dân sinh sống trên địa bàn thường hay sợ công an khu vực nên hay cung phụng cho họ để đổi lấy sự yên lành là vậy.
Qua đó có thể thấy, với những quy định này đã góp phần tạo điều kiện cho công an khu vực có được sự tùy tiện, lạm quyền để sách nhiễu người dân.

Luật vi hiến

Đứng về phương diện khoa học pháp lý, xem xét hành vi của công an khi vào nhà người dân để tiến hành kiểm tra nhân khẩu, thì có thể coi đây là một hình thức của việc "khám xét chỗ ở của công dân" được quy định tại điều 73 Hiến Pháp hiện hành.

Cả Hiến pháp hiện hành và Hiến pháp vừa mới thông qua đều quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý.”

Thế nhưng, hành vi "vào chỗ ở của người khác" để tiến hành khám xét trong nhà dưới cái gọi là "kiểm tra nhân khẩu" thì không cần đến bất kỳ một lệnh nào của Tòa án, Viện Kiểm Sát, hay Thủ trưởng Cơ quan điều tra...

Để làm việc này, các công an cấp xã, phường chỉ cần đứng trước cổng nhà, đập cửa thật mạnh, gọi tên chủ nhà thật to, sau đó thì ung dung đi vào nhà, đi tới đi lui khám xét tất cả mọi ngỏ ngách trong nhà.

Vi hiến một cách lộ liễu như thế, sách nhiễu cho sự bình yên của người dân như vậy, mà giờ này Luật cư trú và một rừng văn bản dưới luật như Thông tư, Nghị định quy định chi tiết về vấn đề này vẫn còn tồn tại!?

Vi phạm nhân quyền

Qua sự việc này chúng ta thấy mỗi lần công an thực thi "nhiệm vụ" đã vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.

Thứ nhất, xâm phạm đến quyền được nghỉ ngơi.

Điều 24, Tuyên Ngôn Phổ Quát Nhân Quyền 1948 viết: Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi...

Việc công an gõ cửa nhà dân vào đêm khuya chỉ để kiểm tra mỗi nhà có chấp hành đúng quy định của luật Cư trú hay không, đã làm ảnh hưởng đến sức khỏe, tinh thần, giấc ngủ của không chỉ riêng những người trong nhà bị kiểm tra, mà ảnh ảnh chung đến những người hàng xóm xung quanh. Nó đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền nghỉ ngơi chính đáng của người dân.

Không biết có phải vì “khác biệt nhân quyền” hay không, mà hiện nay Hiến Pháp hiện hành và Hiến Pháp 2013 vừa mới thông qua vẫn chưa ghi nhận "quyền nghỉ ngơi" theo Tuyên ngôn Nhân quyền, mà chi có cụm từ "chế độ nghỉ ngơi" dành cho người lao động.

Thứ hai, hạn chế "quyền được mưu cầu hạnh phúc"

Nói như cách của bạn tôi, vào giờ thực thi “nhiệm vụ” kiểm tra này, cũng là giờ mà nhiều người đang… "chuẩn bị lên đỉnh”.

Vấn đề sinh hoạt tình dục hơi tế nhị vì thế pháp luật cũng không mô tả cụ thể quyền này, nhưng chúng ta có thể hiểu sinh hoạt tình dục của vợ chồng trong mỗi gia đình là một phần của quyền "mưu cầu hạnh phúc"

Tuy chưa có thống kê nào nói chuyện chăn gối của các cặp vợ chồng có thường diễn ra trong khoảng thời gian công an khu vực "thực hiện nhiệm vụ" này hay không. Nhưng nếu nhìn vào thời gian sinh hoạt trong mỗi gia đình, thì có thể nói rằng, lúc khoảng nửa đêm từ 23h đến 00h là thời gian thường để dùng cho việc ân ái vợ chồng.

Khi vợ chồng đang “lâm trận”, mà chẳng may bị công an đứng bên ngoài đập cửa, gọi tên, thì cũng ngậm ngùi... "cụt hứng", đành "gác kiếm, hoãn binh", vùng dậy như con lật đật, xỏ vội bộ quần áo để "tiếp" các anh đang làm "nhiệm vụ".

Thứ ba, vi phạm quyền tự do cá nhân

Trong gia đình, cha mẹ không nhất thiết đòi hỏi con cái khi đã trưởng thành phải thông báo cho cha mẹ biết khi mình lưu trú qua đêm ở đâu. Nhưng đối với chính quyền, thì chính quyền luôn muốn biết một người từ 14 tuổi trở lên cho đến lúc hết một đời, khi qua đêm lưu trú ở đâu thì phải thông báo cho chính quyền sở tại biết, nếu không thông báo cho chính quyền biết là đã vi phạm pháp luật.

Sự “quan tâm” này của chính quyền đối với công dân còn hơn cha mẹ đối với một người con, ngẫm có đáng buồn cười không???

Cũng chẳng thể hình dung nổi, một người đến nhà bạn chơi, nhậu xỉn không về được, nên ở lại qua đêm mà không thông báo cho chính quyền sở tại biết, nửa đêm bị công anh đến dựng dậy kiểm tra, thế là bị phạt 1.500.000 đồng.

Bởi vậy pháp luật Việt Nam bị chỉ trích là chỉ nhằm hạn chế quyền tự do của của công dân là vậy.

Tóm lại, các quy định pháp luật cư trú là bất khả thi trên thực tế, nó cũng chẳng giúp ích gì cho việc quản lý xã hội, mà trái lại đã tạo điều kiện cho phép sự tùy tiện của những người thi hành pháp luật, dẫn đến việc sách nhiễu người dân. Nó là một luật vi hiến, xâm phạm đến tự do và quyền con người nghiêm trọng.
 
Phạm Vương Lê Các 
  Theo blog Cùi Các
 
  • An ninh Á châu phụ thuộc COC (BBC) - Ngoại trưởng Mỹ John Kerry nói sự ổn định của châu Á-Thái Bình Dương phụ thuộc vào bản Quy tắ́c ứng xử của các bên tại Biển Đông (COC).
  • Thứ trưởng Công an Phạm Quý Ngọ có thể bị đình chỉ công tác (RFI) - Theo tin từ báo chí trong nước hôm nay 17/02/2014, Ban Nội chính Trung ương cho biết Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ có thể bị tạm đình chỉ công tác để đảm bảo việc điều tra về những tố cáo của Dương Chí Dũng. Trước đó, Tòaán thành phố Hà Nội đã khởi tố vụán« Cốý làm lộ bí mật Nhà nước» liên quan đến người đã mật báo cho Dương Chí Dũng bỏ trốn.
  • Mỹ-Châu Á : Ba trục trặc trong chiến lược xoay trục (RFI) - Vào hôm nay, 17/02/2014, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã kết thúc vòng công du châuÁ đã lần lượt đưaông đến Hàn Quốc, Trung Quốc, và Indonesia. Mục tiêu tiềm ẩn của chuyến thăm được cho là để thúc đẩy thêm chiến lược« xoay trục» hay« tái cân bằng» của Mỹ qua vùng châuÁ Thái Bình Dương. Đối với Tuần báo Anh The Economist, đây là điều cần thiết vì chiến lược này của Mỹ đang gặp phải ba cản lực : Thái độ đối kháng của Trung Quốc, chủ nghĩa dân tộc quá lố nơi đồng minh Nhật Bản, và các rào cản đối với thỏa thuận thương mại TPP.
  • Venezuela trục xuất ba nhà ngoại giao Mỹ (RFI) - Theo lệnh của Tổng thống Nicolas Maduro, chính quyền Venezuela thông báo trục xuất ba nhân viên lãnh sự Hoa Kỳ. Những người này bị cáo buộc cóâm mưu chống Venezuela, gặp gỡ các sinh viên đang biểu tình phản đối chính phủ. Từ hai tuần qua, tại các thành phố lớn của Venezuela, giới sinh viên đã xuống đường biểu tình phản đối tình trạng giá cả leo thang, cuộc sống đắt đỏ, mất an ninh và nạn khan hiếm hàng hóa.
  • Những bước nhảy đầy ấn tượng trước tượng đài vua Lý (RFA) - Trước hôm kỷ niệm cuộc chiến tranh biên giới một ngày, gần trăm người đến tượng đài Lý Thái Tổ tại Hà Nội để tri ân và tưởng nhớ đồng bào chiến sĩ đổ máu cho cuộc chiến và họ đã gặp một sự chống đối rất trớ trêu: hàng chục người mở nhạc thật lớn và nhảy đầm ...
  • HRW kêu gọi xóa bản án với LS Quân (BBC) - Một ngày trước phiên phúc thẩm luật sư bất đồng chính kiến Lê Quốc Quân, tổ chức Human Rights Watch kêu gọi xóa bỏ bản án đối với ông.
  • Ngoại trưởng Mỹ: Biển Đông cần có Quy tắc Ứng xử để giúp châu Á ổn định (RFI) - Phát biểu vào hôm nay 17/02/2014 tại Indonesia, chặng cuối cùng trong vòng công du châuÁ lần này củaông, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry vừa lên tiếng cảnh báo : Sự ổn định của châuÁ Thái Bình Dương tùy thuộc vào tiến trình hoàn tất một bộ quy tắc ứng xử tại Biển Đông mang tính chất ràng buộc. Văn kiện này sẽ cho phép các bên giải quyết hào bình các tranh chấp, tránh được xung đột tại một trong những tuyến hàng hải chiến lược quan trọng nhất thế giới.
  • Một dân biểu Hàn Quốc bị 12 năm tù vì tội phản quốc (RFI) - Một dân biểu Hàn Quốc trong phiên tòa hôm nay 17/02/2014, đã bị tuyênán 12 năm tù giam vì tội phản quốc. Đây là lần đầu tiên một đại biểu dân cử phải lãnh một bảnán như thế, kể từ phong trào dân chủ nhen nhóm tại quốc gia này vào giữa thập niên 80.
  • Tuần duyên Trung Quốc lại thâm nhập vùng biển Senkaku/Điếu Ngư (RFI) - Theo lực lượng Tuần duyên Nhật Bản, vào sáng nay 17/02/2014, ba chiếc tàu tuần duyên Trung Quốc đã lại thâm nhập vùng biển chung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư mà hai bên đang tranh chấp trên Biển Hoa Đông. Thông báo của Tuần duyên Nhật nói rõ : Ba chiếc tàu Trung Quốc nói trên đã tiến vào vùng hải phận của quần đảo vào lúc 10g sáng, giờ địa phương, và ở lại khu vực đó trong vài tiếng đồng hồ.
  • Bangkok : Người biểu tình bao vây tòa nhà chính phủ (RFI) - Tại Thái Lan, phe phản kháng tiếp tục thách thức chính phủ của bà Yingluck Shinawatra. Sau thất bại của cảnh sát trong việc giải tỏa vào cuối tuần qua, hôm nay 17/02/2014 người biểu tình lại bao vây tòa nhà chính phủ, với sự hợp sức của các nông dân trồng lúa giận dữ vì không được chi trả.
  • Tham mưu trưởng một liên minh nổi dậy Syria thân phương Tây bị cách chức (RFI) - Sau một loạt những thất bại của lực lượng nổi dậy trước các cuộc tấn công của quân đội chính phủ, Hội đồng Quân sự Tối cao, cơ chế lãnh đạo Quân đội Syria Tự do, một lực lượng nổi dậy thân phương Tây tại Syria, đã quyết định cách chức Tham mưu trưởng Idriss, và đưa Tướng Abdelilah al-Bashir, người đào ngũ, lên thay.
  • Ukraina : Luật ân xá cho người biểu tình bắt đầu có hiệu lực (RFI) - Tại Ukraina, luậtân xá dành cho những người biểu tình bị truy tố bắt đầu có hiệu lực từ hôm nay 17/02/2014, một hôm sau khi người biểu tình rút ra khỏi Tòa thị chính Kiev - địa điểm mang tính biểu tượng cho phong trào phản kháng. Tuy vậy về cơ bản bước tiến nhỏ nhoi này không giải quyết được gì, việc thương lượng với chính quyền vẫn dậm chân tại chỗ.
  • Thời tiết ngày càng diễn biến thất thường (RFI) - Thời tiết ngày càng diễn biến thất thường. Mùa đông vừa qua, Mỹ thì chịu lạnh và nóng dữ dội, Anh và Pháp thì ngập chìm trong mưa lũ. Đó là thông tin được nhật báo Le Monde đăng tựa trên trang nhất :« Thời tiết thất thường : Một mùa đông của mọi thái cực».
  • Sau Tết, lao động nghèo khăn gói trở lại thành phố (RFA) - Ngày hết Tết đến, lăn lộn kiếm tiền để gói gém về quê, sum họp gia đình, đón Tết quê nghèo để rồi, sau ba ngày Tết, lại lập cập khăn gói lên thành phố để bươn bả với đời. Điều này đôi khi giống như một cái vòng lẩn quẩn vận vào người lao động nghèo
  • Dân chúng Libya kỷ niệm cách mạng (VOA) - Dân Libya đánh dấu kỷ niệm 3 năm ngày nổi dậy chống nhà độc tài lâu đời Moammar Gadhafi, tạm gát các rối ren để ăn mừng một khúc quanh trong lịch sử đất nước
  • Mỹ nhấn mạnh tầm quan trọng của COC (BaoMoi) - Trong cuộc họp báo chung với Ngoại trưởng Indonesia Marty Natalegawa tại Jakarta ngày 17.2, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry nhấn mạnh ổn định của châu Á - Thái Bình Dương phụ thuộc một phần vào sự ra đời của Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông.
  • Biển Đông: Mối quan tâm hàng đầu của Mỹ (BaoMoi) - (ĐSPL) - Các cuộc đàm phán gần đây giữa Ngoại trưởng John Kerry và các nhà lãnh đạo Trung Quốc chỉ ra rằng căng thẳng ở Biển Đông vẫn là mối quan tâm hàng đầu của Mỹ.
  • COC quyết định sự ổn định của châu Á (BaoMoi) - Ngoại trưởng Mỹ John Kerry hôm qua nhấn mạnh sự ổn định của khu vực châu Á - Thái Bình Dương phụ thuộc vào việc đạt được một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
  • Mỹ đánh giá cao vai trò của Indonesia trong vấn đề khu vực (BaoMoi) - Ngày 17/2, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry trong chuyến thăm chính thức tới Jakarta đã có cuộc hội đàm với Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia Marty Natalegawa, và cùng người đồng cấp nước chủ nhà chủ trì cuộc họp Ủy ban hỗn hợp Indonesia-Mỹ lần thứ tư, nhằm tăng cường hợp tác trong khuôn khổ mối quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước.
  • Mỹ: Tranh chấp ở biển Đông phải theo luật quốc tế (BaoMoi) - (TNO) Ngoại trưởng Mỹ John Kerry ngày 17.2 lên tiếng yêu cầu Trung Quốc cần giải quyết các tranh chấp ở biển Đông theo luật pháp quốc tế, chứ không phải thông qua các cuộc đàm phán song phương mà Bắc Kinh đang theo đuổi.
  • "Sự ổn định của châu Á - Thái Bình Dương phụ thuộc vào COC" (BaoMoi) - TTO - Tại cuộc gặp Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia Marty Natalegawa ở Jakarta ngày 17-2, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry một lần nữa nhấn mạnh những tranh chấp trên biển Đông giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á phải được giải quyết dựa trên nền tảng luật pháp quốc tế.
  • Truy tìm tên tội phạm 12 năm trốn trên biển (BaoMoi) - Làm bạn với sông nước từ nhỏ, thuộc lòng từng luồng lạch, con nước, từng vụng, bãi ở miền biển Đông Bắc nên suốt 12 năm trốn truy nã, Sạch không một lần lên bờ.
  • Tàu Trung Quốc lại xâm nhập Senkaku/Điếu Ngư (BaoMoi) - (Kienthuc.net.vn) - Lực lượng Bảo vệ bờ biển Nhật Bản (JCG) cho biết, 3 tàu hải giám Trung Quốc đã xâm nhập khu vực tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư, ngay bên ngoài vùng lãnh hải nước này.
  • Không có đột phá trong chuyến thăm Trung quốc của Ngoại trưởng Mỹ (BaoMoi) - Tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng của Hồng Kông (Trung Quốc) ngày 16.2 cho hay, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry kết thúc chuyến thăm Trung Quốc (TQ) mà không có bất kỳ đột phá nào về vấn đề chính trong nghị trình bàn về vấn đề tranh chấp của TQ ở biển Hoa Đông và biển Đông.
  • Mỹ, ASEAN nhấn mạnh tính cấp thiết của COC (BaoMoi) - Trong buổi làm việc giữa Ngoại trưởng Mỹ và Tổng thư ký ASEAN tại Indonesia - điểm dừng chân cuối cùng của ông John Kerry tại châu Á-Thái Bình Dương, hai bên đã tái khẳng định tầm quan trọng của việc thiết lập Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC), trong bối cảnh ông Kerry vừa rời Trung Quốc với lời kêu gọi kiềm chế trong vấn đề lãnh thổ.
  • 3 tàu Trung Quốc xâm nhập Senkaku, lớn tiếng đòi chủ quyền (BaoMoi) - ANTĐ - Ngày 16-2, lực lượng bảo vệ bờ biển Nhật Bản cho biết, trong ngày 16-02, ba chiếc tàu tuần duyên của Trung Quốc đã được phát hiện đang di chuyển xung quanh quần đảo Senkaku trên biển Hoa Đông, ngay bên ngoài lãnh hải của Nhật Bản.

Ta đánh đây là đánh cho Trung Quốc!?


Hoàng Thanh Trúc (Danlambao) – Ngày 4 tháng 3 năm 1979, lẫn trong âm thanh đại pháo, xe tăng gầm rú ghê rợn của quân xâm lược Trung Quốc từ Bắc biên giới vọng về, người dân cả nước còn nghe thấy lồng lộng từ BCH/TW/đảng CSVN tiếng kêu gọi tha thiết (nguyên văn):
“Hỡi đồng bào và chiến sĩ yêu quý! 
Quân thù Trung Quốc đang giày xéo non sông đất nước ta. Một lần nữa, cả dân tộc ta lại nhất tề đứng lên chống giặc ngoại xâm. Tổ tiên anh hùng của chúng ta đã từng đánh thắng quân xâm lược Tần, Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Toàn thể đồng bào các dân tộc anh em trong cả nước, các tôn giáo, các đảng phái, già, trẻ, gái, trai hãy phát huy truyền thống Diên Hồng, triệu người như một, nhất tề đứng lên bảo vệ Tổ Quốc…” (*)
Toàn quân, dân ta cứ nghĩ rằng, đích thị rồi, đánh lần này là dứt khoát phải đánh vì tổ quốc mình chứ không thể lấy máu xương Việt Nam mà đánh cho Liên Xô, Trung Quốc (lời Lê Duẩn ) một lần nữa!
Tuy nhiên, thật vô lý tới độ như khôi hài, trên thực tế chứng minh “đảng ta” lại “bịp bợm” lãnh đạo kêu gọi toàn dân hy sinh “đánh vì Trung Quốc” một lần nữa!?
Bởi, không “bịp bợm” sao được, khi Trung Quốc công bố, cuộc tấn công qui mô vào Việt Nam như thế là để dạy cho đảng CSVN “một bài học”.
Và “đảng ta” vì Trung Quốc, để khẳng định nâng tầm giá trị và tiếp thu “tiêu hoá” bài học ấy rất tốt bằng cách, sau trận chiến, các chóp bu CSVN phải cúi đầu “đi ngõ hậu” lặng lẽ bí mật đến Thành Đô trong 2 ngày (3 và 4 tháng 9/1990) để xin tiếp thu “thọ giáo” vâng lời dạy bảo của các quan thầy Trung Quốc. Hứa với các quan thầy sẽ dạy con em Việt Nam không coi trận chiến ấy là “xâm lược”!
Không “đánh vì Trung Quốc” sao được, khi 10 thanh niên xung phong ở ngã 3 Đồng Lộc và 13 TNXP ở Truông Bồn hy sinh vì bom rơi đạn lạc khi tu bổ cầu đường trong chiến tranh, thì được “nhà nước đảng ta” xây dựng tượng đài đền thờ qui mô hoành tráng vô cùng tốn kém. Trong khi đó gần 50 ngàn quân dân hy sinh trực tiếp khi anh dũng chống trả quân TQ xâm lược Bắc biên giới, thì suốt 35 năm qua chẳng những không có lấy một tượng đài mà ngay một cái am thờ hay miếu mạo để đặt bát hương tưởng nhớ vinh danh cũng không.
Nơi thờ 10 TNXP và Nơi “thờ” 50 ngàn liệt sĩ chống TQ xâm lược 
Không “đánh vì Trung quốc” sao được, khi toàn bộ quốc kỳ trước tiền sảnh và ghế ngồi tại hội trường LHQ của hơn 180 quốc gia thành viên, tất cả đều bằng và giống hệt như nhau. Nếu một quốc gia Độc Lập biết liêm sỉ thì hà cớ gì “nhà nước CSVN” lại co vòi thụt cổ hèn mọn không dám tôn vinh hàng chục ngàn quân dân liệt sĩ nước mình đã anh dũng hy sinh bảo vệ tổ quốc? Trong khi đó kẻ xâm lược (TQ) thì tưng bừng mở hội kỷ niệm chào mừng.
Từ Thành Đô Trung Quốc – Đến Hà Nội Việt Nam 
Trên cõi đời này từ cổ chí kim, chúng ta thử hỏi có một thứ đạo lý nào, từ một chế độ cầm quyền gọi là của dân, do dân, và vì dân, trong cơn nguy biến lại kêu gọi toàn dân hy sinh máu xương chống lại quân thù xâm lược để rồi sau đó vì quyền lợi đảng phái phe nhóm bầy đàn lại cố tình quên đi, chà đạp, ngồi trên máu xương ấy để kề vai áp má qui phục quân thù?.
Trung Quốc kỷ niệm trận chiến 1979 “dạy cho CSVN một bài học”
Đâu thể nào khác hơn được? Trước khung cảnh Trung Quốc hân hoan chào mừng kỷ niệm “dạy cho CSVN một bài học”, trong khi đó “nhà nước CSVN” vẫn lạnh lùng im lặng thì 50 ngàn vong linh quân dân Việt Nam trong trận chiến Bắc biên giới 1979 sau 35 năm vẫn cứ như gào thét :
“Ta đánh đây không phải đánh cho tình “đồng chí” CSVN và CS Trung Quốc”!?

Lê Đức Dục - 17-2, xin nhắc mãi những điều đã nhắc....

Năm ngoái, dịp kỷ niệm 17-2-1979 ,đại tá Nguyễn Mạnh Hà (Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng Học viện CTQGHCM) nói trên Tuổi Trẻ :

“Là một người nghiên cứu lịch sử, nhưng cũng là một người lính, tôi xin nói thẳng là dù bất cứ hoàn cảnh nào thì hòa bình vẫn là quý giá nhất. Chiến tranh biên giới kết thúc thật sự, chúng ta mới có thể tiếp tục sự nghiệp đổi mới, có những chính sách lâu dài và bền vững để phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống nhân dân, để có một vị thế mới trong bản đồ ngoại giao thế giới như hôm nay.


