Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

Những câu hỏi đặt ra sau cái chết của ông Phạm Quý Ngọ - Lời sáu vạn người đã hi sinh chống giặc Tàu xâm lược: Sao lại giỗ chúng tôi bằng bài khiêu vũ: “Trung Quốc chính nghĩa”?

Những câu hỏi đặt ra sau cái chết của ông Phạm Quý Ngọ

Theo thông tin mới nhất từ báo chí Việt Nam hôm nay 18/02/2014, thì ông Phạm Quý Ngọ, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an vừa qua đời tại bệnh viện Quân y 108 Hà Nội vì bệnh ung thư gan. Cái chết bất ngờ của nhân vật đang thu hút mọi chú ý của dư luận khiến người ta phải đặt ra nhiều câu hỏi.
Như tin chúng tôi đã đưa hôm qua, Ban Nội chính Trung ương đã cho biết ý định tạm đình chỉ công tác Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ nhằm đảm bảo việc điều tra về những tố cáo của Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam.

Ông Dương Chí Dũng, người đã bị lãnh án tử hình trong vụ án tham nhũng Vinalines, hôm 07/01/2014 khi ra tòa với tư cách nhân chứng trong vụ xử Dương Tự Trọng « tổ chức đưa người trốn ra nước ngoài », đã khai ra người bí mật báo tin cho mình bỏ trốn là Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ. Ông Dương Chí Dũng còn cho biết đã hối lộ cho ông Ngọ nửa triệu đô la.
Tòa án thành phố Hà Nội đã khởi tố vụ án « Cố ý làm lộ bí mật Nhà nước » liên quan đến vấn đề này. Dư luận cũng rất xôn xao vì nhiều tấm hình về đám cưới xa hoa của con trai ông Ngọ được tung lên mạng xã hội trong những ngày gần đây.
Hôm qua trả lời báo chí trong nước, ông Phạm Anh Tuấn, Phó ban Nội chính Trung ương đã nói rằng : « Về nguyên tắc thì phải tạm đình chỉ công tác ông Phạm Quý Ngọ, nhưng do ông Ngọ đang bệnh nặng nên việc này nhạy cảm ».
Chỉ đến hôm qua mới có việc một quan chức Việt Nam khẳng định ông Phạm Quý Ngọ « đang bị bệnh nặng », và đây là lần đầu tiên. Nhưng hôm nay tin ông Ngọ qua đời đã được chính thức loan đi.
Ông Phạm Quý Ngọ sinh năm 1954 tại Thái Bình, từng được dư luận biết nhiều qua việc xử lý vụ nổi dậy ở Thái Bình năm 1997, vụ cưỡng chế đất đai của ông Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, Hải Phòng vào đầu năm 2012.
Với cái chết của ông Phạm Quý Ngọ - ngón đòn cuối cùng của « phe bảo thủ » tại Việt Nam đánh vào « phe lợi ích » - nhiều câu hỏi đã được đặt ra. Trước hết, đây có phải là một cái chết bình thường hay không ? Và tại sao cái chết này lại xảy ra ngay sát thời điểm Ban Nội chính Trung ương tuyên bố có thể đình chỉ công tác đối với ông Phạm Quý Ngọ ?
Như vậy với việc ông Phạm Quý Ngọ qua đời, có nghĩa là một đầu mối điều tra hết sức quan trọng có khả năng bị bế tắc hoàn toàn, không thể dẫn tới một « siêu án » như dư luận đang chờ đợi. Liệu đây có phải là « cú thoát hiểm ngoạn mục » của phe lợi ích, và từ nay phe này sẽ chuyển sang phản công ?
Bên cạnh đó, cái chết của ông Phạm Quý Ngọ lại xảy ra trùng với ngày xử án luật sư Lê Quốc Quân, và dư luận cho rằng thân nhân của luật sư Lê Quốc Quân có thể vẫn chưa hết hy vọng vì vẫn còn thủ tục giám đốc thẩm.
Thụy My
(RFI)

Những ngờ vực và hệ quả sau cái chết của Tướng Phạm Quý Ngọ

Thứ trưởng bộ Công an Phạm Quý Ngọ (Ảnh: Danlambao)

Trà Mi-VOA

Việc Thứ trưởng Bộ Công An Việt Nam, Thượng tướng Phạm Quý Ngọ, đột ngột từ trần gây ra nhiều tranh cãi và ngờ vực giữa lúc công luận đang trông chờ hồi kết của một đại án tham nhũng cấp cao từ lời khai của cựu chủ tịch Vinalines Dương Chí Dũng.
Tin ông Ngọ bị bạo bệnh được loan ra sau khi có đề nghị điều tra ông ‘tiết lộ bí mật’ trong vụ án Dương Chí Dũng, và tin ông qua đời chỉ xuất hiện 1 ngay sau khi Phó Trưởng Ban Nội chính Trung Ương đề xuất đình chỉ công tác Thứ trưởng Công an để phục vụ điều tra.
Hình ảnh ông Ngọ trong đám cưới con trai cách đây hơn 1 tháng không biểu hiện dáng vẻ của người mà báo Petrotimes của nhà nước mô tả là trong ba tháng nay phải chống chọi với căn bệnh ung thư gan giai đoạn cuối.
Ngay cả thời gian ông Ngọ từ trần được công bố trên truyền thông nhà nước cũng không đồng nhất, khiến dư luận thêm nghi ngờ về cái chết bất thường của giới chức cao cấp, nhân vật số hai trong ngành công an, đang bị tố cáo nhận hối lộ hàng triệu đô la.
Một nhà quan sát từng là cán bộ trong Ban An ninh Nội chính Thành ủy nhận định ‘sự ra đi’ của Thứ trưởng Phạm Quý Ngọ xoay chuyển tình thế giữa các thế lực chính trị Việt Nam và làm phá sản công cuộc chống tham nhũng của nhà nước.
Trong cuộc trao đổi với VOA Việt ngữ, Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng, phân tích thêm chi tiết, mời quí vị bấm vào đường dẫn sau đây để nghe toàn bộ cuộc phỏng vấn:
Ngờ vực, hệ quả sau cái chết của Tướng công an Phạm Quý Ngọ
Phạm Chí Dũng: Dư luận đang đặt vấn đề nghi ngờ rất nhiều về cái chết rất bất thường này. Người ta không thể nghĩ ông chết bất đắc kỳ tử vì trước đó không hề có thông tin bệnh tật của ông được thông báo chính thức. Sự ra đi của ông Ngọ bị xem như có thể có một tác động nào đó không nhất thiết từ quá trình sinh học tự nhiên của cơ thể, mà có thể do một tác động khác từ bên ngoài vào. Hôm nay, Tòa án Nhân dân Hà Nội đã chính thức công bố vụ án ‘làm lộ bí mật’ phải đình chỉ căn cứ điều 107 Bộ Luật Hình sự vì đối tượng bị tình nghi đã chết.
VOA: Nếu những nghi ngờ trong công luận là đúng, liệu có thể đã xảy ra những khả năng nào gây ra cái chết của ông?
Phạm Chí Dũng: Đây là lần đầu tiên xảy ra một cái chết bất thường của một tướng cao cấp trong ngành công an. Trước đây có vài cái chết bất thường bên khối quân đội. Người ta nghi ngờ là ngoài khả năng chết do bệnh tật, Tướng Ngọ vì một số lý do ‘tế nhị’ nào đó đã tự sát. Một khảc năng khác nữa là người ta cho rằng có thể ông bị đầu độc. Nếu chuyện này thật sự xảy ra, vấn đề đang cực kỳ nghiêm trọng ở Việt Nam và trong tương lai gần sẽ diễn ra một cuộc đấu mạnh. Liên quan đến 1 triệu rưỡi đô la tình nghi ông Ngọ đã nhận, người ta đang nghĩ tới một siêu án trên cao hơn nữa chứ không phải là một đại án Dương Chí Dũng. Nếu siêu án đó hình thành, có thể nói cuộc đấu chính trị giữa các thế lực lên tới đỉnh điểm một mất-một còn.
VOA: Cũng có những suy đoán cho rằng không có chuyện ‘đột ngột từ trần’ mà đây có thể là một sự sắp xếp ‘mafia’ tìm đường cho ông Ngọ tẩu thoát ở một nơi nào đó để ‘cái chết’ của ông chấm dứt đầu mối nghi ngờ liên quan đến một siêu án có thể có. Theo ông, có khả năng xảy ra điều này không?
Phạm Chí Dũng: Khả năng này thấp. Nghiên cứu lịch sử các vụ án hình sự tại Việt Nam chưa từng có chuyện ‘chết giả’ để thoát nạn đối với những nhân vật cao cấp. Trong lĩnh vực hình sự thì có thể có những trường hợp như vậy, có những vụ ngụy tạo hiện trường để trốn tránh pháp luật. Tuy nhiên, trong chính giới cao cấp, đặc biệt là ngành công an và quân đội, chưa từng xảy ra chuyện đó. Tất nhiên việc này vẫn có một xác suất nhỏ có thể xảy ra, không thể loại trừ, nhưng đối với chính giới cao cấp thì chưa từng có việc này. Cho nên, theo tôi, trong trường hợp của Tướng Ngọ có thể loại trừ phương án này.
VOA: Ông dự đoán chuyện gì sẽ xảy ra sau ‘cái chết’ của nhân vật đầu mối có thể giúp phanh phui ra những quan tham cao cấp khác trong vụ án tham nhũng hàng triệu đô la này?
Phạm Chí Dũng: Vụ án ‘làm lộ bí mật’ sẽ đóng khung. Sẽ không còn bất kỳ tia sáng nào khác có thể dẫn tới một vụ siêu án. 95% là không có một manh mối nào để có thể từ ông Ngọ lần ngược lên một cấp cao hơn. Ông Ngọ ‘ra đi’ ảnh hưởng tới kết quả điều tra và xử án đối với một nhân vật nổi cộm khác là Bầu Kiên. Có nhiều khả năng ông Kiên nhận án chung thân, nhưng vụ Bầu Kiên cũng sẽ như vụ Dương Chí Dũng, sẽ đóng khung ở đó.
VOA: Theo ý ông, ‘sự ra đi’ này là hồi kết dứt điểm một nghi án cao cấp mà dư luận đang trông chờ, theo dõi cách nhà nước giải quyết tham nhũng?
Phạm Chí Dũng: Tôi còn cho rằng ‘sự ra đi’ của ông Ngọ không chỉ đóng khung riêng vụ án Dương Chí Dũng mà còn là một điểm mốc xoay chuyển tình thế giữa các thế lực chính trị Việt Nam, dẫn tới hệ quả là chương trình chống tham nhũng của Ban Nội chính Trung ương không triển khai được thành công. Sẽ là những kế hoạch ‘đầu voi đuôi chuột’ ngay trong năm 2014. Ngoài ra, chúng ta có thể chứng kiến sự trở lại của phe lợi ích và xu hướng thân phương Tây sẽ lấn lướt hơn so với xu hướng thân Bắc Kinh trong năm nay.
VOA: Công luận có thể thấy gì từ diễn tiến vụ án tham nhũng này?
Phạm Chí Dũng: Cũng có một số người hy vọng về công cuộc chống tham nhũng của đảng nhưng sau ‘sự ra đi’ này, không có hy vọng tuyệt đối, đặc biệt trong bối cảnh các nhóm lợi ích chi phối phủ trùm toàn bộ đất nước như hiện nay. Trong cảnh nhập nhoạng tối-sáng và sự mâu thuẫn xung đột gia tăng giữa các thế lực, dân chủ-nhân quyền có đất để sống hơn. Trong hoàn cảnh này, giới quan chức còn phải quan tâm tới quyền lực-quyền lợi, giải quyết mâu thuẫn-xung đột của họ nhiều hơn là để ý tới các vấn đề tự do ngôn luận, báo chí, hay tôn giáo. Theo tôi, năm nay nếu biết tận dụng cơ hội, tiếng nói của nhân dân trong ‘xã hội dân sự’ manh nha hiện nay sẽ có thể được biểu đạt rõ ràng hơn.
VOA: Xin cảm ơn ông v thời gian dành cho cuộc trao đổi này.

LS Trần Đình Triển: “Người thừa kế chịu trách nhiệm dân sự thay nếu tướng Ngọ liên quan vụ án"


Theo luật sư Trần Đình Triển, trong vụ án cố ý làm lộ bí mật nhà nước, nếu xác định được Thượng tướng Phạm Quý Ngọ có liên quan thì dù Thượng tướng Ngọ đã qua đời, các cơ quan có thẩm quyền vẫn phải làm rõ trách nhiệm dân sự để những người hưởng thừa kế của ông Ngọ thực hiện nghĩa vụ.
Theo tiến sĩ - luật sư Trần Đình Triển, Trưởng Văn phòng luật sư Vì Dân, nếu xác định ông Ngọ có liên quan đến vụ án “làm lộ bí mật nhà nước”, về mặt nguyên tắc tố tụng thì khi bị can chết thì sẽ phải quyết định đình chỉ điều tra. Nếu trong trường hợp vụ án “làm lộ bí mật” đó mà chỉ có một mình tướng Ngọ là bị can thì sẽ phải đình chỉ cả vụ án, đình chỉ cả khởi tố bị can.
Nhưng nếu vụ án đó không chỉ có mình ông Ngọ mà còn có những người khác nữa thì sẽ chỉ đình chỉ bị can với ông Ngọ và vẫn tiến hành điều tra như bình thường.
Ngoài ra, cơ quan điều tra sẽ phải làm rõ trách nhiệm dân sự, những vấn đề mà ông Ngọ có liên quan để những người hưởng thừa kế của ông Ngọ phải có trách nhiệm trước Nhà nước và trước những người khác.
Trước đó, trong vụ án xét xử nguyên Đại tá công an Dương Tự Trọng về tội tổ chức cho anh trai mình trốn ra nước ngoài, Dương Chí Dũng đã khai tại tòa rằng ông Ngọ chính là người mật báo cho mình trước khi có quyết định khởi tố mình vì những sai phạm trong vụ án tại Vinalines. Ông Dũng còn tố cáo ông Ngọ đã nhận của mình tổng cộng 510 ngàn USD để giúp "chạy án". Từ những lời khai trên, ngày 8.1, TAND TP Hà Nội đã khởi tố vụ án cố ý làm lộ bí mật nhà nước. Trả lời báo chí ngày sau đó, tướng Ngọ phủ nhận lời khai này.
Thông tin ông Ngọ qua đời vào tối ngày 18.2 được Thiếu tướng Đàm Văn Tâm, Phó chánh văn phòng bộ Công an xác nhận với Một Thế Giới.
Gia Khánh
(Một thế giới)

Tướng Ngọ qua đời:"Nghi can duy nhất chết sẽ đình chỉ vụ án"

"Chưa khởi tố bị can, tức là chưa khẳng định được ông Phạm Quý Ngọ có liên quan trong vụ án này hay không nên việc ông Ngọ mất thì cơ quan điều tra vẫn tiếp tục điều tra vụ án như đã khởi tố".

Thượng tướng Phạm Quý Ngọ từ trần ngày 18/2

Trao đổi vơi PV Infonet tối 18/2, luật sư Nguyễn Thanh Sơn (Đoàn luật sư TP Hà Nội) cho rằng trong quy định của luật tố tụng hình sự khi đã khởi tố vụ án mà chưa khởi tố bị can, tức là chưa xác định được người bị tố cáo có dấu hiệu phạm tội thì khi người bị tố cáo chết thì vụ án vẫn được cơ quan có thẩm quyền tiếp tục điều tra vụ án để xác định các đối tượng liên quan.

Đối với trường hợp người đã chết là bị can duy nhất trong vụ án đã được khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án.

“Đối với trường hợp của Thượng tướng Phạm Quý Ngọ bị Dương Chí Dũng tố cáo ông Ngọ là người mật báo cho Dương Chí Dũng bỏ trốn, trong vụ việc này cơ quan có thẩm quyền mới khởi tố vụ án làm lộ bí mật nhà nước theo điều 286 Bộ luật hình sự, tuy nhiên chưa khởi tố bị can, tức là chưa khẳng định được ông Ngọ có liên quan trong vụ án này hay không nên việc ông Ngọ mất thì cơ quan điều tra vẫn tiếp tục điều tra vụ án như đã khởi tố để tìm ra người nào báo tin cho Dương Chí Dũng, có phải ông Ngọ hay người nào khác báo tin cho Dương Chí Dũng. Trong trường hợp xác định đúng ông Ngọ là người duy nhất mật báo cho Dương Chí Dũng bỏ trốn và ông Ngọ đã chết thì cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án”, luật sư Sơn nói.

Trước đó, tại phiên tòa sơ thẩm xét xử bị cáo Dương Tự Trọng và 6 đồng phạm phạm tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài chiều ngày 7/1/2014. Ông Dương Chí Dũng, nguyên chủ tịch HĐQT Vinalines, nguyên cục trưởng Cục Hàng hải, có mặt tại tòa với tư cách là nhân chứng, tiếp tục khai về các diễn biến liên quan đến vụ việc.

Ông Dương Chí Dũng đã khai chính thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ mật báo tin ông Dũng bị khởi tố và gợi ý tạm lánh đi một thời gian.

Tối 18/2, tai Bệnh viện 108 Hà Nội, Thượng tướng Phạm Quý Ngọ, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Đảng uỷ Công an Trung ương, Thứ trưởng Bộ Công an đã từ trần sau thời gian điều trị tại bệnh viện này vì căn bệnh ung thư.

Theo một lãnh đạo Bộ Công an, Thượng tướng Phạm Quý Ngọ đã điều trị tại Bệnh viện 108 một thời gian dài vì căn bệnh hiểm nghèo.

Thượng tướng Phạm Quý Ngọ (SN 1954), tại huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Sau khi tốt nghiệp Đại học Cảnh sát nhân dân. Ông Phạm Quý Ngọ đã trải qua nhiều cương vị công tác, chức vụ trong ngành công an. Ông từng là Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Công an tỉnh Thái Bình.

Năm 2006, ông được bổ nhiệm làm Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát nhân dân - Bộ Công an, Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát nhân dân năm 2008.
.
Năm 2010, ông được chuyển sang làm Tổng Cục trưởng Tổng Cục Cảnh sát Phòng chống Tội phạm, Bộ Công an. Tháng 8/2010, ông được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm chức vụ Thứ trưởng Bộ Công an.Tháng 1/2011, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Tháng 7/2013, ông được thăng hàm Thượng tướng Công an

Trong quá trình công tác trong ngành công an, ông Phạm Quý Ngọ từng tham gia chỉ đạo nhiều vụ án quan trọng. Ông là Trưởng ban chuyên án điều tra các sai phạm tại Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines).
  (Infonet)

Lời sáu vạn người đã hi sinh chống giặc Tàu xâm lược: Sao lại giỗ chúng tôi bằng bài khiêu vũ: “Trung Quốc chính nghĩa”?


Trần Mạnh Hảo (Danlambao) – Trong bài Đức Vua Trầm Tưởng, Gs. Nguyễn Huệ Chi viết: “Phỏng dịch lời trong một điệu vũ nhạc cổ Trung Quốc “Trung Quốc cáp cáp”, được lệnh “cấp trên” cho phổ biến để các “dư luận viên” múa nhảy xập xình trong buổi sáng ngày 16-2-2014 trên quảng trường Lý Thái Tổ ở vườn hoa Chí Linh nhằm ngăn chặn dân chúng mít tinh kỷ niệm ngày mấy chục vạn giặc Tàu do Đặng Tiểu Bình xua xuống đánh chiếm biên giới Việt Nam 35 năm trước: “Cha cha cha, cha cha cha, cha cha cha / Cô gái Trung Quốc xinh đẹp như đóa hoa / Đi trên đường phố cốt nhìn ngó khắp nơi / Cô nương có đôi môi hồng tươi / Chính lúc nàng ngoảnh lại cất tiếng vui tươi cha cha cha / Là lúc tiết trời hoan lạc / Chính lúc nàng ngoảnh lại cất tiếng vui tươi cha cha cha / Là lúc thời tiết âu sầu…” (1)
FBker Thùy Trang đã chứng minh bản nhạc để nhảy nhót ăn mừng sáng nay là nhạc Tàu, được nhạc sĩ Hồ Quang Hiếu đạo nhạc, đặt lời Việt là “Con bướm xuân”. Nguyên bản của bài hát “中國恰恰” (Trung Quốc Chính Nghĩa).
Mời các bạn nghe Video do ca sĩ Trung Quốc 吳秀珠 Ngô Tiểu Như trình bày để so sánh bản nhạc trong video Clip Nhảy Nhót tại vườn hoa Lý Thái Tổ ngày hôm nay 16-2-2014.
*
Lời sáu vạn người đã hi sinh chống giặc Tàu xâm lược: Sao lại giỗ chúng tôi bằng bài khiêu vũ: “Trung Quốc chính nghĩa”?
Nếu không có ngày 17-02-1979
Nếu không có cuộc xâm lăng của sáu mươi vạn quân Tàu xâm lược
Sáu vạn người Việt chúng tôi đâu đã bỏ mình
Sao nhà nước mới 35 năm đã vội quên cuộc chiến tranh tàn khốc
Quên thắp nhang, quên tưởng niệm đồng bào chiến sĩ đã hi sinh…
Không, không, không…
Nhà nước này vẫn nhớ đinh ninh
Nhớ sáu mươi vạn Hoa quân nhập Việt
Đốt sạch, phá sạch, giết sạch biên giới phía Bắc quê hương mình
Nên sáng 16-2-2014 trước tượng vua Lý vườn hoa Chí Linh
Khi một nhóm đồng bào mang hương hoa đến giỗ sáu vạn người hi sinh
Cũng là lúc đám ăn mặc hở hang chiếm quảng trường tưng mừng khiêu vũ
Đây là Hà Nội hay Bắc Kinh
Mà hàng trăm công an chìm canh chừng cho hàng trăm người khiêu vũ
Họ múa theo nhạc nền bài hát Tàu: TRUNG HOA CHÍNH NGHĨA…
Các ông các bà cầm quyền và ăn chơi nhảy nhót ơi
Xin các ông bà đừng giết sáu vạn chiến sĩ đồng bào chúng tôi lần nữa
Chúng tôi đã bị giặc Tàu giết ba mươi nhăm năm rồi
Chúng tôi cứ tưởng người chống xâm lăng như chúng tôi mới là chính nghĩa
Hóa ra giặc ngoại xâm ngày ấy nay thoắt thành chính nghĩa, trời ơi!
Sài Gòn ngày 18-02-2014
__________________________________
Chú thích:

Ông Trần Nhật Quang chửi ai?

C

Trong ngày 16 tháng Hai khi nhóm nhân sĩ, đồng bào tập trung trước tượng đài Lý Thái Tổ để tưởng niệm cuộc chiến tranh biên giới, xuất hiện một ông trùm dư luận viên, đầu đội nón sắt, miệng nồng mùi rượu rao giảng những điều mà khi nghe qua người đứng chung quanh không thể không che miệng để tránh mùi nồng nặc của rượu, của món nhậu đã ôi và cả cái luận cứ đầy bẩn thỉu của Đảng mớm cho hòa tan vào nhau nôn ra một thứ mùi hố xí không thể diễn tả.

Ông ta là Trần Nhật Quang có người nói là cầm đầu nhóm dư luận viên tại Hà Nội, lớn tiếng sai thuộc hạ quay video clip để post lên mạng, hét tướng lên rằng: ‘Hôm nay tôi vạch mặt các người’. Tại sao các người không kỷ niệm cuộc chiến chống Pol Pot ở các tỉnh Tây Nam? Tại sao lại chốngTrung Quốc, có phải là muốn chế độ này sụp để các người cướp chính quyền không? Các người muốn Trung Quốc cấm vận Việt Nam bằng các cuộc biểu tình kích động lòng căm thù Trung Quốc vì lòng dạ đen tối. Các người hoan hô lính ngụy khi lính ngụy và Trung Quốc dành nhau Hoàng Sa vào năm 1974…
“Đất nước cần phải được bình yên để mà xây dựng và phát triển, đừng có mà quấy phá!”
Trần Nhật Quang có thể từ một bàn nhậu của Đảng mới bước chân ra chỗ biểu tình nên đầu còn đông đặc luận điệu của ban tuyên giáo trung ương, nhìn đâu cũng thấy phân hóa, diễn biến hòa bình và kích động chống Trung Quốc là một trong những mục tiêu lật đổ chế độ.
Có lẻ người nhẹ dạ suốt ngày cắm cúi trong nhà sẽ tin luận điệu này nhưng với những người đã chấp nhận cam go ra tới tượng đài Lý Thái Tổ thì sự chửi bới của ông ta chỉ cho thấy một điều: Đảng không còn lối thoát nào khác là vu khoát, đàn áp dân chúng bằng những trò hạ cấp sau khi cho bọn du hủ du thực ăn uống no say, mớm những câu chữ vụng về cho chúng cầm loa hét lên giữa chợ mà cốt lõi là đặt chữ “kích động căm thù” lên đầu người chống đối.
Thử đặt lại câu hỏi: Có phải những người ra trước tượng đài kỷ niệm ngày đau buồn cua 60 ngàn đồng bào chiến sĩ đã hy sinh là có lòng căm thù Trung Quốc hay không? Câu trả lời là “có”.
Và có phải những người này có ý thức kích động lòng căm thù ấy cho những người khác hay không? Cũng là “có” nốt.
Tuy nhiên cần phải lật vấn đề ở một góc khác, cái góc khuất mà chính quyền các cấp đang cố giấu biến đi từ sau hội nghị Thành Đô. Cái góc ấy khi được lôi ra ánh sáng thì kết quả sẽ ngược lại gần như hoàn toàn: kẻ chủ mưu kích động lòng căm thù Trung Quốc không ai khác hơn là Đảng và nhà nước Việt Nam.
Từ sau hội nghị Thành Đô Đảng không được phép nói xấu Trung Quốc nữa và vì thế Đảng giật giây cho nhân dân nói.
Việt Nam từng trải qua những cuộc chiến tranh nhuộm máu vì dã tâm của các phe tham chiến trong đó Tàu, Mỹ, Pháp, Nhật …mỗi nước xé một chút, mỗi viên đạn cắm một chỗ trên thân thể Việt Nam. Bốn mươi năm sau ngày giải phóng có ai còn nhớ tội ác đế quốc Mỹ hay không?
Dĩ nhiên là còn, nhất là nạn nhân trực tiếp trong cuộc chiến, tuy nhiên không người Việt Nam nào sau ngày 30 tháng 4 đi biểu tình chống Mỹ cả. Tại sao vậy? Vì Mỹ tới Việt Nam và rút đi bỏ lại 58 ngàn con dân của họ trên mảnh đất này và chính đất nước của họ tự dặn với nhau sẽ không còn những cuộc chiến tranh như thế.
Trung Quốc đánh Việt Nam chưa tới một tháng, giết 60 ngàn người, tàn phá không còn một căn nhà nào đứng vững. Cho tới bây giờ mỗi năm Bắc Kinh vẫn kỷ niệm ngày dạy cho Việt Nam một bài học….
Trong khi Mỹ trở lại Việt Nam với nụ cười thì Trung Quốc trở lại với hàng trăm con thuyển của ngư dân Việt bị bắn, bị đánh, bị bắt giam đòi tiền chuộc… và vì vậy người dân Việt căm thù Trung Quốc hơn căm thù Mỹ.
Sự kích động ngấm ngầm nhưng dữ dội của Đảng, nhà nước cộng sản Việt Nam là đây:
Rõ ràng biển Đông đang bị Trung Quốc bao vây và chắc chắn sẽ lấy mất nhưng từ ông Tổng bí thư cho tới Bộ trưởng Quốc phòng khi sang Bắc Kinh trở về đều tuyên bố nước anh em vô cùng tốt đẹp, hòa hiếu có chủ trương giải quyết tranh chấp trong tình hữu nghị của hai Đảng anh em.
Đây là lối kích động người dân căm thù Trung Quốc một cách gián tiếp thông qua lòng thù ghét, khinh bỉ sự khiếp nhược yếu hèn của Đảng, của nhà nước. Mà nào phải đó là sự sợ hãi? Họ chấp nhận bị nhân dân đấm để cùng với Trung Quốc chia nhau nắm xôi máu thịt Việt Nam.
Đó là những mâm xôi khoáng sản. Những bó nhân dân tệ được lén lút bố thí qua con đường tiểu ngạch. Những xấp đô la lót đường cho hàng hóa độc hại vào Việt Nam bán rẻ cho dân để đổi lấy những hợp đồng có lợi cho cả hai bên. Chỉ một mình nhân dân là chịu thiệt.
Làm ngơ và thậm chí ca tụng khi cán cân mậu dịch nghiêng về Trung Quốc có năm lên tới 147%.
Đảng và nhà nước kích động lòng căm thù Trung Quốc mạnh mẽ hơn nữa khi cho người đục bỏ tấm bia ghi nhớ và lên án Trung Quốc xâm lược tại biên giới phía Bắc, trong khi một mặt cho tân tạo nghĩa trang liệt sĩ Trung Quốc tại Việt Nam. Làm người có trí khôn, không căm thù mới là chuyện lạ.
Đảng và nhà nước kích động người dân chống lại Trung Quốc vì đã cho đàn em như ông Trần Nhật Quang chửi…Đảng công khai trước nhân dân khi tuyên bố rằng Trung Quốc cấm vận Việt Nam là một điều thiệt hại trong khi hầu hết người dân đều nghĩ ngược lại.
Đảng bị vạch mặt qua câu nói đầy ngạo nghễ của ông Quang cáo buộc rằng Ngụy và Trung Quốc giành nhau miếng đất Hoàng Sa. Trong khi đó Đảng ở đâu mà im hơi lặng tiếng?
“Cái ngày mà bọn bán nước Ngụy Sài Gòn đánh nhau với bọn cướp Trung Quốc. Cái ngày mà hai bọn cướp đấy đánh nhau để tranh ăn thì các ngươi lại kỷ niệm. Nhục nhã chưa?”.
Chữ “nhục nhã chưa?” không dành cho Đảng thì dành cho ai đây?
Trần Nhật Quang chửi Đảng thậm tệ không kém khi chiến công của Đảng chống Trung Quốc là cuộc chiến tiêu diệt Pol Pot, kẻ tội đồ của Campuchia nhưng lại là tay chân thân tín, người được Trung Quốc đỡ đầu cho những hành động diệt chủng khát máu. Quang hỏi người biểu tình: Sao không kỷ niệm ngày này?
Quang không biết rằng người dân ghét Đảng đến nỗi việc gì Đảng làm dù đúng hay sai họ đều ném vào sọt rác, nhất là sọt rác lịch sử.
Họ ghét vì Đảng ném đá dấu tay, kích động lòng dân căm thù nhưng bên ngoài cứ lấy 4 tốt 16 chữ làm bình phong đối với quan thầy. Đảng sợ mích lòng Trung Quốc không phải vì chiến tranh mà vì bổng lộc.
Có xảy ra cuộc chiến với Trung Quốc thì nhân dân và tay chân bộ hạ của Đảng chịu, tất cả chóp bu trong Đảng đều đã định cư ở Mỹ từ lâu lắm rồi.
Vậy thì ông Trần Nhật Quang chửi Đảng hay chửi người biểu tình chống Trung Quốc qua cáo buộc kích động căm thù?
Trung Quốc đang bị gậy ông đập lưng ông, cứ tưởng đàn em Việt Nam hết lòng với chủ nhưng đến khi nhận ra sự hai mang của Hà Nội thì nỗi chua chát không biết để đâu cho hết!

Liên minh quân sự: nên hay không?

Luật sư Vũ Đức Khanh


Quân đội Nhật Bản diễu hành
Tình hình an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang là đề tài nóng bỏng với sự trỗi dậy ngày càng mạnh mẽ của Trung Quốc trước sự bất lực của Hoa Kỳ đã làm cho các đồng minh của Mỹ trong khu vực thật sự vô cùng lo lắng.
Việc kiến tạo một tổ chức đa quốc gia về an ninh quốc phòng, giống như mô hình NATO, có thể sẽ là một giải pháp để duy trì và bảo vệ nền hòa bình, ổn định, an ninh và thịnh vượng chung cho châu Á-Thái Bình Dương.
Ngày 4 tháng 4 năm 1949, Tổ chức Minh ước Liên phòng Bắc Đại Tây Dương ra đời, một phần hình thành để ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô cũ và thiết lập sự hiện diện của Hoa Kỳ ở châu Âu, phần nữa là để liên kết châu Âu hậu Đệ Nhị thế chiến tái thiết, đồng thời ngăn chặn làn sóng trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Mặc dù người ta có thể tranh luận không ngừng về tầm quan trọng của NATO trong thế giới ngày nay, tuy nhiên ở những nơi khác, thí dụ như ở châu Á-Thái Bình Dương, một liên minh như vậy có thể được chứng minh là rất cần thiết. Các quốc gia tham dự và cách thiết lập có thể sẽ khác, nhưng những thách thức vẫn y nguyên như cũ.

Quyết đoán và quan ngại sâu sắc

Sự trỗi dậy quyết liệt và quyết đoán ngày càng gia tăng của Trung Quốc đã hơn là những nỗi lo lắng hàng ngày, nếu không muốn nói là quá quan trọng đối với một số quốc gia trong khu vực. Việc hồi cuối tháng 11 năm 2013, Bắc Kinh đã đơn phương thiết lập “Khu vực nhận dạng phòng không” (ADIZ) ) trong khu vực Biển Hoa Đông, bao trùm các quần đảo tranh chấp ở Senkaku/Điếu Ngư với Nhật Bản, chỉ là một thí dụ điển hình.
Mới đây, bất chấp phản đối của Hoa Kỳ, Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 01/02/2014 đã ra tuyên bố cho biết là một vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông tuy chưa cần thiết, song Bắc Kinh cho rằng, họ có toàn quyền thiết lập khu vực này để « bảo vệ chủ quyền lãnh thổ » của Trung Quốc.
Làm sao có thể thương lượng tay đôi với Trung Quốc, khi họ được cho là quá lớn so với các nước láng giềng quá nhỏ, thí dụ như mối quan hệ Việt – Trung.
Cũng nên nhắc lại rằng từ nhiều năm qua, Trung Quốc tự nhận chủ quyền trên hầu như toàn bộ Biển Đông, và vẫn liên tục dùng sức mạnh để áp đặt các yêu sách biển đảo của họ, bất chấp tuyên bố chủ quyền của các quốc gia như Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei.
Philippines, quốc gia có sự đụng độ với Trung Quốc về vấn đề tranh chấp chủ quyền trong khu vực bãi đá Scarborough/Hoàng Nham vào năm 2012, đã đưa Bắc Kinh năm 2013 ra Tòa án Trọng tài Thường trực quốc tế ở The Hague, Hà Lan thụ lý theo Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, mặc dù Trung Quốc vẫn tiếp tục từ chối tham gia và đã khuyến cáo Việt Nam không nên tham gia vào vụ kiện.
Những nỗ lực để giải quyết các tranh chấp lãnh hải và lãnh thổ cho đến nay hình như vô hiệu.
Ngoài các biện pháp pháp lý như đã được thực hiện bởi Philippines, các diễn đàn khu vực như Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN, thường được gọi tắt là ARF và Đối thoại Shangri-La, mặc dù cung cấp một cơ hội cho các quốc gia thành viên để chia sẻ mối quan tâm của họ, đã thất bại trong việc giảm căng thẳng.
Trung Quốc chưa hề có dấu hiệu “xuống thang” mà ngược lại họ còn đang ráo riết chuẩn bị cho một sự việc đã rồi, chẳng hạn như tăng cường các hoạt động quân sự nhằm củng cố chủ quyền tại các khu vực tranh chấp với Philippines và Việt Nam.
Đây không ngụ ý để nói rằng Trung Quốc đã cố tình tránh không tìm kiếm một giải pháp hòa bình. Tuy nhiên, điều Bắc Kinh mong muốn đàm phán song phương đã đơn giản là không thể chấp nhận được! Làm sao có thể thương lượng tay đôi với Trung Quốc, khi họ được cho là quá lớn so với các nước láng giềng quá nhỏ, thí dụ như mối quan hệ Việt – Trung.
Thay vì dậm chân tại chỗ, biết đâu đây cũng có thể là thời gian tốt để những nước có liên quan thử đi tìm một giải pháp khác.