Nhưng như vậy không có nghĩa là trang sử về chiến tranh biên giới đã khép lại. Lịch sử bản chất là sòng phẳng, khách quan, cái gì đã xảy ra rồi cũng có lúc sẽ được đặt lại trên bàn cân lịch sử để luận định. Chúng ta nhìn lại chiến tranh biên giới, trước hết là để học bài học cho chính mình: cái gì lẽ ra đã có thể tránh được, cái gì cần nhớ để nhắc lại cho thế hệ sau.”
Sau nhiều năm lòng dân ấm ức trong im lặng, từ năm ngoái cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1979 đã được nhắc lại công khai, gọi đích danh “quân xâm lược Trung Quốc” chứ không là “tàu lạ, nước lạ” đã mang lại sự phấn khích cho bạn đọc, nghĩ kỹ cũng thấy “lạ”, bởi chỉ cần gọi đúng tên một sự việc thôi đã được cho là dũng cảm-điều này khiến tôi nhớ đến ý một câu thơ ai đó :“Thời chúng tôi đang sống thật lạ lùng /chỉ sống lương thiện thôi đã là người dũng cảm”. Chỉ cần lương thiện là dũng cảm, chỉ cần nói đúng tên sự việc là dũng cảm, biết như thế để hiểu hơn niềm vui sướng của hàng vạn bạn đọc trong ngày hôm qua khi dòng chữ “Quân bành trướng (quân xâm lược) Trung Quốc điềm tĩnh xuất hiện trên những trang báo
...
Nhiều nhà báo ngỡ với tình hình này, dịp kỷ niệm 35 năm CTBG năm nay, chuyện nhắc nhớ về tháng 2-1979 sẽ thoáng hơn, nhưng thật bất ngờ , lần đầu tiên chúng ta có thêm khái niệm “xoay tua”, “quota tuyên truyền”, “tem phiếu biên giới”…

Chắc sẽ có dịp nói thêm về chuyện này, giấy trắng mực đen công văn dấu đỏ vẫn còn đó cơ mà, cứ lưu lại như một tài liệu “bằng chứng lịch sử” ( Bạn tui kể có lần anh ấy từng vò một công văn vứt vào sọt vì quá tức giận nhưng sau đó, vì là một tiến sĩ sử học , anh lọ mọ lục giỏ rác tìm lại cái công văn đó cất đi để vài chục năm sau làm “bằng chứng lịch sử”)

Nhưng cuộc chiến tranh biên giới ấy không chỉ được nhớ đến trong một ngày, không chỉ nhắc trong một bài và càng không chỉ nằm trên chữ nghĩa.

Những nén nhang của lòng dân, những chữ nghĩa gọi tên các anh có thể khiến các anh ấm lòng một chút dưới thẳm sâu đất đai kia.

Nhưng có lẻ mơ ước lớn nhất của người lính không phải được nhắc tên hay vinh danh chiến công. Đất nước lâm nguy, họ lên đường ra trận, từ thuở vua Hùng đánh giặc Ân, những nông dân của nước Văn Lang cũng lên đường như thế, thuở Quang Trung đánh quân Thanh cũng thế, và năm 1979 những người lính Việt cũng cứ như thế lên đường. Không ai muốn chiến tranh, bởi bây giờ có chiến tranh xảy ra, người lên đường đầu tiên cũng là con em “áo vải” . Hy sinh đầu tiên cũng là họ, như tổ tiên xưa máu đã thấm bao áo vải cờ đào. (Chuyện đời , áo vải luôn chết trước, và áo gấm …chết sau (!)

Cái điều, vì nó người lính hy sinh, chính là độc lập tự do, là cơm no áo ấm cho cha mẹ mình, gia đình mình, đồng bào mình.

Mong ước ấy là mảnh đất của cha mẹ mình không bị lấy đi để thay bằng dự án sân golf rồi sau đó ban cho những đồng tiền với giá đền bù rẻ mạt.

Mong ước ấy là trường học con cháu mình không phải lợp bằng bạt nhựa che chắn gió mưa mà phải khang trang nhà ngói tường xây.

Mong ước ấy là những em bé nơi lớp học bản xa không phải đu dây qua sông trong khi người ta mãi mê với dự án cao tốc ngàn vạn tỷ đồng.

Cứ lên những bản làng, những điểm trường rẻo cao biên cương, bạn sẽ thấy khát vọng được đổi bằng của máu xương người lính năm xưa,có nhiều nơi giờ vẫn chỉ là khát vọng!

Nhiều năm qua, chúng tôi đã lặng lẽ đến với những điểm trường biên ải xa thẳm ấy, không chỉ là món quà nhỏ cho học sinh và thầy cô giáo (thật lòng là chỉ như muối bỏ bể ) không chỉ là những suất học bổng “Gần lại với biên cương” dành cho con em cán bộ chiến sĩ biên phòng, không chỉ là những mái ấm bán trú hay ngôi trường mầm non được xây lên từ tấm lòng những bạn đọc thân yêu của Tuổi Trẻ!
Chúng tôi hiểu làm như thế cũng là góp một chút tâm nguyện của mình trang trãi cùng khát vọng mang theo của những người lính trước lúc hy sinh.

Bạn đã đi dọc biên giới phía Bắc, nhất là từ Lao Cai lên Lũng Pô-đúng điểm đầu tiên sông Hồng chảy vào đất Việt chưa? Bạn sẽ thấy dọc theo bờ sông Hồng, nhìn sang đất Trung Quốc phía bờ bên kia với con đường cao tốc bề thế từ Côn Minh chạy về Hà Khẩu như khoe sự giàu mạnh của họ, bạn sẽ như tôi, thấm thía nỗi buồn của những con đường biên ải phía ta, những bản làng nghèo khó bên đất Việt.
Chăm lo cho biên ải phía Bắc cũng là để trao gửi thêm tin yêu với những đứa trẻ mà sau này lớn lên, các em sẽ là những người lính đầu tiên cầm súng bảo vệ cột mốc, bảo vệ bản làng của mình-và điều ấy cũng đồng nghĩa với việc bảo vệ bình yên cho chúng ta, những người vốn đang sống ở “tuyến sau”!

Vì thế, nhắc nhớ và tưởng niệm, khi ngày hôm nay gọi đích danh tên kẻ thù “Trung Quốc xâm lược” là điều đáng trân trọng.

Nhưng càng trân trọng hơn khi chúng ta dành nhiều hơn nữa sự chăm sóc cho những đời dân đang sống nơi biên ải, bởi với những người lính đã không tiếc gì tuổi trẻ của mình, cuộc đời của mình , có lẻ, với các anh, chỉ một cành hoa sim gói gém trĩu nặng tấm lòng thành thật biết ơn với máu xương đổ xuống là đã đủ.

Không ai phủ nhận rằng nhiều năm qua, chúng ta đã dồn nhiều công sức cho cuộc sống dân sinh nơi biên ải, nhiều bản làng có điện, có đường, có trường, có trạm…nhưng dường như những đầu tư ấy không tương xứng với sự hy sinh của chính những người dân nơi đây cho đất nước.

Chỉ cần có được một phần rất nhỏ , cỡ chừng 1% trong số tiền thất thoát, lãng phí , nợ nần của các tập đoàn kinh tế “nắm đấm thép” được thống kê và nêu ra, hẳn các em bé vùng cao đã có một môi trường học tập khác, bữa cơm khác…Chỉ 30% con số ấy, hệ thống giao thông vùng cao biên giới sẽ không thua kém hệ thống giao thông phía làng giềng đối diện bên kia sông Hồng, và chỉ cần 50%...Mà thôi, “nếu” làm gì khi “với những chữ nếu người ta có thể bỏ Paris vào lọ”!...

Chuyện quan trọng nhất là phải làm cho những bản làng biên ải ấy ấm no hơn.

Bữa cơm mỗi ngày của các em có nhiều cơm và nhiều thịt thay cho nồi mèn mén.

Tấm áo ấm mùa đông sẽ đủ ấm thay cho bếp lửa sưởi khói mù chống rét.

Chỉ vậy thôi, và đấy chính là sự tưởng niệm cần thiết!

Đừng nói chi mấy chuyện xa xôi với thiên đường mộng ảo thi ca “Núi rừng có điện thay sao/Nông thôn có máy làm trâu thay người ” hay hứa hẹn “….Ngày mai về lại thôn hương /Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về/ Ngày mai rộn rã sơn khê/ Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng…”
Lòng dân vốn bao dung nên hay tin vào những hứa hẹn.

Lòng dân cũng dễ hứng khởi, đôi chỉ vì một nụ hoa mà không để ý cả một mùa giá rét đang còn!

Vậy thôi, bạn ạ!
(FB  Lê Đức Dục)

2346. CAMPUCHIA ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ sáu, ngày 014/02/2014
Theo báo mạng Asia Sentinel, với việc đang phải đối mặt với sự phản đối chính trị từ phe đối lập và sự ủng hộ của Trung Quốc đã giảm bớt, Chính phủ của Thủ tướng Campuchia Hun Sen đang tìm kiếm một sự hội nhập lớn hơn với khu vực.

Bản đồ các mối quan hệ ngoại giao của Campuchia đã thay đổi mạnh mẽ trong 6 tháng qua. Ngay sau cuộc tổng tuyển cử của Campuchia được tổ chức vào tháng 7/2013, Bắc Kinh đã nhanh chóng công nhận kết quả bầu cử và đã chúc mừng Thủ tướng Hun Sen cùng đảng Nhân dân Campuchia cầm quyền của nhà lãnh đạo này về chiến thắng của họ.
Tuy nhiên, khi các cuộc biểu tình chống Chính phủ Campuchia của đảng Cứu nguy Dân tộc Campuchia đối lập gia tăng trong những tuần sau đó, với việc nhũng người biểu tình lên án cuộc bầu cử là gian lận và kêu gọi Thủ tướng Hun Sen từ chức, Trung Quốc chủ yếu im lặng và giữ khoảng cách với vị Thủ tướng Campuchia.
Trong khi đó, Chính phủ Campuchia trong vài tháng qua đã có những bước tiến củng cố các mối quan hệ với Việt Nam sau vài năm các mối quan hệ giữa hai nước láng giềng này xuống dốc. Phnom Penh đã thực hiện động thái này bất chấp tình cảm chống Việt Nam ở Campuchia do thủ lĩnh đối lập Sam Rainsy kích động đã giành được nhiều sự ủng hộ kể từ cuộc tổng tuyển cử hồi tháng 7 năm ngoái.
Một cuộc khủng hoảng chính trị đang diễn ra và sự xa cách rõ ràng của Trung Quốc đối với Thủ tướng Hun Sen nằm sau sự điều chỉnh địa chiến lược đang diễn ra này. Thủ tướng Hun Sen đang phải chiến đấu để đối phó với sự phản đối ngày càng gia tăng đối với sự cai trị của ông và những sự bất mãn từ công chúng về các quyền lợi lao động và công tác quản lý vào một thời điểm khi mà Campuchia đang ở giữa một ngã tư chính trị và kinh tế quan trọng. Đất nước Campuchia đang tìm cách để trở nên hội nhập hơn với phần còn lại của khu vực Đông Nam Á và thế giới trong những năm sắp tới. Tầng lớp thanh niên của Campuchia ngày càng được giáo dục nhiều hơn và được tiếp xúc nhiều hơn với những tiêu chuẩn dân chủ và thế giới bên ngoài.
Thủ tướng Hun Sen, người đã áp dụng hiệu quả những chiến thuật mạnh tay trong quá khứ, giờ đây đang phải đối mặt với điều có lẽ là thách thức nghiêm trọng nhất đối với sự cai trị của ông trong nhiều thập kỷ qua và đang tìm kiếm sự công nhận của bên ngoài nhằm tăng cường tính hợp pháp của ông ở trong nước. Sự thật là, ngay cả trong trường hợp đảng Nhân dân Campuchia của Thủ tướng Hun Sen giành được chiến thắng trong cuộc bầu cử tiếp theo, thì Thủ tướng Hun Sen cũng sẽ phải tiếp tục đối phó với những yêu cầu ngày càng gia tăng về một sự minh bạch lớn hơn, sự cai trị tốt hơn của luật pháp, và dân chủ hơn.
Trung Quốc, cho đến gần đây vẫn là nhà bảo trợ quan trọng nhất của Campuchia, đã không còn sẵn sàng đưa ra nhiều sự ủng hộ chính trị đối với Thủ tướng Hun Sen. Mặc dù chính phủ hai nước Trung Quốc và Campuchia vẫn tiếp tục duy trì các cuộc gặp và trao đổi cấp cao, nhưng đã có một sự thay đổi trong chính sách của Bắc Kinh đối với Campuchia. Ngay sau khi Thủ tướng Hun Sen tuyên bố ông sẽ không từ chức trước các cuộc biểu tình phản đối do phe đối lập phát động, một bài báo của hãng thông tấn nhà nước Trung Quốc Tân Hoa Xã vào cuối tháng 12 năm ngoái đã dẫn lời các chuyên gia phân tích người Khmer kêu gọi tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý quốc gia về việc có tổ chức cuộc tổng tuyển cử mới hay không. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có lẽ sẽ không đối xử lạnh nhạt với Thủ tướng Hun Sen ngay lập tức, nhưng dường như họ đang ở giữa một quá trình và dần dần từ bỏ chính sách trong quá khứ của mình là hết lòng ủng hộ chính phủ của Thủ tướng Hun Sen.
Những sự thay đổi xã hội và chính trị đang diễn ra ở Campuchia vẫn chưa gây tổn thất cho Bắc Kinh. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể giữa thái độ nước đôi đối với tương lai chính trị của Campuchia nhằm tránh những kiểu sai lầm chiến lược mà họ đã gây ra ở Myanmar trong nhũng năm gần đây. Bắc Kinh từ lâu đã ủng hộ chế độ quân sự của Myanmar và đã bị phớt lờ bởi những cuộc cải cách sâu rộng mà Tổng thống Myanmar Thein Sein tiến hành vào năm 2011. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã không bắt đầu đối mặt với thực tế chính trị mới ở Myanmar cho đến khi Tổng thống Thein Sein đình chỉ việc xây dựng dự án đập Myitsone trị giá nhiều tỷ USD do Trung Quốc hỗ trợ.
Như một phần trong chính sách mới của mình, Trung Quốc đang có quan hệ với nhiều lực lượng khác nhau trên sân khấu chính trị của Myanmar hiện nay, từ Chủ tịch Quốc hội Shwe Mann và Tư lệnh Lục quân Myanmar Min Aung Hiaing cho tới thủ lĩnh đối lập Aung San Suu Kyi. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc, những người phần lớn đã lạnh nhạt với Tổng thống Thein Sein giờ đây đang xem xét việc đưa ra một lời mời chính thức để bà Aung San Suu Kyi đến thăm Trung Quốc. Cả Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình lẫn Thủ tướng nước này Lý Khắc Cường đều không ghé thăm Myanmar trong đợt vận động ngoại giao của họ khắp khu vực Đông Nam Á vào năm ngoái. Điều thú vị là Campuchia cũng không có tên trong những chuyến công du đó, mặc dù Phnom Penh là một đồng minh trung thành và đáng tin cậy của Bắc Kinh, đồng thời còn là một điểm đến đầu tư ưa thích của giới doanh nghiệp Trung Quốc.
Trong khi đó, các mối quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia đã phát triển trong vài tháng qua. Hà Nội đã đem lại cho Thủ tướng Hun Sen sự công nhận của bên ngoài mà nhà lãnh đạo này đang rất cần, và một sự tăng cường tính hợp pháp của ông. Vào cuối tháng 12 năm ngoái, Thủ tướng Hun Sen đã đến thăm Việt Nam trước dịp kỷ niệm 35 năm ngày quân đội của Hà Nội lật đổ chế độ Khmer Đỏ, và các nhà lãnh đạo Việt Nam đã không tiếc lời chức mừng nhiệt liệt Thủ tướng Hun Sen vì vai trò của ông trong việc tái thiết đất nước Campuchia.
Hai tuần sau chuyến thăm của Thủ tướng Hun Sen, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã đi thăm Campuchia, nơi hai nhà lãnh đạo đã đồng chủ trì một hội nghị thương mại và đầu tư song phương – hội nghị lớn nhất kể từ năm 2009 – và đã cam kết tăng cường các mối quan hệ kinh tế trong các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, kinh doanh nông sản, du lịch và viên thông. Vào cuối năm 2012, các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư khoảng 3 tỷ USD vào gần 130 dự án ở Campuchia, đưa Việt Nam trở thành một trong những nhà đầu tư nước ngoài hàng đầu ở Campuchia. Trong khi đó, Trung Quốc đã đầu tư tổng cộng 9,17 tỷ USD vào các dự án ở Campuchia trong giai đoạn từ năm 1994-2012.
Hà Nội đang theo dõi chặt chẽ bất ổn chính trị ở Campuchia, nhưng vẫn chấp nhận hàn gắn các mối quan hệ với Phnom Penh sau một số năm quan hệ song phương xấu đi do vấn đề phân chia biên giới và việc Campuchia đứng về phía Trung Quốc trong cuộc tranh chấp lãnh hải ở Biên Đông. Trong tương lai có thể nhìn thấy trước, Hà Nội vẫn có lợi ích trong việc duy trì ổn định chế độ ở Campuchia và ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền đối với quyền lực ở Campuchia phụ thuộc vào việc Sam Rainsy công khai chống Việt Nam đến mức độ nào.
Ví dụ, Sam Rainsy gần đây đã tuyên bố rằng Việt Nam đang xâm phạm lãnh hải của Trung Quốc ở Biển Đông, giống như giọng điệu mà ông ta cáo buộc rằng Việt Nam đang cướp đoạt lãnh thổ của Campuchia.
Việc giành cho Thủ tướng Hun Sen sự ủng hộ chính trị khi ông cần nó nhất, cũng như việc tăng cường các mối quan hệ kinh tế song phương, có vẻ như là một lựa chọn hợp lỷ cho các nhà lãnh đạo Việt Nam. Hà Nội cũng quan ngại về làn sóng chống Việt Nam đang gia tăng trong cộng đồng người Campuchia. Việc khai trương Bệnh viện Chợ Rầy Phnom Penh, một dự án liên doanh chung giữa Công ty Đầu tư Y tế Sài Gòn của Việt Nam và Sokimex của Campuchia, có lẽ là một nỗ lực nhằm làm giảm tình cảm chống Việt Nam ở Campuchia thông qua sự hợp tác chung trong lĩnh vực y tế.
Tuy nhiên, thực tế mà nói, chỉ riêng sự ủng hộ của Hà Nội là không đủ để đảm bảo cho sự tự trị của Campuchia và Thủ tướng Hun Sen giữa các cường quốc nước ngoài. Lập trường không rõ ràng của Bắc Kinh trong những tháng gần đây có lẽ cũng đã thúc đẩy Thủ tướng Hun Sen tìm kiếm sự ủng hộ vượt ra ngoài những nước bảo trợ truyền thống của ông. Ví dụ, Thủ tướng Hun Sen đã khôn khéo sử dụng chuyến thăm của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đến Campuchia vào tháng 11/2013 để tăng cường tính hợp pháp của ông ở trong nước – bằng cách đề nghị Thủ tướng Abe đưa ra lời khuyên về các cải cách bầu cử – và vị trí của ông đối với Trung Quốc.
Thủ tướng Hun Sen và người đồng cấp Shinzo Abe đã đưa ra một tuyên bố bất thường về hợp tác an ninh hàng hải song phương, nhấn mạnh sự cần thiết phải giải quyết các cuộc xung đột bằng biện pháp hòa bình và phù hợp với luật pháp quốc tế. Hai nước đã nhất trí tăng cường các mối quan hệ quân sự, với việc các chuyên gia Nhật Bản (gồm cả những chuyên gia của các Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản) dự kiến sẽ huấn luyện cho các binh sĩ Campuchia để tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc trong tương lai. Và trong một động thái hoàn toàn trái ngược với điều đã xảy ra tại Diễn đàn Khu vực Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ở Phnom Penh vào năm 2011, trong Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN – Nhật Bản ở Tokyo vào tháng 12/2013, Campuchia đã không phản đối việc đưa lên bàn hội nghị một cuộc thảo luận về Vùng Nhận dạng Phòng không (ADIZ) của Trung Quốc tại Biển Hoa Đông.
Campuchia đang phát triển nhanh chóng, cả về mặt chính trị cũng như là kinh tế, và vẫn cần phải chờ xem liệu Thủ tướng Hun Sen có thể giữ được quyền lực thêm vài cuộc bầu cử hay không. Những biến số trong tính toán chiến lược mới của Bắc Kinh ở Campuchia đã bất ngờ khiến cho Thủ tướng Hun Sen cảm thấy bị nguy hiểm, ít nhất là ở thời điểm hiện nay. Điều này đã thúc đẩy Thủ tướng Hun Sen tích cực hoạt động để tăng cường vị thế của ông trong các nhân tố khác của khu vực, đặc biệt là Nhật Bản, Việt Nam và ASEAN, bằng việc trao cho họ sự ủng hộ của ông đối với các vấn đề tranh cãi với Trung Quốc như các cuộc tranh chấp lãnh hải ở Biển Đông và Biển Hoa Đông./.

TIN LÃNH THỔ


TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI

LỜI KÊU GỌI CỦA BCH TW ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 35 NĂM TRƯỚC