Hoa Kỳ và một số quốc gia đã ký thỏa thuận đồng minh quân sự

Tổ chức Minh ước Liên phòng Á châu-Thái Bình Dương

Thực ra không phải tất cả các nước thành viên của NATO là hoàn toàn giống nhau và có thể trong thực tế còn có những lợi ích đối nghịch, nhưng tất cả họ vẫn có cùng cam kết với các mục tiêu chung của NATO.
Tương tự như vậy, không phải tất cả các quốc gia Đông Nam Á và Đông Bắc Á là không có tranh chấp với nhau, tuy nhiên, họ ít nhất có cùng một điểm đồng thuận đó là tự do hàng hải, điều duy nhất có tầm quan trọng sống còn đối với tất cả họ. Xung đột về tranh chấp hàng hải và lãnh thổ sẽ chỉ gây tổn hại cho tất cả các nước trong khu vực, ngoài việc tạo cơ sở cho việc phát triển chủ nghĩa dân tộc cực đoan nguy hại, nó còn dẫn đến kết quả bạo lực và bất ổn định.
Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM) hàng năm và Hội nghị ADMM mở rộng (ADMM +) là một địa điểm cho bộ trưởng quốc phòng các nước thành viên đến để thảo luận về các vấn đề quốc phòng và an ninh có ảnh hưởng tới khu vực.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ này, một tổ chức như vậy cũng chẳng mang lại một hiệu quả gì, vì đơn giản ở đó người ta chỉ nói nhưng không làm!
Đây là một ván cờ chiến lược với Trung Quốc và chỉ có những nhà lãnh đạo Washington có tầm nhìn chiến lược mới có khả năng tham chiến thành công.
Do đó, một tổ chức chặt chẽ hơn và cụ thể hơn là điều bắt buộc. Cũng như NATO ở hai bên bờ Đại Tây Dương, “Tổ chức Minh ước Liên phòng Á châu-Thái Bình Dương” là vô cùng cần thiết và sẽ phục vụ cho khu vực Thái Bình Dương.
Dẫn đầu là Hoa Kỳ, vì họ là quốc gia duy nhất có thể kết nối các quốc gia thành viên với nhau, tổ chức này sẽ bao gồm các cường quốc trụ cột trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia, và cả các cường quốc mới nổi như Indonesia, Malaysia và Singapore.
Lợi ích là điều hiển nhiên vì ngoài việc phục vụ như một liên minh quân sự đa quốc gia, tổ chức này có thể giúp kết nối các quốc gia Thái Bình Dương cả về chính trị lẫn kinh tế, và tiêu chuẩn hóa các trang thiết bị quân sự và đào tạo trong các quốc gia thành viên. Vun đắp các mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa các nước thành viên và tăng cường khả năng tương tác giữa các quân đội có thể làm tăng tính minh bạch và giảm thiểu tối đa sự hiểu lầm giữa các quốc gia.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý đến các hậu quả không lường trước được của việc tạo ra một tổ chức như vậy. Giả dụ như trường hợp của Liên Xô cũ bị đứng ngoài NATO đã tạo động lực đẩy sự ra đời của khối Hiệp ước Warsaw.
Dù có dùng bất kỳ ngôn ngữ để mô tả liên minh này cũng không tránh khỏi sự nghi ngờ cần thiết của Trung Quốc; Bắc Kinh chắc chắn sẽ thấy tổ chức này như một phản ứng với các hoạt động của Trung Quốc trong khu vực. Lịch sử rất có thể lặp lại nếu Trung Quốc quyết định họ cần phải lập một liên minh quân sự riêng để chống lại bất kỳ tổ chức nào do Mỹ dẫn đầu. Và đây chính là điều mà Washington cũng đang cân nhắc.
Liệu sự hình thành của một liên minh như vậy có thực sự mang lại một bước tiến mới trong việc đảm bảo hòa bình, ổn định, an ninh và thịnh vượng trong khu vực hay vô hình trung chỉ làm tăng thêm sự thù địch và đẩy nhanh tiến trình chạy đua vũ trang?
Dù vậy, những thách thức phải đối mặt với bất kỳ tổ chức quốc phòng đa quốc gia nào sẽ không nhất thiết phải đến từ bên ngoài nhưng từ bên trong.
Sự tồn tại và thành công của một liên minh như vậy trong dài hạn phụ thuộc đa phần vào nghệ thuật lãnh đạo và sự cam kết của Hoa Kỳ. Với vai trò trung tâm này, Washington sẽ thất bại nếu họ cũng hời hợt như họ đã từng làm trong quá khứ với SEATO (Hiệp ước Liên phòng Đông Nam Á) cũng như trong chiến tranh Việt Nam.
Đây là một ván cờ chiến lược với Trung Quốc và chỉ có những nhà lãnh đạo Washington có tầm nhìn chiến lược mới có khả năng tham chiến thành công. Chuyến công du của Tổng thống Obama vào tháng 4 này sẽ quyết định thế trận cho những năm sắp tới.

Việt Nam từng tuyên bố không làm đồng minh quân sự với nước nào
Tuy nhiên, trong khi vai trò lãnh đạo của tổ chức này có thể đè nặng trên đôi vai của người Mỹ, trách nhiệm cũng cần phải được chia sẻ bởi tất cả các nước thành viên.
Không giống như NATO, các nước thành viên sẽ được yêu cầu đóng góp chia sẻ công bằng cho liên minh, bao gồm nhưng không giới hạn nguồn tài nguyên, chính trị, tài chính và quân sự. Do hạn chế về tài chính rất thực tế phải đối mặt bởi Washington hiện nay, và những ảnh hưởng của hạn chế về đầu tư quốc phòng trong hiện tại và tương lai ở Mỹ, mỗi quốc gia thành viên được yêu cầu phải làm một phần trách nhiệm liên đới của họ và không thể nhìn vào Mỹ như là nhà cung cấp quốc phòng duy nhất.
Tư tưởng chỉ đạo của “hợp tác quốc phòng Xuyên-Thái Bình Dương” ở đầu thế kỷ 21 sẽ là “quyền lợi tương đồng, trách nhiệm tương sẻ”.
Dĩ nhiên, tất cả các điều trên chỉ là giả định thậm chí còn phải xét lại liệu Hoa Kỳ có ý định thực sự thành lập một liên minh quân sự như thế ở châu Á-Thái Bình Dương với tất cả trách nhiệm và thách thức đi kèm với một tổ chức như vậy.
Dù tất cả đó chỉ là giả định, nhưng khi Hoa Kỳ tuyên bố “chiến lược tái cân bằng ở châu Á-Thái Bình Dương” và đang điều chỉnh ngân sách, chúng ta có quyền tin rằng Tòa Bạch Ốc sẽ không bỏ qua bất kỳ giải pháp khả thi nào.
Bài viết phản ánh văn phong và quan điểm riêng của tác giả, một luật sư sống tại Canada.

Kịch bản tấn công phong tỏa Trung Quốc


Nếu muốn ngăn chặn và kiềm chế Trung Quốc, không cho nước này thể hiện sức mạnh cơ bắp quân sự và thay đổi hiện trạng trong khu vực, Mỹ cần phải xây dựng và thực hiện chiến lược tấn công từ dưới biển một cách hiệu quả.
1. “Tử huyệt” của Trung Quốc

Có thể hy vọng rằng Trung Quốc và Mỹ không xảy ra một cuộc xung đột vũ trang trong tương lai. Nhưng với sự trỗi dậy của Trung Quốc về sức mạnh kinh tế và quân sự như hiện nay, một ngày nào đó, 2 cường quốc này cũng sẽ va chạm với nhau ít nhất trong vài cấp độ. Xu hướng này còn được gọi là "Trap Thucydides", có nghĩa là: "Khi một cường quốc trỗi dậy nhanh chóng cạnh tranh với một cường quốc thực sự, rắc rối sẽ xuất hiện. 11 trong số 15 trường hợp như vậy đã xảy ra trong vòng 500 năm qua, kết quả là nổ ra một cuộc chiến tranh".

Tên lửa được phóng từ tàu ngầm.

Mục tiêu chiến lược quân sự của Mỹ là phải duy trì ưu thế vượt trội mà không dẫn đến xung đột. Mỹ cần phải tìm cách răn đe hành động quân sự của các đối thủ tiềm tàng, bởi vì những cường quốc có ưu thế lớn thường giành chiến thắng trong các cuộc xung đột. Nhưng vấn đề đặt ra hiện nay là chiến lược quân sự của Mỹ nhằm ngăn chặn Trung Quốc sử dụng lực lượng quân sự để thay đổi hiện trạng địa chính trị là gì?

Trả lời cho câu hỏi này không thể dựa trên những đánh giá mang tính chiến thuật trong học thuyết đã được vạch ra và lực lượng quân đội Mỹ hiện nay để đối phó Trung Quốc. Tuy nhiên, đây là một cuộc tranh luận mà hầu hết các cuộc thảo luận thường không đi đến kết quả. Phát triển một chiến lược quân sự quốc gia hiệu quả nhằm ngăn chặn những xung đột phải bắt đầu với những đánh giá trung thực và thẳng thắng về lịch sử cũng như những mục tiêu, khả năng chiến lược của cả ta và địch cũng như những điểm yếu không chỉ về hệ thống vũ khí, chiến thuật tác chiến và học thuyết quân sự.

Ưu tiên số một của lãnh đạo Trung Quốc hiện nay là ổn định chính trị trong nước và nâng cao mức sống của người dân. Để đạt được những mục tiêu này, chiến lược lớn của Trung Quốc là phải kiểm soát được phía đông nước này để bảo vệ Đại lục trước các đợt tấn công từ trên biển và đảm bảo sự an toàn cho tuyến đường hàng hải, nơi có vị trí quan trọng đối với việc khẩu nguyên liệu và xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc ra nước ngoài. Theo đó, Trung Quốc đã ưu tiên xây dựng lực lượng vũ trang của mình để cho phép nâng cao khả năng kiểm soát trên biển, tăng cường áp lực nhằm vào Đài Loan, quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, quần đảo Trường Sa và xa hơn nữa. Nó là một hệ quả trực tiếp và hợp lý về chiến lược lớn của Trung Quốc trong dài hạn.

Trong khi đó, những thế mạnh chủ yếu của Trung Quốc là rất gần với chiến trường châu Á-Thái Bình Dương, có hệ thống tên lửa và khả năng không kích từ trên không chính xác, lực lượng đổ bộ thì ngày càng được tăng cường. Tuy nhiên, Trung Quốc lại có những điểm yếu cốt tử đó là khả năng chống ngầm và khả năng phá mìn rất hạn chế, cùng với đó là các cảng và các tuyến đường thương mại trên biển của Trung Quốc rất dễ tiếp cận và đánh phá. Những điểm yếu này là rất quan trọng đối Mỹ trong việc đánh chặn nếu chiến tranh với Trung Quốc nổ ra.

Không chỉ mỗi Hải quân Trung Quốc là chưa được chuẩn bị nhiều cho cuộc chiến chống ngầm và phá mìn, mà hầu như tất cả hải quân các nước trên thế giới- trừ Mỹ - cũng trong hoàn cảnh tương tự. Điều này rất khó thực hiện vì một cuộc chiến như vậy đòi hỏi phải dành nhiều thời gian để thành thạo trên biển và có rất ít lực lượng hải quân đầu tư hoặc muốn huấn luyện những chiến thuật nhàm chán, không được ưa chuộng này. Trên cơ sở biên chế lực lượng hải quân hiện nay và trong vòng 15 năm tới, Trung Quốc sẽ không thể thực hiện một chiến dịch chống ngầm thành công, bởi vì hiện tại Bắc Kinh đang tập trung đầu tư vào tàu sân bay và các tàu nổi đối không, chứ không phải là các phương tiện chống ngầm hay phá mìn.

Sẽ là chiến lược thiếu suy nghĩ, thậm chí có lẽ là một sơ xuất về mặt quân sự, nếu chỉ tập trung vào việc làm thế nào để Mỹ có thể bảo vệ Đài Loan hoặc chống lại các hành động quân sự của Trung Quốc với Chiến lược Tác chiến Không – Biển (một chiến lược do Lầu Năm Góc khởi xướng để vô hiệu hóa Chiến lược "chống tiếp cận, phong tỏa khu vực" của Trung Quốc và duy trì ưu thế quân sự của Mỹ ở châu Á, Thái Bình Dương và trên toàn cầu) hay một khái niệm tác chiến khác. Với câu châm ngôn: “Những kẻ nghiệp dư nghiên cứu chiến thuật, còn những người chuyên nghiệp sẽ nghiên cứu về hậu cần” có lẽ là đúng, nhưng các quốc gia cũng nên thực hiện việc bố trí lực lượng và học thuyết mà có thể tăng cường khả năng răn đe.

Trước tiên, mục tiêu chiến lược quân sự của Mỹ nên tập trung vào việc ngăn chặn hành động quân sự của Trung Quốc thông qua một chiến lược rõ ràng, đáng tin cậy và khó có thể bị đánh bại mà ở đó nó có thể tạo ra những hậu quả tiêu cực và nghiêm trọng đối với lãnh đạo của Trung Quốc. Răn đe xuất hiện khi thế trận về chiến lược và quân sự khiến lãnh đạo của đối phương phải nhận thấy rằng họ khó có thể dành thắng lợi mà không có mất mát, hy sinh. Hiện nay, chiến lược và thế trận quân sự của Mỹ dường như chưa thể hiện được điều này. Với tuyên bố thành lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở biển Hoa Đông, Trung Quốc đang ngày càng coi thường thế trận của Mỹ, điều có thể gây nguy hiểm cho cả hai bên.
2. Kịch bản tấn công phong tỏa Trung Quốc

Nếu xung đột đột giữa Mỹ và Trung Quốc xảy ra, chiến lược mới của Washington về mặt cơ học sẽ phải bảo đảm việc chặn tất cả các tuyến đường giao thông, kể cả dân sự và quân sự của Bắc Kinh, mà trước tiên là sử dụng các tàu ngầm cùng với hệ thống không người lái phóng ngư lôi phong tỏa bờ biển của Trung Quốc. Điều này được kết hợp với việc mở rộng các công cụ pháp lý và tài chính để ngăn chặn sự lưu thông thương mại bằng đường không và đường biển. Mục đích của các hoạt động này là tạo ra sự biến động về kinh tế và thúc đẩy sự bất ổn về chính trị bên trong đại lục.

Trong khi một số nhà hoạch định chính sách quân sự của Mỹ đồng tình với chiến thuật “Kiểm soát ngoài khơi” của Đại tá Thủy quân Lục chiến về hưu T.X. Hammes thì một số khác lại ủng hộ Chiến lược Tác chiến Không –Biển (ví dụ như như Elbridge Colby, một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Phân tích Hải quân Mỹ). Chiến lược mới được đề xuất ở đây chính là sự kết hợp của 2 khái niệm trên: Chiến lược tấn công phong tỏa hay còn gọi là chiến lược răn đe từ dưới biển, kết hợp với việc ngăn chặn và đóng cửa các tuyến đường thương mại của Trung Quốc. Chiến lược này một phần giống như chiến lược Kiểm soát ngoài khơi, nhưng phạm vi hoạt động của nó là ở trong và gần những cảng biển của Trung Quốc, nơi thuận lợi cho việc tấn công bằng ngư lôi. Nó được thực hiện chủ yếu bởi các loại vũ khí tấn công dưới mặt nước kết hợp với vũ khí “kinh tế” nhằm tránh sự đổ máu của cả hai bên, điều có thể làm bùng lên chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc.


Lợi thế của chiến lược này là làm tăng sự răn đe thông thường, xác suất thành công khá cao và rất đáng tin cậy, bởi vì với phương pháp gián tiếp này sẽ ít tốn kém hơn về chi phí quân sự trong khi bản chất của tác chiến tàu ngầm và ngư lôi là phong tỏa đối phương. Ngoài ra, hậu quả về mặt chính trị sẽ thấp hơn so với việc sử dụng chiến thuật ném bom vào các mục tiêu bên trong lãnh thổ Trung Quốc hay bắn hạ hàng trăm phi công của Bắc Kinh, sẽ khiến nhiều dân thường bị thiệt mạng, cơ sở hạ tầng bị phá hủy…

Một lợi thế khác của chiến lược tấn công phong tỏa dưới biển là nó ít bị ảnh hưởng bởi hệ thống tác chiến điện tử của Trung Quốc hơn là một cuộc tấn công từ trên bộ hoặc trên không. Biển sẽ như một “chiếc áo giáp” bảo vệ và hạn chế tối đa khả năng tấn công của các tên lửa đạn đạo chống hạm như DF-21D vốn được coi là “sát thủ tàu sân bay”. Nói chung, trong điều kiện chiến tranh ở Tây Thái Bình Dương, nơi an toàn nhất sẽ là dưới lòng biển – không phải ở trên mặt nước hay ở trên không. Minh chứng cụ thể cho lợi thế này thể hiện rõ nhất trong cuộc xung đột ở Falklands năm 1982 giữa Vương quốc Anh và Argentina. Người Anh đã đúc kết ra rằng cuộc đối đầu giữa hai lực lượng hải quân hiện đại trên mặt nước thường tổn thất nhân mạng nhiều hơn so với dự kiến ban đầu. Và sau hơn 30 năm, các loại vũ khí đã được hiện đại hóa với khả năng sát thương cao hơn rất nhiều so với trước đây.

Theo chiến thuật mới này, ngay khi bắt đầu xảy ra cuộc chiến, Mỹ sẽ tuyên bố vùng đặc quyền hàng hải mở rộng ít nhất 200 dặm ngoài khơi bờ biển Trung Quốc và xung quanh vùng lãnh thổ Đài Loan. Bất kỳ tàu thuyền nào đi vào khu vực này sẽ bị giam giữ, thậm chí bị đánh chìm, nếu có hành động chống đối hoặc đơn giản là vi phạm vùng đặc quyền. Điều này cũng tương tự như những gì người Anh đã làm trong chiến dịch Falklands và đã phát huy hiệu quả.

Thứ hai, Mỹ sẽ sử dụng các tàu ngầm, máy bay ném bom tàng hình tầm xa hoặc máy bay không người lái tấn công bằng cách phóng/thả mìn, ngư lôi để phong tỏa các vùng biển gần của Trung Quốc, đặc biệt là các cảng biển, các tuyến đường thương mại huyết mạch. Tất cả các tàu thương nhân sẽ được khuyến cáo không nên rời khỏi bất kỳ cảng nào của Trung Quốc cho đến khi một tuyến đường an toàn vừa đủ hẹp được thiết lập để các tàu này thoát ra ngoài.

Trung Quốc thậm chí sẽ không biết được mức độ của các hoạt động phong tỏa vì nó được thực hiện ngầm dưới biển. Một lợi thế của chiến tranh dưới biển là tạo ra mối đe dọa lớn nhưng rất khó khăn để các lực lượng phòng vệ phát hiện vì không thể quan sát được các hoạt động này. Đơn giản là, chỉ cần một chiếc thuyền nhỏ đi qua các khu vực có bãi mìn, ngư lôi, nó có thể bị đánh chìm ngay lập tức. Kết quả là các tàu chiến hay bất cứ lực lượng phòng vệ nào khác khi hoạt động trên biển cũng sẽ phải hết sức dè chừng, di chuyển chậm chạp. Giảm tốc độ cơ động của đối phương cũng là một nhân tố quan trọng trong chiến tranh.

Thứ ba, chính phủ Mỹ sẽ tuyên bố rằng tổ chức tài chính và các tòa án Mỹ có thể không thi hành hoặc chi trả bất kỳ yêu cầu bảo hiểm, tín dụng, hoặc công cụ tài chính tương tự cho các tàu thương mại đã được đánh giá theo quyết định riêng của Washington, như là hoạt động trong vùng đặc quyền hoặc với mục đích kinh doanh, trao đổi khác với Bắc Kinh. Giới phân tích quân sự hầu như luôn đánh giá thấp sức mạnh của các công cụ tài chính hoặc pháp lý của Mỹ trong việc thay đổi, hoặc thậm chí ngăn chặn các hoạt động thông thương hàng hải. Nó sẽ là một vũ khí rất có hiệu quả khi áp dụng với Trung Quốc. Mỹ cần phải sử dụng sứ mạnh “bá chủ” về tài chính trên toàn cầu của mình để tăng cường chiến lược răn đe quân sự.

Sự đánh giá một cách tương đối về điểm mạnh và điểm yếu của cả Mỹ và Trung Quốc, đặc biệt là các lĩnh vực kinh tế và chính trị cho thấy: chiến lược răn đe thông thường nên tập trung vào việc khiến cho các lãnh đạo của Trung Quốc cảm giác rằng một cuộc chiến tranh là rất nguy hiểm. Gót chân Achilles chính trị của Bắc Kinh là nỗi sợ hãi về cuộc nổi loạn lan rộng với bạo lực leo thang trong khi nền kinh tế bị sụp đổ. Gót chân Achilles quân sự của Bắc Kinh chính là khả năng tác chiến mìn, ngư lôi và khả năng chống ngầm hạn chế. Điểm yếu về kinh tế của Trung Quốc phụ thuộc rất nhiều vào ngoại thương, và quyền bá chủ về pháp lý cũng như tài chính Mỹ. Những điểm yếu nghiêm trọng này là điều có thể giúp Washington triển khai và phát huy chiến lược răn đe từ dưới biển.
Công Thuận (Theo USNI)

Việt Nam lên án Campuchia giết người Việt

P-2-305.jpg
Trụ sở Đại sứ quán Việt Nam tại thủ đô Phnom Penh chụp ngày 18/2/2014.
Photos by: Quốc Việt/RFA
Việt Nam lên án mạnh mẽ về vụ một người Campuchia gốc Việt bị nhóm người Campuchia sát hại trong một vụ va chạm giao thông tại thủ đô Phnom Penh. Phía Việt Nam cho rằng vụ tấn công có thể xuất phát từ tư tưởng bài Việt.

Một người Campuchia gốc Việt bị nhóm người Campuchia đánh đập vào đầu và mặt dẫn đến tử vong ở xã Chak Angre Leou, quận Meanchey thuộc thủ đô Phnom Penh vào cuối tuần qua.
Do phân biệt chủng tộc?

Ông Trần Văn Thông, Tham tán phụ trách chính trị đối ngoại thuộc Đại sứ quán Việt Nam tại thủ đô Phnom Penh xác nhận với RFA nạn nhân gốc Việt Nam, gia đình sinh sống lâu đời tại Campuchia. Ông nói theo chính quyền địa phương, vụ tấn công xuất phát từ kích động bạo lực sắc tộc, phân biệt đối xử với người Việt Nam:

“Chúng tôi lên án những hành vi kỳ thị sắc tộc, phân biệt đối xử với các dân tộc. Chúng tôi cũng yêu cầu nhà chức trách điều tra tìm thủ phạm để mà xét xử theo luật pháp Campuchia. Đồng thời có những biện pháp cần thiết để ngăn chặn các hành vi kích động sắc tộc, xúi giục kích động dẫn đến phân biệt sắc tộc chống lại người Việt và kích động bài Việt ở Campuchia. Lên án những kẻ quá khích, kẻ đầu óc dân tộc hẹp hòi để tránh xảy ra những vụ việc tương tự như vậy.”

Người Việt Nam bị nhóm người Campuchia giết tên Nguyễn Văn Ngọc, 28 tuổi. Nhiều báo chí trong nước và quốc tế trích lời chính quyền địa phương vụ tấn công bắt đầu khi có người hô lên ‘Youn đánh người Khmer’ và có hành vi phân biệt chủng tộc đối với nguồn gốc của người Việt Nam này.

Chính quyền địa phương từ cấp xã cho đến Quận từ chối trả lời với chúng tôi có mặt tại chỗ có bạo lực tuy nhiên một nhân chứng có mặt tại chỗ xác nhận với RFA chiều ngày 18/2 rằng không hề liên quan đến sự phân biệt sắc tộc.

Ông Yao Sochea, 45 tuổi, cho chúng tôi biết vào lúc 20 giờ 30 phút, ngày 15/2, em trai của Nguyễn Văn Ngọc trong tình trạng say xỉn lái xe máy đụng vào phía sau một chiếc xe hơi trước chỗ sửa xe máy của ông. Người gây tai nạn điện thoại gọi Nguyễn Văn Ngọc và khoảng 20 người Việt khác đến can thiệp.

Theo ông Sochea, sau khi nhóm người Việt đến họ dựng xe cản đường hẻm không để người dân ra vào, trong tay có ống thép, gậy. Đến lúc 21 giờ 30 phút, một thành niên người Campuchia chạy xe máy tới bị nhóm người Việt chặn đường.

Ông Yao Sochea cho biết: “Nhóm người Việt đánh thanh niên này. Thanh niên này bị thương chạy đi báo cho bố. Bố nó đến hỏi chuyện nhưng lại bị nhóm người Việt này đánh bể mặt. Lúc đó hàng chục người dân chạy đến đánh họ, giết Nguyễn Văn Ngọc chết tại chỗ. Còn cha của một thành niên bị đánh làm đơn khiếu nại lên cảnh sát nhưng bị cảnh sát bắt giữ vì cho là bị tình nghi kích động xúi giục bạo lực phân biệt chủng tộc, bài Việt.”

Đại tướng Khieu Sopheak, phát ngôn viên Bộ Nội vụ Campuchia khẳng định với RFA rằng Chính phủ lấy làm tiếc nếu vụ án trên có liên quan đến sự phân biệt chủng tộc. Cảnh sát Campuchia sẽ tiến hành điều tra làm rõ trách nhiệm cụ thể.

Theo ông Khieu Sopheak, do đảng đối lập phơi bày quan điểm bài Việt và phân biệt sắc tộc nên người dân hai nước Campuchia – Việt Nam có nhiều hiểu lầm và khó nhìn mặt nhau.

Đại tướng Khieu Sopheak nói: “Chính sách nhất quán của chính phủ không phân biệt đối xử. Tất cả mọi người dân đều được tôn trọng như nhau. Còn các công dân nước ngoài cũng phải tôn trọng luật pháp nước sở tại. Campuchia và Việt Nam là hai láng giềng tốt, không thể phân biệt đối xử. Chúng tôi rất tiếc nếu vụ việc xuất phát từ sự kỳ thị sắc tộc. Chúng tôi sẽ điều tra làm rõ vụ việc.”

Đảng đối lập Cứu quốc Campuchia vốn được biết với lời lẽ tuyên truyền Việt Nam xâm chiếm Campuchia và chống lại những người Việt nhập cư bất hợp đã phát đi một thông cáo ngày 17/2 lên án vụ sát hại ông Nguyễn Văn Ngọc.

Thông cáo nhấn mạnh đảng đối lập kêu gọi toàn dân chấm dứt mọi hình thức bạo lực trong xã hội, thực hành văn hóa đề cao nhân quyền, yêu thương, khoan dung và tôn trọng lẫn nhau không phân biệt màu sắc, tôn giáo, chủng tộc…v.v.

Ông Nhem Panharith, người phát ngôn đảng Cứu quốc Campuchia phát biểu với RFA: “Vụ án này không liên quan gì tới đảng đối lập. Chúng tôi lên án mạnh mẽ về vụ giết người trên đường phố. Vụ việc này vì người dân không còn tin tưởng vào tòa án. Chính phủ phải chấm dứt các hành vi bạo lực trên đường phố.”

Anh Hà, một người Campuchia gốc Việt Nam sống tại khu vực xảy ra bạo lực nói rằng hầu hết người Việt sống co cụm thành cộng đồng ở Campuchia không tôn trọng dân bản xứ và không muốn hòa nhập xã hội. Anh Hà nói:

“Về vụ người Việt bị giết ở Chak Angre Loeu, nếu mà nói về giết người thì dĩ nhiên người giết người là có tội nhưng thực sự coi người bị giết là người thế nào trước đã. Chắc chắn là có chuyện xảy ra giữa hai bên. Không biết họ có làm gì đối với người dân Campuchia hay không. Nếu họ sống hợp pháp ở đây thì bên Campuchia sẽ đứng ra giải quyết cho họ. Còn họ nói về kích động chính trị, phân biệt sắc tộc là không đúng. Tại vì không biết họ có gây ra vấn đề đó cho người ta giết hay không. Mình chưa biết bên nào đúng, bên nào sai, tại sao đưa ra kết luận chính trị để giải quyết?!”

Trong khi đó, ông Trần Văn Thông kêu gọi bà còn người Việt đang sống tại Campuchia cố gằng hòa nhập xã hội và tôn trọng luật pháp. Ông nói:“Về phía Việt Nam, thứ nhất khuyến cáo những người Việt Nam, những người Campuchia gốc Việt phải chấp hành nghiêm luật pháp Campuchia.

Thứ hai, làm ăn sinh hoạt bình thường, chấp hành đúng các quy định của Nhà nước Campuchia, chính phủ Campuchia và chính quyền địa phương. Đồng thời yêu cầu các cơ quan chức năng Campuchia có các biện pháp cụ thể cần thiết để ngăn cản các hành vi kích động phân biệt sắc tộc.”

Theo Tổng hội Việt kiều tại Campuchia, hiện có 500.000 người Việt đang sống và làm ăn tại Campuchia. Trong số này, phần lớn họ có giấy tờ hợp pháp, thẻ căn cước tuy nhiên có ý kiến cho rằng có đến 4,5 triệu người Việt tại xứ này. Người ta rất dễ dàng gặp người Việt bất cứ nơi nào ở Campuchia vì họ sống theo cộng đồng và nói bằng tiếng Việt.

Anh Hà cho rằng vấn đề khác biệt văn hóa truyền thống và lịch sử vẫn là rào cản giữa người Việt và người Khmer, chưa kể một số bà con người Việt không chấp hành luật pháp Campuchia để hòa nhập vào xã hội Campuchia.

“Tôi thấy người Việt sống tại đất nước Campuchia hiện nay họ sống coi như bất hợp pháp. Thứ hai, họ tới Campuchia, họ không tôn trọng con người và luật pháp Campuchia. Họ đi đâu cũng vậy, nói chuyện la lớn, um xùm. Hình như họ xem thường con người và luật ở đây.”

Quốc Việt, thông tín viên RFA, Campuchia
2014-02-18

VIỆC NÀY DẪN DẮT VIỆC KIA: VÒNG XOÁY TRÔN ỐC VẤN ĐỀ VÀ CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC – VIỆT NAM