Tễu

http://ttxcc6.files.wordpress.com/2014/02/34997-563241_610803218946429_2053969069_n.jpg
Hà Nội ngày 4 tháng 3 năm 1979
LỜI KÊU GỌI 
Hỡi đồng bào và chiến sĩ cả nước! 
Từ ngày 17 tháng 2 năm 1979, bọn cầm quyền phản động Trung Quốc đã huy động nhiều quân đoàn với 50 vạn quân, nhiều xe tăng và máy bay, ồ ạt đánh sang nước ta trên toàn tuyến biên giới, từ tỉnh Quảng Ninh đến tỉnh Lai Châu. Chúng đã bắn phá bừa bãi, cướp của, giết hại đồng bào ta, cả phụ nữ và trẻ em, gây nhiều tội ác rất dã man.
Quân và dân ta chiến đấu vô cùng anh dũng, chặn đánh các cánh quân xâm lược, tiêu diệt hàng vạn tên, bắn cháy hàng trăm xe tăng, phá hủy nhiều vũ khí của địch. Mặc dù bị tổn thất nặng nề, quân địch vẫn hung hăng mở rộng chiến tranh. Chiến sự đang tiếp diễn quyết liệt. Quân và dân ta quyết giữ từng tấc đất của Tổ quốc. Đồng bào và chiến sĩ ta trong cả nước sôi sục khí thế chiến đấu, quyết đánh thắng  bọn bành trướng Trung Quốc.
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các Đảng Cộng sản và Công nhân, nhân dân tiến bộ trên thế giới đều căm phẫn, cực lực tố cáo tội ác của bọn xâm lược, nhiệt tình ủng hộ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ lâu, bọn cầm quyền phản động Bắc Kinh cấu kết với đế quốc Mỹ, mưu toan thôn tính nước ta, thực hiện chính sách bành trướng đại dân tộc. Năm 1974, chúng ngang nhiên chiếm đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Mấy năm gần đây, chúng đưa nhiều quân áp sát biên giới phía Bắc Việt Nam, hằng ngày khiêu khích, lấn chiếm đất đai, ráo riết chuẩn bị chiến tranh trên quy mô lớn. Chúng dùng bọn phản động phát xít diệt chủng Pôn Pốt – Iêng Xary gây chiến tranh lấn chiếm biên giới tây nam Tổ quốc ta hòng bao vây ta từ hai phía. Chúng ra sức kích động, lôi kéo người Hoa gây rối bên trong nước ta.
Sự thất bại nhục nhã của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc ở Căm-pu-chia làm cho chúng càng điên cuồng phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Sự thật đã rõ là bọn cầm quyền phản động Bắc Kinh đang thực hiện âm mưu độc ác thôn tính nước ta, từng bước thực hiện chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn ở bán đảo Đông Dương và khu Đông – Nam châu Á.
Hiện nay, bọn cầm quyền phản động Bắc Kinh là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của nhân dân ta.
Xâm lược Việt Nam, chúng vứt bỏ hoàn toàn mặt nạ cách mạng giả hiệu, nhục nhã câu kết với bè lũ đế quốc và các thế lực phản động nhất ngày nay. Chính sách hiếu chiến và xâm lược của chúng đã xâm phạm hết sức trắng trợn quyền độc lập, tự do thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, phá hoại tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc, phản bội hoàn toàn sự nghiệp cách mạng, lợi ích và lương tri của nhân dân Trung Quốc. Chúng đã trở thành kẻ thù nguy hiểm của toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình ở châu Á và trên thế giới.
Lương tri loài người một lần nữa lại bị thách thức. Tinh thần cảnh giác của loài người một lần nữa được báo động. Bằng những thủ đoạn đê hèn, bọn xâm lược đang cố đánh lừa dư luận thế giới nhằm che đậy mưu mô đen tối và những tội ác xâm lược dã man của chúng, nhưng cả thế giới đang kịch liệt lên án chúng và nhiệt liệt tỏ tình đoàn kết, ủng hộ nhân dân Việt Nam anh hùng chống bọn phản động Trung Quốc xâm lược. 
Hỡi đồng bào và chiến sĩ yêu quý! 
Quân thù đang giày xéo non sông, đất nước ta. Độc lập, tự do, chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta đang bị xâm phạm. Hòa bình và ổn định ở Đông – Nam châu Á đang bị đe dọa.
Dân tộc Việt Nam ta phải ra sức chiến đấu để tự vệ. Cuộc kháng chiến chống bọn phản động Trung Quốc xâm lược đã diễn ra!
Toàn thể đồng bào các dân tộc anh em trong cả nước, các tôn giáo, các đảng phái, già, trẻ, gái, trai hãy phát huy truyền thống Diên Hồng, triệu người như một, nhất tề đứng lên bảo vệ Tổ quốc!
Quân và dân ta ở vùng biên giới từ tỉnh Quảng Nam Ninh đến tỉnh Lai Châu đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chiến đấu rất dũng cảm. Hãy thừa thắng xông lên, đoàn kết một lòng diệt giặc lập công, phối hợp ba thứ quân, tiến công mạnh, bao vây chặt, tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch! Hãy tích cực bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; giữ vững an ninh ở mọi địa bàn. Nhiệm vụ vẻ vang của quân và dân ta trên tuyến đầu Tổ quốc lúc này là quét sạch bọn xâm lược ra khỏi bờ cõi, giữ vững biên cương của Tổ quốc.
Đồng bào và chiến sĩ cả nước hãy phát huy khí thế cách mạng, hăng hái thi đua lao động sản xuất với kỷ luật chặt chẽ và năng suất cao, chi viện nhiều nhất cho tiền tuyến, hăng hái luyện tập quân sự, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của địch trong mọi tình huống! Trước mỗi lần thử thách của lịch sử, cả dân tộc Việt Nam đều lớn mạnh lên, phát huy cao độ lòng dũng cảm, trí thông minh và tài năng sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu: tăng cường lực lượng vật chất và tinh thần để chiến thắng quân thù.
Mỗi bản làng, xí nghiệp, hợp tác xã, thị xã, quận, huyện là một pháo đài kiên cường chống giặc. Mỗi tỉnh, thành là một chiến trường, cả nước là một chiến trường. Bất cứ nơi nào trên đất nước ta là những Chi Lăng, Đống Đa: sông biển ta đều là những Bạch Đằng, Hàm Tử.
Kiều bào ở nước người hãy phát huy lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết, phát triển tình hữu nghị với nhân dân các nước, góp phần vào cuộc kháng chiến thiêng liêng của dân tộc!
Chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của Bắc Kinh không những gây tai họa cho nhân dân Việt Nam, mà còn nguy hại cho hòa bình, độc lập tự do và tiến bộ xã hội của các nước Đông – Nam Á châu và cả thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam khẩn thiết kêu gọi các Đảng cộng sản và Công nhân trên thế giới, các phong trào cách mạng và các tổ chức dân chủ quốc tế, nhân dân và chính phủ các nước, hãy vì hòa bình và công lý, kiên quyết lên án bọn phản động Trung Quốc xâm lược, hành động kịp thời, chặn đứng chính sách phiêu lưu chiến tranh cực kỳ nguy hiểm và đầy tội ác của bọn cầm quyền phản động Bắc Kinh, không cho phép chúng lừa dối và chà đạp dư luận thế giới hòng che đậy tội ác xâm lược dã man của chúng đối với nhân dân Việt Nam!
Vì hòa bình và tình hữu nghị truyền thống Việt Nam – Trung Quốc, chúng tôi khẩn thiết kêu gọi những người cộng sản chân chính và nhân dân Trung Quốc kịch liệt phản đối, ngăn chặn kịp thời chính sách phản động và cuộc chiến tranh phi nghĩa của giới cầm quyền phản động Trung Quốc!
Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam chân thành cảm ơn anh em, bầu bạn khắp nơi đã ủng hộ kiên quyết, kịp thời và mạnh mẽ cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam nhận thức rõ: kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn vì độc lập, tự do của Tổ quốc mình, cũng là chiến đấu vì sự nghiệp hòa bình của tất cả các dân tộc.
Đánh thắng bọn phản động Trung Quốc xâm lược lần này, là nghĩa vụ ân tộc vẻ vang, đồng thời là nghĩa vụ quốc tế cao cả của nhân dân Việt Nam. 
Hỡi đồng bào và chiến sĩ cả nước! 
Một lần nữa, cả dân tộc ta lại nhất tề đứng lên chống giặc ngoại xâm. Tổ tiên anh hùng của chúng ta đã từng đánh thắng quân xâm lược Tần, Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đánh thắng oanh liệt các đế quốc xâm lược Pháp, Mỹ. Ngày nay, chúng ta có sức mạnh vĩ đại hơn bao giờ hết, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc và của ba dòng thác cách mạng của thời đại.
Bọn phản động Trung Quốc xâm lược càng mở rộng và kéo dài chiến tranh thì quân và dân cả nước ta càng đánh càng mạnh và nhất định sẽ giành được thắng lợi hoàn toàn.
Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại luôn luôn cổ vũ nhân dân ta: Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do!
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, anh dũng tiến lên, quyết chiến và quyết thắng!
Bọn phản động Trung Quốc xâm lược nhất định thất bại!
Nhân dân Việt Nam nhất định thắng lợi! 
Hà Nội ngày 4 tháng 3 năm 1979 
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 
Nguồn: Tạp chí Dân tộc học số 1 năm 1979.

2347. GÓP Ý VỚI 74 NHÂN SĨ TRÍ THỨC VỀ “LỜI KÊU GỌI”

Nguyễn Hùng
Qua những lời viết của những cái loa đại diện cho đảng cộng sản Việt Nam tại Hà Nội Ba Đình trên các trang mạng xã hội, toàn dân Việt Nam không còn mảy may một chút hy vọng nào từ đảng cộng sản Việt Nam, từ tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, chủ tịch nước Trương Tấn Sang, chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng, thủ tuớng Nguyễn Tấn Dũng,16 nhân vật trong bộ chính trị có tên Việt mà lòng dạ Tàu khựa, và hơn 2 trăm quỹ viên tại Ba Đình. Bọn bán nước cầu thân, cầu tiền.
Các nước trên thế giới, cả bên thắng trận và bại trận,  hằng năm đều tổ chức trọng thể lễ tượng niệm nạn nhân và chiến sĩ đã chết trong hai trận thế chiến 1914-18 và 1939-45.

Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới nơi đó chánh quyền không chỉ không tổ chức lễ tượng niệm mà còn chính thức đàn áp cuộc tưởng niệm sự hy sinh cao cả của gần một trăm ngàn binh sĩ và thường dân đã liều thân bảo vệ tổ quốc chống lại hơn 600 ngàn quân xâm lược Tàu trong cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc tháng 02/1979 trên toàn tuyến đường biên giới của 6 tỉnh phía Bắc Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam không chỉ ngăn cấm ngưòi dân tưởng nhớ công ơn của hằng vạn người dân và quân nhân đã hy sinh sinh mạng bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ chống xâm lược tàu trên toàn vùng biên giới phía Bắc, mà từ thành phần lãnh đạo Cộng đảng cao cấp đến lớp đảng viên thấp nhất còn ăn mừng bí mật và công khai trước thanh thiên bạch nhật với các màn khiêu vũ lã lơi khiêu dâm dưới cái rét mưa phùn của buổi sáng Hà Nội ngay tại nơi linh thiêng nhất nước là khu vực tượng đài Lý Công Uẩn, Lý Thái Tổ.
image001
 
Me mìn đảng viên đảng cộng sản Việt Nam đang nhỡn nhơ khoe hàng tại khu vực tượng đài Lý Thái Tổ  Hà Nội, chúc mừng bọn xâm lược Tàu ăn đã giết hại gần trăm ngàn dân Việt tháng 02/1979
Chưa thấy nước nào trên thế giới chính quyền lại tổ chức nhảy đầm rềnh rang với nhạc Tàu, ăn mặc củn cỡn, khiêu dâm trông như các me mìn đĩ điếm trước mọi người kể cả người ngoại quốc đang thăm viếng Hà Nội, các phóng viên nước ngoài, ăn mừng cùng bọn xâm lược Tàu đã giết hại dân Việt ngay trong ngày đau buồn của gần một trăm ngàn gia đình người dân Việt có người thân chết trận hay bị sát hại bởi bọn giặc Tàu xâm lược trong những ngày của tháng 2,3 năm 1979.
 Thật là nhục nhã trước việc làm tán tận lương tâm của đảng cộng sản VN. Hành động mà ngay cả súc vật cũng không bao giờ làm với đồng loại của chúng. Đảng cộng sản này đã và đang trầm mình trong bùn nhơ phân thúi của bọn Tàu cộng, làm Lê Chiêu Thống làm Trần Ích Tắc thời nay cho bọn đại hán Tàu xâm lược. Toàn ban lãnh đạo đảng CSVN phải hoàn toàn chịu tội trước toàn dân về hành động tội phạm bán nước này.
Đảng cộng sản Việt Nam không còn dựa vào lý do nào để lý giãi cho hành động nhục nhã, phản quốc, lòn trôn dưới chân bọn xâm lược Tàu.
Đảng cộng sản  Việt Nam không còn lý do nào để tiếp tục tồn tại nói chi cai trị VN.
 Yêu cầu những vị học giả trí thức soạn và ký tên “Lời kêu gọi” nhân kỷ niệm 35 năm cuộc chiến tranh xâm lược của Tàu nhanh chóng đưa ra trước công luận trong và ngoài nước Tuyên bố LÊN ÁN và TỐ CÁO những hành động tội lỗi của đảng cộng sản Việt Nam với toàn dân, phản bội lại Tổ quốc.
 Gia đình của gần một trăm ngàn nạn nhân bị bọn xâm lược Tàu giết hại trong cuộc chiến tranh biên giới tháng 2/1979 đang đặt toàn bộ lòng tin vào quí vị nhân sĩ trí thức đã ký tên vào “LỜI KÊU GỌI”. Lời kêu gọi  không những bị vứt vào sọt rác mà đảng cộng sản Việt Nam này còn thẳng tay và công khai làm theo lệnh của bọn Tàu xâm lược tạt nước thúi vào mặt toàn dân Việt Nam.
 Các nước trên toàn thế giới đang khinh bỉ thậm tệ cái đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam này.
Chúng ta không muốn bị thế giới gọp chung với đảng cộng sản Việt Nam cang tâm làm tôi đoài cho bọn sói lang xâm lược Tàu.
 Chúng tôi đặt toàn lòng tin vào hành động yêu nước đầy can trường của các vị nhân sĩ trí thức, tinh hoa của Tổ quốc, gái trai thuộc mọi lứa tuổi trong thời loạn …đảng.
Ngày 17 tháng 02 năm 2014
———–
Tham khảo: Lời kêu gọi của 74 nhân sĩ  trí thức

2348. 35 NĂM! HÃY NHẢY MÚA ĂN MỪNG…

Trần Mạnh Hảo
(TMH ứng tác ngay trên máy vi tính khi xem đoạn video cảnh công an bày đặt khiêu vũ trước tượng đài vua Lý Thái Tổ để át đi hình ảnh người biểu tình dâng hoa kỷ niệm ngày 60 vạn quân Trung Quốc tấn công dọc biên giới Việt Trung 35 năm trước làm sáu vạn chiến sĩ đồng bào ta hi sinh : đốt sạch, phá sạch, giết sạch làng mạc đô thị dọc biên giới Việt Trung)

Ngày 17-2-1979 tại biên giới Việt Trung
60 vạn Hoa quân nhập Việt
Ngày 16-2-2014 trước tượng đài vua Lý Thái Tổ – Hồ Gươm
Hàng trăm cặp đôi khiêu vũ ăn mừng

Mừng sáu vạn chiến sĩ đồng bào Việt Nam ngã xuống
Mừng tình hữu nghị Việt – Trung
35 năm xây bằng núi xương sông máu
Trước tượng đài vua Lý rưng rưng
Các đồng chí hãy múa hát tưng bừng

Hãy quên đi sáu vạn người chiến đấu
Sáu vạn người bị giết bởi Trung Hoa
Không cần bắt kẻ dâng hoa kỷ niệm
Hỡi loa phường mở hết cỡ lời ca

Mười bảy tháng hai sẽ là ngày QUỐC VŨ
Ngày toàn đảng toàn dân hoa hỉ xuống đường
Hãy hát to át kẻ hô đả đảo
Việt Nam Trung Hoa máu liền máu xương liền xương

Hãy vào đây cả côn đồ cướp giật
Cùng công an thường phục múa thân thương
Vòng luân vũ dâng thiên triều khúc hát
Mừng anh em mở hội suốt biên cương

Nếu tượng vua Lý có hùa theo đám biểu tình rơi lệ
Thì cưa đá đây xin cưa béng vua đi
Mừng đồng chí lưỡi bò đang liếm bể
Mười sáu chữ vàng xóa lịch sử hề chi

Không kỷ niệm, chớ xót thương gì hết
Sáu vạn người đã chết có là bao
Hãy khiêu vũ mừng Hoa quân nhập Việt
Ba mươi nhăm năm, nào múa hát đồng bào….

Sài Gòn 23 giờ ngày 17-2-2014

2349. SÀI GÒN TƯỞNG NIỆM NGÀY CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC PHƯƠNG BẮC

Huỳnh Ngọc Chênh
1
Đúng 11 giờ sáng ngày 18.2.2014, hơn 25 nhân sĩ trí thức và khoảng 40 nhân viên an ninh cùng có mặt tại tượng đài Trần Hưng Đạo tại công trường Mê Linh quận 1 Sài Gòn để cử hành lễ tưởng niệm ngày nhân dân Việt Nam đứng lên chống chiến tranh xâm lược của bọn bành trướng Bắc Kinh tại biên giới phía Bắc cách đây 35 năm.
Các vòng hoa và các khẩu hiệu được mọi người tự giác mang đến được đặt dưới chân tượng đài Trần Hưng Đạo, vị anh hùng dân tộc đã nhiều lần lãnh đạo nhân dân đánh tan quân xâm lược phương Bắc. Buổi lễ bắt đầu bằng bài diễn văn ứng khẩu của giáo sư Tương Lai:
Thưa các bạn

Chúng ta tập họp tại đây, dưới chân tượng đài Thánh Trần biểu tượng oai hùng nhất, đẹp nhất cho ý chí quật khởi và tinh thần quyết chiến, quyết thắng trước giặc phương Bắc xâm lược, cho dù chúng hung hãn, dữ dằn và xảo quyệt đến đâu để bày tỏ khát vọng và quyết tâm của chúng ta quyết xứng đáng với ông cha ta.
Hôm nay Kỷ niệm 35 năm ngày quân và dân ta đánh bại quân xâm lược Trung Quốc trong cuộc chiến tranh biên giới do Đặng Tiểu Bình phát động, gây bao thảm hoạ đau thương cho dân tộc ta khi nhân dân ta vừa ra khỏi gần ½ thế kỷ chiến tranh, thương tích còn đầy mình. Chúng giết sạch và phá sạch như cha ông chúng xưa kia đã làm.
Máu của chiến sĩ và đồng bào ta đã thấm đẫm trên 6 tỉnh biên cương Tổ Quốc. Ấy thế mà vì lẻ gì người ta cố tình quên, buộc cả dân tộc phải quên cuộc chiến tranh tàn khốc đã lột trần bộ mặt thật của Đặng Tiểu Bình và chính quyền Bắc Kinh để chúng tiếp tục những âm mưu, thủ đoạn của chúng hôm nay.
Chúng ta không thể quên- Kiên quyết không quên (có tiếng hô đáp lại)
Chúng ta cực lực lên án tội ác của Trung Quốc xâm lược (có tiếng vọng đáp lại)
Chúng ta kiên quyết vạch trần thủ đoạn của những ai đang tìm mọi cách bịt miệng người dân, “đục bỏ lòng yêu nước” để tiếp tục thủ đoạn bịp bợm bằng 16 chữ lừa mị nhân danh cho cái gọi là “cùng chung ý thức hệ”.
(có tiếng trả lời : kiên quyết)
Chúng ta xin thề trước anh linh Tổ Quốc, trước anh linh của chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh trong cuộc chiến tranh xâm lược, sẽ xứng đáng với dòng máu Việt Nam đã chảy. Máu người không phải nước lã, chúng ta kêu gọi người người lãnh đạo còn lương tri hãy đặt Tổ Quốc lên trên hết để không tủi hỗ với những người đã chết.
Xin thề trước Anh linh của đồng bào và chiến sĩ sẽ xứng đáng với họ.
(Tiếng vang: Xin thề)
Giáo sư Tương Lai đọc
Sau đó nhiều khẩu hiệu hô vang trong đó có khẩu hiệu “đả đảo bọn Trung Quốc xâm lược”, “kiên quyết vạch trần thủ đoạn những ai tìm mọi cách bịt miệng nhân”…
Những người dự lễ tưởng niệm đã làm lễ mặc niệm và thắp hương cho anh linh các liệt sĩ và nhân dân đã ngã xuống tại biên giới phía Bắc vào năm 1979 trong trận chiến đẫm máu chống lại quân Trung Quốc xâm lược. Trong khi đó các nhân viên an ninh và công an chìm nổi miệt mài và chăm chỉ chụp hình và quây video ghi lại toàn bộ buổi lễ cũng như ghi chi tiết từng khuôn mặt những người đi dự lễ. Có hơn 30 máy chụp hình và quay phim đếm được trong số gần 40 nhân viên an ninh bám sát theo những người dự lễ.
Tuy vậy buổi lễ tưởng niệm diễn ra trong không khí thành kính, trang nghiêm và ôn hòa.
Buổi lễ phải tổ chức vào sáng nay vì hai ngày trước đây, những người chủ chốt thực hiện lễ tưởng niệm đã liên tục bị người lạ mặt theo dõi và ngăn chặn trước cửa nhà. Sáng nay lệnh theo dõi và ngăn chặn dường như bị bãi bỏ nên những người tham gia buổi lễ đã ra ám hiệu liên lạc với nhau và bất ngờ xuất hiện tại tượng đài Trần Hưng Đạo vào lúc đúng giờ nên buổi lễ đã diễn ra tốt đẹp. Tuy vậy vẫn có một số người đã không đến được để dự lễ do những trục trặc bất ngờ mà chưa xác định được nguyên nhân.
Một vị nhân sĩ trí thức đã cay đắng nói sau khi kết thúc buổi lễ: Đi biểu lộ lòng yêu nước và thắp nhang cho các liệt sĩ hy sinh vì tổ quốc mà phải chuẩn bị thầm lén, thông báo cho nhau toàn ám hiệu như là đi cướp nhà băng. Cái thời đại gì mà kì hoặc không thể nào tưởng tượng ra.
Rút kinh nghiệm việc dùng những người khiêu vũ để phá lễ tưởng niệm tại Hà Nội gây ra cơn địa chấn thông tin trên toàn cầu về cách làm kỳ khôi không giống ai của nhà cầm quyền VN, buổi lễ tưởng niệm tại Sài Gòn đã không bị quấy rầy dù lực lượng an ninh tuy bất ngờ vẫn tập trung đông gấp đôi số lượng người đi dự lễ.
2
3

4
5
6
 

2350. Ông Đinh Đăng Định: Nhà nước Việt Nam là công cụ của chế độ CS độc tài

VOA – Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ
17-02-2014
Trà Mi
1
Việt Nam tạm hoãn thi hành án 1 năm cho một tù nhân lương tâm bị ung thư giai đoạn cuối giữa những áp lực gia tăng từ quốc tế.
Nhà giáo bất đồng chính kiến Đinh Đăng Định tối ngày 15/2 nhận quyết định được ngưng thi hành án để điều trị căn bệnh ung thư dạ dày giai đoạn 4.
Ông Định bị tuyên án 6 năm tù hồi tháng 8 năm 2012 về tội danh ‘tuyên truyền chống nhà nước’ sau khi viết bài kêu gọi đa đảng-dân chủ và phản đối dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên do Trung Quốc trúng thầu.

Nhà nước CHXHCN Việt Nam thực chất chỉ là công cụ của chế độ độc tài, chứ nhà nước này không phải là một nhà nước độc lập đúng nghĩa của nó theo đúng khoa học lập pháp của một nhà nước.
Ông Đinh Đăng Định.
Cuối năm ngoái, đại sứ Hoa Kỳ, Liên hiệp Châu Âu cùng phái bộ ngoại giao của 24 quốc gia khác tại Việt Nam đã gửi thư cho nhà cầm quyền Hà Nội yêu cầu phóng thích ông Định trên cơ sở nhân đạo để ông được về với gia đình trong những ngày cuối chống chọi với căn bệnh ung thư hiểm nghèo.
Trong cuộc phỏng vấn với VOA Việt ngữ tối ngày 17/2, nhà đấu tranh dân chủ Đinh Đăng Định khẳng định ông không có tội, nếu có chăng, là ‘có tội với chế độ độc tài, với chế độ cộng sản cực đoan’.