Ngô Bắc  dịch – Gió O
David R. Dreyer  – Lenoir-Rhyne University
Lời Người Dịch:
Dưới đây là bản dịch một trong các bài viết mới nhất (2010), tóm tắt các sự khám phá trong cuộc nghiên cứu về các yếu tố tương quan với nhau của chiến tranh, áp dụng các phương pháp nghiên cứu định lượng chuyên sâu trong khoa chính trị học, và dùng cuộc chiến tranh Trung Hoa – Việt Nam năm 1979 làm trường hợp nghiên cứu điển hình.
Quan hệ Trung Hoa – Việt Nam trong thực tế hiện có các sự căng thẳng có thể nói là nhiều hơn cả tình trạng của năm 1979, bất kể các lời tuyên truyền về khẩu hiệu bang giao 16 chữ vàng do Trung Hoa đề ra.  Việt Nam đang ở ngã ba đường và ở thời điểm sẽ phải lấy một quyết định chiến lược quan trọng, có tinh chất hệ trọng đến tương lai dân tộc. Bài viết vì thế, nếu được đọc kỹ, hy vọng sẽ giúp người đọc rút ra ít nhiều dữ liệu hữu ích để suy ngẫm.
Khác hơn sự tranh giành trên một vấn đề này hay vấn đề kia (chẳng hạn như về lãnh thổ hay tư thế) dẫn đến chiến tranh, trong tập nghiên cứu này điều được lập luận rằng chiến tranh nhiều phần thường là kết quả của một vòng xoắn ốc các sự việc – một tiến trình năng động trong đó sự căng thẳng gia tăng khi nhiều vấn đề tích dồn lại.  Một khi sự bất đồng vấn đề tiên khởi được tạo lập, sự phát triển các hình ảnh kẻ thù có thể khiến các quốc gia nhìn thái độ và các ý định “của nước kia” liên quan đến các vấn đề bổ túc như sự đe dọa.  Các quốc gia sau đó có thể tìm cách dành đoạt một lợi thế trên một vấn đề mới nhằm ngăn chặn kẻ cạnh tranh của một quốc gia không làm như thế, hay để dành được đòn bẩy trên các vấn đề khác.  Các hành động xâm lấn của một quốc gia liên quan đến các vấn đề mới có khuynh hướng tăng cường các sự nhận thức của phe đối đầu với nó rằng quốc gia đã có các ý định xâm lấn liên quan đến các sự bất đồng đã được tạo lập trước đó, càng làm gia tăng sự căng thẳng thêm.  Hơn nữa, sự tích lũy vấn đề làm gia tăng các vốn liếng của sự cạnh tranh, điều sẽ tăng cường khả tính rằng các nước sẽ sẵn lòng gánh chịu các phí tổn của chiến tranh nhằm tìm kiếm sự giải quyết vấn đề thuận lợi.  Khi các sự căng thẳng dâng cao và tính hợp lý của việc tham gia vào cuộc tranh chấp quân sự hóa trên quy mô lớn gia tăng, một quốc gia có thể khởi phát chiến tranh nếu một đối thủ đẩy mạnh các đòi hỏi của nó trên một vấn đề lo sợ rằng sự thiếu sót việc bày tỏ quyết tâm sẽ dẫn dắt kẻ cạnh tranh của mình cũng sẽ đẩy mạnh các đòi hỏi của nó trên các vấn đề khác.  Một sự khảo sát các quan hệ giữa Trung Hoa và Việt Nam trong thập niên 1970 phát hiện rằng một vòng xoáy trôn ốc các sự việc, trong đó việc này dẫn đến việc kia và sự chồng chất các vấn đề góp phần vào việc làm tồi tệ các quan hệ, đã xô đẩy Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam 1979.
***
Trung Hoa và Việt Nam tham dự vào một cuộc chiến tranh ngắn nhưng hao phí từ ngày 17 Tháng Hai cho đến 16 Tháng Ba, 1979. 1  Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam đã là cuộc tranh chấp quân sự quan trọng đầu tiên giữa Trung Hoa và Việt Nam tiếp theo sau sự thiết lập của cả hai nước cộng sản này.  80,000 binh sĩ Trung Hoa và 75,000 – 100,000 binh sĩ Việt Nam đã tham dự vào cuộc tranh chấp.  Ngay dù các hoạt động được giới hạn, các tổn thất đưa ra số ước lượng là 25,000 người Trung Hoa và 20,000 người Việt Nam (Womack 2006: 200).
Điều đặc biệt gây ngạc nhiên là vì Trung Hoa và Việt Nam trước đây có vẻ là các đồng minh chặt chẽ.  Trong suốt cuộc chiến tranh của Việt Nam chống lại Hoa Kỳ, Trung Hoa và Virệt Nam cam kết cho một mối quan hệ “hợp tác mật thiết” đặt trên sự trợ giúp của Trung Hoa, và các nhà lãnh đạo Trung Hoa đã gửi đến Việt Nam “các lời chào mừng nồng nhiệt” trước sự giải phóng Sàigòn (Burton 1978-79: 704).  Trung Hoa và Việt Nam, được nói, “mật thiết với nhau như môi với răng” (Womack 2006: 162-163) .  Lý do tại sao, bất kể cả hai quốc gia đều theo định hướng cộng sản và bất kể xem ra đã có các quan hệ chặt chẽ đến thế trong nhiều thập niên, Trung Hoa và Việt Nam đã cầm vũ khí đánh lại nhau hồi Tháng Hai năm 1979?
Các cuộc khảo cứu trước đây nêu ý kiến rằng một số vấn đề nào đó có thể mang tính chất tranh chấp nhiều hơn các vấn đề khác (Hensel 1996; Senese 1996; Ben-Yehuda 2004).  Đặc biệt, sự hiểu biết thông thường rằng các tranh chấp về lãnh thổ nhiều phần dễ leo thang thành chiến tranh hơn các loại tranh cãi khác (Vasquez và Henehan 2001); Senese và Vasquez 2008; Vasquez và Valeriano 2008).  Sự khảo cứu như thế dựa trên các dữ liệu được đánh theo ám số bởi dự án Các Yếu Tố Tương Liên Của Chiến Tranh (Correlates of War project) xác định các sự tranh cãi liên quốc gia bị quân sự hóa như được thúc đẩy bởi vấn đề lãnh thổ, chính sách, chế độ, hay một số loại vấn đề “ khác “ của chủ nghĩa xét lại (revisionism) (Jones, Bremer, và Singer 1996).  Bởi vì chỉ có một vấn đề được xác định là dính líu một cách nghiêm trọng cho mỗi cuộc xung đột bị quân sự hóa, giả định mặc nhiên rằng có một vấn đề có tầm quan trọng chính yếu cho mỗi cuộc tranh chấp hay chiến tranh. 2  Tương tự, liên quan đến Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam, một số học giả đã cố gắng xác định vấn đề trung tâm đã dẫn dắt Trung Hoa và Việt Nam tham gia vào cuộc xung đột trực tiếp.  James Mulvenon (1995), thí dụ, lập luận rằng mặc dù đã có một số điểm bất đồng giữa Trung Hoa và Việt Nam, chính sự xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt dịp Giáng Sinh năm 1978 đã là nguyên do chính yếu của Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam.
Khác hơn sự tranh giành trên một vấn đề này hay vấn đề kia (chẳng hạn như về lãnh thổ hay tư thế) dẫn đến chiến tranh, trong tập nghiên cứu này điều được lập luận rằng chiến tranh nhiều phần thường là kết quả của một vòng xoắn ốc các sự việc – một tiến trình năng động trong đó sự căng thẳng gia tăng khi nhiều vấn đề tích dồn lại.  Một khi sự bất đồng vấn đề tiên khởi được tạo lập, sự phát triển các hình ảnh kẻ thù có thể khiến các quốc gia nhìn thái độ và các ý định “của nước kia” liên quan đến các vấn đề bổ túc như sự đe dọa.  Các quốc gia sau đó có thể tìm cách dành đoạt một lợi thế trên một vấn đề mới nhằm ngăn chặn kẻ cạnh tranh của một quốc gia không làm như thế, hay để dành được đòn bẩy trên các vấn đề khác.  Các hành động xâm lấn của một quốc gia liên quan đến các vấn đề mới có khuynh hướng tăng cường các sự nhận thức của phe đối đầu với nó rằng quốc gia đã có các ý định xâm lấn liên quan đến các sự bất đồng đã được tạo lập trước đó, càng làm gia tăng sự căng thẳng thêm.  Hơn nữa, sự tích lũy vấn đề làm gia tăng các vốn liếng của sự cạnh tranh, điều sẽ tăng cường cho khả tính rằng các nước sẽ sẵn lòng gánh chịu các phí tổn của chiến tranh nhằm tìm kiếm sự giải quyết vấn đề thuận lợi.  Khi các sự căng thẳng dâng cao và tính hợp lý của việc tham gia vào cuộc tranh chấp quân sự hóa trên quy mô lớn gia tăng, một quốc gia có thể khởi phát chiến tranh nếu một đối thủ đẩy mạnh các đòi hỏi của nó trên một vấn đề lo sợ rằng sự thiếu sót việc bày tỏ quyết tâm sẽ dẫn dắt kẻ cạnh tranh của mình cũng sẽ đẩy mạnh các đòi hỏi của nó trên các vấn đề khác.
Phần kế tiếp duyệt xét tài liệu liên hệ và giới thiệu khái niệm về một vòng xoắn trôn ốc các sự việc.  Một sự phân loại vấn đề (issue typology) sau đó được sử dụng để xác định các vấn đề tranh cãi liên quan đến các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam trong thập niên 1970.  Liệu sự bất đồng trên một vấn đề có khuynh hướng trợ lực cho sự phát triển một vấn đề khác hay không và liệu sự tích lũy vấn đề có khuynh hướng dẫn đến tình trạng suy đồi trong các quan hệ hay không sẽ đuợc lượng định.  Sự ủng hộ cho các sự kỳ vọng liên quan đến tính trung tâm của các vòng xoắn ốc sự việc đối với sự khai diễn chiến tranh sẽ khuyến cáo rằng đúng ra nên thận trọng khi di chuyển quá việc so sánh các sự khác biệt cắt ngang các vấn đề liên quan đến các biến số chẳng hạn như mức độ thù nghịch đê khảo sát động lực của sự tích lũy các vấn đề.
CÁC VÒNG XOẮN ỐC SỰ VIỆC
     Các khảo hướng hiện thực có khuynh hướng giả định rằng bất kể một quốc gia định nghĩa các mục đích trong chính sách ngoại giao của nó ra sao, các quốc gia phải theo đuổi quyền lực hầu đạt được các mục tiêu dân tộc. Hậu quả, sự biến thiên trong các vấn đề thuộc chính sách ngoai giao tương đối không quan trọng và chính trị quốc tế có thể được tiêu biểu như một cuộc đấu tranh quyền lực không dứt (Morgenthau 1948).  Phái cấp tiến cũng có khuynh hướng không đặt tiêu điểm vào sự biến thiên sự việc trong khi tìm cách giải thích các hậu quả, mà đúng hơn đã khảo sát theo truyền thống các biến số chẳng hạn như loại chế độ, trình độ liên lập về kinh tế (economic interdependence), và tầm mức của sự can dự vào các tổ chức liên chính phủ (Russett và O’Neal 2001).
Tuy nhiên, sự nghiên cứu vấn đề cho thấy rằng các quan hệ liên quốc gia có khuynh hướng biến đổi liên quan đến loại vấn đề bị tranh cãi bởi các vấn đề khác nhau có các đặc tính khác nhau (Mansbach và Vasquez 1981; Hensel 2001).  Một số vấn đề nào đó có khuynh hướng leo thang hơn các vấn đề khác.  Các cuộc chạy đua vũ trang nhiều phần xảy ra hơn trong khung cảnh tranh giành lãnh thổ hơn là cạnh tranh trên các vấn đề khác (Rider 2009).  Hơn nữa, các cuộc tranh cãi lãnh thổ tạo ra một số tử vong cao hơn (Senese 1996) và nhiều phần dễ leo thang thành chiến tranh hơn các tranh cãi về chính sách hay chế độ (Vasquez và Henehan 2001; Senese và Vasquez 2008).
Mặc dù sự nghiên cứu đã khảo sát là liệu một số loại tranh cãi nào đó có khuynh hướng dễ bay hơi hơn các vấn đề khác, các quốc gia đôi khi có thể tranh chấp trên nhiều vấn đề cùng một lúc.  Một khi một sự bất đồng trên  vấn đề đầu tiên đã được tạo lập, các quốc gia có thể phát triển các hình ảnh kẻ thù về một nước khác.  Một hình ảnh kẻ thù là một niềm tin rằng một số “kẻ khác” đang sẵn sàng đe dọa (Holsti 1962, 1967; Silverstein và Holt 1989).  Các tin tức thích hợp với các hình ảnh như thế có khuynh hướng được chấp nhận trong khi các tin tức sai biệt có khuynh hướng bị xem nhẹ, làm ngơ, hay bị đồng hóa sao cho nó thích hợp với hình ảnh (Finlay, Holsti, và Fagen 1967; Jervis 1976; Jervis, Lebow, và Srein 1985).  Do sự hình thành các hình ảnh kẻ thù như là một hậu quả của sự tranh chấp trên vấn đề tiên klhởi, một quốc gia có thể bắt đầu giả định rằng “nước khác” có các ý định thù nghịch trên các vấn đề bổ túc.  Các quốc gia mà một cách khác có thể có quyền lợi trong nguyên trạng có thể tham gia vào thái độ xét lại liên quan đến các vấn đề mới đối diện các quốc gia đối chọi nhau lo sợ rằng nếu họ không làm như thế, đối thủ của họ sẽ làm. 3
Hơn thế, một quốc gia có thể tìm cách để dành đoạt một lợi thế trên một vấn đề mới nhằm dành được đòn bẩy trên các vấn đề khác.  Thí dụ, hai quốc gia có thể trở thành các kẻ cạnh tranh bởi sự tranh chấp trên vấn đề tư thế — sự tranh biện liên can đến ảnh hưởng trên các hoạt động và uy tín trong khuôn khổ một hệ thống hay tiểu hệ thống bên dưới (Thompson 1995, 2001; Colaresi, Rasler, và Thompson 2008).  Do sự cạnh tranh như thế, một quốc gia có thể chiếm giữ một khu vực lãnh thổ, lo sợ rằng nước đua tranh với mình có thể làm như thế và nhằm để nâng cao khả năng phóng chiếu quyền lực khắp vùng và nâng cao ảnh hưởng về tư thế của mình. Hành vi như thế có thể dẫn đến sự tranh giành về lãnh thổ ngoài cuộc tranh cãi về tư thế. 4
Sự khởi phát cuộc tranh chấp trên vấn đề và sự phát triển các hình ảnh kẻ thù cũng có thể đưa đến một sự tái lượng giá hiện trạng liên quan đến các vấn đề khác.  Các thực tế không có tính đe dọa trước đây giờ này có thể xem ra đe dọa, dẫn đến sự tạo lập các bất đồng trên các vấn đề bổ túc.  Thí dụ, các nhà lãnh đạo một quốc gia có thể không nhìn sự hiện diện dòng dõi chủng tộc của một quốc gia khác nằm trong ranh giới của chính mình có vấn đề chừng nào các quốc gia không phải là các kẻ đối địch.  Nếu các quốc gia trở thành đối nghịch, các nhà lãnh đạo có thể bắt đầu tin rằng một sự hiện diện đông đảo dòng giống của đối thủ nằm trong ranh giới quốc gia của họ làm phương hại đến an ninh của họ.  Hậu quả một quốc gia có thể áp dụng các biện pháp khắc nghiệt để chống lại hay tìm cách trục xuất các cá nhân thuộc chủng tộc của đối thủ, có tiềm năng dẫn đến sự phát triển một cuộc tranh chấp vấn đề mới trong đó một quốc gia phản kháng sự ngược đãi dòng giống thuộc chủng tộc của mình cư ngụ tại một nước khác.5
Tác phong xét lại liên quan đến các vấn đề mới nhiều phần bị nhìn bởi các quốc gia đói địch như tính chất xâm lược không xác đáng.  Các nhà lãnh đạo một quốc gia có thể không nhận thức rằng một số trong các hành động của chính họ bị nhìn bởi các kẻ khác là có tính chất đe dọa.  Hậu quả, các hành động xâm lấn của quốc gia khác trên các vấn đề mới nhiều phần được nhìn như là không có tính chất khiêu khích và có thể tiếp nhận như một dấu hiệu của ác ý phi lý của một đối thủ, theo đó củng cố và tăng cường các hình ảnh về sự thù nghịch (Jervis 1976).
Sự xuất hiện các vấn đề mới có thể làm căng thẳng các quan hệ liên quan đên các sự bất đồng trên vấn đề đã được tạo lập trước đây khi các quốc gia nhìn các hành động xâm lấn “của nước kia” liên quan đến các vấn đề mới là không khiêu khích và như một dấu hiệu chỉ dẫn rằng ke/ cạnh tranh của một nước có các ý định xâm lấn liên quan đến các sự bất đồng đã được tạo lập trước đây.  Thí dụ, một quốc gia chiếm giữ lãnh thổ tìm cách dành đoạt một lợi thế trên một nước tranh đua về tư thế có thể tăng cường sự nhận thức của nước tranh đua rằng đối thủ của họ đang tìm kiếm một cách hung hăng ưu thế tối thượng trong vùng.  Sự chiếm giữ đất đai do đó có thể không chỉ phát khởi sự cạnh tranh trên các mối quan tâm về lãnh thổ, mà cũng còn tăng cường sự cạnh tranh về tư thế.
Sự phát triển các hình ảnh kẻ thù có thể dẫn đến một vòng xoắn ốc sự việc trong đó sự căng thẳng gia tăng khi nhiều vấn đề chồng chất nhau.  Sự thiết lập một cuộc xung đột trên vấn đề và sự phát triển một hình ảnh kẻ thù có thể dẫn đến sự tích lũy vấn đề, điều kế đó làm gia tăng sự bất tin tưởng và nghi ngờ “nước khác”.  Sự căng thẳng gia tăng và các quốc gia có thể bắt đầu nhìn “nước khác” như trở ngại chính trong việc giải quyết mọi bất đồng (Senese và Vasquez 2008: 17).  Các vòng xoắn ốc sự việc làm gia tăng sự nhận thức về nỗi lo sợ và bất tin tưởng, và có thể dẫn đến sự kết luận rằng cách duy nhất để đạt được sự giải quyết vấn đề thuận lợi liên quan đến mọi bất đồng là xuyên qua việc áp đặt ý chí của mình.
Cùng với các hậu quả tâm lý của các vòng xoắn ốc các sự việc có thể làm gia tăng xác xuất của chiến tranh, các vòng xoắn ốc sự việc cũng làm gia tăng tính hợp lý của một quốc gia lựa chọn giải pháp chiến tranh trong việc tìm cách giải quyết các bất đồng của mình (bằng cách để cho đối thủ của mình không muốn và không có khả năng để tiếp tục cạnh tranh trên các vấn đề liên quan).  Sự tích lũy sự việc làm gia tăng vốn liếng đặt vào cuộc cạnh tranh.  Thí dụ, địa vị và ảnh hưởng bị đe dọa đối với các quốc gia cạnh tranh trên các mối quan tâm về tư thế.  Nếu một vấn đề lãnh thổ tích lũy lại, các tài nguyên quý báu (thí dụ, nhiên liệu, nước, khoáng sản) giờ đây cũng có thể bị đe dọa.  Với giả định rằng chiến tranh thì tốn kém, các quốc gia có thể sẵn lòng để gánh chịu các tốn phí của chiến tranh khi các lợi lộc tiềm ẩn của sự giải quyết vấn đề thuận lợi thì cao hơn (việc thiết định  địa vị/ảnh hưởng và việc thụ đắc các nguồn tài nguyên, đối với việc thiết định địa vị/ảnh hưởng không thôi). 6
Khi sự căng thẳng và tính hợp lý của việc tham gia vào cuộc xung đột quân sự hóa trên một quy mô rộng lớn gia tăng, một quốc gia có thể phát động chiến tranh nếu một đói thủ thúc đẩy các đòi hỏi của nó trên một vấn đề lo sợ rằng sự thiếu sót việc bày tỏ quyết tâm sẽ dẫn kẻ cạnh tranh của mình đẩy ra các đòi hỏi của nó trên các vấn đề khác nữa.  Một sự khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ có thể rằng các quốc gia đã ngập ngừng để nhượng bộ trước các đòi hỏi lãnh thổ lo sợ là làm như thế sẽ khuyến khích các nước cạnh tranh khác thúc đẩy các đòi hỏi của riêng họ trên các vấn đề khác (Hensel 2000; Walter 2003).  Tương tự, các quốc gia có thể không sẵn lòng để nhượng bộ đòi hỏi của một đối thủ trên một vấn đề khi các vấn đề gai góc gấp bội còn đang dưới sự tranh cãi, lo sợ rằng làm như thế sẽ dẫn đối thủ của mình thúc đẩy các đòi hỏi của nó trên các bất đồng khác. 7
Trong dự án này, tôi lập luận rằng một sự bất đồng trên vấn đề có khuynh hướng góp phần vào sự phát triển vấn đề khác và sự tranh giành trên các vấn đề phức tạp làm gia tăng xác xuất rằng các quốc gia sẽ tham gia vào cuộc xung đột được quân sự hóa.  Nhằm khảo sát sự tích lũy các vấn đề, việc cần thiết là dựa trên một sự phân loại vấn đề.  Phần kế tiếp do đó thảo luận về một lược đồ phân loại vân đề được sử dụng để lượng định các vấn đề tranh chấp liên quan đến các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam trong thập niên 1970.
Sự Cạnh Tranh Vấn Đề Đa Kích Thước
      Sự nghiên cứu đã khảo sát rằng liệu một số vấn đề nào đó có tính cách dễ gây tranh giành hơn các vấn đề khác có khuynh hướng dựa trên loại Các Yếu Tố Tương Liên Của Chiến Tranh của chủ nghĩa xét lại được liên kết với các dữ liệu tranh cãi liên quốc gia được quân sự hóa trong đó các sự tranh cãi được xếp loại như về lãnh thổ, chính sách, chế độ, hay một số vấn đề “khác” hay không (Jones và các tác giả khac 1996).  Các tranh cãi lãnh thổ liên can đến việc đưa ra các sự xác quyết về lãnh thổ, các tranh cãi chính sách liên can đến việc tuyên bố ý định không tôn trọng chính sách của quốc gia khác, và các tranh cãi chế độ liên can đến việc mưu toan lật đổ chế độ của quốc gia khác.  Mọi cuộc tranh cãi liên quốc gia được quân sự hóa từ 1816 đến 1992 được ghi theo ám hiệu dành riêng cho một vấn đề này hay vấn đề kia, theo dự án Các Yếu Tố Tương Liên của Chiến Tranh. 8  Cuộc Chiến Tranh Ả Rập – Do Thái, Cuộc Chiến Tranh Sáu Ngày, và Cuộc Chiến Tranh Yom Kippur War, thí dụ, mỗi cuộc chiến tranh được ghi ám hiệu như là các cuộc tranh cãi lãnh thổ, trong khi Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam được ghi ám hiệu như là một cuộc tranh chấp chính sách.
Khảo hướng Các Yếu Tố Tương Liên Của Chiến Tranh không cứu xét rằng các cuộc chiến tranh có thể bị đưa đẩy bởi nhiều vấn đề.  Các cuộc chiến tranh mà Do Thái đã tham dự cùng với các lân bang của nó xem ra không chỉ có một chiều kích lãnh thổ (và về nước uống) duy nhất, mà còn có chiều kích chủng tộc / tôn giáo.  Tương tự, một cuộc khảo sát các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam có thể phát lộ rằng có hơn một vấn đề chính sách duy nhất nằm dưới sự tranh cãi vào lúc có chiến tranh năm 1979.
Không giống như khảo hướng Các Yếu Tố Tương Liên Của Chiến Tranh, các dữ liệu được thu thập trên sự xung đột về vấn đề lãnh thổ bởi các tác giả Huth và Allee (2002) và các dữ liệu trong Các Yếu Tố Tương Liên Sự Việc (Issue Correlates of War: ICOW) về các sự xác quyết lãnh thổ, sông ngòi, và đường biển (Hensel, Mitchell, Sowers, và Thyne 2008) cho phép một khả tính rằng các quốc gia có thể có các vấn đề đa tầng phức tạp đang tiếp diễn.  Các dữ liệu như thế cũng bao gồm các số đo của mức độ gai góc của vấn đề làm tốt hơn việc tiên đoán những tranh cãi nhiều phần sẽ leo thang thành chiến tranh.  Trong khi cung cấp phương tiện cho một sự điều tra sâu xa hơn về sự tranh chấp lãnh thổ, cả hai dự án hiện đang giới hạn vào việc khảo sát các vấn đề địa chính tri (geopolitical).
Nhằm xác định các vấn đề lãnh thổ và phi lãnh thổ liên hệ của sự tranh giành, trong bài nghiên cứu này tôi dựa trên một sự phân loại mở rộng trên công trình đã phân loại các đối thủ như về không gian và/hay tư thế trong bản chất (Thompson 1995, 2001; Colaresi và các tác giả khác 2008). 9  Các kẻ tranh giành về không gian là những quốc gia có các xác quyết trên lãnh thổ xung đột nhau.  Các kẻ tranh biện tư thế tranh giành trên việc thiết định ảnh hưởng và uy tín trong khuôn khổ một hệ thống và tiểu hệ thống.  Các quốc gia cũng có thể cạnh tranh về ý thức hệ bởi các hệ thống tin điều chính trị khác biệt nhau, hay có thể tham dự vào cuộc xung đột về vấn đề căn cước trong đó sự thù nghịch bắt nguồn từ các sự óan hận về dân tộc, tôn giáo, hay một quốc gia phản đối sự ngược đãi nhìn thấy rõ đối với các cá nhân của một nhóm dân tộc ít người tại một nước khác (Dreyer 2010).
Cùng với việc tranh giành tiềm ẩn trên các loại vấn đề khác nhau (không gian, tư thế, ý thức hệ, căn cước), các quốc gia có thể tranh giành trên các xác quyết về vấn đề phức tạp trong mỗi loại vấn đề.  Thí dụ, có thể có các xác quyết vấn đề lãnh thổ đa tầng phức tạp giữa các nước tranh giành không gian hay các xác quyết vấn đề đa tầng phức tạp liên hệ đến sự canh tranh tư thế.  Hậu quả, số lượng các khẳng quyết vấn đề mà các quốc gia có thể tranh giành ở bất kỳ thời điểm xác định nào có thể có nhiều.  Sự phân tích các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam sẽ cho phép khả tính không chỉ rằng Trung Hoa và Việt Nam có thể tham dự vào các loại khác nhau của sự cạnh tranh vấn đề cùng một lúc, mà còn rằng các nước tranh đua có thể tham dự vào các sự bất đồng vấn đề đa tầng phức tạp  liên quan đến mỗi loại xung đột trên vấn đề.  Như cuộc thảo luận sẽ phát hiện, các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam có thể được tượng trưng như tập trung vào sự tranh giành không gian, tư thế, và căn cước, và Trung Hoa cùng Việt Nam đã tham dự vào các cuộc tranh chấp vấn đề không gian phức tạp và các tranh chấp tư thế phức tạp, đưa dến nhiều sự xác quyết vấn đề nằm dưới sự tranh giành cùng một lúc.
Phần kế tiếp sẽ nhắm vào hai câu hỏi liên hệ.  Trước tiên, sự tham dự vào một sự bất đồng trên vấn đề có khuynh hướng trợ lực cho sự phát triển các sự bất đồng trên các vấn đề bổ túc hay không?  Nói cách khác, liệu một việc có khuynh hướng dẫn dắt đến việc khác hay không sẽ được khảo sát.  Thứ nhì, các vấn đê phức tạp trên lịch trình có khuynh hương đưa đến sự leo thang, tụt thang, hay liệu có mối quan hệ nào giữa số lượng các vấn đề nằm dưới sự tranh giành với mức độ thù nghịch hay không?