2Ông Đinh Đăng Định: Từ hôm họ đưa lệnh này, họ đã rút hết toàn bộ từ camera đến quân lính của họ ra khỏi giường bệnh của tôi.
VOA: Hiện ông có chịu một sự quản chế, quản thúc như thế nào không?
Ông Đinh Đăng Định: Trong lệnh đó, họ yêu cầu mỗi tháng phải gọi điện báo về trại giam một lần và đến tháng thứ 11 phải đến cơ quan thi hành án ở tỉnh sở tại trưng cầu giám định bệnh.
VOA: Hiện giờ tình trạng sức khỏe của ông thế nào?
Ông Đinh Đăng Định: Tình trạng sức khỏe của tôi hiện nay rất tệ, ung thư di căn giai đoạn 4, không ăn uống gì được từ hơn 1 tháng nay rồi.
VOA: Ông có cảm nghĩ thế nào về quyết định tạm hoãn thi hành án cho ông?
Ông Đinh Đăng Định: Trại giam họ giải thích rằng đến lúc tôi đủ điều kiện tức phải ung thư giai đoạn 4 thì họ mới giải quyết cho tạm hoãn thi hành án. Lúc trước, khi tôi đang ở giai đoạn 3, đơn thư gia đình gửi đi rất nhiều cũng như rất nhiều nguồn dư luận trong và ngoài nước yêu cầu chính phủ Việt Nam phải trả tự do cho tôi, nhưng họ kiên quyết không thực hiện. Họ nói là chưa đúng luật. Với sức ép đấu tranh của dư luận, của các nước dân chủ như Mỹ, Đức, Pháp, EU từ các đại sứ quán của họ ở Hà Nội thì Việt Nam có phần nhân nhượng. Thế nhưng trong việc nhân nhượng họ lại cố tình chứng tỏ rằng pháp luật của họ có tính khoan hồng, nhân đạo.
VOA: Nói tới ‘khoan hồng’, xưa nay chính phủ Việt Nam vẫn ‘dành sự khoan hồng đối với những người có thái độ nhận tội, xin khoan hồng’. Ông có nghĩ rằng nếu ông đã ‘nhận tội’ hoặc ‘xin khoan hồng’ thì mọi việc sẽ khác đi không?
Ông Đinh Đăng Định: Tôi không nghĩ như thế. Thật ra trong tù tôi thấy rất nhiều người nhận tội, thậm chí nhận tội ngay trước tòa, nhưng việc thực hiện ‘khoan hồng’, giảm án đối với họ chỉ là 3 tháng một. Đối với những đồng bào người Thượng ở Tây Nguyên, họ ở tù cả chục năm cũng bị những bệnh hiểm nghèo như tai biến mạch máu não tới mức bị liệt, bị câm, không thể đi được, nhưng họ vẫn phải chung án. Mỗi năm họ được giảm án chỉ 3 tháng hoặc 6 tháng là cùng thôi.
VOA: Trong thời gian bị giam giữ, ông được trại giam đối xử ra sao?
Ông Đinh Đăng Định: Trong trại, những cán bộ cai tù thật ra họ đối xử với tôi rất tốt. Tôi đã xác định với họ rằng: “Giữa tôi với các anh không có giới hạn gì về mặt con người. Các anh không phải là kẻ thù của tôi.” Tôi cũng nhắc họ phải có quan điểm rõ ràng rằng nếu như tôi có tội thì tôi có tội với đảng cộng sản Việt Nam, có tội với chế độ độc tài. Ngay từ phút đầu tôi có mặt ở trại giam, cán bộ quản giáo đối xử với tôi có thể gọi là tốt. Thế nhưng tốt trong phạm vi của họ thôi bởi vì chế độ của trại giam vô cùng khốc liệt. Sự chăm sóc về ăn uống, về sức khỏe vô cùng giới hạn. Thuốc men không có. Tôi phát hiện được bệnh của tôi rất sớm. Tôi yêu cầu được đi bệnh viện nhưng họ kiên quyết không cho đi. Họ bảo phải theo dõi theo một quy trình. Cho nên suốt từ tháng 3/2013 cho đến tháng 9/2013 họ mới cho tôi đi bệnh viện. Khi đi bệnh viện kiểm tra thì phát hiện tôi đã bị khối u và ung thư giai đoạn 3 mất rồi.
VOA: Ông nói với cán bộ trại giam rằng: ‘Nếu tôi có tội, tôi có tội với chế độ độc tài’ trong khi bản án nhà nước Việt Nam dành cho ông với tội danh ‘tuyên truyền chống nhà nước’…
Ông Đinh Đăng Định: Trong trại giam, tôi thường nói với anh em tù rằng: ‘Tội của chúng ta là tội với chế độ độc tài, với chế độ cộng sản cực đoan, chứ chúng ta không có tội với ai cả.’ Còn nhà nước CHXHCN Việt Nam thực chất chỉ là công cụ của chế độ độc tài đó thôi, chứ nhà nước này không phải là một nhà nước độc lập đúng nghĩa của nó theo đúng khoa học lập pháp của một nhà nước.
VOA: Lúc nãy ông có nhắc tới ‘chế độ của trại giam vô cùng khốc liệt’. Sự khắc nghiệt đó tới mức độ thế nào, ông có thể cho vài dẫn dụ?
3 Ông Đinh Đăng Định: Chúng tôi sống trong chế độ biệt giam. Khu tù chính trị chúng tôi bị cách biệt hẳn. Hằng ngày chúng tôi chỉ nhìn thấy cán bộ quản giáo thôi. Chính những người tù, chúng tôi cũng không được nhìn thấy nữa. Mỗi buồng giam có 2 người. Chế độ về thực phẩm, dinh dưỡng vô cùng thấp. Ngoài ra, về mặt văn hóa-tinh thần, trong trại giam chúng tôi không có sách báo hay TV gì mà đọc ngoài tờ Nhân Dân của đảng và kênh truyền hình giải trí VTV3 và một kênh địa phương thôi. Tôi yêu cầu họ cho tôi được đặt mua báo từ bưu điện để cho tất cả anh em tù nhân cùng đọc bằng tiền túi cá nhân của tôi, nhưng họ không giải quyết. Tôi cũng yêu cầu sách vở của tôi do gia đình gửi vào phải cho tôi đọc, thế nhưng họ cũng không giải quyết. Hay như có một số đồng bào dân tộc không thạo tiếng Việt, tôi yêu cầu trại cho họ được học tiếng Việt do đích thân tôi dạy, nhưng cho tới giờ phút này họ vẫn chưa giải quyết. Đấy là một vài ví dụ.
VOA: Từ trường hợp của bản thân, một tù nhân lương tâm được tạm hoãn thi hành án 1 năm vì lý do bệnh tình ngặt nghèo, giờ đây khi ra khỏi trại giam để điều trị sức khỏe, ông muốn thế giới biết gì về tình hình nhân quyền Việt Nam, về tình trạng tù nhân lương tâm tại Việt Nam?
Ông Đinh Đăng Định: Qua buổi tiếp xúc này với đài VOA, tôi muốn được gửi lời đến thế giới bên ngoài rằng thế giới cần phải biết một điều: nhân quyền ở Việt Nam mới chỉ là nhân quyền một nửa, chưa thể gọi là nhân quyền. Đặc biệt trong môi trường tù tội, không hề có nhân quyền. Việc thực hiện tra tấn, họ không tra tấn một cách lộ liễu, mà họ tra tấn bằng cách chẳng hạn như ốm đau không được trị bệnh, ăn uống thiếu thốn, đời sống văn hóa không có. Đấy cũng là các hình thức tra tấn. Dù Công ước Chống tra tấn họ vừa ký chưa ráo mực, nhưng trên thực tế nhân quyền ở Việt Nam vẫn chưa được thực hiện và không biết đến bao giờ sẽ được thực hiện. Có lẽ các cơ quan, phái bộ giám sát nhân quyền Liên hiệp quốc và các tổ chức phi chính phủ cần phải được mở cửa vào các trại tù kể cả tù chính trị hay tù hình sự để xem xét sự thật này.
VOA: Ông nói: ‘Nhân quyền Việt Nam chỉ là nhân quyền một nửa’, điều này nên được hiểu thế nào?
Ông Đinh Đăng Định: Tức là họ chỉ thực hiện những cái gì mang tính hình thức về mặt nhân quyền. Chẳng hạn như ngoài mặt họ rêu rao là đã giảm được bao nhiêu hộ nghèo mỗi năm. Điều đấy chúng tôi thừa nhận và đó là sự thật. Tuy nhiên, đó chỉ là hình thức. Còn cái chiều sâu của nó, thực chất của nó còn ở trong bóng tối chưa được mở ra.
VOA: Xin chân thành cảm ơn nhà bất đồng chính kiến Đinh Đăng Định đã dành cho chúng tôi cuộc trao đổi này.

 2351. PHẢN ỨNG HAI MẶT CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI CHIẾN LƯỢC “XOAY TRỤC” CỦA MỸ

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Chủ Nhật, ngày 16/02/2014
Theo Thời báo châu Á Trực tuyến, hai năm sau khi Mỹ công bố chính sách tái cân bằng về phía khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Trung Quốc dường như đã phác thảo một chiến lược hai mặt trong phản ứng đang trở nên rõ ràng hơn trong thời gian gần đây.

Một mặt, Trung Quốc đã tiếp cận khu vực Đông Nam Á và các quốc gia Trung Á, đề xuất việc thiết lập hai “Con đường tơ lụa ” thông qua ký kết đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng và các thỏa thuận thương mại tự do. Mặt khác, nước này đã ngày càng gia tăng thái độ cứng rắn đối với Philippines và Nhật Bản, hai quốc gia đang ngày càng gần nhau hơn trong một chiến lược kiềm chế Trung Quốc trong khu vực.
Đến cuối năm 2011, thông qua những tuyên bố chính thức cấp cao, Chính quyền Barack Obama đã bắt đầu tuyên bố chiến lược tái cân bằng về khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Chiến lược này còn được gọi là chính sách “xoay trục” chiến lược sang châu Á. Sự định hướng chiến lược như vậy khẳng định rằng Mỹ sẽ hướng trọng tâm trong các chính sách đối ngoại và an ninh của nước này vào khu vực xung quanh bờ biển châu Á- Thái Bình Dương, từ tiểu lục địa Ấn Độ đến khu vực Đông Bắc Á.
Bằng cách này, sự hiện diện ngoại giao, quân sự và kinh tế của Mỹ trong khu vực sẽ được tăng cường. Định hướng này đã được thông qua dựa trên nhận định rằng tăng trưởng kinh tế của châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, và quá trình hiện đại hóa quân sự của nước này khiến khu vực châu Á-Thái Bình Dương trở nên quan trọng hơn đối với các lợi ích của Mỹ, đặc biệt là trong bối cảnh Mỹ rút quân khỏi Iraq và Afghanistan.
Chính sách “xoay trục” sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương có một đặc điểm kép: nó có thể là một phần trong chiến lược hợp tác với khu vực và gia tăng sự hiện diện của Mỹ, và cũng có thể là một phần trong chiến lược kiềm tỏa Trung Quốc. Tuy nhiên, những gì đã được đưa vào thực hiện cơ bản là một chiến lược ngăn chặn, được minh chứng bằng sự hiện diện và bố trí quân sự linh hoạt hơn trong khu vực, với việc phân bổ quân đến Philippines, Australia và Singapore.
Một chiến lược quân sự nhằm vào một cuộc xung đột trong tương lai với Trung Quốc đã được thực hiện, với trọng tâm chiến lược nằm trong khái niệm Tác chiến Không quân-Hải quân. Bên cạnh đó, các cuộc đàm phán đã được tăng cường xung quanh Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (một hiệp định thương mại tự do không có sự góp mặt của Trung Quốc). Mỹ đã đề xuất hiệp định này trong suốt giai đoạn của Chính quyền Tổng thống George W.Bush. Hiệp định này bao gồm những điều khoản như nới lỏng luật lao động và tự do hóa các dịch vụ cũng như tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Nó đã và đang được 11 quốc gia hai bên bờ Thái Bình Dương đàm phán.
Đáp lại, Trung Quốc dường như đã thông qua một cách tiếp cận hai mặt: Nước này thể hiện chắc chắn sẽ đáp trả chiến lược kiềm tỏa trong khi hoan nghênh một chiến lược can dự. Trung Quốc cho thấy những lợi ích tiềm năng của việc hợp tác bằng cách đề xuất các thỏa thuận thương mại và một “Vành đai kinh tế Con đường tơ lụa”. Tuy nhiên, việc thiết lập Vùng Nhận dạng Phòng không (ADIZ) chồng lấn lên vùng phòng không của Nhật Bản và sự hỗ trợ ít ỏi cho Philippines sau cơn bão Haiyan chứng tỏ rằng Trung Quốc sẽ không khoan dung với bất kỳ hành động khiêu khích nào trong các vùng lãnh hải tranh chấp.
Phản ứng hai mặt: Răn đe quân sự và hai “Con đường tơ lụa”
Việc thiết lập ADIZ trên biển Hoa Đông là một phản ứng của Trung Quốc trước thái độ ngày càng hung hăng của Nhật Bảns nước hoan nghênh kế hoạch tái cân bằng của Mỹ đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương thông qua: về mặt kinh tế, tham gia Hiệp đinh đối tác xuyên Thái Bình Dương; về mặt quân sự, ủng hộ học thuyết “Tác chiến Không quân- Hải quân” của Lầu Năm Góc bên cạnh việc gia tăng đáng kể ngân sách quốc phòng của mình.
Các cuộc tập trận quân sự do Trung Quốc và Malaysia tiến hành có thể thể hiện cùng một diễn biến của hành động này. vẫn cần phải chờ xem Trung Quốc sẽ phản ứng như thế nào trước sự tái lập quan hệ giữa Nhật Bản và Ấn Độ, hai nước có năng lực quân sự và sức mạnh kinh tế to lớn.
Như một phần trong cuộc tấn công ngoại giao rộng lớn hơn, được các nhà phân tích mô tả là một chính sách gây cảm tình, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã thực hiện ba chuyến công du cấp cao tới một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á và Trung Á hồi tháng 9 và 10/2013. Tại khu vực Trung Á, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đến thăm Kazakhstan, Uzbekistan, Turkmenistan và Kyrgyzstan. Khi đó, một thỏa thuận cung cấp dầu mỏ quan trọng với Turkmenistan và một quan hệ đối tác chiến lược với Kyrgyzstan đã được ký kết.
Sau đó, trong tháng 10/2013, Chủ tịch Tập Cận Bình và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã gần như đồng thời thực hiện các chuyến thăm đến Indonesia, Thái Lan, Việt Nam và Brunei, Nhân dịp này, một thỏa thuận trị giá 25 tỷ USD đã được đề nghị với Malaysia, cũng như một hiệp ước về các tranh chấp trên Biển Đông đã được ký kết. Sự vắng mặt của Tổng thống Mỹ Barack Obama tại những hội nghị thượng đỉnh của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á- Thái Bình Dương (APEC) do các vấn đề trong nước với Quốc hội Mỹ càng làm gia tăng sự quan trọng đối với các vấn đề như vậy.
Trong những chuyến thăm Đông Nam Á và Trung Á của mình, Chủ tịch Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường đã đề xuất việc thiết lập hai “Con đường tơ lụa” mới, gồm một tuyển đường trên bộ ở khu vực Trung Á và một tuyến đường biển chạy qua khu vực Đông Nam Á. Những khái niệm như vậy là sự mô phỏng các tuyến đường thương mại mà qua đó nhiều loại hàng hóa đã được thông thương trong thời Trung cổ. Phiên bản “con đường tơ lụa” trên bộ đã kết nối nền văn minh Trung Hoa với phương Tây thông qua khu vực Trung Á, đạt đến đỉnh điểm trong thời kỳ đế chế Mông Cổ. Phiên bản “Con đường tơ lụa” trên biển có lộ trình chính là Án Độ Dương.
Sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và tiếp sau đó là sự gia tăng nhu cầu năng lượng cũng như việc tiêu thụ hàng hóa đã làm hồi sinh nhu cầu về các tuyến đường như vậy. Mặc dù hầu hết nguồn cung cấp năng lượng của Trung Quốc được vận chuyển bằng đường biển, nhưng con đường tơ lụa mới này sẽ bao gồm một loạt các dự án cơ sở hạ tầng năng lượng và giao thông vận tải giúp kết nối khu vực Đông Á với châu Âu thành tuyến đường Á-Âu. Tuyến đường hàng hải này, được công bố tại Hội nghị cấp cao Đông Á, sẽ được cụ thể hóa thông qua sự gia tăng lưu lượng hàng hải và hoạt động xây dựng cảng biển ở Đông Nam Á.
Tuy nhiên, trên thực tế Mỹ là nước đầu tiên đề xuất việc xây dựng một “con đường tơ lụa mới” tại Âu-Á như là một biện pháp để ổn định Afghanistan sau khi họ rút quân khỏi nước này, bằng cách biến nơi đây thành một trung tâm thương mại và năng lượng của khu vực. Mặc dù Mỹ đã có những tiến triển về mặt này, nhưng Trung Quốc lại- đang là nước đi đầu trong việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng khu vực này. Trong bài phát biểu của mình tại Kazakhstan, Chủ tịch Tập Cận Bình đã đề xuất rằng “Con đường tơ lụa” mới không chỉ là một tuyến đường quá cảnh mà còn là một “Vành đai thịnh vượng” kéo dài từ biển Thái Bình Dương đến biển Baltic.
Tại Hội nghị thượng đỉnh APEC ở Bali, trong một sự đề cập rõ ràng tới hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, nhà lãnh đạo Tập Cận Bình cũng đã bảo vệ rằng “bất kỳ sự dàn xếp nào cũng sẽ dẫn đến quan hệ hợp tác chứ không phải là một mối quan hệ đối đầu; một tư duy cởi mở chứ không phải là tư duy độc đoán; những kết quả hai bên cùng có lợi chứ không phải là một kết quả của trò chơi được mất ngang nhau; và sự hội nhập chứ không phải là chia rẽ”. Mặc dù các cuộc đàm phán gần đây đã tiến triển trong một số vấn đề, ví dụ như hạn chế hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, nhưng vẫn vấp phải sự phản đối từ phía Malaysia, Việt Nam và Brunei.
Cũng trong dịp này, Chủ tịch Trung Quốc đã đặt mục tiêu nâng kim ngạch thương mại song phương giữa Trung Quốc và Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) lên tới 1 nghìn tỷ USD vào năm 2020. Tại Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc-ASEAN ở Brunei, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã tái khẳng định-ý định thành lập một khu vực thương mại tự do – được biết đến với tên gọi Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) – giữa ASEAN và năm quốc gia hiện nay vẫn duy trì các thỏa thuận thương mại tự do với tổ chức khu vực này (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand).
Cả hai nhà lãnh đạo Trung Quốc đều nhấn mạnh vai trò hiện nay của Trung Quốc trong lĩnh vực ngoại thương ở tất cả các quốc gia mà họ đến thăm. Đồng thời, họ đã đặt ra những mục tiêu đầy tham vọng về ngoại thương và xây dựng cơ sở hạ tầng, cho thấy tầm quan trọng của Trung Quốc đối với bất kỳ dự án kinh tế nào trong khu vực.
Trung Quốc đã khởi xướng sự hòa giải này với ASEAN vào tháng 6/2013 khi nước này ký kết một chương trình hợp tác 10 điểm với Việt Nam, trong đó bao gồm nhiều vấn đề từ các thỏa thuận hợp tác an ninh cho đến triển vọng thăm dò khí đốt chung tại Vịnh Bắc Bộ. Mặc dù những tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam tại khu vực này đã được giải quyết trong năm 2005, nhưng một hiệp định như vậy có thể làm cơ sở cho việc giải quyết những tranh chấp lãnh hải tại các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Điều này đòi hỏi một sự liên quan đáng chú ý do thực tế là Việt Nam, cùng với Philippines, là một trong những nước đi đầu phản đối Trung Quốc trong khối ASEAN, một tổ chức với các diễn đàn đa phương được sử dụng để ngăn chặn những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Bằng cách cho thấy những lợi ích về một mối quan hệ lớn với Trung Quốc, các nước ASEAN đã trở nên gắn kết hơn và buộc phải cải thiện quan hệ với Trung Quốc, do đó cô lập Philippines trong sự phản đối mang tính hệ thống của họ đối với nước láng giềng lớn nhất của họ.
“Cuộc trường chinh về phía Tây”
Sự chú ý ngày càng gia tăng của Trung Quốc đến các khu vực Trung Á, Nam Á và Trung Đông đã được xác định bằng một chiến lược “trường chinh về phía Tây,” như đã được đề xuất bởi Giáo sư Vương Tập Tư, Viện trưởng Viện Quan hệ Quốc tế tại Đại học Bắc Kinh. Ý tưởng cốt lõi của chiến lược này là vạch ra kế hoạch cho Trung Quốc về mặt ngoại giao và kinh tế tại các khu vực mà nước này có những lợi ích chung với Mỹ, ví dụ như việc bình ổn Afghanistan và đảm bảo hoạt động cung cấp dầu mỏ. Mục tiêu của chiến lược này là đa dạng hóa hệ thống cung cấp năng lượng, sự ổn định của khu Vực biên giới phía Tây Trung Quốc và thể hiện tiềm năng hợp tác với Mỹ.
Những chỉ dấu khác của công cuộc “trường chinh về phía Tây” này là việc xây dựng mạng lưới giao thông vận tải và cơ sở hạ tầng năng lượng tại khu vực Trung Á; sự tăng cường đầu tư của Trung Quốc ở Afghanistan; chuyến thăm của một ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc tới Afghanistan; các cuộc tham vấn 3 bên Trung Quốc – Pakistan – Afghanistan do Trung Quốc thúc đẩy; sự tái lập quan hệ hữu nghị với Pakistan; và quyết định của Thổ Nhĩ Kỳ trong việc mua hệ thống phòng không HQ-9 của Trung Quốc.
Mặc dù hầu hết các sáng kiến đều không trực tiếp đụng chạm tới những lợi ích của Mỹ, thậm chí còn thường xuyên bao hàm cả những lợi ích đó, song một số diễn biến có thể được hiểu là sự bành trướng. Điều này được minh họa bằng việc bán các hệ thống phòng không cho Thổ Nhĩ Kỳ và việc Mỹ phản đối trước quyết định của Thổ Nhĩ Kỳ.
Sự hiện diện ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực này, cùng với những thách thức mà Mỹ phải đối mặt ở Trung Đông, cũng cho thấy sự cần thiết để Mỹ phải duy trì sự gắn kết với khu vực này như một phần trong chiến lược của họ đối với Trung Quốc.
Các cuộc tranh luận rằng những khó khăn ở khu vực Trung Đông sẽ khiến cho chính sách “xoay trục” sang châu Á của Mỹ không thể thực hiện được, dường như đang dần biến mất. Bất chấp sự vắng mặt của Tổng thống Obama tại các hội nghị thượng đỉnh ở châu Á cùng các cuộc tấn công ngoại giao và kinh tế của Trung Quốc, ngân sách quốc phòng và những tài liệu học thuyết của Mỹ vẫn trực tiếp hướng tới việc phát triển khả năng Tác chiến Không quân-Hải quân, một nhánh quân sự trong chính sách “xoay trục” của Mỹ sang châu Á.
Mặc dù việc kiềm tỏa Trung Quốc là trọng tâm trong chiến lược tái cân bằng đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương hiện nay, nhưng phản ứng hai mặt của Trung Ouốc dường như lại tạo điều kiện cho nhiều mối quan hệ hợp tác hơn trong khu vực, cũng như với Mỹ. Mặt khác, đối với Mỹ, những hành động của Trung Quốc như việc thiết lập ADIZ có thể đựợc xem như dấu hiệu của một Trung Quốc ngày càng hung hăng và quyết liệt hơn khi họ bảo vệ những lợi ích của mình.
Nói về Trung Quốc, cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger đã phác họa tầm nhìn về một viễn cảnh khác trong chiến lược tái cân bằng sang khu vực châu Á của Mỹ. ông Henry Kissinger đã đề xuất xây dựng một “cộng đồng Thái Bình Dương”, một kiểu môi trường đa phương, trong đó Mỹ, Trung Quốc và các nước châu Á-Thái Bình Dương còn lại có thể phát triển niềm tin chiến lược thay vì gia tăng những căng thẳng và cạnh tranh. Đó là một quan điểm thiên về sự can dự đối với chính sách : ”xoay trục” sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trái ngược với sự kiềm chế đang được tiến hành hiện nay.
Đặc điểm hai mặt trong chính sách “xoay trục” của Mỹ, cũng như phản ứng hai mặt của Trung Quốc, cho thấy sự chia rẽ có hệ thống và mang tính ý thức hệ của các nhà hoạch định chiến lược ở cả hai quốc gia. Đặc điểm này cũng phù hợp với tình thế tiến thoái lưỡng nan mà Trung Quốc và Mỹ hiện đang phải đối mặt: chấp nhận khả năng can dự và hợp tác song phương hoặc “đóng băng” các mối quan hệ giữa hai nước và biến chính sách đối ngoại thành một trò chơi được mất ngang nhau, có khả năng dẫn tới một cuộc xung đột./.

2352. MÂU THUẪN TRONG MỤC TIÊU AN NINH TOÀN CẦU VÀ AN NINH CHÂU Á THÁI BÌNH DƯƠNG GIỮA MỸ VÀ TRUNG QUỐC

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Chủ Nhật, ngày 16/02/2014
Bài nghiên cứu của Giáo sư Lưu Kiến Phi, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế – Trường Đảng Trung ương Trung Quốc đăng trên tạp chí “Ngoại giao Trung Quốc ” số 9/2013, cho rằng dù là chiến lược toàn cầu hay chiến lược châu Á-Thái Bình Dương, mục tiêu an ninh của Trung Quốc và Mỹ đều có rất nhiều điểm gặp gỡ nhau, khiến hai nước có không gian hợp tác rất lớn, nhưng mâu thuẫn cũng hết sức rõ rệt, đặc biệt là trong mục tiêu an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương, nên cũng khiến hai nước có động lực cạnh tranh mạnh mẽ. Cùng với việc Trung Quốc trỗi dậy và khoảng cách thực lực giữa hai nước ngày càng thu hẹp, mâu thuẫn trong mục tiêu an ninh giữa hai nước sẽ càng nổi lên rõ hơn, cạnh tranh chiến lược cũng quyết liệt hơn. Tuy vậy, nếu quan hệ đi theo hướng cạnh tranh tiêu cực, nhất là đi đến chiến tranh lạnh mới sẽ đều không phù hợp với lợi ích căn bản của cả hai. Dưới đây là nội dung bài của Lưu Kiến Phi.

I- Mục tiêu an ninh toàn cầu và mâu thuẫn trong mục tiêu an ninh toàn cầu giữa Mỹ và Trung Quốc
Sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, Mỹ công bố định kỳ bản “Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia”, trình bày một cách có hệ thống lợi ích, mục tiêu và các biện pháp thực thi những lợi ích và mục tiêu đó của Mỹ trên toàn cầu. Được gọi là chiến lược an ninh, trên thực tế đó chính là chiến lược toàn cầu. Mục tiêu an ninh toàn cầu của Mỹ được điều chỉnh theo sự thay đổi của tình hình.
Sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ trở thành nước siêu cường duy nhất, cố gắng duy trì lâu dài địa vị siêu cường, cũng có nghĩa là địa vị bá quyền, từ đó trở thành mục tiêu cao nhất trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Mục tiêu này đến nay vẫn không thay đổi.
Năm 1994, Chính quyền Clinton đã công bố bản báo cáo về “Chiến lược can dự và mở rộng an ninh quốc gia”, thể hiện rõ khuôn khổ cơ bản của chiến lược toàn cầu. Báo cáo trên có 3 mục tiêu lớn, đó là:
Bảo vệ vững chắc an ninh của nước Mỹ bằng lực lượng quân sự đã được chuẩn bị tốt để sẵn sàng chiến đấu;
Thúc đẩy kinh tế Mỹ khôi phục lại sức sống;
Thúc đẩy phát triển dân chủ ở ngoài nước.
Ba mục tiêu lớn nói trên cùng làm chỗ dựa cho một mục tiêu chung, đó là bảo vệ bá quyền. Khuôn khổ chiến lược toàn cầu như vậy cũng có thể được gọi là chiến lược bá quyền.
Sau sự kiện khủng bố 11/9, chiến lược toàn cầu của Mỹ chuyển sang lấy chống khủng bố làm nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, được gọi là chiến lược chống khủng bố. Nhưng chiến lược chống khủng bố hoàn toàn không phải đã từ bỏ chiến lược bá quyền, mà là kết hợp một cách hữu cơ giữa chống khủng bố và bảo vệ bá quyền. Tuy thế, nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược chống khủng bố cuối cùng là chống khủng bố, vẫn có sự khác biệt lớn so với chiến lược bá quyền với đặc trưng nổi bật là “can dự và mở rộng”. Nếu so sánh thì chiến lược bá quyền có ý nghĩa chỉ đạo lâu dài hơn, phù hợp với cả thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh, còn chiến lược chống khủng bố lại có tính giai đoạn và tính tạm thời nhiều hơn.
Sau khi lên nắm quyền, Chính quyền Obama đã có sự điều chỉnh rất nhanh, từ bỏ chiến lược chống khủng bố, trở lại với chiến lược bá quyền. Bản “Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia” năm 2010 chỉ rõ lợi ích lâu dài của nước Mỹ là:
An ninh của nước Mỹ, của công dân Mỹ và an ninh của các đồng minh và đối tác của Mỹ;
Duy trì kinh tế Mỹ lớn mạnh, đổi mới và tăng trưởng trong hệ thống kinh tế quốc tế mở, thúc đẩy cơ hội tăng trưởng và phồn vinh;
Tôn trọng giá trị phổ quát ở trong nước và trên toàn thế giới;
Thông qua hợp tác chặt chẽ xây dựng trật tự quốc tế thúc đẩy hòa bình, an ninh và cơ hội phát triển, nhằm đối phó với các loại thách thức toàn cầu dưới sự lãnh đạo của Mỹ.
Trên thực tế, bốn lợi ích lâu dài nói trên chính là bốn mục tiêu trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, cùng làm điểm tựa để bảo vệ mục tiêu bá quyền. So với chiến lược “can dự và mở rộng” thì có thể nói ba mục tiêu đầu về cơ bản là thống nhất, chỉ có sự khác biệt về phương thức biểu đạt. Còn mục tiêu thứ tư là căn cứ theo sự thay đổi trong tình hình mới để nhấn mạnh thách thức toàn cầu. Dưới thời của Clinton, vấn đề này còn chưa rõ như hiện nay.
Trong bốn mục tiêu nói trên, mục tiêu thứ nhất là an ninh theo nghĩa hẹp, bao gồm những nội dung chủ yếu như an ninh quốc phòng truyền thống hay còn gọi là an ninh quân sự, và an ninh thân thể của công dân Mỹ, hay cũng có nghĩa là an ninh phi truyền thống.
Mục tiêu thứ hai là cơ sở vật chất của an ninh, không có sự đảm bảo mạnh mẽ của kinh tế, an ninh sẽ không được bền vững.
Mục tiêu thứ ba cũng là cơ sở quan trọng của an ninh, là cơ sở về phương diện tinh thần. Trong thế giới ngày nay nếu một quốc gia không đứng trên đỉnh cao của đạo đức sẽ trở thành cô độc, cuối cùng sẽ không được ai ủng hộ, an ninh cũng rất khó duy trì lâu dài.
Mục tiêu thứ tư là môi trường bên ngoài của an ninh. Xét tình hình của nước Mỹ, duy trì trật tự dưới sự lãnh đạo của Mỹ là có lợi nhất đối với an ninh của chính họ, bao gồm cả cơ sở vật chất và cơ sở tinh thần. Có thể thấy, các mục tiêu thứ hai, thứ ba và thứ tư liên quan chặt chẽ đến an ninh, có thể quy về phạm trù an ninh theo nghĩa rộng, tức an ninh kinh tế, an ninh chính trị và an ninh trật tự. Việc “Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia” liệt các nội dung này thành mục tiêu là đã bao hàm các tầng ý nghĩa như vậy.
Trung Quốc chưa có được “Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia” như Mỹ nên mục tiêu an ninh toàn cầu của Trung Quốc chỉ có thể diễn dịch từ mục tiêu chiến lược lớn của Trung Quốc. Báo cáo của Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể gọi là văn kiện trình bày mục tiêu phát triển và nội dung tương ứng về mục tiêu phát triển của Trung Quốc ở tầng nấc cao nhất, quyền uy nhất, từ đó có thể thấy rõ khuôn khổ chiến lược lớn của Trung Quốc. Từ năm 1978, ít nhất là từ Đại hội Đảng lần thứ 12 năm 1982 đến nay, khuôn khổ chiến lược lớn của Trung Quốc về cơ bản không thay đổi, đó là tập trung thực hiện hiện đại hoá, đồng thời thúc đẩy thống nhất quốc gia, bảo vệ hoà bình thế giới. Sau đó 3 mục tiêu trên được xác định rõ là 3 nhiệm vụ lịch sử lớn của Trung Quốc trong thập niên 80 thế kỷ 20. Đến Đại hội lần thứ 16 Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2002, lại xác định 3 mục tiêu đó là 3 nhiệm vụ lịch sử lớn của thế kỷ 21. Chỉ có nhiệm vụ thứ ba, ngoài “bảo vệ hoà bình thế giới” còn có thêm nội dung “thúc đẩy cùng phát triển”. Ba nhiệm vụ lớn chính là mục tiêu chiến lược lớn của Trung Quốc hiện nay và một thời gian dài trong tương lai. Việc hoàn thành 3 nhiệm vụ lớn đòi hỏi phải có hai điều kiện làm tiền đề, đó là bảo vệ an ninh quốc gia và ổn định xã hội. Nếu hai điều kiện trên xảy ra vấn đề, chẳng hạn như bị cuốn vào chiến tranh quy mô lớn hoặc bị kẻ thù bên ngoài xâm chiếm, hoặc lại xảy ra nội loạn mang tính cục bộ giống như “Cách mạng Văn hoá”, thì ba nhiệm vụ lớn sẽ đều không thể hoàn thành. Vì thế, trên thực tế, Trung Quốc có 5 mục tiêu chiến lược lớn là thực hiện hiện đại hoá; thực hiện thống nhất quốc gia; bảo vệ hoà bình thế giới- thúc đẩy cùng phát triển; bảo vệ an ninh quốc gia; giữ gìn ổn định xã hội, trong đó thực hiện hiện đại hoá là mục tiêu trung tâm.
Nếu lấy ba nhiệm vụ lớn và hai điều kiện tiền đề làm khởi điểm lôgích để phân tích mục tiêu an ninh toàn cầu của Trung Quốc, có thể phân thành hai phạm trù nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Mục tiêu an ninh toàn cầu theo nghĩa hẹp chính là Trung Quốc không bị kẻ thù bên ngoài xâm chiếm hoặc không bị cuốn vào chiến tranh quy mô lớn, cũng có nghĩa là an ninh quốc phòng và an ninh quân sự, vì loại hình an ninh này nếu bị đe doạ sẽ đòi hỏi phải huy động toàn bộ sức mạnh quân sự để đối phó. về con đường để thực hiện an ninh quốc phòng, một là tăng cường lực lượng quốc phòng, tăng cường khả năng bảo vệ an ninh; hai là làm tốt công tác ngoại giao, thêm bạn bớt thù. Liên quan mật thiết với an ninh quốc phòng là toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và thống nhất quốc gia, vì nếu toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và thống nhất quốc gia bị bị đe doạ thì cũng phải dốc toàn lực để đối phó. Đối với Trung Quốc, mục tiêu an ninh toàn cầu theo nghĩa rộng, ngoài đối phó mối đe doạ an ninh phi truyền thống như chủ nghĩa khủng bố, điều quan trọng hơn nữa là an ninh chính trị và an ninh kinh tế. Tuy nhiên, an ninh chính trị và an ninh kinh tế cũng có thể coi là an ninh phi truyền thống. Sách Trắng về “Phát triển hoà bình của Trung Quốc” năm 2011 đã xác định lợi ích cốt lõi của Trung Quốc có 6 nội dung, đó là: “Chủ quyền quốc gia; An ninh quốc gia; Toàn vẹn lãnh thổ; Thống nhất quốc gia; Chế độ chính trị quốc gia được xác lập theo hiến pháp Trung Quốc và ổn định đại cục xã hội Trung Quốc; Đảm bảo cơ bản cho kinh tế xã hội phát triển bền vững”. Trong 6 nội dung nói trên, 4 nội dung đầu là tương ứng với an ninh quốc phòng, nội dung thứ 5 ứng với an ninh chính trị, nội dung thứ 6 ứng với an ninh kinh tế, bao gồm an ninh tài chính và an ninh năng lượng. Tuy nhiên nội hàm an ninh theo nghĩa rộng còn phải yêu cầu rộng hơn, giới học giả cũng có các khái niệm về an ninh văn hoá, an ninh thông tin, an ninh khoa học công nghệ, an ninh sinh thái, an ninh xã hội… Những nội dung an ninh này cũng cần phải bảo vệ nhưng tính chất quan trọng và tính bức xúc lại kém xa các loại hình an ninh quốc phòng, an ninh chính trị và an ninh kinh tế.
Mục tiêu an ninh toàn cầu giữa hai nước Mỹ-Trung chắc chắn có rất nhiều điểm đan xen lẫn nhau, như bảo vệ cục diện hoà bình tổng thể của thế giới, giữ cho kinh tế thế giới ổn định phồn vinh, tấn công khủng bố V.V.. Nếu không có điểm chung thì công cuộc chống khủng bố giữa hai nước đã sớm đi đến đối kháng lẫn nhau. Tuy thế, với tư cách là hai nước lớn có chế độ xã hội, giai đoạn phát triến và địa vị chiến lược đều rất khác nhau, mục tiêu an ninh toàn cầu của Mỹ và Trung Quốc cũng có rất nhiều điểm mâu thuẫn nhau.
Trước hết, về an ninh quốc phòng. Tuy hai nước đều chưa coi nhau là kẻ thù, cũng chưa có chuẩn bị gì để tiến hành chiến tranh, thậm chí còn tuyên bố xây dựng mối quan hệ nước lớn kiểu mới, nhưng nội dung cụ thể trong mục tiêu an ninh quốc phòng của hai nước lại khác nhau. Chính điểm bất đồng như vậy mới dẫn đến mâu thuẫn.
Mỹ không những bảo vệ an ninh của nước mình mà còn phải bảo vệ an ninh cho cả các nước đồng minh và nước đối tác. về điểm này mục tiêu của Mỹ có mâu thuẫn với mục tiêu thống nhất quốc gia của Trung Quốc. Mỹ coi Đài Loan của Trung Quốc là đồng minh, có trách nhiệm bảo vệ an ninh cho Đài Loan. Nếu Trung Quốc sử dụng vũ lực để thống nhất sẽ khó tránh khỏi bị Mỹ can thiệp. Đây cũng là lý do để Trung Quốc cho rằng Đài Loan là vấn đề nhạy cảm nhất giữa Mỹ và Trung Quốc. Lại nữa, Nhật Bản cũng là đồng minh của Mỹ, hai nước có hiệp ước bảo vệ an ninh. Trong tình hình tranh chấp đảo Điếu Ngư thời gian gần đây, quan chức Mỹ tuyên bố đảo Điếu Ngư nằm trong phạm vi bảo vệ của hiệp ước này, nhưng đối với Trung Quốc, đảo Điếu Ngư lại liên quan đến toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc. Lại còn cả vấn đề Nam Hải (Biển Đông), Mỹ cũng có thể can thiệp với lý do bảo vệ an ninh của nước đồng minh.
Thứ hai, an ninh chính trị. Tình hình đặc thù của Trung Quốc đã khiến cho vấn đề an ninh chính trị của nước mình trở nên hết sức nổi bật. Mỹ thực thi chiến lược thúc đẩy dân chủ và chiến lược mở rộng “giá trị phổ quát”, đồng thời Mỹ thường gây sức ép đối với Trung Quốc trên vũ đài quốc tế trong các vấn đề nhân quyền, dân chủ, thậm chí còn can thiệp vào công việc nội bộ của Trung Quốc, như vậy rõ ràng đã tạo ra mối đe dọa đối với an ninh chính trị của Trung Quốc.
Vấn đề an ninh chính trị của Mỹ tuy không hết sức nổi bật, nhưng cũng luôn phải cảnh giác với thách thức của các “nhân tố phi nước Mỹ” đối với ý thức hệ tự do của Mỹ. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Mỹ thi hành chính sách kiềm chế Liên Xô hơn 40 năm, chính là vì lo sợ ý thức hệ cộng sản Liên Xô có thể phá vỡ chủ nghĩa tự do, từ đó khiến cho một nước di dân như nước Mỹ mất đi sợi dây tinh thần gắn kết giữa các chủng tộc, dân tộc và các nhóm người theo những tôn giáo khác nhau. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, dù tình hình an ninh chính trị có sự thay đổi lớn, nhưng Mỹ vẫn chưa nới lỏng ý thức an ninh chính trị, một biểu hiện rõ nét trong đó là phản ứng nhạy cảm với “mô hình Trung Quốc” trong một vài năm gần đây. Có thể nói, sự đối lập về ý thức hệ giữa Trung Quốc và Mỹ rõ ràng đã khiến mục tiêu an ninh chính trị của hai nước không có điểm chung.
Thứ ba, an ninh kinh tế. Về an ninh kinh tế, Trung Quốc và Mỹ có lợi ích chung tương đối lớn, vì thế mục tiêu an ninh kinh tế cũng có nhiều điểm đan xen lẫn nhau, như ổn định tài chính, giao thông vận tải biển thông suốt, không xảy ra chiến loạn lớn ở những khu vực quan trọng. Tuy nhiên, mục tiêu kinh tế hai nước cũng có khác biệt, hơn nữa cũng nặng về những điểm bất đồng trong những tình hình khác nhau và những điều kiện khác nhau. Trước mắt có hai điểm tương đối rõ: Một là địa vị của đồng USD. Mỹ có ý đồ duy trì lâu dài địa vị bá quyền của đồng USD, trong khi Trung Quốc muốn làm giảm mức độ lệ thuộc vào đồng USD, đồng thời nâng cao địa vị của đồng nhân dân tệ; hai là tỉ giá đồng nhân dân tệ và nhập siêu mậu dịch. Mỹ muốn thông qua việc nâng giá của đồng nhân dân tệ để giải quyết vấn đề nhập siêu mậu dịch lớn, trong khi Trung Quốc khẳng định phải căn cứ theo nhu cầu phát triển kinh tế của bản thân để điều chỉnh tỉ giá hối đoái chứ không nghe theo lệnh của Mỹ. Tuy vậy vẫn còn có thể tìm ra được rất nhiều điểm mâu thuẫn, chẳng hạn trong rất nhiều vấn đề như quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ mậu dịch, tự chủ đổi mới các doanh nghiệp của Trung Quốc, đầu tư của các doanh nghỉệp nhà nước Trung Quốc tại Mỹ, địa vị kinh tế thị trường của Trung Quốc, Mỹ hạn chế xuất khẩu công nghệ cao sang Trung Quốc… đều có va chạm, phản ánh rõ những khác biệt trong mục tiêu an ninh kinh tế của hai bên ở những mức độ khác nhau. Hơn nữa, cùng với khoảng cách về thực lực kinh tế giữa Trung Quốc và Mỹ được thu hẹp, va chạm kinh tế giữa hai nước cũng sẽ nhiều hơn.
Thứ tư, chống khủng bố và ngăn chặn phổ biến hạt nhân. Trên tổng thể, mục tiêu của Mỹ và Trung Quốc là nhất trí với nhau trong các vấn đề về chống khủng bố và ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân, nhưng vẫn có khác biệt, chủ yếu thể hiện qua bất đồng giữa hai bên về địa vị của chống khủng bố và ngăn chặn phổ biến hạt nhân trong chiến lược an ninh của mỗi nước. Vấn đề chống khủng bố chiếm vị trí nổi bật trong chiến lược an ninh của Mỹ, trong thời kỳ Tổng thống Bush đã được đặt ở vị trí hàng đầu. Chính quyền Obama tuy đã hạ thấp địa vị chống khủng bố nhưng vẫn được coi là một trọng điểm. Bản báo cáo về “Chiến lược chống khủng bố quốc gia” được Chính phủ Mỹ công bố ngày 29 tháng 6 năm 2011, nhấn mạnh: “Đe dọa nổi bật đối với an ninh của nước Mỹ vẫn là tổ chức ‘Al-Qaeda’ cùng những chi nhánh và những kẻ đi theo chúng”, “Bin Laden bị tiêu diệt hoàn toàn không có nghĩa là cố gắng của chúng ta đã kết thúc, cũng không có nghĩa là tổ chức ‘Al-Qaeda’ đã cáo chung”. Nếu so sánh với Mỹ thì địa vị chống khủng bố trong chiến lược an ninh của Trung Quổc không nổi bật như vậy. Ở phương diện này có sự liên quan nhất định với mức độ đe doạ tương đối hạn chế của chủ nghĩa khủng bố mà Trung Quốc đang đối mặt, mặt khác cũng còn do mức độ đe doạ tương đối nghiêm trọng về an ninh quốc phòng liên quan đến chủ quyền lãnh thổ và thống nhất quốc gia mà Trung Quốc cũng đang phải đối mặt, mức độ nghiêm trọng này vốn được ưu tiên hơn nhiều so với nhiệm vụ chống khủng bố trong bảng thứ tự xếp hạng. Trong lĩnh vực ngăn chặn phổ biến hạt nhân cũng có tình hình tương tự. Dưới con mắt của nước Mỹ, việc đề phòng phổ biến hạt nhân, nhất là ngăn chặn phổ biến hạt nhân luôn là mối đe doạ lớn. Bản báo cáo sau cùng về tình hình an ninh quốc gia Mỹ do ủy ban chiến lược của Mỹ công bố tháng 5 năm 2009 cho biết: “Chiến lược hạt nhân của Mỹ vừa mới bắt đầu đã phải đứng trước một khó khăn chủ yếu, tức vũ khí hạt nhân là mối đe doạ tiềm tàng lớn nhất đối với phương thức sống của chúng ta, cũng lại là nhân tố bảo vệ quan trọng đối với an ninh của nước Mỹ. Nếu trật tự hạt nhân quốc tế bị phá vỡ thì đối với Mỹ và các nước khác, đó sẽ là một tai họa”. Sau sự kiện khủng bố 11/9, đe doạ khủng bố hạt nhân luôn là nỗi ám ảnh không dứt đối với người Mỹ, trở thành ác mộng khiến Mỹ lo sợ. Phòng chống phổ biến vũ khí hạt nhân hoàn toàn không phải đặt ở vị trí nổi bật như vậy trong chiến lược an ninh Trung Quốc, nguyên nhân cũng tương tự như chống khủng bố.
Ngoài bốn phương diện nói trên, hai nước Trung-Mỹ cũng có những bất đồng trong các vấn đề về biến đổi khí hậu, can dự nhân quyền quốc tế, bảo vệ quyền uy của Liên hợp quốc, trong đó rất nhiều mâu thuẫn đều do mâu thuẫn trong mục tiêu an ninh toàn cầu như vậy đem lại.
II- Mục tiêu an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương và mâu thuẫn trong mục tiêu an ninh châu Á-Thái Bình Dương giữa Mỹ và Trung Quốc
Chiến lược an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ là phục tùng và phục vụ cho chiến lược toàn cầu của Mỹ. Bản “Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia” năm 1994 đã dành riêng một phần để trình bày “chính sách khu vực mang tính chất tổng thể”, từ đó có thể thấy rõ chiến lược khu vực trong khuôn khổ chiến lược bá quyền lúc đó. về “Đông Á và khu vực châu Á-Thái Bình Dương”, Chính quyền Clinton đã đề xuất ý tưởng thành lập cộng đồng Thái Bình Dương mới, và sẽ gọi đó là một Chiến lược nhất thể hoá. Báo cáo nhấn mạnh “chiến lược này sẽ gắn kết nhu cầu về an ninh, hiện thực kinh tế và những quan tâm của chúng ta về dân chủ, nhân quyền lại với nhau”. Nhưng trọng tâm chiến lược của Mỹ lúc đó vẫn còn ở châu Âu nên chưa cảm nhận được mối đe doạ an ninh cụ thể nào ở châu Á-Thái Bình Dương, “ngăn chặn phổ biến vũ khí sát thương quy mô lớn tại bán đảo Triều Tiên và Nam Á” đã trở thành mối quan tâm hàng đầu về an ninh. Ngoài ra, còn là vấn đề nhân quyền ở Trung Quốc và Myanmar.
Tuy nhiên, nếu xuất phát từ mục đích bá quyền như vậy thì Mỹ phải ngăn chặn đối thủ cạnh tranh chiến lược nào xuất hiện, thách thức địa vị bá quyền của nước Mỹ, đó là ý nghĩa cần có của chiến lược bá quyền. Các nhà chiến lược Mỹ đã sớm cho rằng đối thủ cạnh tranh chiến lược này là đến từ lục địa châu Âu. Năm 1995 Văn phòng an ninh quốc tế thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ đã công bố bản “Báo cáo của nước Mỹ về chiến lược an ninh khu vực Đông Á-Thái Bình Dương”, đề cập đến lợi ích của nước Mỹ tại châu Á. Báo cáo cho biết: “Trong hai thế kỷ qua, lợi ích của Mỹ ở châu Á rõ ràng đã trở nên thống nhất: Hoà bình và an ninh, được khu vực này mở rộng cửa thương mại, tự do hàng hải và đề phòng bất cứ thế lực nào hoặc liên minh bá quyền nào trỗi dậy”. Nhưng lúc đó, ngăn chặn “bá quyền trỗi dậy” mới chỉ là một trong nhừng lợi ích chưa được đặt lên hàng đầu, hơn nữa ai là đối tượng cần phải đề phòng ngăn chặn, trong báo cáo vẫn còn chưa đề cập đến.
Trong tài liệu “Bàn cờ lớn”, chiến lược gia Zbigniew Kazimierz Brzezinski đã đề xuất 5 đối thủ địa chiến lược ở lục địa Âu-Á, đó là Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Pháp và Đức. Mục tiêu chính trong chiến lược Âu-Á của Mỹ là ngăn chặn một đối thủ nào đó xưng bá ở lục địa Á-Âu. Bản “Báo cáo đánh giá quốc phòng 4 năm một” năm 1997 nói rõ: “Sau năm 2015 có thể sẽ xuất hiện một nước lớn khu vực hoặc đối thủ cạnh tranh ngang hàng trong phạm vi toàn cầu. Nga và Trung Quốc được một số người coi là những nước có tiềm năng trở thành đối thủ cạnh tranh như vậy”. Chính quyền Bush lên cầm quyền đã công khai gọi Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh chiến lược chủ yếu của nước Mỹ, vượt Nga trở thành đối tượng chủ yếu mà Mỹ phải đề phòng. Nhưng sự kiện khủng bố 11/9 đã buộc Mỹ phải điều chỉnh lại chiến lược toàn cầu và chiến lược châu Á-Thái Bình Dương, đồng thời thay đổi, định vị lại chiến lược đối với Trung Quốc.
“Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia” năm 2010 đã không trình bày riêng chính sách khu vực như trong báo cáo năm 1994, nhưng xét từ cách thể hiện chính sách và thực tiễn ngoại giao của các nhân vật tầm cỡ thì nước Mỹ trên thực tế đã xác định rõ Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh chiến lược số một. Đây cũng là một trong những căn cứ chủ yếu để Chính quyền Obama tuyên bố dịch chuyển trọng tâm chiến lược sang phía Đông. Năm 2011 Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton công bố bài viết có tên “Thế kỷ châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ”, đã trình bày rất rõ chiến lược châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ, rằng quan hệ với Trung Quốc là mối quan hệ “phức tạp nhất và có ảnh hưởng lớn nhất”, “gây nhiều chú ý nhất”, “có tính thách thức lớn nhất”.
Nếu trước đây nói đối phó với Trung Quốc trỗi dậy, đề phòng Trung Quốc xưng bá ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương mới chỉ là một cách nói thông thường trong nhiều mục tiêu chiến lược an ninh của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương, thì đến nay nội dung cách nói như vậy đã trở thành mục tiêu trung tâm. về điểm này, giữa Mỹ và Trung Quốc đang tồn tại mâu thuẫn.
Tuy vậy, chiến lược châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ vẫn có một mặt khúc xạ khác. Xuất phát từ chiến lược toàn cầu, Mỹ phải hoạch định chiến lược châu Á-Thái Bình Dương trên cơ sở xem xét toàn điện 4 trụ cột lớn là bảo vệ an ninh, mở rộng kinh tế, thúc đẩy dân chủ và “giá trị phổ quát”, củng cố trật tự thế giới dưới sự lãnh đạo của Mỹ. Như vậy, Trung Quốc lại là đối tác mà Mỹ phải coi trọng. Nếu không có sự hợp tác của Trung Quốc thì rất nhiều mục tiêu đều khó thực hiện. Chắng hạn vấn đề kinh tế, việc Mỹ chuyển dịch trọng tâm chiến lược về phía Đông, một trong những động lực quan trọng trong đó là kinh tế khu vực châu Á-Thái Bình Dương dồi dào sức sống nhất, có tiềm năng phát triển nhất, Trung Quốc lại là đầu tàu lôi cuốn kinh tế châu Á-Thái Bình Dương phát triển. Mỹ tăng cường hợp tác kinh tế khu vực châu Á-Thái Bình Dương chắc chắn không bỏ qua được Trung Quốc. Vì thế, trong chiến lược an ninh khu vực châu Á- Thái Bình Dương của Mỹ, Trung Quốc vừa là đối thủ cạnh tranh, vừa là đối tác hợp tác, đó có thể gọi là một mối quan hệ nước lớn kiểu mới.
Trung Quốc phải đi theo con đường phát triển hoà bình, không có ý nguyện xưng bá ở khu vực. Trung Quốc chỉ mưu cầu tạo dựng môi trường xung quanh và môi trường khu vực tốt đẹp để phát triển hoà bình, thực hiện hiện đại hoá thuận lợi. Đương nhiên, cùng với thực lực tăng lên, địa vị nước lớn của Trung Quốc ở châu Á-Thái Bình Dương cũng từng bước mạnh thêm, trách nhiệm quốc tế phải đảm nhận cũng sẽ tăng lên.
Nếu so sánh thì mục tiêu an ninh của hai nước ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương có rất nhiều điểm chung, ví dụ như bảo vệ hoà bình tổng thể ở châu Á-Thái Bình Dương, kiểm soát sức mạnh hạt nhân ở Triều tiên, bảo vệ hoà bình ổn định trên bán đảo Triều Tiên, thúc đẩy hợp tác kinh tế khu vực. Nhưng những điểm mâu thuẫn sẽ nổi lên rõ hơn, mà rõ nhất là quan hệ với Nhật Bản.
Trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai, Mỹ và Nhật Bản từng là kẻ thù của nhau. Đến nay ký ức của Mỹ về sự kiện Trân Châu Cảng vẫn còn nguyên, Nhật Bản cũng còn nhớ rõ thảm cảnh bị tấn công bằng bom nguyên tử. Sau Chiến tranh, xuất phát từ đòi hỏi trong Chiến tranh Lạnh, Mỹ ra sức vực đỡ Nhật Bản, vì thế đã không thanh toán triệt để tội ác chiến tranh của Nhật Bản. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Mỹ một thời coi Nhật Bản là đối thủ cạnh tranh chiến lược toàn cầu của họ. Nhưng khi kinh tế Nhật Bản đi xuống, Mỹ đã rất nhanh chuyển trọng tâm chú ý hàng đầu sang Trung Quốc và Nga, nhưng vẫn luôn coi việc đề phòng Nhật Bản tách khỏi liên minh Mỹ-Nhật là mục tiêu quan trọng trong chiến lược châu Á- Thái Bình Dương của mình. Cùng với tiến trình Trung Quốc trỗi dậy, Mỹ ngày càng nghiêng theo hướng dựa vào liên minh Mỹ-Nhật để bảo vệ trật tự an ninh châu Á-Thái Bình Dương, đồng thời kiềm chế Trung Quốc. Vì thế, Mỹ dung dưỡng cho thế lực cánh hữu Nhật Bản hoành hành và hướng cho tình hình chính trị Nhật Bản không ngừng hữu khuynh hoá, thậm chí còn cổ vũ Nhật Bản tăng cường thực lực quân sự, phát huy vai trò lớn hơn trong các công việc quốc tế, ủng hộ Nhật Bản trở thành nước thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Trước việc thế lực cánh hữu Nhật Bản phủ nhận tội tác lịch sử của nước này, thách thức trật tự quốc tế sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, Mỹ cũng áp dụng thái độ bỏ qua. Trong những xung đột giữa Nhật Bản với nước láng giềng liên quan đến các vấn đề lịch sử và lãnh thổ, Mỹ không giữ thái độ công bằng, thậm chí ở mức độ nào đó còn thiên vị Nhật Bản. Nếu so sánh thì Trung Quốc với tư cách là nước đã chịu đựng đủ những tai hại do chủ nghĩa quân phiệt Nhật gây ra, Trung Quốc lại tương đối coi trọng khả năng nguy hại có thể xảy ra do thế lực cánh hữu Nhật Bản hoành hành đem lại. Trung Quốc lại càng cảnh giác trước việc nước Mỹ áp dụng sách lựa chọn một trong hai điều hại sẽ chọn điều ít hại hơn, lợi dụng thế lực cánh hữu Nhật Bản làm rối loạn tiến trình Trung Quốc trỗi dậy.
Ngoài quan hệ với Nhật Bản, những mâu thuẫn tương đối nổi bật khác gồm có:
1. Trong vấn đề liên quan đến chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc, Mỹ rõ ràng thiên vị bên nào đối lập với Trung Quốc, chứ không giữ chính sách “không đứng về bên nào” như trước đây. Cách làm của Mỹ không tránh khỏi bị Trung Quốc hiểu là lợi dụng nước liên quan để kiềm chế Trung Quốc.
2. Trong vấn đề Đài Loan, Mỹ-Trung Quốc tuy đều tìm kiếm biện pháp bảo vệ hòa bình ổn định khu vực Eo biển Đài Loan, nhưng Mỹ vẫn bán vũ khí cho Đài Loan, về khách quan như vậy là khuyến khích nhà cầm quyền Đài Loan duy trì chính sách “giữ nguyên hiện trạng” hoặc chính sách có khuynh hướng “Đài Loan độc lập”. Đồng thời như vậy cũng là không tôn trọng lợi ích cốt lõi của Trung Quốc.
3. Trong vấn đề hạt nhân bán đảo Triều Tiên và vấn đề an ninh, đòi hỏi của hai bên có sự khác biệt nhau rất rõ. Trung Quốc coi trọng hòa bình ổn định ở bán đảo Triều Tiên hơn, trong khi Mỹ đặt vấn đề phi hạt nhân hóa lên vị trí ưu tiên hơn, hơn nữa còn tìm kiếm cơ hội để thực hiện thay đổi chính quyền ở Triều Tiên.
4. Trong vấn đề tự do hàng hải ở vùng biển gần Trung Quốc, Trung Quốc phản đối tàu trinh sát quân sự Mỹ tùy tiện ra vào vùng biển Trung Quốc, Mỹ lại kiên trì vận dụng quyền tự do hàng hải đối với loại tàu thuyền như vậy.
5. Về trật tự an ninh khu vực, Mỹ muốn tiếp tục đóng vai trò của người lãnh đạo ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đồng thời coi Trung Quốc là nước thách thức địa vị lãnh đạo của Mỹ. Cái gọi là “trở lại châu Á-Thái Bình Dương”, chính là Mỹ cảm thấy địa vị của mình ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương giảm đi sau 10 năm chiến tranh chống khủng bố, trong khi ảnh hưởng của Trung Quốc lại có xu hướng tăng mạnh. Đối với Trung Quốc, trong khi thực lực tăng lên, ảnh hưởng của Trung Quốc cũng mở rộng thêm là việc hết sức tự nhiên. Trung Quốc chủ trương bảo vệ hòa bình, ổn định ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, cùng các nước châu Á xây dựng châu Á hài hòa, đồng thời sẵn sàng đóng góp sức lực trong sự nghiệp này. Trung Quốc phản đối bất cứ nước nào xưng bá ở châu Á-Thái Bình Dương.
6. Để bảo vệ quyền lãnh đạo khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ phải củng cố hệ thống đồng minh của mình ở khu vực, cũng có nghĩa là nhiều cặp liên minh song phương với các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand, Philippines, Thái Lan. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, rất nhiều đồng minh đã thay đổi cách nhìn nhận, coi cơ sở gắn kết giữa các đồng minh thành quan niệm giá trị, mâu thuẫn lúc này là nhắm vào một số ít quốc gia có quan niệm giá trị khác với nước Mỹ, Trung Quốc chính là nước nằm trong số đó.Việc Trung Quốc kiên trì chính sách không liên kết độc lập tự chủ, về mặt ý tưởng và lợi ích đều mâu thuẫn với Mỹ.
7. Về hợp tác kinh tế khu vực, Mỹ có ý đồ kiểm soát quyền chủ đạo hợp tác. Việc Mỹ ra sức thúc đẩy Hiệp định Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) chính là có ý đồ chèn ép Trung Quốc, tranh quyền chủ đạo hợp tác kinh tế khu vực châu Á-Thái Bình Dương với Trung Quốc. Trong khi đó Trung Quốc mưu tìm hợp tác bình đẳng cùng có lợi.
8. Về chính trị, Mỹ ra sức thực thi chiến lược thúc đẩy dân chủ và chiến lược mở rộng “giá trị phổ quát”, về mặt khách quan đã tạo ra áp lực bên ngoài nghiêm trọng đối với an ninh chính trị của Trung Quốc, hơn nữa ở mức độ nào đó cũng đã ảnh hưởng đến vấn đề hợp tác kinh tế, thậm chí cả đến hợp tác an ninh của Trung Quốc với một số nước khác. Chẳng hạn như Myanmar, cùng với sự phục hồi của “phái dân chủ” vốn được Mỹ ra sức ủng hộ, quan hệ Trung Quốc-Myanmar tuy về đại cục vẫn được duy trì nhưng hợp tác song-phương chưa thể nào suôn sẻ được như trước đây, trong khi đó Trung Quốc chủ trương cần phải tôn trọng lẫn nhau giữa các chế độ, các nền văn hoá và các mô hình phát triển khác nhau, giữa các nước cần phải mở rộng hợp tác vượt lên trên ý thức hệ.
Có thể dự báo, trong khi Trung Quốc tiếp tục trỗi dậy, đặc biệt là khoảng cách thực lực giữa Trung Quốc và Mỹ tiếp tục thu hẹp, nhân tố cạnh tranh với Trung Quốc trong chiến lược khu vực châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ sẽ ngày càng mạnh lên, mâu thuẫn giữa hai nước trong mục tiêu an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương cũng sẽ tăng lên.
III- Nguyên nhân mâu thuẫn và cách đối phó mâu thuẫn trong mục tiêu an ninh giữa Mỹ và Trung Quốc
Dù trên các bình diện toàn cầu hay khu vực châu Á-Thái Bình Dương, nguyên nhân lớn nhất dẫn đến mâu thuẫn về mục tiêu an ninh giữa Mỹ và Trung Quốc là chiến lược bá quyền của Mỹ. Nếu phân tích cụ thể thì rất nhiều mâu thuẫn còn được quyết định bởi cách nhìn nhận của hai bên về tình hình trong cùng một sự việc, hơn nữa cách nhìn nhận lại liên quan đến tư duy chiến lược.
Xét từ phía Mỹ, nếu quá dựa vào tư duy chiến lược theo chủ nghĩa hiện thực truyền thống thì Mỹ có thể sẽ nghiêng về xu hướng đi tìm kẻ thù hoặc tìm đối thủ cạnh tranh trên toàn cầu. Nếu tiếp tục bị ảnh hưởng bởi tư duy Chiến tranh Lạnh theo chủ nghĩa bảo thủ mới thì sẽ càng nghiêng theo hướng coi những ai khác biệt về ý thức hệ là kẻ thù hoặc là đối thủ cạnh tranh. “Thuyết về mối đe dọa từ Trung Quốc” và “Thuyết đối thủ Trung Quốc” là bắt nguồn từ đó. Tuy nhiên ở Mỹ hiện nay vẫn có hai loại hình chiến lược mang hai kiểu tư duy chiến lược khác với tình hình nói trên, kiểu thứ nhất là chủ nghĩa tự do thực tế, kiểu thứ hai là chủ nghĩa hiện thực lý tính. Hai kiểu tư duy tuy xuất phát điểm khác nhau nhưng đều nhấn mạnh thông qua hợp tác để thực hiện lợi ích của nước Mỹ. Hai kiểu tư duy này có khuynh hướng coi Trung Quốc là đối tác hợp tác của Mỹ.
Nhìn từ phía Trung Quốc, tuy dòng chính vẫn chủ trương hoà bình và phát triển là chủ đề thời đại, cho rằng hoà bình hợp tác phát triển là nguồn sống và phát triển của thế giới, Trung Quốc cần tiếp tục tìm kiếm hợp tác với Mỹ, tuy nhiên cũng có những tiếng nói tuy không phải mạch chính nhưng ảnh hưởng có chiều mạnh lên. Một loại xuất phát từ ý thức hệ giáo điều, cho rằng Trung-Mỹ là không thể điều hoà về mặt ý thứ hệ; loại thứ hai xuất phát từ lý luận hiện thực cứng nhắc, cho rằng nước Mỹ không để cho Trung Quốc trỗi dậy. Cả hai kiểu tư duy đều cho rằng Trung Quốc và Mỹ tất sẽ là kẻ thù, hơn nữa lại thẩm định hầu như tất cả mọi hành động và chính sách ngoại giao của Mỹ bằng “thuyết âm mưu”.
Mâu thuẫn về mục tiêu an ninh Mỹ-Trung tuy trước mắt đã dẫn đến rất nhiều va chạm nhưng về cơ bản vẫn trong phạm vi có thể kiểm soát được. Tương lai sẽ đi theo hướng nào, vấn đề này sẽ được quyết định bởi tầng quyết sách hai bên duy trì tư duy chiến lược đối với nhau như thế nào. Nếu kiểu tư duy chiến lược không có lợi cho hợp tác Trung-Mỹ chiếm ưu thế thì mâu thuẫn Trung-Mỹ chắc chắn sẽ mạnh lên, quan hệ Trung-Mỹ sẽ nghiêng đổ, Chiến tranh Lạnh Trung-Mỹ có thể lại tái diễn. Cục diện này tất sẽ nguy hại cho hoà bình và phát triển của khu vực châu Á-Thái Bình Dương, thậm chí cả thế giới.
Muốn ngăn chặn không để mâu thuẫn mục tiêu an ninh Trung-Mỹ bị kích hoạt, vấn đề then chốt ở chỗ phải loại bỏ những nghi ngờ chiến lược giữa hai nước như thế nào, từ đó nâng cao lòng tin chiến lược lẫn nhau. Từ đó, đòi hỏi hai bên, đặc biệt là phía Mỹ phải từ bỏ tư duy Chiến tranh Lạnh và tư duy chính trị quyền lực theo chủ nghĩa hiện thực truyền thống, thẩm định quan hệ hai nước theo hiện thực không ngừng phát triển và thay đổi, xuất phát từ lợi ích căn bản và hạnh phúc của nhân dân hai nước, đồng thời đứng trên tầm cao hoà bình và phát triển của thế giới. Tư duy Chiến tranh Lạnh và tư duy chính trị quyền lực theo chủ nghĩa hiện thực truyền thống đã sớm không còn phù hợp với xu hướng thời đại và hiện thực chính trị quốc tế, cần phải được loại bỏ.
Bản chất của Chiến tranh Lạnh là đối kháng giữa hai ý thức hệ và hai kiểu chế độ xã hội. Cái gọi là tư duy Chiến tranh Lạnh có hai nội dung lập luận quan trọng: Một là tìm kiếm đối kháng, hai là coi sự khác biệt về ý thức hệ và chế độ xã hội là nguồn gốc của đối kháng. Một bộ phận trong giới tinh hoa của nước Mỹ trong khi nhìn nhận về Trung Quốc vẫn coi Trung Quốc là nước xã hội chủ nghĩa thực hiện mô hình của Liên Xô, sau khi lớn mạnh sẽ vẫn bành trướng ra bên ngoài, xuất khẩu cách mạng, từ đó sẽ đe doạ an ninh của thế giới tư bản. Trong chính sách Trung Quốc của Mỹ, ý thức hệ chống Cộng vẫn phát huy vai trò rất lớn. Thúc đẩy dân chủ và mở rộng “giá trị phổ quát” chính là hình thức biểu hiện của ngoại giao ý thức hệ. Ở Trung Quốc, trong các văn kiện chính thức của nhà nước tuy đều nói rõ trong khi phát triển quan hệ với nước tư bản phải vượt lên trên ý thức hệ, nhưng có một số bộ ngành của chính phủ và một số học giả vẫn sử dựng khái niệm Chủ nghĩa xã hội với Chủ nghĩa tư bản là lửa với nước không thể dung hoà để nhìn nhận về nước Mỹ và các nước phương Tây khác.
Tuy thế, trong thế giới ngày nay, hoà bình và phát triển là chủ đề của thời đại, hợp tác cùng thắng là xu hướng cơ bản trong xử lý quan hệ giữa các nước. Ý thức hệ và quan niệm giá trị tuy vẫn giữ địa vị quan trọng trong chính sách đối ngoại của một số nước, nhưng tuyệt đối không phải là địa vị hàng đầu. Việc những người mang tư duy Chiến tranh Lạnh làm nói rõ sự khác biệt về ý thức hệ giữa Mỹ và Trung Quốc, trên thực tế là đã coi nhẹ loại hình văn hoá chính trị quốc tế này, hơn nữa cũng thiếu ý thức khách quan, toàn diện đối với tình hình ý thức hệ giữa Trung Quốc và Mỹ. Ý thức hệ là do hàng loạt quan niệm giá trị cấu thành. Nếu bỏ nhãn mác ý thức hệ, nghĩa là “nửa tư bản nửa xã hội” thì trên thực tế, hai nước Trung- Mỹ sẽ có rất nhiều điểm dung hợp và hoàn toàn thông hiểu lẫn nhau trên bình diện quan niệm giá trị. Chẳng hạn như, đối với quan niệm giá trị hạt nhân trong ý thức hệ tự do – Trung Quốc hoàn toàn không từ chối tự do, dân chủ, bình đẳng, pháp trị,