Cuộc Xâm Lăng Của Trung Cộng vào Việt Nam, năm 1979
Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam
     Các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam trong thập niên 1970 được khảo sát như trường hợp chính yếu cho sự phân tích vì nhiều lý do.  Mặc dù các vấn đề lãnh thổ nằm dưới sự tranh giành giữa Trung Hoa và Việt Nam trong suốt thời kỳ điều nghiên, sự tranh giành trên lãnh thổ không phải là lý do chủ yếu cho Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam.  Tác giả Kenny (2002: 53) đề cập đến các sự tuyên xác lãnh thổ như các vấn đề “có tầm quan trọng thứ yêu”, trong khi sự xác định Các Yếu Tố Tương Liên Của Chiến Tranh như một sự tranh luận về chính sách cho thấy rằng lãnh thổ không phải là vấn đề trung tâm của sự bất đồng.  Bằng chứng hậu thuẫn vì thế sẽ nêu ý kiến rằng cuộc chiến tranh xảy ra do động lực xoắn ốc các vân đề hơn là chỉ đơn thuần  là một cuộc chiến tranh do ở tầm gay gắt về lãnh thổ.  Hơn nữa, một trường hợp bổ túc sẽ được trình bày một cách vắn tắt (Thái Lan – Việt Nam) để khảo sát rằng liệu các vòng xoắn ốc sự việc trong đó lãnh thổ không phải là một vấn đề gây tranh giành có khuynh hướng dẫn đến sự leo thang và chiên tranh hay không.
Trung Hoa – Việt Nam (cùng với Thái Lan – Việt Nam) là một trường hợp của “sự đối đầu chiến lược” (Thompson 2001).  Các đối thủ chiến lược nhìn kẻ kia như các kẻ cạnh tranh và kẻ thù (Colaresi và các tác giả khác 2008: 3-4).  Với sự hiện hữu của các nhận thức về kẻ thù giữa các quốc gia đối địch và sự phân loại vấn đề đối tranh được áp dụng trong dự án này, sự cẩn trọng cần phải được thi hành trong việc tổng quát hóa các sự khám phá bên ngoài các trường hợp của sự đối tranh (rivalry).  Tuy thế, các cuộc khảo cứu gần đây về sự xung đột về vấn đề đa chiều kich nêu ý kiến rằng điều không phải là khác thường cho các đối thủ tranh cãi nhau trên các vấn đề phức tạp.  Tám mươi hai đối thủ chiến lược đã tranh giành nhau trên nhiều hơn một loại vấn đề (các xác quyết về không gian, tư thế, ý thức hệ, và hàng hải) duy nhất (Dryer 2010). 10  Liên quan đến các vân đề địa chính trị (các xác quyết về lãnh thổ, sông ngòi, và hàng hải) tại Tây Bán Cầu và Tây Âu, có 66 trường hợp đối tranh trong đó có các xác quyết trên vấn đề đang tiếp diễn đa tầng phức tạp (Mitchell và Thies 2010).  Bằng chứng như thế nêu ý kiến rằng sự tích lũy vấn đề tương đối thông thường giữa các đối thủ quốc tế.  Chính vì thế, các sự khám phá từ trường hợp nghiên cứu điển hình có thể được tổng quát hóa đến một số lượng lớn các trường hợp khác về sự đối tranh.
Trường hợp Trung Hoa – Việt Nam (cũng như trường hợp Thái Lan – Việt Nam) cùng cung cấp sự biến thiên liên quan đến các biến số về quyền lợi.  Như cuộc thảo luận theo sau sẽ phát hiện, các quan hệ Trung Hoa – Vệt Nam đã biến đổi về số các vấn đề nằm dưới sự tranh cãi.  Liệu một sự bất đồng vấn đề đã trợ lực vào sự phát triển các bất đồng bổ túc hay không hay liệu các vấn đề mới xuất hiện độc lập với các bất đồng trước đây, bởi thế, có thể được lượng định hay không.  Trong sự liên quan đến mức độ thù nghịch, Trung Hoa và Việt Nam ở trong tình trạng hòa bình với nhau hồi đầu thập niên 1970, trải qua các cuộc đụng độ dọc biên giới hồi giữa thập niên 1970 (không leo thang thành chiến tranh toàn diên), và tham dự vào chiến tranh hồi cuối thập niên 1970, kết quả, Trung Hoa và Việt Nam đã trải qua các thời đại của các mức độ thù nghịch thấp, trung bình và cao, giúp cho việc thực hiện được một cuộc điều tra rằng liệu các mức độ thù nghịch có biến đổi liên quan đến số lượng các vấn đề nằm dưới sự tranh cãi hay không.
Một lý do cuối cùng để khảo sát trường hợp Trung Hoa – Việt Nam vì rằng câu hỏi tại sao Trung Hoa và Việt Nam đã tham dự vào chiến tranh chỉ 4 năm sau sự kết thúc Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhì tiếp theo sau các năm hợp tác vững chắc trước đó cấu thành một câu đó thực nghiệm.  Như đã ghi nhận nơi phần dẫn nhập, Trung Hoa và Việt Nam có vẻ như là các đồng minh chặt chẽ trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam.  Tìm cách để chứng thực cuộc cách mạng cộng sản của chính mình, Đảng Cộng Sản Trung Hoa đã tự cam kết với việc ủng hộ các phong trào cách mạng ngoài nước.  Sự ủng hộ của Trung Hoa và Liên Bang Sô Viết đã trợ lực cho Bắc Việt trong sự truy tìm của Bắc Việt sự thống nhất quốc gia và sự triệt thoái của Hoa Kỳ.  Các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam từ 1950 đến 1975 đã được mô tả như một “tình đồng chí mật thiết” (Womack 2006: 164-174).  Bất kể các mức độ hợp tác chặt chẽ trước đây, Trung Hoa và Việt Nam đã tham dự vào cuộc chiến tranh năm 1979.  Đâu là nguyên do khiến cho các quan hệ biến đổi một cách quyết liệt từ các đồng minh sát cánh thành các đối thủ trong chiến tranh?
Việc Này Dẫn Dắt Đến Việc Kia
      Như cuộc thảo luận theo sau sẽ phát hiện, Trung Hoa và Việt Nam tranh cãi trên nhiều vấn đề trong suốt thập niên 1970.  Các tranh chấp về tư thế bao gồm cả lời nguyền trung thành của Việt Nam được chuyển sang kẻ cạnh tranh chính yếu trong vùng của Trung Hoa – Liên Bang Sô Viết, và sự tranh giành liên quan đến việc thiết lập ảnh hưởng trên Căm Bốt.  Sự tranh giành không gian bao gồm các xác quyết đối chọi trên các khu vực biên giới, Vịnh Bắc Bộ, Quần Đảo Hoàng Sa, và Quần Đảo Trường Sa.  Trung Hoa và Việt Nam cũng tranh cãi trên một vấn đề căn cước trong đó Trung Hoa đã phản đối sự ngược đãi các cư dân gốc Trung Hoa tại Việt Nam.
Mặc dù Trung Hoa và Việt Nam có thể có vẻ đã là các đồng minh sát cánh trong suốt Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhì, các sự rạn nứt trong liên minh Trung Hoa – Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện trước khi có sự kết thúc chiến tranh.  Các quan hệ tiên khởi bị nhuốm bẩn bởi sự tranh giành tư thế trong đó người Việt Nam tin rằng Trung Hoa đã muốn duy trì sự phân chia Việt Nam hầu thống trị Đông Nam Á, và người Trung Hoa lo sợ một Đông Dương bị khống chế bởi một liên minh Sô Viết – Việt Nam.  Việt Nam bị tổn thương sâu xa bởi cuộc thăm viếng của [Tổng Thống  Mỹ] Richard Nixon tại Trung Hoa năm 1972.  Sự chuyển động tiến tới sự bình thường hóa các quan hệ giữa Trung Hoa và kẻ thù chính của Việt Nam, Hoa Kỳ, đã “làm mất tinh thần một cách nặng nề” đối với Hà Nội (Kissinger 1979: 711), và đã gây ra “tổn hại không thể sửa chữa” được cho các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam (Lo 1989: 69).  Người Việt Nam đã nhìn cuộc thăm viếng này như lần thứ nhì mà Trung Hoa đã “bán đứng” sự theo đuổi cuộc thống nhất và giải phóng hoàn toàn của Việt Nam (lần thứ nhất là Hội Nghị Geneva về Đông Dương trong năm 1954) (Lo 1989: 69).
Liên Bang Sô Viết tìm cách lợi dụng sự nguội lạnh trong các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam bằng cách mở rộng ảnh hưởng trên Hà Nội, làm phương hại đến Trung Hoa (Ray 1983: 50-54).  Các nhà lãnh đạo Sô Viết quả quyết rằng cuộc thăm viếng của Nixon tại Trung Hoa đã được thiết kế để phá hủy và phân hóa phe xã hội chủ nghĩa và rằng Trung Hoa đã tìm cách đạt đến một sự thỏa thuận với Hoa Kỳ đằng sau lưng người Việt Nam.  Sô Viết hứa hẹn sự “ủng hộ anh em” tiếp tục cho Hà Nội và Trung Hoa bắt đầu lo sợ về sự bao vây như một kết quả của sự hợp tác gia tăng giữa Sô Viết và Việt Nam (Gilks 1992:229).  Một hình ảnh kẻ thù Việt Nam đã bắt đầu được phát triển khi các nhà lãnh đạo Trung Hoa bày tỏ sự quan ngại cả về “chủ nghĩa bá quyền toàn cầu” của Sô Viết lẫn “chủ nghĩa bá quyền khu vực” của Việt Nam và bắt đầu nhìn Việt Nam như một lớp tuồng tạo lập “Cuba ở Châu Á” trong kế hoạch của Sô Viết nhằm thiết lập sự khống chế trên Đông Nam Á (Burton 1978-79:699-722; Ray 1983:84).
Tương tự, tại Việt Nam, một hình ảnh kẻ thù Trung Hoa đã khởi sự được củng cố.  Việt Nam đã cảnh cáo Trung Hoa, “Việt Nam là đất nước của chúng tôi; Trung Hoa không thể thảo luận vấn đề Việt Nam với người Mỹ.  Trung Hoa đã sẵn phạm phải một lỗi lầm năm 1954.  Đừng để phạm phải một lỗi lầm khác nữa” (được trích dẫn trong sách của Gilks 1992:84).  Sự bất chấp của Trung Hoa trước các ý nguyện của Việt Nam đã xác nhận các sự nghi ngờ của Việt Nam rằng Trung Hoa không thể nào tin cậy được.  Chính phủ Việt Nam, “nhận thức cuộc thăm viếng của Nixon như một hình vi phản bội không lường được và là bằng cớ chung cuộc về nghị trình quỷ quyệt hơn nhiều của  phía Mao Trạch Đông và giới lãnh đạo Trung Hoa.” (Mulvenon 1995).  Các bức ảnh chụp của Mao sau đó đã được gỡ bỏ khỏi các của hiệu tại Hà Nội và người gốc Hoa tại Việt Nam bị trông chừng với sự nghi ngờ gia tăng (Lo 1989:69).
Sự khởi phát cuộc tranh chấp vấn đề tư thế và sự đâm chồi các hình ảnh kẻ thù đã dẫn tới một sự tái lượng giá nguyên trạng liên quan đến sự dàn xếp lãnh thổ dọc theo biên giới và sự khởi phát các xác quyết về không gian.  Về mặt lịch sử, biên giới của Trung Hoa với Việt Nam thì vô định hình và các nhóm dân tộc ở cả hai bên đều thụ hưởng các quan hệ chặt chẽ (Kenny 2002:52).  Sau khúc ngoặt trong các quan hệ tiếp theo sau cuộc thăm viếng của Nixon tại Trung Hoa, các quan ngại mới nhận thấy liên quan đến an ninh lãnh thổ (Lo 1989:70) dẫn dắt các nhà lãnh đạo Trung Hoa đến việc tin tưởng rằng họ đã phải “ổn định hóa biên giới để làm cho Trung Hoa được an toàn hầu phát triển” (được trích dẫn trong sách của Kenny 2002:52).  Hà Nội đã tố cáo Trung Hoa về sự xâm phạm lãnh thổ và Trung Hoa đã tố cáo Việt Nam về việc tạo ra sự căng thẳng dọc theo biên giới (Lo 1989:70).  Các sự đụng độ được báo cáo đã xảy ra ngay từ 1973, năm theo sau cuộc thăm viếng của Nixon tại Trung Hoa (Turley và Race: 1980:70-72; Lo 1989:70-72; Nguyễn 2006:26).  Chỉ mãi cho tới sau khi Trung Hoa và Việt Nam khởi sự nhìn nước kia như kẻ thù, do sự tạo lập sự cạnh tranh tư thế, lúc đó bản chất khó xác định của biên giới mới bị nhìn như một mối đe dọa cho an ninh của mỗi quốc gia.
Cùng với sự cạnh tranh liên quan đến sự phác họa lãnh thổ dọc theo biên giới, Trung Hoa và Việt Nam cũng trở nên can dự vào sự cạnh tranh không gian liên quan đến Vịnh Bắc Bộ.  Trong Tháng Mười Hai năm 1973, Hà Nội loan báo, với sự khó chịu của Trung Hoa, ý định của Bắc Việt để khởi sự thăm dò dầu hỏa tại Vịnh (Chang 1986:24; Duiker 1986:60-61).  Sự tranh luận phần lớn bị thúc đẩy bởi sự ức đoán liên quan đến tiềm năng dầu hỏa trong khu vực (Hood 1992:122).  Sự tranh cãi lãnh thổ trên Vịnh sau này bị che khuất bởi các cuộc tranh chấp vấn đề lãnh thổ tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Hood 1992:129, 134).  Tuy nhiên, việc này đôi lúc che khuất sự kiện rằng cuộc tranh cãi về Vịnh Bắc Bộ đã góp phần vào sự phát triển của sự tranh giành trên quần đảo Hoàng Sa.
Hai bất đồng lãnh thổ xuất hiện vào lúc kết thúc Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhì, một trong đó là cuộc tranh chấp trên Quần Đảo Hoàng Sa.  Trong Tháng Một năm 1974, Trung Hoa đã chiếm giữ sự kiểm soát trên quần đảo Hoàng Sa tại Biển Nam Hoa (South China Sea) từ các binh sĩ Nam Việt Nam.  Mặc dù Hà Nội có phản đối sự chiếm giữ các đảo ở Hoàng Sa của Trung Hoa, một lời tuyên bố chính thức đã không được đưa ra cho mãi đến lúc kết thúc Cuộc Chiến Tranh Việt Nam (Lo 1989:85-90; Nguyễn 2006:26).  Sự chiếm giữ của Trung Hoa trên quần đảo Hoàng Sa một phần do việc lo sợ rằng Hà Nội sẽ tìm cách giành lấy sự kiểm soát trên các đảo bởi có các hành động xâm lấn của Bắc Việt liên quan đến các cuộc tranh cãi về biên giới trên đất liền và tại Vịnh Bắc Bộ.  Tác giả Lo (1989:72) lập luận rằng một “cảm giác khẩn cấp” bị “tiêm nhiễm bởi sự gia tăng các biến cố biên giới và sự xuất hiện một cuộc tranh cãi về sự phân chia Vịnh Bắc Việt”.  Hậu quả Trung Hoa đã hành động nhằm chặn đầu sự xác quyết của Hà Nội đối vói các đảo này (Burton 1978-79:707).
Trung Hoa cũng chiếm giữ các đảo một phần tìm cách dành được đòn bẩy lợi thế liên quan đến sự tranh giành tư thế của họ đối với Liên Bang Sô Viết và Việt Nam.  Sự kiểm soát trên các hòn đảo nâng cáo khả năng của Trung Hoa để ảnh hưởng đến các hoạt động trong miền qua việc mở rộng sự hiện diện của Trung Hoa thêm 200 dặm kể từ lục địa.  Việc này đã cung cấp cho họ một tiền đồn để theo dõi các hoạt động hải quân của Sô Viết và Việt Nam tại Biển Nam Hải (Hood 1992:129, 134) và ảnh hưởng trên một hải lộ quan trọng (Chen 1987:130).  Hơn nữa, Trung Hoa lo sợ các hậu quả tư thế của một sự chiếm giữ của Hà Nội trên quần đảo Hoàng Sa liên kết với sự hợp tác giữa Sô Viết và Việt Nam.  Tác giả Lo (1989:78) lập luận, “lý giải hợp lý nhất cho chiến dịch Hoàng Sa rằng nó cấu thành sự đáp ứng của Trung Hoa trước các sự thay đổi trong tình hình chiến lược của Biển Nam Hải.  Vào đầu thập niên 1970, mối quan ngại của Trung Hoa trước sự gia tăng trong ảnh hưởng của Sô Viết trong vùng, kể cả các hoạt động hải quân của Sô Viết tại Biển Nam Hải, đã tăng trưởng.  Trong khung cảnh này, giá trị chiến lược của các hòn đảo giữa đại dương, điều khiển các tuyến đường biển quan trọng, càng nổi bật lên.  Tình trạng suy đồi cùng lúc trong các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam và sự xuất hiện các cuộc tranh luận về lãnh thổ giữa hai nước đã nối kết các cuộc tranh cãi về Các Quần Đảo Hoàng sa và Trường Sa với sự quan ngại của Trung Hoa về mối đe dọa của Sô Viết đối với nền an ninh của Trung Hoa.  Chiến dịch Hoàng Sa đã được phóng ra để đón chặn bất kỳ khả tính tương lại nào của ảnh hưởng của Sô Viết trên các hòn đảo này xuyên qua sự hợp tác của Hà Nội”.  Hậu quả, Trung Hoa chiếm giữ Quần Đảo Hoàng Sa  một phần để nâng cao địa vị trong miền của họ và để ngăn chặn Việt Nam cùng Liên Bang Sô Viết khỏi việc dành đoạt được một lợi thế về tư thế xuyên qua sự kiểm soát của Việt Nam trên các hòn đảo và sự hợp tác của Sô Viết với Viêt Nam.
Sự bất đồng lãnh thổ thứ nhì xuất hiện giữa Trung Hoa và Việt Nam vào lúc kết thúc Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhì là cuộc tranh cãi về Quần Đảo Trường Sa.  Sàigòn nắm quyền kiểm soát trên năm điểm của Quần Đảo Trường Sa vào Tháng Tám năm 1973 (Kenny 2002:66; Fravel 2008:278), điều mà Trung Hoa có tuyên bố là “một sự vi phạm bừa bãi vào chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Hoa” (lo 1989:57).  Tiếp theo sau chiến dịch Hoàng Sa, Sàigòn đã nắm sự kiểm soát thêm nhiều địa điểm trong quần đảo Trường Sa.  Hà Nội bận tâm với Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhì vào lúc đó và đã không đưa ra một sự xác quyết chính thức trên quần đảo (Kenny 2002:66).  Tuy nhiên, vào lúc kết thúc cuộc chiến tranh hồi tháng Tư 1975, Hà Nội đã chiếm đóng quần đảo đưa đến sự khởi phát cuộc tranh chấp lãnh thổ của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với Trng Hoa trên Quần Đảo Trường Sa (Hood 1992: 125).
Tương như như cuộc tranh cãi về Quần Đảo Hoàng Sa, sự tranh giành trên Trường Sa một phần phát sinh từ các sự cứu xét về tư thế.  Việt Nam và Liên Bang Sô Viết mong muốn sự kiểm soát của Việt Nam trên quần đảo hầu nâng cao khả năng phóng chiếu sức mạnh vào vùng Biển Nam Hải (Lo 1989:78).  Sô Viết đã khuyến khích sự chiếm đóng các đảo ở Trường Sa bằng việc công bố các cuộc nghiên cứu chính phủ tiên đoán rằng có các số dự trữ dầu hỏa khổng lồ nằm dưới các hòn đảo (Kenny 2002:66) và qua việc cung cấp cho Việt Nam sự ủng hộ ngoại giao liên quan đến sự tuyên xác này (Chen 1987:110).  Sự chiếm cứ các hòn đảo cũng là một “sự đáp ứng” với chiến dịch Hoàng Sa của Trung Hoa (Womack 2006:182), và hậu quả cũng đã xuất hiện một phần là do ở sự tranh giành trên vấn đề lãnh thổ đã được thiết định trước đây.
Một sự tranh chấp vấn đề tư thế thứ nhì đã xuất hiện trong năm 1975 trong đó Trung Hoa và Việt Nam khởi sự cạnh tranh ảnh hưởng trên Căm Bốt (Kampuchea) (Ross 1988:244).  Cả hai Việt Nam lẫn Trung Hoa đều có các lãnh tụ ưu ái của mình tại Phnom Penh là các kẻ thân thiện với các quyền lợi của đất nước của họ.  Khi Khmer Đỏ nắm giữ quyền hành tại Căm Bốt năm 1975, chế độ mới tạo lập các quan hệ chặt chẽ với Trung Hoa.  Các nhà lãnh đạo Kampuchea tìm kiếm sự trợ giúp của Trung Hoa nhằm bảo vệ Căm Bốt chống lại kế họach bị cáo giác của Việt Nam “nhằm sáp nhập Căm Bốt vào trong một đế quốc Đông Dương mới” (được trích dẫn trong sách của Ray 1983:67-68).
Sự mong ước của Trung Hoa về các quan hệ chặt chẽ và một chế độ thân Trung Hoa tại Căm Bốt phát sinh từ mục tiêu nhằm ngặn chặn Việt Nam và Liên Bang Sô Viết khỏi việc dành đoạt được một thế thượng phong liên quan đến sự tranh giành tư thế của Trung Hoa với liên minh Sô Viết – Việt Nam.  Sự thiết lập các quan hệ thân thiện của Trung Hoa với Khmer Đỏ đã đặt ra các giới hạn trên ảnh hưởng của Việt Nam và Sô Viết tại Đông Nam Á.  Chặn đầu sự kiểm soát của Trung Hoa trên Căm Bốt đã trợ lực vào mục đích ngăn chặn sự bao vây (Ross 1988:246).
Hơn nữa, sự tranh giành lãnh thổ, góp phần vào việc tạo ra một bàu không khí tâm lý của sự lo sợ và không tin cậy, khiến mỗi quốc gia trông chừng các ý định của nước kia về Kampuchea.  Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã kết luận rằng “sự khăng khăng của Trung Hoa về một thẩm quyền chuyên độc đối với tất cả các hòn đảo tại Biển Nam Hải” (cùng với sự từ chối của Trung Hoa không chịu chấp nhận di sản của chế độ thực dân Pháp) “hàm ý một cách rõ ràng rằng Bắc Kinh đã không thừa nhận một tư thế chế ngự của Việt Nam tại Lào hay Kampuchea”.  Các nhà lãnh đạo Trung Hoa cảm thấy rằng các cuộc tranh chấp lãnh thổ của Việt Nam với Trung Hoa và Kampuchea “bộc lộ các kế hoạch bành trướng của Hà Nội trong vùng”, đã góp phần cho sự quan ngai của Trung Hoa về các ý định của Việt Nam liên quan đến Kampuchea (Chang 1986:45-46).
Trong khi bắt nguồn ngay lúc khởi đầu từ các quan ngại về không gian và tư thế, sự đối tranh của Trung Hoa vớiViệt Nam sau này cũng bị thúc đẩy bởi cuộc xung đột trên vấn đề căn cước trong đó Trung Hoa phản kháng sự ngược đãi người gốc Trung Hoa (người Hoa) sinh sống tại Việt Nam.  Các chính sách của Việt Nam đối với người Hoa bao gồm cả việc chiếm đoạt các tài sản, bác bỏ quyền được lựa chọn quốc tịch một cách tự nguyện của cá nhân, cắt giảm khẩu phần, hạn chế việc làm, áp đặt các sắc thuế cao khác thường, giết hại, trục xuất cưỡng bách, v.v… (Amer 1991).  Mặc dù sự vi phạm các quyền của người Hoa đã khởi sự sớm hơn, Trung Hoa đã không nêu vấn đế một cách chính thức (có nghĩa, về mặt ngoại giao) cho đến năm 1978 (Benoit 1981:50; Cima 1989:219).
Cuộc tranh cãi căn cước khởi sinh một phần từ một sự tái lượng giá nguyên trạng tiếp theo sau sự thiết định Trung Hoa và Việt Nam như các đối thủ.  Trong lúc Việt Nam trước đó đã không nhìn người Hoa như một sự đe dọa cho nền an ninh của Việt Nam, khi Trung Hoa và Việt Nam đã khởi sự nhìn kẻ kia như kẻ thù, Việt Nam lo ngại rằng Trung Hoa sẽ dựa vào người Hoa như một “đội quân thứ năm” tìm cách phá hoại thẩm quyền chính phủ địa phương trong trường hợp có chiến tranh với Trung Hoa.  Các quan ngại như thế góp phần vào các biện pháp khắc nghiệt được thi hành chống lại người Hoa và sự trục xuất họ khỏi Việt Nam (Elliot 1981:10-11; Ross 1988:241).
Tranh chấp về vấn đề căn cước phát sinh một phần, hơn nữa, từ việc Việt Nam tìm cách dành đoạt được đòn bẩy trên sự tranh cãi về biên giới.  Trong năm 1977, Việt Nam đã thiết chế một chính sách “thanh lọc” dọc theo biên giới trong đó mọi cư dân Trung Hoa và phi-Việt Nam tại các khu vực biên giới bị trục xuất khỏi Việt Nam theo lý luận rằng nếu chỉ có riêng người gốc Việt Nam cư ngụ tại các khu vực biên giới tranh cãi, điều đó sẽ làm tiêu trừ tính chính đáng trong các lời tuyên xác về biên giới của Trung Hoa (Chang 1986:45; Chen 1987:49).  Các cuộc tống xuất cưỡng bách như thế góp phần vào sự phát triển cuộc tranh cãi về căn cước, là vấn đề cuối cùng được tích lũy giữa Trung Hoa và Việt Nam trong thập niên 1970.
Sự khảo sát các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam trong suốt thập niên nêu ý kiến rằng một sự bất đồng trên vấn đề có khuynh hướng góp phần vào sự phát triển một vấn đề khác.  Hình 1 trình bày theo tuàn tự trong đó các vấn đề được tích lũy lại.  Các quan hệ tiên khởi bắt đầu bị suy đồi bởi có sự tranh giành tư thế giữa Sô Viết / Việt Nam và Trung Hoa trong đó Việt Nam tin rằng Trung Hoa mong muốn Việt Nam vẫn còn bị chia cắt và ở vào một tư thế phục tùng đối với Trung Hoa tại Đông Nam Á, trong khi Trung Hoa lo sợ sự khống chế trong vùng và sự bao vây của Sô Viết – Việt Nam.  Sự khởi sinh của cuộc tranh chấp trên vấn đề tư thế và sự phát triển xuất hiện về một hình ảnh kẻ thù của “kẻ kia” đưa đến một sự tái lượng giá nguyên trạng liên quan đến biên giới và sự khởi sinh cuộc tranh chấp về vấn đề không gian.  Một cuộc tranh luận trên Vịnh Bắc Việt cũng đã xuất hiện, và cuộc tranh giành trên biên giới đất liền và tại vùng Vịnh đưa đến việc Trung Hoa có hành động nhằm ngăn chặn Hà Nội không dành được sự kiểm soát trên quần đảo Hoàng Sa.  Hơn nữa, Trung Hoa tìm cách dành đoạt một lợi thế liên quan đến sự tranh giành tư thế với liên minh Sô Viết – Việt Nam bằng cách nâng cao khả nâng của họ để phóng chiếu sức mạnh vào vùng Biển Nam Hải và bằng việc ngăn chặn uy thế được nâng cao của Sô Viết – Việt Nam xuyên qua chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và sự hợp tác của Sô Viết với Việt Nam.  Sự chiếm đóng của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trên quần đảo Trường Sa, một cách tương tự, phát sinh từ các quan ngại về tư thế liên quan đến khả năng được nâng cao để ảnh hưởng đến các hoạt động trong vùng và như một “sự đáp ứng” đối với chiến dịch Hoàng Sa của Trung Hoa.
                          Vấn Đề                                                                               Năm Phát Sinh
Tư thế: Cạnh Tranh Việt Nam/Sô Viết – Trung Hoa                              1972
Không Gian: Biên Giới Đất Liền                                                                        1973
Không Gian: Vịnh Bắc Việt                                                                                  1973
Không Gian: Quần Đảo Hoàng Sa                                                                     1975
Không Gian: Quần Đảo Trường sa                                                                     1975
Tư Thế: Căm Bốt                                                                                 1975
Căn Cước: Vi Phạm Các Quyền Của Hoa Kiều                                                              1978
Hình 1: Sự Tích lũy Vấn Đề Giữa Trung Hoa và Việt Nam
(Ghi chú: Mỗi vấn đề vẫn còn nắm dưới sự tranh giành từ lúc phát sinh cho đến cuộc chiến tranh năm 1979).
     Cuộc tranh cãi tư thế thứ nhì, liên can đến ảnh hưởng đôi với Căm Bốt, phát sinh từ sự tranh giành tư thế đã thiết định trước đây giữa Trung Hoa và Việt Nam/Sô Viết trong đó Trung Hoa hy vọng để giới hạn ảnh hưởng của liên minh trên vùng Đông Nam Á và ngăn chặn sự bao vây.  Hơn nữa, sự tranh giành lãnh thổ, làm cho cả Trung Hoa lẫn Việt Nam trở nên nghi ngờ các ý định của “kẻ kia” đối với Kampuchea.  Sau cùng, cuộc tranh cãi về căn cước phát sinh do một sự tái lượng giá nguyên trạng liên can đến sự hiện diện đông đảo của người gốc Trung Hoa tại Việt Nam tiếp theo sau sự tạo lập các hình ảnh kẻ thù và cũng từ việc Việt Nam tìm cách dành đoạt được đòn bẩy trên cuộc tranh cãi về biên giới.
Sự phân tích trong phần này khiến ta nghĩ rằng sự thiết định một bất đồng trên vấn đề có thể góp phần vào sự phát triển các sự tranh giành trên vấn đề bổ túc.  Phần kế tiếp khảo sát các hậu quả của việc có nhiều vấn đề phức tạp trên nghị trình cùng một lúc sau khi việc này đã dẫn dắt đến việc kia.  Có phải sự thiết lập các sự bất đồng trên các vấn đề mới làm căng thẳng các quan hệ liên quan đến các bất đồng đã được thiết lập trước đây hay không?  Có phải các vấn đề mới phát sinh từ các sự bất đồng trước đó mang một tầm quan trọng riêng tư của chúng? Có phải sự tranh giành trên các vấn đề đa diện phức tạp góp phần vào sự bùng nổ của chiến tranh?
Sự Leo Thang Thành Chiến Tranh
      Liên can đến Trung Hoa và Việt Nam, sự thiết lập các bất đồng trên các vấn đề mới làm tệ hơn các quan hệ liên quan đến các cuộc tranh chấp trên các vấn đề đã được thiếp lập trước đó.  Một khi cuộc tranh cãi biên giới xuất hiện, Việt Nam đã nhận được “sự ủng hộ hoàn toàn” của Liên Bang Sô Viết, đã chuyển giao trang bị quân sự cho Việt Nam và đã khiển trách Trung Hoa về các sự đột nhập ở biên giới (Chen 1992:144).  Liên quan đến cuộc tranh cãi lãnh thổ ở Biển Nam Hải, tương tự, Việt Nam đã hướng đến Liên Bang Sô Viết để có sự ủng hộ (Rich 2003:481-482).  Sự hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn giữa Việt Nam và Liên Bang Sô Viết trên các vấn đề lãnh thổ đã nâng cao sự quan ngại của Trung Hoa về chính sách bá quyền trong miền tiềm ẩn của Sô Viết / Việt Nam và hậu quả là sự tranh giành tư thế được tăng cường.
Hành động của Việt Nam liên quan đến Vịnh Bắc Việt và một cách tương tự với người Hoa làm gia tăng sự lo âu của Trung Hoa về tiềm năng cho sự thông đồng Sô Viết – Việt Nam.  Trong một sự ám chỉ được che dấu một cách mỏng manh đến Liên Bang Sô Viết, các nhà lãnh đạo Trung Hoa đã đòi hỏi rằng “không một nước thứ ba nào được phép để thực hiện cuộc thăm dò tại Vịnh Bắc Bộ (Tonkin)” (được trích dẫn trong sách của Lo (1989:72).  Liên quan đến sự ngược đãi của Việt Nam đối với người Hoa, phía Trung Hoa tuyên bố rằng “đàng sau mọi bước tiến chống lại Trung Hoa được thực hiện bởi nhà chức trách Việt Nam là bóng dáng to lớn của chủ nghĩa đế quốc Sô Viết” (được trích dẫn troong sách của Rich 2003:482).  Các cuộc tranh cãi về Vịnh Bắc Việt và căn cước làm gia tăng sự nghi ngờ của Trung Hoa rằng Việt Nam đang hành động như một tác nhân đại diện của Liên Bang Sô Viết trong sư mưu tìm quyền thống trị trong vùng của Sô Viết / Việt Nam.
Hơn nữa, cuộc tranh cãi về căn cước đã làm trầm trọng hơn các quan hệ liên quan đến sự tranh cãi biên giới đã được thiết lập trước đó.  Như đã ghi nhận bên trên, vấn đề căn cước phát sinh một phần từ chính sách của Việt Nam nhằm trục xuất các cư dân phi Việt Nam khỏi các khu vực biên giới tranh chấp.  Lúc khu vực biên giới được khai quang, các vụ bạo động đã gia tăng khi người Trung Hoa toan tính duy trì sự kiểm soát trên đất đai tranh chấp.  Trong khi Việt Nam tìm cách giải quyết vấn đề biên giới bằng cách trục xuất người gốc Trung Hoa, các hành động như thế thay vào đó lại càng làm gia tăng sự kháng cự của Trung Hoa và đưa đến một sự leo thang dọc theo biên giới (Chen 1987:49-50).
Sự tranh giành trên các vấn đề tranh cãi đã gia tăng trong các tháng trước khi có chiến tranh.  Các vụ đụng chạm ở biên giới dâng cao và các con số người Hoa bị trực xuất khỏi Việt Nam gia tăng.  Liên Bang Sô Viết và Việt Nam đã ký kết một liên minh chính thức, Bản Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác, vào ngày 2 Tháng Mười Một năm 1978, có vẻ xác nhận các sự lo sợ của Trung Hoa liên can đến sự bao vây xuyên qua sự hợp tác giữa Sô Viết – Việt Nam.  Cuộc tranh đấu trên Căm Bốt diễn ra trước khi có cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Kampuchea vào ngày  Giáng Sinh 1978.  Chưa đầy hai tháng sáu đó, Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam khởi sự.
Sự leo thang của các quan hệ đi theo một khuôn mẫu tổng quát trong đó khi các vấn đề được tích lũy, các quan hệ càng trở nên chua chát..  Các vụ động độ ở biên giới đã khởi sự trong năm 1973 và gia tăng trong các năm tiếp nối (Chen 1987:49-50) tương ứng với sự tạo lập của các sự tuyên xác các vấn đề bổ túc.  Tại điểm nơi đó Trung Hoa và Việt Nam tham dự vào chiến tranh năm 1979, có đến bẩy vấn đề trong nghị trịnh  Tác giả Womack (2006:192) lập luận rằng các vấn đề đã dẫn đến Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam bao gồm, “liên minh của Việt Nam với Liên Bang Sô Viết, cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt trong Tháng Mười Hai năm 1978, sự ngược đãi và trục xuất người gốc Trung Hoa của Việt Nam, và các sự tranh cãi về lãnh thổ”.  Lập luận này tương ứng với các vấn đề được xác định trong cuộc phân tích này – hai vấn đề về tư thế (sự cạnh tranh của Sô Viết / Việt Nam và Căm Bốt), vấn đề căn cước (sự ngược đãi người Hoa), và các sự tuyên xác lãnh thổ trái ngược nhau (biên giới trên đất liền, Vịnh Bắc Việt, Quần Đảo Hoàng Sa, và Quần Đảo Trường Sa).  Các học giả khác xác định cùng một loạt các vấn đề trợ lực vào sự sụp đổ của các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam (Burton 1978-79; Duiker 1986; Kenny 2002).  Sự phân tích nơi đây do đo phù hợp với các tài liệu trình bày lịch sử của cuộc chiến tranh.
Mỗi bất đồng trên vấn đề góp phần vào sự bùng nổ của cuộc tranh chấp được quân sự hóa.  Các tranh cãi về vấn đề tư thế chắc chắn là có tầm quan trọng.  Sự tranh giành tư thế của Trung Hoa với Việt Nam và Liên Bang Sô Viết là vấn đề được tạo dựng đầu tiên cho sự tranh giành (từ đó các vấn đề bổ túc xuất hiện) và cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt đã là một chất xúc tác cho sự bùng nổ cuộc tranh chấp quân sự hóa quan trọng.  Tuy nhiên, các nhà học giả nhấn mạnh rằng các vần đề kia cùng có tầm quan trọng.  Amer (1999:99) lập luân, thí dụ, rằng mặc dù điều được giả định trước đây là cuộc tranh giành ảnh hưởng trên Căm Bốt đã là lý do quan trọng cho tình trạng thoái hóa của các quan hệ rằng “rất nhiều phần là Trung Hoa và Việt Nam sẽ không nhận định ảnh hưởng của phía bên kia tại Căm Bốt và Lào một cách quá tiêu cực đến thế, nếu các quan hệ song phương của họ đã không sẵn bị căng thẳng trên các vấn đề khác”.  Burton (1978-79:720) lập luận tương tự rằng mặc dù yếu tố Sô Viết và các sự tranh cãi về Căm Bốt là các nguyên do quan trọng cho cuộc chiến, “sẽ là điều sai lầm trong việc đánh thấp ý nghĩa của các cuộc tranh cãi về lãnh thổ và biên giới, vấn đề Hoa kiều hải ngoại, và các biến số nội tại khác”.
Khác với việc nhấn mạnh đến tầm quan trọng của một vấn đề cá biệt dẫn đến Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam, các sự tường thuật lịch sử có nhấn mạnh rằng cuộc tranh chấp là do có sự tranh giành trên nhiều vấn đề đa diện phức tạp.  Tác giả Pike (1989:258) mô tả cuộc chiến tranh như phát sinh từ điều mà Trung Hoa đã xem như là “một loạt các hành động và chính sách khiêu khích về phía hà Nội”.  Burton (1978-79:720) nói rằng “các vấn đề liên can đến cuộc tranh chấp Trung Hoa – Việt Nam có nhiều và phức tạp”.  Duiker (1986:89) tin rằng “rõ ràng đã có nhiều yếu tố can dự vào sự sụp đổ trong các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam”.  Một cuộc thảo luận về chiến tranh viện dẫn đến một cách ngôn của Trung Hoa rằng “cần hơn một ngày để tích lũy ba bộ Anh (feet) đá băng” (Lawson 1984:311), phù hợp với ý niệm rằng chính sự chồng chất dần dần các sự bất đồng về các vấn đề phức tạp sau rốt đã dẫn đến chiến tranh.
Cùng với việc làm gia tăng và tăng cường độ sự lo sợ và không tin tưởng, sự tích lũy vấn đề đã làm tăng thêm các vốn liếng của cuộc tranh giành giữa Trung Hoa và Việt Nam.  Các lợi lộc tiềm ẩn đối với Trung Hoa trong việc tham dự vào cuộc chiến – đẩy lùi bước tiến của Việt Nam tại Căm Bốt, giảm thiểu ảnh hưởng của Việt Nam và Sô Viết tại Đông Nam Á, bảo đảm chủ quyền trên các lãnh thổ tranh chấp, và bảo vệ người gốc Trung Hoa sinh sống tại Việt Nam – cao hơn nhiều so với trước đây khi chỉ có một vấn đề duy nhất hay ít vấn đề nằm dưới sự tranh giành.  Sự tích lũy các vấn đề làm gia tăng các lợi lộc tiềm ẩn của việc tham dự vào chiến tranh, nhiều phần làm gia tăng ý muốn của Trung Hoa để gánh chịu các phí tổn của chiến tranh tìm kiếm sự giải quyết vân đề thuận lợi xuyên qua sự áp đặt vũ lực.
Khi Việt Nam xâm lăng Căm Bốt, Trung Hoa đã lo sợ rằng sự thiếu sót không bày tỏ quyết tâm cũng sẽ dẫn dắt Việt Nam đẩy mạnh các đòi hỏi của nó trên các vấn đề khác nữa.  Nhiều tài liệu lịch sử khác về cuộc chiến có nhấn mạnh đến ý định được tuyên bố của Trung Hoa là để “dạy cho Việt Nam một bài học” (Duiker 1986; Cima 1989; Ross 1991:1172; Chen 1992:150-151; Hood 1992:50; Amer 1999:72).  Các nhà lãnh đạo Trung Hoa hy vọng sẽ chứng tỏ rằng Trung Hoa “không thể bị coi thường” (được trích dẫn trong sách của Garrett 1981:211) và rằng “bất kỳ sự thách đố nào đối với quyền lực của Trung Hoa tại Đông Dương sẽ thất bại” (nhân mạnh thêm, Ross 1991:1172) trong các sự hy vọng về việc ngăn chặn hơn nữa các nỗ lực của Việt Nam việc tái xét tinh trạng của bất kỳ vấn đề nào.  Sự thất bại để trừng trị Việt Nam về việc đưa ra sự tuyên xác tư thế của nó liên quan đến Căm Bốt có thể đã dẫn (Trung Hoa lo sợ) đến các thách đố bổ túc trên các vân đề khác đang nằm dưới sự tranh giành.
Không phải chỉ riêng bản chất gai góc đặc biệt của sự tranh giành lãnh thổ (Vasquez 1993) đã một mình dẫn dắt đến cuộc chiến tranh Trung Hoa – Việt Nam.  Mặc dù các vần đề không gian đóng giữ một vai trò trong sự leo thang các quan hệ như đã thảo luận, các vấn đề khác cũng quan trọng như thế, nếu không phải còn quan trọng hơn, các tuyên xác về lãnh thổ.  Tác giả Kenny (2002:53) lập luận rằng liên minh của Việt Nam với Liên Bang Sô Viết, cuộc xâm lăng vào Căm Bốt, và sự ngược đãi người Hoa là “các nguyên do chính yếu” của cuộc chiến tranh trong khi các vấn đề lãnh thổ đóng một “vai trò thứ yếu”.  Sự sắp loại Các Yếu Tố Tương Liên Của Chiến Tranh cho Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam như một sự tranh chấp về “chính sách” (Jones và các tác giả khác, 1996), một cách tương tự, chỉ cho thấy tầm quan trọng của sự tranh giành phi lãnh thổ liên quan đến sự leo thang thành chiến tranh.
Hơn nữa, có các trường hợp các vòng xoắn ốc sự việc leo thang thành chiến tranh trong đó lãnh thổ không phải là một vấn đề của sự tranh giành.  Thí dụ, sự tham dự vào cuộc tranh giành tư thế và sự tích lũy sự tranh chấp về vấn đề ý thức hệ đi trước sự can dự của Thái Lan vào Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhì.  Phần kế tiếp tái duyệt một cách ngắn gọn các động lực xoắn ốc sự việc trong khung cảnh của cuộc tranh giành phi lãnh thổ giữa Thái lan và Việt Nam.