Đức Thành - Suy nghĩ về ‘nhạy cảm vùng biên’

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgVV27hm5xXUkuNvCpthj4Kxbey4-5mpaNXbxsBJ2dys0JpFiLtSEcaJbeKiMXwvmyxAQg5xEKLvRn3nJEJvzuDO4gSl6jftc8Wx55xBSLJ682J0P3rL0AgQSXKGGA6JXoLk2Cw_aQnccc/s1600/131.jpg

Trong chuyến công tác vừa qua tại một tỉnh biên giới phía bắc, đoàn chúng tôi được bố trí đi trên một chiếc xe mang biển số quân đội. Khi làm việc xong, anh em trong đoàn có ngỏ ý với lãnh đạo quân sự của tỉnh muốn tham quan một số cửa khẩu, kể cả cửa khẩu quốc gia và cửa khẩu quốc tế, để tận mắt chứng kiến không khí, cách thức làm việc của các lực lượng chức năng ta tại các cửa khẩu, cũng như sự phối hợp của lực lượng chức năng phía Trung Quốc với ta trong vấn đề xuất nhập cảnh tại biên giới.

Tuy có phần lấn cấn, gượng gạo kiểu “lúng búng như ngậm hột thị” nhưng cuối cùng anh em ở tỉnh cũng đồng ý để chúng tôi đi tham quan, nhưng lãnh đạo tỉnh đã yêu cầu chúng tôi phải mặc thường phục và phải thay xe biển thường, không được đi xe biển đỏ về phía cửa khẩu, để tránh gây cho “bạn” hiểu lầm!?

Một suy nghĩ mới nghe tưởng rất bình thường trong vấn đề giữ hòa khí ấy nếu chỉ xuất phát từ những lãnh đạo quân sự hay lãnh đạo đảng, chính quyền ở cấp tỉnh tuy không hài lòng nhưng có thể châm chước được vì là tỉnh biên giới thường xuyên có những va chạm và phải nghe ngóng những động thái ở bên kia biên giới.

Nhưng sẽ là hoàn toàn không ổn chút nào bởi dù là xe gì, nhất là xe quân sự không thể vì lý do “tránh hiểu nhầm” mà xe biển đỏ của quân đội lại không được phép đến của khẩu của ta. Nói dại, chẳng lẽ khi biết rõ một lực lượng khủng bố từ bên kia biên giới đem hỏa tiễn vác vai nã vào đồng bào mình mà quân đội lại không dám điều xe của mình hành quân lên biên giới để tiễu trừ chúng?

Gần đây đảng cố tình “lái” quân đội phải phục vụ đảng là trên hết và chịu sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng như thể hiện trong hiến pháp 2013 vừa qua thì hình như tư duy “tránh hiểu lầm”bằng cách không cho xe cộ mang biển quân đội lên biên giới cũng là ý của đảng?! Nếu thế khì thực sự nguy hiểm cho dân tộc này.

Năm nay cũng là năm kỷ niệm 35 năm chiến tranh biên giới, đảng không dám có một động thái nào để tổ chức hoạt động kỷ niệm ngày Trung Quốc xua quân xâm chiếm nước ta. Ít nhất là mít tinh tưởng niệm hay tổ chức phát quà thăm hỏi những gia đình thương binh liệt sỹ đã ngã xuống để bảo vệ biên cương của tổ quốc.

“Uống nước nhớ nguồn” - đạo lý ngàn đời của dân tộc Việt hun đúc lên suốt cả bề dày dựng nước và giữ nước. Đạo lý ấy đã là sức mạnh tinh thần vô song của dân tộc Việt và từ sức mạnh ấy dân tộc Việt đã đập tan biết bao nhiêu kẻ thù ỷ thế cậy đông đem quân xâm lược.

Thật tiếc thay cái vốn văn hóa ngàn đời ấy, cái làm nên sức mạnh vô song ấy đã bị những kẻ mang danh đảng vứt vào sọt rác. Trong khi họ trưng ra và bắt dân tộc này phải “mừng” phải “theo” cái đảng của họ.