Sự Can Dự Của Thái Lan vào Cuộc Chiến Tranh Việt Nam
      Trong một thời kỳ tiên khởi của sự đối đầu trong các thế kỷ thứ mười tám và mười chín (Thompson 2001), Thái Lan (Xiêm La) và Việt Nam tranh giành ảnh hưởng trên Căm Bốt và Lào (Seekins 1990:14-15; Dommen 1994:3).  Cuộc tranh giành như thế bị xẹp xuống khi Pháp thay thế Xiêm La như một quyền lực thống trị trong vùng và tạo lập ra cái gọi là Liên Bang Đông Dương bao gồm Căm Bốt, Lào, và Việt Nam hồi cuối thế kỷ thứ mười chín (Buttinger 1972:63; Savada 1994:xxx).  Song Xiêm La vẫn giữ các tham vọng về việc thiết lập quyền bá chủ trong vùng.  Trong Thế Chiến II, xuyên qua sự trợ giúp của Nhật Bản, Thái Lan đã có thể thu hồi tam thời một số sự kiểm soát đã mất đi của nó trên Lào và Căm Bốt từ Pháp (Wilson 1970:26-30; Seekins 1989:29-30).  Tiếp theo sự kết thúc chiến tranh, Thái Lan khởi sự để tái thiết mình mình như “kẻ đứng đầu trong số các dân tộc độc lập” tại Đông Nam Á (Nuechterlein 1965:94, 138).  Đặc biệt hy vọng dành lại ảnh hưởng trên Lào và Căm Bốt, Thái Lan đã ủng hộ một mưu toan đảo chính tại Lào, cung cấp cho chính quyền của Sihanouk tại Căm Bốt các vũ khí và đạn dược, và đã đề xuất một sự thống hợp các nước Lào, Căm Bốt, và Thái Lan (Fineman 1997).
Tuy nhiên, Việt Nam cũng có các khát vọng lãnh đạo trong vùng.  Kể từ thập niên 1930, Đảng Cộng Sản Đông Dương chủ trương sự thành lập một biên bang giữa Căm Bốt, Lào, và Việt Nam.  Điều này được phát biểu sau năm 1951 như một mục đích của công tác tiến tới sự thành lập một “mối quan hệ đặc biệt” thời hậu giải thực (after decolonization) trong đó Việt Nam sẽ lãnh đạo một liên bang Đông Dương bao gồm cả Căm Bốt và Lào (Duiker 1986:65-66; Pike 1987:206; Cima 1989:214).
Cùng với sự cạnh tranh liên can đến sự lãnh đạo trong vùng, Thái Lan và Việt Nam đã trở thành các kẻ cạnh tranh về ý thức hệ tiếp theo sau sự thành lập của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa như một quốc gia cộng sản trong năm 1954.  Các nhà lãnh đạo Thái được thuyết phục rằng Trung Hoa và bắc Việt Nam Cộng Sản đặt ra các sự đe doa lớn lao nhất cho nền an ninh quốc gia của họ. (Nuechterlein 1965:139).  Các sự lo sợ về uy thế Việt Nam được nâng cao xuyên qua sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Nam Á thúc đẩy Thái Lan hoạt động hướng đến việc ngăn cản sự thiết lập các chế độ cộng san/ bổ túc trong vùng.  Thí dụ, vào năm 1960, Thủ Tướng Thái Lan Sarit Thanarat kết luận rằng sự thất bại trong việc thiết lập một chế độ chống cộng sản tại Lào sẽ làm cho Lào rơi vào các khu vực ảnh hưởng của Trung Hoa và Bắc Việt Nam (Nuechterlein 1965).  Hậu quả, Thái Lan ủng hộ các nỗ lực để dựng lên một chế độ thân thiện về mặt ý thức hệ tại Lào hầu ngăn chặn Việt Nam khỏi việc dành đoạt được đòn bẩy trên sự cạnh tranh về tư thế xuyên qua sự làn tràn hơn nữa chủ nghĩa cộng sản tại Đông Nam Á.
Tiềm năng cho sự thống nhất Việt Nam dưới chế độ cộng sản mâu thuẫn với các mục đích ý thức hệ của Thái lan và sẽ nâng cao uy thế trong vùng của Việt Nam.  Cả các lời tuyên xác về ý thức hệ lẫn tư thế đo đó bị lâm nguy.  Hơn nữa, điều được tin tưởng rằng sự thành công của Bắc Việt có thể tạo ra một hiệu ứng dây chuyền (domino effect) trong đó có thêm các quốc gia trong vùng sẽ rơi vào tay cộng sản chủ nghĩa (Weatherbee 2008:112).  Cuộc chạm trán quân sự hóa có thể làm nản lòng hơn nữa các mưu toan tương lai của chủ nghĩa xét lại trong đó Việt Nam sẽ tìm kiếm một cách táo bạo các mục đích ý thức hệ và tư thế bằng việc tuyên truyền rằng sẽ có các tổn phí gắn liền với một thái độ như thế.
Thái Lan trở nên dính líu một cách trực tiếp trong Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhì, đóng góp hơn 11,000 binh sĩ cho nỗ lực quân sự ở đỉnh cao nhất của sự can dự tại Việt Nam (Weatherbee 2008:350).  Sự vắng bóng sự tranh chấp lãnh thổ giữa Thái Lan và Việt Nam chứng tỏ rằng chiến tranh có thể xảy ra do các vòng xoắn ốc sự việc ngay dù có sự vắng mặt của sự tranh giành về lãnh thổ.  Tương tự như Cuộc Chiến Tranh Trung Hoa – Việt Nam, sự dính líu của Thái Lan vào Chiến Tranh Việt Nam là do sự tranh giành trên các vấn đề đa diện phức tạp và từ sự lo sợ về các hậu quả nếu không biểu lộ quyết tâm.