Ngày nay trước những hành động xâm lấn cướp bóc của giới cầm quyền Trung Quốc tại biển đông và sự im lặng bất thường đến khó hiểu của đảng và nhà nước cũng như sự ký kết hiệp định một cách hớ hênh dẫn đến mất đất, mất rừng, mất vịnh đã khiến một bộ phận dân chúng chỉ trích đảng là kẻ bán nước. Khiến một bộ phận cán bộ, đảng viên, các nhân sĩ, trí thức phải lên tiếng cảnh báo và đề xuất những kiến giải hợp tình hợp lý. Nhưng thật tiếc những kiến giải đó hầu hết bị rơi vào im lặng và được đáp lại bằng một từ chung nhất mà lãnh đạo đảng hay dùng nhất đó là “ luận điệu của thế lực thù địch”.

Cũng không ít lần lãnh đạo đảng nhà nước than phiền về sự suy giảm xuống cấp niềm tin của dân chúng đối với tổ chức và đảng viên của đảng về sự sa đọa về đạo đức lối sống, tham ô tham nhũng lợi ích nhóm bè phái cục bộ chạy chức chạy quyền. Sự than phiền ấy thật đúng nhưng sẽ là chưa đủ nếu như không dám đề cập đến sự yếu kém của đảng trong xử lý những vấn đề về biển đảo về biên giới lãnh thổ và và chính sách biên giới phù hợp với tình hình hiện nay. Cũng là thiếu sót nếu như Đảng và nhà nước không dám đề cập đến đồng bào chiến sĩ và bạn bè quốc tế đã ngã xuống vì sự xâm lăng của quân Trung Quốc xâm lược tại toàn tuyến biên giới phía bắc nước ta 35 năm về trước.

Nhân dân luôn trông chờ và yêu cầu đảng phải nghĩ lại những cách hành xử của mình!

Hãy vì tổ quốc và dân tộc Việt trên hết.
Đức Thành
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
 

Chính sách " Bên miệng hố chiến tranh" của Trung Quốc đối với Việt Nam sau tháng 2- năm 1979


Sau một thời gian cân nhắc, chuẩn bị kỹ càng mọi phương diện, ngày 17-2-1979, Trung Quốc phát động cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn, đưa60 vạn quân cùng với gần 800 xe bọc thép, xe tăng, trọng pháo và máy bay các loại đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam. Trong giờ phút nguy nan, toàn thể dân tộc đã đồng lòng, cùng một ý chí, một quyết tâm giáng trả, bảo vệ biên cương đất nước. Trung Quốc đã phải rút quân, song cuộc chiến vẫn chưa kết thúc, mà chuyển sang một trạng thái mới, không kém phần nguy hiểm – nửa có hòa bình, nửa có chiến tranh.

1- Trì hoãn và đàm phán không thực chất

Ngược dòng lịch sử, không phải chỉ đến sau khi xung đột biên giới phía Bắc (2-1979) nổ ra, phía Việt Nam mới chú trọng giải quyết vấn đề biên giới. Các cuộc đàm phán về biên giới đã được thực hiện từ trước đó, nhằm giải quyết những xung đột nhỏ. Cuộc đàm phán đầu tiên về biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam - Trung Quốc được tiến hành từ  ngày 15-8-1974 đến  ngày 22-11-1974, cấp Thứ trưởng Ngoại giao. Cuộc đàm phán thứ hai về biên giới, lãnh thổ giữa hai nước diễn ra ở Bắc Kinh (từ ngày 10-1977 đến ngày 6-1978) cũng ở cấp Thứ trưởng ngoại giao[1]. Các cuộc đàm phán không đạt được thỏa thuận nào, ngoài việc dàn xếp gác lại khu vực tranh chấp ở giữa vịnh Bắc Bộ cho đến khi cùng đạt được thỏa thuận. Sau khi cuộc đàm phán của hai bên tạm dừng, các vụ việc căng thẳng ở biên giới ngày càng gia tăng và như trình bày ở trên, tháng 2-1979, cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc trên toàn tuyến biên giới phía Bắc diễn ra, xung đột biên giới Việt - Trung đã lên tới đỉnh điểm.

Sau khi chiến tranh biên giới năm 1979 kết thúc, đàm phán giữa Việt Nam và Trung Quốc được nối lại. Trước khi bước vào đàm phán với Trung Quốc, Nhà nước Việt Nam có chủ trương về một đợt đấu tranh ngoại giao mới. Nhận định rằng, Trung Quốc có thể dùng đàm phán ngoại giao và trì hoãn đàm phán để che đậy cho những bước đi tiếp theo, Việt Nam xác định sách lược thích hợp là phải kéo bằng được Trung Quốc ngồi vào đàm phán, chủ trương: Một mặt, tiến hành các bước thúc đẩy đàm phán, tranh thủ dư luận quốc tế, tìm ra chỗ yếu, làm sâu thêm các mâu thuẫn, kéo Trung Quốc xuống thang từng bước; mặt khác, khẩn trương tăng cường lực lượng về mọi mặt, sẵn sàng đánh bại mọi bước phiêu lưu quân sự mới[2]. Bên cạnh đó, lường định những tình huống có thể xảy ra, các cấp lãnh đạo chiến lược Việt Nam dự báo rằng, có một khả năng thứ hai: Trung Quốc không chịu ngồi vào bàn đàm phán. Trong trường hợp đó, vẫn phải tỏ ra thiện chí, tích cực tranh thủ dư luận thế giới, để Trung Quốc tự bộc lộ bản chất và các toan tính[3].

Cuối cùng, cuộc đàm phán Việt –Trung lần ba diễn ra vào năm 1979 với hai vòng đàm phán[4]. Trong vòng đàm phán thứ nhất, lập trường hai bên tóm tắt như sau: Phía Việt Nam cho rằng, trước hết cần giải quyết các vấn đề cấp bách để vãn hồi hòa bình, tạo không khí thuận lợi để giải quyết những vấn đề khác. Đoàn Việt Nam đưa ra đề nghị về "Những nguyên tắc và nội dung chủ yếu cho một giải pháp về những vấn đề trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc", với phương án ba điểm để giải quyết vấn đề biên giới: Chấm dứt chiến sự, phi quân sự hóa biên giới; khôi phục giao thông, vận tải bình thường; một giải pháp cho bất cứ vấn đề lãnh thổ nào trên "cơ sở tôn trọng đường biên giới lịch sử mà các Hiệp định Trung - Pháp năm 1887 và 1895 đã thiết lập"[5].Phía Trung Quốc kiên quyết từ chối những đề nghị của Việt Nam, đưa ra đề nghị tám điểm của mình, bác bỏ việc phi quân sự hóa biên giới, đề nghị giải quyết các vấn đề lãnh thổ trên "cơ sở những công ước Trung - Pháp"[6], chứ không phải trên cơ sở đường ranh giới thực tế do các Hiệp định đó đưa lại. Trung Quốc cũng đòi Việt Nam thừa nhận các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là "một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Trung Quốc"[7]; Việt Nam phải rút quân ra khỏi Trường Sa, thay đổi chính sách với Lào và Campuchia, giải quyết vấn đề Campuchia. Như một bộ phận của giải pháp cho vấn đề biên giới, Trung Quốc đưa tiếp vấn đề Hoa kiều ở Việt Nam (nhận lại những người Hoa đã ra đi) và quan hệ Việt Nam với các nước khác: "Không bên nào sẽ tham gia bất cứ khối quân sự nào chống bên kia, cung cấp căn cứ quân sự hoặc dùng lãnh thổ và các căn cứ các nước khác chống lại phía bên kia"; "Việt Nam không tìm kiếm bá quyền ở Đông Dương hay ở bất cứ nơi nào"[8] làm điều kiện để tiến hành thương lượng.

Vòng đàm phán thứ hai được tổ chức tại Bắc Kinh từ ngày 8-6-1979. Đoàn đại biểu Việt Nam đưa "Dự thảo thỏa thuận" về việc hai bên cam kết không tiến hành các hoạt động thám báo và trinh sát dưới mọi hình thức trên lãnh thổ của nhau; không tiến hành bất cứ hoạt động tiến công, khiêu khích vũ trang nào, không nổ súng từ lãnh thổ bên này sang bên kia, cả trên bộ, trên không, trên biển; không có bất cứ hành động gì uy hiếp an ninh của nhau. Việt Nam cũng đưa ra những quan điểm của mình về "chống bá quyền" với ba nội dung chính: 1- Không bành trướng lãnh thổ dưới bất cứ hình thức nào, chấm dứt ngay việc chiếm đoạt đất đai của nước kia, không xâm lược, không dùng vũ lực để "trừng phạt" hoặc để "dạy bài học"; 2- Không can thiệp vào quan hệ của một nước với nước khác, không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, không áp đặt tư tưởng, quan điểm, đường lối của mình cho nước khác; 3- Không liên minh với các thế lực phản động khác chống lại hòa bình, độc lập dân tộc[9]. Nhìn chung, trong vòng đàm phán này, Trung Quốc chủ yếu chỉ trích Việt Nam về việc “buộc” Trung Quốc phải thực hiện “chiến tranh tự vệ” (?!), đề cập đến một số vấn đề liên quan đến quan hệ hai nước và lập trường tại khu vực, không tập trung giải quyết thực chất vấn đề biên giới.

Qua hai vòng đàm phán, bộc lộ rõ thêm hàng loạt vấn đề:

Thứ nhất,Việt Nam muốn tập trung vào bàn bạc, giải quyết những vấn đề liên quan đến xung đột vũ trang giữa hai nước và tìm cách giảm căng thẳng ở biên giới chung, còn Trung Quốc đưa ra phạm vi thảo luận quá cách biệt (sự hiện diện của Việt Nam tại Campuchia, chấp nhận sự trở lại của người Hoa, công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa... là những điều phi lý, xâm hại đến chủ quyền quốc gia dân tộc của Việt Nam). Chính vì thế, kết quả đạt được là hạn hẹp, chỉ dừng lại ở mức độ bước đầu bàn bạc về những biện pháp đảm bảo hoà bình, ổn định trên vùng biên giới, về thoả thuận không bên nào đóng quân trên các điểm cao biên giới, lùi quân đội về phía sau, thỏa thuận giải quyết việc trao trả người của hai bên bị bắt.

Thứ hai,phía Trung Quốc lưu ý rằng, cuộc xung đột biên giới trên bộ không thể chấm dứt nếu như Việt Nam không chịu từ bỏ chủ quyền trên các nơi sở hữu ở biển Đông, rút khỏi Campuchia, chấm dứt liên minh với Liên Xô, không thamgia liên minh quân sự, hoặc cho nước ngoài sử dụng căn cứ quân sự của mình, hoặc sử dụng lãnh thổ và căn cứ ở nước khác…Thái độ áp đặt của Trung Quốc đối với Việt Nam đã rõ,nhất là khi Trung Quốc lấy quan hệ của Việt Nam với các nước khác làm một bộ phận của giải pháp biên giới.

Thứ ba,Trung Quốc chủ yếu coi các cuộc đàm phán là diễn đàn để thăm dò thái độ, thể hiện lập trường, quan điểm trên nhiều vấn đề khác nhau, chưa tập trung đàm phán thực chất và trực tiếp vào các vấn đề biên giới, các vấn đề biên giới có được đề cập thì cố tạo ra những quan điểm khá cách biệt, vì thế,các cuộc thương lượng bị bế tắc ngay từ đầu. Trong những cuộc thương lượng, có thể thấy rõ một điều: Giải quyết tranh chấp biên giới thực chất là một “dền dứ” chính trị.

Đầu năm 1980, Trung Quốc đơn phương đình chỉ vòng ba, không nối lại đàm phán. Việt Nam liên tiếp gửi công hàm yêu cầu họp tiếp vòng ba, nhưng Trung Quốc làm ngơ. Trong những năm 1979-1982,  Việt Nam nhiều lần đề nghị nối lại các cuộc đàm phán đã bị Trung Quốc đơn phương bỏ dở, nhưng Trung Quốc vẫn một mực khước từ[10]. Sở dĩ Trung Quốc chưa muốn nối lại đàm phán là vì giải quyết vấn đề biên giới với Việt Nam chưa phải là mối quan tâm thực sự của Trung Quốc lúc này và diễn biến quan hệ Việt - Trung không chỉ là câu chuyện giữa hai nước, mà còn bị chi phối bởi tình hình, các diễn biến ở Campuchia – một vấn đề khá “nhạy cảm” ở khu vực và trong nhiều mối quan hệ quốc tế liên quan. Trung Quốc chờ đợi để Khơme Đỏ giành được một thế nào đó ở Campuchia, còn Việt Nam phải dàn lực cả trên hai hướng biên giới, rơi vào thế cô lập về ngoại giao, khó khăn về chính trị, sa lầy trong khủng hoảng kinh tế - xã hội. Trong lúc đó, Trung Quốc tiếp tục tìm kiếm và thắt chặtthêm các quan hệ liên minh ở Đông Nam Á, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện những mục tiêu lâu dài ở khu vực, nhất là tại thời điểm đó, Trung Quốc nhận định tình hình thế giới, khu vực đang chuyển biến theo một xu thế có lợi cho mình.

Những năm 1982, 1983 và 1984, tại diễn đàn đàm phán bình thường hóa quan hệ Xô – Trung ở cấp Thứ trưởng Ngoại giao, Trung Quốc nêu vấn đề quân đội Việt Nam ở Campuchia, đề nghị Liên Xô phải đôn thúc Việt Nam rút quân ra khỏi Campuchia, coi việc Liên Xô tiếp tục ủng hộ quân đội Việt Nam tại Campuchia là trở ngại lớn nhất cho việc bình thường hóa quan hệ Trung - Xô. Điều này cho thấy, Trung Quốc muốn thông qua Liên Xô buộc Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia, dính lứu Việt Nam vào vấn đề cải thiện quan hệ Trung – Xô. Giải quyết vấn đề biên giới với Việt Nam chưa phải là mục tiêu thực sự của Trung Quốc. Nói cách khác, từ chối và trì trệ trong các cuộc đàm phán, tranh thủ các nước ASEAN, hướng tâm lý các nước ASEAN vào việc chống Việt Nam, Trung Quốc muốn làm cho Việt Nam bị cô lập thêm trong khu vực và trên thế giới bằng cách cầm chân những nhà lãnh đạo Việt Nam vào những cuộc đàm phán không kết quả.

2- Xâm lấn và gây rối trên bộ

Trong khi đàm phán đang trì trệ, Trung Quốc liên tục mở những cuộc tiến công, xâm nhập, pháo kích vào lãnh thổ Việt Nam. Trong những năm 80 (XX), tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc liên tục ở trong tình trạng căng thẳng, có chiến sự với mức độ thấp hơn chiến tranh. Theo số liệu chưa đầy đủ, chỉ trong năm 1980, đã phát hiện 300 lần các toán vũ trang Trung Quốc xâm nhập biên giới, hoạt động phục kích 88 vụ, tấn công 60 vụ, trinh sát, thám báo 136 vụ, xâm nhập khác 17 vụ, gây nhiều thiệt hại cho phía Việt Nam[11]. Địa bàn xâm nhập tập trung là một số xã vùng cao thuộc 14/248 huyện biên giới như Phong Thổ (Lai Châu), Mường Khương ( Hoàng Liên Sơn), Đồng Văn (Hà Tuyên), Trùng Khánh (Cao Bằng)[12]

 Ngày 5-6-1981, Trung Quốc bắn hàng nghìn quả đạn pháo sang nhiều khu vực thuộc huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, sau đó dùng lực lượng đánh chiếm khu vực bình độ 400 ở phía Nam, cột mốc 26, thuộc lãnh thổ Việt Nam. Ngày 7-6-1981, Trung Quốc tiếp tục đánh chiếm một số điểm cao thuộc tỉnh Hà Tuyên. Tổng kết lại, về chiến tranh lấn chiếm ở biên giới, tính từ tháng 3-1979 đến hết tháng 9-1983, Trung Quốc đã cho lực lượng vũ trang xâm nhập biên giới Việt Nam 48.974 vụ, trong đó xâm nhập biên giới trên bộ 7.322 vụ có nổ súng, khiêu khích; xâm nhập vùng biển 28.967 vụ; xâm nhập vùng trời biên giới 12.705 vụ (với hơn 2.000 tốp máy bay). Trung Quốc bắn pháo thường xuyên vào các vùng dân cư, có khi hàng nghìn quả đạn, tiếp tục lấn chiếm đất đai (chiếm dải bình nguyên 400 thuộc huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn cho đến năm 1997 vẫn chưa rút),tổ chức hàng chục vụ xâm canh, xâm cư, các hoạt động di dịch, đập phá cột mốc, dựng bia, chôn mộ trong đất Việt Nam. Thậm chí, ngày 1-2-1984, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Diệu Bang cùng đoàn cán bộ cao cấp đã đến thăm cao điểm 400 (mà Trung Quốc đặt tên là Pakhason) để uý lạo quân đội, thể hiện mục đích chiếm giữ đất đai lấn chiếm được đến cùng. Cũng tính đến tháng 3-1983, Trung Quốc còn chiếm giữ 89 điểm của Việt Nam[13].

Các cuộc tấn công, lấn chiếm của Trung Quốc càng dồn dập hơn vào năm 1984. Nhà nghiên cứu Trung Quốc Sa Lực Mân Lực công khai nói rằng, ngày 28-5-1984, quân Trung Quốc đã cho “hàng vạn khẩu pháo đồng loạt nổ vào một điểm (mà tác giả gọi là Lão Sơn), thuộc xã Thanh Thuỷ, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên[14]. Các cuộc tiến công trong năm 1984, như hãng AFP nhận xét (27-4-1984): Trung Quốc chủ trương tạo ra tình hình căng thẳng tại biên giới như là một phương tiện gây sức ép, nhằm buộc Việt Nam phải thay đổi chính sách. Đây chính là cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt chống Việt Nam, cái mà tác giả cuốn “Chín lần xuất quân lớn của Trung Quốc” Sa Lực Mân Lực gọi là “cuộc chiến đấu giằng co trong hơn 1.800 ngày”[15]. Các nhà quan sát nước ngoài ghi nhận từ tháng 7-1980 đến tháng 8-1987, dọc biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã xảy ra 6 cuộc chạm trán nảy lửa vào các tháng 7-1980, tháng 5-1981, tháng 4-1983, tháng 6-1985, tháng 12-1986 và tháng 1-1987[16]. Theo tuyên bố của Ngoại Trưởng Trung Quốc Ngô Ngọc Khiêm trong buổi họp báo ở Xinhgapo ngày 29-1-1985, trong năm 1985, Trung Quốc đã điều thêm tám sư đoàn bộ binh cùng gần hai mươi sư đoàn đã đóng chốt từ trước, áp sát dọc biên giới Việt – Trung; đồng thời, triển khai hơn 650 máy bay chiến đấu, ném bom tại các sân bay gần biên giới[17]. Còn theo Báo Nhật Bản Sankei Shibunm ra ngày 14-1-1985, Trung Quốc đã đưa số máy bay đến gần biên giới Việt - Trung lên gần 1.000 chiếc. Đài BBC ngày 6-2-1985 cho biết: Trung Quốc có 400.000 quân đóng dọc biên giới Việt – Trung. Tạp chíNghiên cứu vấn đề quốc tế của Trung Quốc số 2-1982 đã lý giải mục đích của việc bố trí một lực lượng lớn quân đội ở sát biên giới với Việt Nam “là để kìm giữ một phần binh lực của Việt Nam ở tuyến biên giới phía Bắc, do đó làm lợi cho cuộc chiến tranh chống xâm lược của nhân dân Campuchia”[18]. Cũng cần nhấn mạnh là trong mùa khô 1984-1985, quân tình nguyện Việt Nam mở chiến dịch đánh thẳng vào vùng đất thánh và xoá sạch các căn cứ của ba phái Khơme cắm sâu vào đất Thái Lan, nên những năm 1984-1985, biên giới Việt - Trung liên tục căng thẳng và có sự dàn thế trận của quân đội Trung Quốc.

Cùng với các hoạt động quân sự thấp hơn chiến tranh, Trung Quốc tăng cường các hoạt động gây rối nội bộ, mua chuộc người của các dân tộc thiểu số, trong đó có người Hoa, tiến công chính trị, phá hoại kinh tế, đẩy mạnh chiến tranh tâm lý[19]. Trung Quốcráo riết thực hiện chiến lược phá hoại toàn diện và lâu dài với nhiều thủ đoạn, làm cho tình hình ở các vùng giáp biên thường xuyên không yên ổn[20],phá hoại một cách toàn diện tư tưởng, chính trị, kinh tế, quốc phòng[21]. Kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt này rất phức tạp, Trung Quốc đánh phá bằng nhiều mưu mô, trên nhiều lĩnh vực, từ nhiều hướng, trên nhiều địa bàn, bằng nhiều lực lượng, nhiều hình thức, kết hợp đánh từ trong ra, ngoài vào, tiến hành bao vây, phong toả kinh tế từ bên ngoài, tiến hành phá hoại máy móc, đốt cháy kho tàng... gây thiệt hại cho sản xuất. Trung Quốc tổ chức buôn lậu, đầu cơ tích trữ, phá hoại tiền tệ, lũng đoạn thị trường, ra sức lợi dụng những sơ hở, thiết sót trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội để làm nghiêm trọng thêm những khó khăn về kinh tế, đời sống Việt Nam[22]. Trung Quốc thường khiêu khích vũ trang, sử dụng hoạt động lấn chiếm, phá hoại phòng tuyến bảo vệ biên giới, tung gián điệp, thám báo, biệt kích vào nội địa, kích động chia rẽ dân tộc, xây dựng cơ sở vũ trang, gây phỉ, tiến tới lấn chiếm một vùng tập trung đồng bào dân tộc ít người, lập những cái gọi là “một khu tự trị”, hoặc “một nước tự trị”[23]. Tại Hội nghị lần thứ 10, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (11-1981), Lê Duẩn phát biểu: “Nước ta đang ở trong tình hình vừa có hoà bình vừa có chiến tranh. Hội nghị lần thứ IV của Trung ương Đảng năm 1978 đã nhận định như vậy. Hiện nay và trong nhiều năm sắp tới, tình hình nước ta cũng sẽ là như vậy (…) Bắc Kinh đe doạ độc lập chủ quyền của nước ta từ bốn mặt. Và trong những điều kiện nhất định, không loại trừ khả năng địch có thể gây chiến tranh xâm lược quy mô lớn”[24]. Đặc biệt, từ cuối năm 1980, Trung Quốc câu kết Fulro, với tàn quân Pôn Pốt, lập căn cứ ở Đông Bắc Campuchia, lập hành lang Tây Nguyên- Campuchia –Thái Lan, phá hoại công cuộc xây dựng Tây Nguyên và một vài nơi thuộc vùng núi Nghĩa Bình, Phú Khánh[25].

3- Gây sức ép từ hướng biển

Trong các ngày 22-2-1980, 27-2-1980 và 2-3-1980 tại vùng biển Tây  Nam quần đảo Hoàng Sa, tầu Hải quân Trung Quốc đã tổ chức bắt cóc một số thuyền đánh cá của ngư dân hai tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và Nghĩa Bình[26].Từ năm 1979 đến năm 1982, diễn ra các sự kiện cho thấy những tính toán lâu dài trong chiến lược biển Đông của Trung Quốc: 1- Tổng cục Hàng không Dân dụng Trung Quốc công bố một thông cáo quy định "bốn vùng nguy hiểm" ở Tây Nam đảo Hải Nam, trong đó có vùng trời của quần đảo Hoàng Sa và buộc máy bay dân dụng của các nước khác phải bay qua đây vào những giờ doTrung Quốc quy định, 2- Công bố một bản quy định cho máy bay dân dụng nước ngoài bay vào không phận của Trung Quốc, tính cả không phận quần đảo Hoàng Sa (7-1979); 3- Thành lập lữ đoàn Hải quân đầu tiên ở đảo Hải Nam (12-1979);4- Máy bay ném bom H-6 của Hải quân Trung Quốc thực hiện cuộc tuần tra trên không đầu tiên ở quần đảo Trường Sa (1-1980); 5- Đưa Sở chỉ huy của hạm đội Nam Hải từ Quảng Châu xuống Trạm Giang và trang bị cho hạm đội những trang bị hiện đại nhất để xây dựng, mở rộng hàng loạt các cảng quân sự, trạm tên lửa ở đảo Hải Nam; 6- Hoàn tất các công trình phòng thủ trên Hoàng Sa, cho nhiều tàu ngư lôi và hàng trăm tầu cá Trung Quốc đường đột tiến vào vùng lãnh hải của Việt Nam tại vịnh Bắc Bộ (1981); 7- Năm 1982, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Trung Quốc Dương Đắc Chí viếng thăm quần đảo Hoàng Sa và tàu hải quân của Trung Quốc, Việt Nam đã đụng độ[27]ở ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa[28].