Kết Luận
       Các quốc gia tranh giành trên một loat các vấn đề.  Các học giả đã khảo sát các sự khác biệt xuyên suốt các vấn đề liên quan đến xác xuất của sự tranh chấp được quân sự hóa và đã xác định rằng các sự tranh cãi về lãnh thổ có nhiều khả tính để leo thang thành chiến tranh hơn là các sự tranh cãi về chính sách hay chế độ (Hensel 1996; Vasquez và Henehan 2001; Senese và Vasquez 2008; Vasquez và Valeriano 2008).  Sự khảo cứu như thế chứng tỏ rằng có sự hữu dụng để khảo sát sự biến đổi vấn đề liên quan đến sự cạnh tranh liên quốc gia.
Song thay vì chiến tranh trên một vấn đề này hay vấn đề kia, chiến tranh đôi khi có thể là kết quả của một tiến trình năng động trong đó các vấn đề đa diện phức tạp được tích lũy theo thời gian.  Nó có thể là sự cạnh tranh trên vấn đề nhiều kích thước hơn là sự cạnh tranh trên một loại vấn đề cá biệt có kuynh hướng dẫn đến chiến tranh.  Trong cuộc nghiên cứu này, điều được lập luận rằng chiến tranh đôi khi là kết quả của một vòng xoắn ốc sự việc – một tiến trình năng động trong đó sự căng thẳng gia tăng khi các vấn đề phức tạp tích dồn lại.  Sự thiết lập sự bất đồng trên vấn đề và sự phát triển một hình ảnh kẻ thù về “nước khác” có thể dẫn dắt các quốc gia hành xử một cách gây hấn về các vấn đề mới hầu dành đoạt được một lợi thế trên đối thủ của một nước hay để ngăn cản “nước khác” không được hành động như thế.  Các hành động như thế góp phần vào sự củng cố nhận thức rằng “nước khác” có các ý định thù nghịch liên quan đến các sự bất đồng đã được tạo dựng lên trước đây.  Các vấn đề mới cũng có thể phát sinh khi mà sự phát triển hình ảnh kẻ thù đưa đến một sự tái lượng giá nguyên trạng.  Khi các vấn đề chồng chất, sự căng thẳng gia tăng và các quốc gia có thể kết luận rằng “nước khác” là vấn đề chính trong việc giải quyết mọi sự bất đồng.  Sự tích lũy vấn đề cũng làm gia tăng các vốn liếng đặt vào cuộc cạnh tranh và hậu quả làm gia tăng sự sẵn lòng của các quốc gia để tham dự vào chiến tranh bởi tiềm năng của việc đạt được các lợi lộc nâng cao.  Tìm cách để biểu lộ quyết tâm, một quốc gia có thể khởi động cuộc tranh chấp quân sự hóa trên quy mô rộng lớn phản ứng lại một đối thủ đưa ra các đòi hỏi của nó trên một vấn đề nhằm ngăn cản sự tham dự sâu xa hơn vào thái độ xét lại của một nước cạnh tranh trên các vấn đề khác nằm dưới sự tranh chấp.
Sự phân tích các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam trong thập niên 1970 hỗ trợ cho các ước vọng của quan điểm vòng xoắn ốc sự việc.  Các sự bất đồng trên vấn đề có khuynh hướng góp phần vào sự phát triển các bất đồng bổ túc.  Sự cạnh tranh tư thế của Trung Hoa với Việt Nam và Liên Bang Sô Viết dẫn đến sự phát triển các sự tranh cãi về Quần Đảo Hoàng sa và Quần Đảo Trường Sa trong đó mỗi bên tìm cách gia tăng khả năng của mình để ảnh hưởng các hoạt động trong vùng xuyên qua việc nâng cao sự hiện diện của họ tại Biển Nam Hải.  Hơn nữa, Trung Hoa tham dự vào chiến dịch Hoàng Sa để chặn đường Việt Nam khỏi việc mở rộng chủ quyền lãnh thổ sau khi Việt Nam đã tiết lộ các tham vọng lãnh thổ gây hấn của nó (như nhận thức bởi Trung Hoa) do các sự tranh luận về Vinh Bắc Việt và biên giới trên đất liền trước đây.  Tưong tự, sự chiếm đóng của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trên quần đảo Trường Sa một phần là để ngăn chặn sự giành giựt lãnh thổ hơn nữa của Trung Hoa sau chiến dịch Hoàng Sa.
Sự cạnh tranh trên Căm Bốt xuất hiện một phần bởi cả Trung Hoa và liên minh Sô Viết – Việt Nam tìm cách dành đoạt đòn bẩy trên cuộc tranh chấp về vấn đề tư thế đã được tạo dựng lên trước đây.  Mỗi bên cũng nghi ngờ các ý định của bên kia về Kampuchea do các sự bất đồng về lãnh thổ.  Tranh cãi về căn cước cũng xuất hiện một cách tương tự một phần từ các sự bất đồng trước đây trong đó Việt Nam đã toan tính để dành đoạt một lợi thế trong cuộc tranh chấp biên giới trên đất liền bằng cách trục xuất người gốc Trung Hoa ra khỏi các khu vực tranh cãi.
Các vấn đề mới cũng xuất hiện một phần do sự tái lượng giá nguyên trạng tiếp theo sau sự tạo dựng lên các hình ảnh kẻ thù.  Biên giới vô định hình đã không bị nhìn như rắc rối đặc biệt cho đến sau khi có sự suy sụp trong các quan hệ tiếp theo sự xuất hiện của sự cạnh tranh về tư thế và sự phát triển một tình trạng đối tranh.  Sự hiện diện đông đảo của người gốc Trung Hoa tại Việt Nam một cách tương tư cũng không bị nhìn là đe dọa đặc biệt cho đến sau khi Trung Hoa và Việt Nam khởi sự nhìn nhau như kẻ thù và các nhà lãnh đạo Việt Nam lo sợ rằng người Hoa có thể làm phương hại đến an ninh nội bộ trong trường hợp có chiến tranh với Trung Hoa.
Sự thiết lập các bất đồng mới đã góp phần vào tình trạng suy sụp của các quan hệ liên quan đến các vấn đề đã được dựng lên trước đây.  Khi các bất đồng về lãnh thổ xuất hiện, Việt Nam đã hướng đến Liên Bang Sô Viết để có sự ủng hộ, theo đó càng tăng cường các nỗi lo sợ của Trung Hoa liên can đến sự bao vây và làm tăng cường độ cho sự cạnh tranh tư thế.  Chính sách của Việt Nam về việc trục xuất các cư dân phi Việt Nam tại các khu vực tranh cãi, hơn nữa, đã góp phần cho sự leo thang các quan hệ dọc theo biên giới (có nghĩa, sự gia tăng cường độ của cuộc tranh cãi về biên giới).
Các quan