Ngày 15-4-1987, Trung Quốc đã ra tuyên bố lên án quân đội Việt Nam “chiếm đóng” đảo đá Ba Tiêu thuộc quần đảo Trường Sa(?!). Bản Tuyên bố nói rằng, mục đích của Việt Nam khi triển khai quân đội một cách bất hợp pháp ở đảo Ba Tiêu là để chiếm hữu thềm lục địa gần đó và mở đường cho việc khai thác dầu trong tương lai.Trung Quốc yêu cầu Việt Nam rút khỏiBa Tiêu và chín hòn đảo khác,bảo lưu quyền thu hồi các đảo này vào một thời điểm thích hợp. Thậm chí, Trung Quốc còn tuyên bố mạnh mẽ: “Chừng nào mà quân đội Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốcvẫn còn thống nhất hành động trong việc chống lại kẻ thù, thì hoàn toàn có thể ngăn chặn hành động bành trướng tàn bạo của Việt Nam và thậm chí còn giáng trả nặng nề”[29].Từ ngày 15-5 đến ngày 6-6-1987, Hải quân Trung Quốc diễn tập lớn và tổ chức các cuộc nghiên cứu hải dương học ở khu vực quần đảo Trường Sa. Động thái này làm phức tạp hơn tình hình đã vốn phức tạp và nhằm chứng tỏ rằng Hải quân Trung Quốc có khả năng thực hiện những cuộc hành quân hỗn hợp ở cả vùng biển gần lục địa, biển khơi và Trung Quốc có thể làm điều Trung Quốc muốn.

Sang năm 1988, Trung Quốc tiếp tục trì hoãn các cuộc gặp gỡ, có những hành động ở biển Đông làm căng thẳng thêm tình hình. Tháng 1-1988, một lực lượng lớn tầu chiến của Trung Quốc hoạt động xâm chiếm tại bãi đá Chữ Thập và Châu Viên[30], xây nhà, cắm cờ Trung Quốc trên hai đảo này, làm bàn đạp để mở rộng các hành động lấn chiếm trên quần đảo. Ngày 26-2-1987, lực lượng của Trung Quốc đã đổ bộ lên hai đảo san hô trong quần đảo. Ngày 20-2-1988, Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết, Trung Quốc đã huy động nhiều tàu chiến hoạt động ở lãnh hải Trường Sa của Việt Nam. Tình trạng chung đã trở nên căng thẳng nghiêm trọng.

Tham vọng của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sađã lên đến một mức độ mới – Trung Quốc gây ra cuộc hải chiến đẫm máu vào tháng 3-1988 gần cụm đảo Sinh Tồn, khiến 3 tàu vận tải của Việt Nam bị bắn chìm, 20 người hy sinh và 74 người khác bị mất tích[31]. Nhận xét về cuộc đụng độ, Giáo sư Luật học Gerardo Martin C.Valero viết: "Đó là cuộc đụng độ hải quân trầm trọng nhất ở khu vực Trường Sa kể từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai"[32]. Xung đột này xảy ra vào thời điểm "vấn đề Campuchia" đang đi vào giải quyết, trùng hợp với những căng thẳng ở Campuchia. Đánh chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa, Trung Quốc không chỉ triển khai thực hiện chiến lược mở rộng lãnh hải, mà còn nhằm giải tỏaáp lực cho lực lượng Polpot đang bị bao vây ở Campuchia. Nhà nghiên cứu Quách Minh, Hiệp hội Khoa học xã hội Quảng Tây viết về mục tiêu của cuộc tấn công này như sau: “Thứ nhất, tuyên cáo quần đảo Nam Sa (Trường Sa - TG) là lãnh thổ thiêng liêng của Trung Quốc, Trung Quốc có quyền bảo vệ, bất cứ thế lực nào đều không thể muốn làm gì thì làm trong lãnh hải thuộc quần đảo Nam Sa của Trung Quốc; Thứ hai, tỏ rõ Trung Quốc có thực lực bảo vệ biên giới trên biển và hải đảo, cho dù quần đảo Nam Sa cách đại lục Trung Quốc tương đối xa, nhưng lực lượng Hải quân Trung Quốc vẫn có năng lực bảo vệ”[33]. Tác giả này cũng thừa nhận rằng, sau xung đột ngày 14-3-1988, "khu vực hoạt động của tàu thuyền Hải quân Trung Quốc được mở rộng, thậm chí có thể phủ khắp các đảo đá ngầm mà Việt Nam chiếm đóng"[34].

Tính trong năm 1988, Trung Quốc tấn công chiếm 6 điểm trên quần đảo Trường Sa, xây dựng hệ thống dàn khoan khung sắt với những thiết bị vệ tinh và thông tin, ra sức củng cố những điểm này làm bàn đạp cho những bước tiến mới. Không lâu sau “cuộc hải chiến”, tháng 5-1988, tờ Nhật báo Quân đội nhân dân - tiếng nói chính thức của quân đội Trung Quốc đã có bài viết, trong đó tuyên bố: Hiện nay Hải quân Trung Quốc có thể bảo vệ lãnh hải gần bờ Trung Quốc, cả chủ quyền trên quần đảo Trường Sa và biển khơi xa lục địa hàng trăm hải lý. Bằng tuyên bố này, Trung Quốc đã tỏ cho các nước láng giềng xung quanh biển Đông biết quyết tâm cao của mình là có khả năng chiếm đóng các đảo trong quần đảo Trường Sa mà các nước này đang có tranh chấp chủ quyền.

Trước những hành động xâm chiếm trái phép của Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam đã liên tục gửi công hàm phản đối đến Bắc Kinh (ngày 17 và 23, 26 tháng 3-1988), đề nghị Trung Quốc cử đại diện đàm phán, thương lượng để giải quyết những bấtđồng liên quan đến quần đảo Trường Sa, cũng như những vấn đề tranh chấp khác về biên giới và quần đảo Hoàng Sa; đề nghị Trung Quốc trong khi chờgiải quyết tranh chấp, hai bên không dùng vũ lực và tránh mọi đụng độ để tình hình không phát triển xấu thêm. Việt Nam cũng thông báo cho Liên Hợp Quốc về tình hình này. Song phía Trung Quốc vẫn tiếp tục chiếm giữ các nơi đã chiếm được và khước từ thương lượng, giữ quan điểm về "chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với quần đảo Nam Sa” (Trường Sa-TG).

Ngày 13-4-1988 (tròn một tháng sau cuộc hải chiến khốc liệt với Việt Nam ở quần đảo Trường Sa), Quốc hội Trung Quốc khóaVI đã phê chuẩn thành lập Khu hành chính Hải Nam[35], có địa giới hành chính rộng lớn trên biển Đông, bao trùm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Tháng 4-1988, Trung Quốc đặt lại tên cho các đảo, đá, bãi cạn thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và sáp nhập hai quần đảo vào địa phận Hải Nam - Trung Quốc. Tuy việc thành lập tỉnh là công việc nội bộ của Trung Quốc, Hải Nam được "chuyển cấp" theo một trình tự hợp hiến, đúng với luật pháp Trung Quốc, nhưng Hải Nam bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thì không thể coi là công việc nội bộ của Trung Quốc. Việc làm này của Trung Quốc là nhằm đặt toàn bộ vùng biển Đông và tất cả các đảo ở đó dưới sự kiểm soát của mình, mở rộng tuyến phòng thủ chiến lược phía Nam tới quần đảo Trường Sa ở cực Nam biển Đông - đây là việc làm bất hợp pháp, xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nước khác. Việt Nam đã ngay lập tức lên tiếng phản đối việc thành lập đặc khu Hải Nam của Trung Quốc.

Trung Quốc tuyên truyền chính sách mở cửa của Hải Nam là nhằm phát triển kinh tế, thực chất, Hải Nam đang dần dần được biến thành một cơ sở kinh tế, căn cứ quân sự hùng mạnh. Điều đó trở thành một yếu tố làm bất ổn định đối với sự phát triển chính trị- ngoại giao tại khu vực. Xét thời điểm xảy ra những sự kiện liên quan đến biển Đông của Trung Quốc, thì những nỗ lực vươn mạnh trên biển của Trung Quốc được đẩy mạnh vào cuối những năm 80 (XX) – đây là thời điểm được Trung Quốc tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng, không hề ngẫu nhiên. Lúc này, Việt Nam đang bị bao vây, cấm vận, bị cô lập trong quan hệ ngoại giao và sự cô lập gia tăng sau "sự kiện Campuchia". Việt Nam chưa có những liên kết chặt chẽ với ASEAN, đang phải bận tâm với nhiều khó khăn, tập trung giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội, trong tranh chấp, vì thế, Trung Quốc sẽ dễ đạt được những thỏathuận có lợi. Valencia Mark.J đã có lý khi nhận xét rằng, "Trung Quốc đang cố tình khiêu khích Việt Nam vào một cuộc chiến để xua đuổi các nhà đầu tư khỏi Việt Nam và ngăn cản mức tăng trưởng kinh tế cạnh tranh của Việt Nam"[36].

Một bước tiến mới của Trung Quốc là từ tháng 1-1989 đến tháng 9-1990, Trung Quốc liên tục có các hành động như: Đặt bia chủ quyền trên các đảo đã chiếm được; tập trận, khảo sát khoa học… trong lãnh hải quần đảo Trường Sa[37]. Đây là những hành động mà Trung Quốc thực hiện ráo riết, tranh thủ tình hình đàm phán còn chưa ngã ngũ, một mặt, nhằm khẳng định "chủ quyền" của mình trên biển Đông (?!); mặt khác, khẳng định chiến lược mở rộng ra biển Đông không thay đổi của mình. Như vậy, sở dĩ Trung Quốc còn chần chừ, chưa muốn đi vào đàm phán và giải quyết vấn đề lãnh hải một cách thực chất với Việt Nam, bởi Trung Quốc đang tận dụng mọi cơ hội tạo chỗ đứng trên trên biển Đông.

4- Đôi điều suy ngẫm…

Từ sau chiến tranh biên giới năm 1979, dù đã rút quân và tuyên bố sẵn sàng giải quyết tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải, song trên thực tế, Trung Quốc đã tiến hành một cuộc chiến tranh nhiều mặt chống phá Việt Nam, tập trung vào bốn vấn đề chính: 1- Bao vây, cô lập về kinh tế, chính trị, ngoại giao; 2- Gây sức ép quân sự trên đất liền và vùng biển; 3- Tăng cường chiến tranh tâm lý, chiến tranh hàng hoá; 4- Đẩy mạnh các hoạt động tình báo.

Các hoạt động kể trên của Trung Quốc kéo dài, gây nên tình trạng căng thẳng thường xuyên, có chiến sự với mức độ thấp hơn chiến tranh ở biên giới phía Bắc và ở vùng lãnh hải của Việt Nam – đó là “chính sách bên miệng hố chiến tranh” đẩy Việt Nam phải duy trì trạng thái sẵn sàng chiến đấu -  đây không chỉ một gánh nặng cho nền kinh tế quốc gia vốn đã rất khó khăn, mà còn gây nên sự mất ổn định, khiến Việt Nam khó lòng tập trung mọi nguồn lực cho công cuộc phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Hành động đó của Trung Quốc là nhằm làm cho Việt Nam bị chảy máu thêm trong khi Việt Nam đang đứng trước những bất lợi[38].

Chính sách “bên miệng hố chiến tranh” với bốn mũi nhọn nhằm vào Việt Nam của Trung Quốc cho thấy Trung Quốc là quốc gia có khả năng tính toán, tìm kiếm những cơ hội để thực hiện chính sách của mình theo những đường díc dắc. Trung Quốc luôn có khả năng đưa kế hoạch được tính toán kỹ lưỡng, có độ bao quát để kiềm tỏa một quốc gia nào đó. Tồn tại bên cạnh một quốc gia như vậy, Việt Nam không có con đường nào khác là phải tự mạnh lên, bởi lợi ích quốc gia dân tộc được đảm bảo ở mức độ nào, tùy thuộc vào đất nước mạnh hay yếu; thành công hay hạn chế trong quan hệ giữa các quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào thực lực mỗi nước.Nói một cách thẳng thắn, trong quan hệ mọi mặt với Trung Quốc về chính trị, kinh tế, văn hóa… do thực lực của Việt Nam còn yếu, nên đối diện với Trung Quốc, Việt Nam chẳng những khó có thể đạt được những lợi ích ngang bằng, mà còn thường bị thuathiệt. Sau chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979, khi quan hệ hai nước tiếp tục căng thẳng, đối đầu, trong lúc "vấn đề Campuchia" còn đang là một rắc rối của Việt Nam, Việt Nam bị bao vây, cấm vận và cô đơn trong quan hệ đối ngoại, lẻ loi trên trường quốc tế, Trung Quốc tiếp tục lấn lướt Việt Nam hơn 10 năm, bất chấp mọi luật lệ. Phải chăng vì lúc này Trung Quốc nhận thấy Việt Nam đang còn yếu, khó về quân sự, nghèo về kinh tế, đơn độc về chính trị? Do thế và lực còn yếu, Việt Nam khó lòng đương đầu với Trung Quốc trong các xung đột, tranh chấp, dễ Trung Quốc chèn ép?

Thực lực của một quốc gia được hiểu là sức mạnh tổng hợp cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, địa vị, ảnh hưởng quốc tế…, Nói gọn lại, đó là ba thanh tố: An ninh, phát triển và vị thế quốc tế.Cần nhìn thẳng vào sự thật là bước vào những năm cuối của thế kỷ XX, trước cuộc chạy đua quyết liệt của các nước nhằm tìm ra lợi thế so sánh tối ưu của mình, chiếm lĩnh các đỉnh cao về kinh tế, khoa học - kỹ thuật, hội nhập với thế giới, Việt Nam đã bỏ lỡ mất nhiều cơ hội. Không thể để hào quang quá khứ che lấp một sự thật nghiệt ngã: Việt Nam còn nghèo và chậm phát triển. Không chỉ lúc bấy giờ, mà cả hiện nay, để thoát ra khỏi tình trạng đó, giải quyết tận gốc những “điểm nghẽn” cản trở phát triển của đất nước là yêu cầu bức xúc của thực tiễn, đòi hỏi phải có một đường hướng phát triển khoa học với nội dung cốt lõi VÌ DÂN –DĨ DÂN VI BẢN làm nền tảng cho những hành động, giải pháp phù hợp, quyết liệt. Mấu chốt của mọi mấu chốt nằm ở chỗ sau khi và trên cơ sở một đường hướng như vậy đã được xác lập, phải xây dựng/tổ chức cho được cơ chế và hệ thống quản trị xã hội thông minh, lành mạnh, trí tuệ làmnền, làm cội, làm rường cột, phản ánh bản chất của một chính phủ/nhà nước thân dân, yêu dân, trọng dân một cách thực chất. Chỉ có như vậy, Việt Nam mới tránh được nguy cơ tụt hậu, không đánh mất cơ hội phát triển, mới có sự đồng thuận xã hội để bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc và quan trọng nhất, để tồn tại và vươn lên ngang hàng với các quốc gia tiến bộ, văn minh.


  Nguyễn Thị Mai Hoa


[1]Gồm 4 vòng đàm phán; Trưởng đoàn phía Việt Nam là Thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền, Trưởng đoàn phía Trung Quốc là Thứ trưởng Ngoại giao Hàn Niệm Long.
[2]Ban Bí thư: Thông tri số 80, ngày 5-4-1979, Về đợt đấu tranh ngoại giao mới của ta, Lưu tại Văn phòng lưu trữ Trung ương Đảng.
[3]Ban Bí thư: Thông tri số 80, ngày 5-4-1979, Tlđd.
[4]Từ ngày 18- 4-1979 đến ngày 18-5-1979 , Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu đàm phán tại Hà Nội với với 5 phiên họp toàn thể; vòng hai được tiến hành tại Bắc Kinh từ ngày 8-6-1979  đến ngày 6-3-1980 với 10 phiên họp toàn thể.
[5]Đề nghị ba điểm của phía Việt Nam và đề nghị tám điểm của phía Trung Quốc, Báo Nhân dân, ngày 16-5-1979.
[6]Đề nghị ba điểm của phía Việt Nam và đề nghị tám điểm của phía Trung Quốc, Tlđd.
[7]Đề nghị ba điểm của phía Việt Nam và đề nghị tám điểm của phía Trung Quốc, Tlđd.
[8]Đề nghị ba điểm của phía Việt Nam và đề nghị tám điểm của phía Trung Quốc, Tlđd.
[9]Lưu Văn Lợi: 50 năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998, t.2, tr.194-196.
[10]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V,, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982, t.1, tr. 154.
[11]Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng: Sơ kết hoạt động xâm nhập, phá hoại của địch ở biên giới phía Bắc và công tác đánh địch của ta, Tài liệu không công bố, Lưu tại thư viện Quân đội, tr.4
[12]Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng: Sơ kết hoạt động xâm nhập, phá hoại của địch ở biên giới phía Bắc…Tlđd, tr.4
[13]Bác bỏ tin thêu dệt, Báo Nhân dân, ngày 24-3-1983.
[14]Sa lực Mân Lực: 9 lần xuất quân lớn của Trung Quốc, Bản dịch của Cục nghiên cứu, Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 1992, tr.44.
[15]Sa lực Mân Lực: 9 lần xuất quân lớn của Trung Quốc, Tlđd, tr.45.
[16]Ramses Amer:  Người Hoa ở Việt Nam và quan hệ Trung - Việt, Kuals Lumpur, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Ban Biên giới Chính phủ, 1991, tr.58.
[17]Nguyễn Thành Lê: Một tiêu điểm của cuộc chiến tranh tư tưởng phản cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983, tr.55.
[18]Tạp chí Nghiên cứu vấn đề quốc tế, Sở nghiên cứu các vấn đề quốc tế của Trung Quốc, số 2/1981, Bản dịch, Lưu tại thư viện Quân đội,  tr.26.
[19]Đảng Cộng sản  Việt Nam:Nghị quyết số 36, ngày 24-2-1981 của Bộ Chính trị “Về nhiệm vụ trước mắt của công tác tư tưởng”,Lưu tại Văn phòng lưu trữ Trung ương Đảng.
[20]Ban Bí thư: Chỉ thị số112, ngày 29-6-1981, Củng cố toàn diện, vững chắc vùng biên giới phía Bắc, Lưu tại Văn phòng lưu trữ Trung ương Đảng.
[21]Ban Bí thư:  Chỉ thị số 119, ngày 19-10-1981, Về nâng cao cảnh giác, chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của địch, Lưu tại Văn phòng lưu trữ Trung ương Đảng.
[22]Nghị quyết số 03 của Bộ Chính trị, ngày 25-10-1982, Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân kiên quyết đập tan âm mưu kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của bọn bành trướng, bá quyền Trung Quốc câu kết với đế quốc Mỹ, tối mật, Lưu tại Văn phòng lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 757.
[23]Nghị quyết số 03 của Bộ Chính trị, ngày 25-10-1982, Tlđd.
[24]Bài phát biểu của Lê Duẩn tại Hội nghị lần thứ 10, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (11-1981), Lưu tại Văn phòng lưu trữ Trung ương Đảng.
[25]Ban Bí thư: Thông báo số 25, ngày 27-6-1981 Tiếp tục giải quyết vấn đề Fulro kết hợp với phát triển kinh tế- văn hoá ở Tây Nguyên, Lưu tại Văn phòng lưu trữ Trung ương Đảng.
[26]Ban Bí thư: Thông tri số 111, ngày 11-4-1980,  Về việc đối phó với âm mưu của Hải quân Trung Quốc bắt cóc ngư dân ta, Lưu tại Văn phòng lưu trữ Trung ương Đảng.
[27]Phía Trung Quốc thông báo đã bắt giữ một tàu thuỷ Việt Nam, vì đã “xông vào vùng nước thuộc lãnh thổ Trung Quốc".
[28]Greg Austin: Biên giới trên biển của Trung Quốc: Luật quốc tế - lực lượng quân sự và sự phát triển của quốc gia, Thư viện Ban Biên giới Chính phủ, tr.73.
[29]Dẫn theo Jonk Chao:Biển Nam Trung Hoa: Những vấn đề biên giới liên quan tới các quần đảo Nam Sa và Tây Sa, Bản dịch, Lưu tại thư viện Quân đội, tr. 69.
[30]Là hai bãi san hô còn lập lờ mặt nước thuộc quần đảo Trường Sa.
[31]Sáng ngày 14-3-1988, Trung Quốc huy động một biên đội tầu chiến gồm 6 chiếc, có trang bị tên lửa và pháo 100 ly tấn công 3 tàu vận tải của Việt Nam đang làm nhiệm vụ tiếp tế ở cụm đảo Sinh Tồn. Khi các tàu cứu hộ của Việt Nam mang cờ chữ thập đỏ đến cứu các tàu bị bắn chìm, thì bị tàu chiến Trung Quốc ngăn cản, bao vây. Sau khi thực hiện hành động vũ lực trên, Trung Quốc đã chiếm thêm một số đảo ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam, cho xây "đài quan sát biển", mà thực chất là "tiền đồn an ninh biển" (marine observatory) trên một trong những nhóm đá có tranh chấp chủ quyền.
[32]Quần đảo Trường Sa: Liệu có còn thích hợp khi tranh cãi về vấn đề chủ quyền, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý quốc tế, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Quân đội, tr.5.
[33]Quách Minh (chủ biên):Diễn biến quan hệ Trung - Việt trong 40 năm qua, Bản dịch, Lưu tại Vụ Trung Quốc, Bộ Ngoại giao, Hà Nội, 1990, tr.200.
[34]Quách Minh (chủ biên):Diễn biến quan hệ Trung - Việt trong 40 năm qua, Tlđd, tr.201.
[35]Bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và trực thuộc tỉnh Quảng Đông.
[36]Valencia.M.J, Vandyke.J.M, Ludwig.N.A, "Chia sẻ tài nguyên ở biển Nam Trung Hoa", Bản dịch, Lưu tại Thư viện Ban Biên giới Chính phủ, tr.679.
[37]Tháng 1-1989, Hải quân Trung Quốc tổ chức một hội nghị về quần đảo Trường Sa. Cũng trong tháng 1-1989, Trung Quốc đặt bia chủ quyền lên các bãi đã chiếm được từ năm 1988, thể hiện một bước tiến mới. Tháng 2-1989, một đoàn đại biểu ba Tổng cục (Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần) của Quân đội Trung Quốc đã đến thăm các đảo mà Trung Quốc chiếm được trong quần đảo Trường Sa. Tháng 3-1989, một Bộ Chỉ huy đặc biệt được thành lập ở Quân chủng Hải quân để giải quyết những vấn đề có liên quan đến quần đảo Trường Sa. Đầu tháng 5-1989, Hải quân Trung Quốc tiến hành một cuộc tập trận lớn (gồm cả ba hạm đội, máybay Hải quân, lính thuỷ đánh bộ) ở một khu vực nằm giữa đảo Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa. Các nhiệm vụ triển khai gồm chiến tranh trên biển, chiến đấu trên không, chiến đấu chống tầu ngầm và đổ bộ. Liên tục từ tháng 5 đến tháng 9-1989, Trung Quốc tổ chức huấn luyện đội 15 chiếc tàu thuộc Hạm đội biển Đông về tập trận bao vây, chống bao vây, tiếp tế xa và tàu ngầm. Ngày 9-3-1990, Trung Quốc kết thúc đợt khảo sát khoa học ở quần đảo Trường Sa đã bắt đầu từ ba năm trước đó và 10 ngày sau cho nhiều tàu đánh cá từ Quảng Châu đến đánh cá ở Trường Sa.
[38]Lưu Văn Lợi: 50 năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998, t.2, tr.199
(Văn hóa Nghệ An)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét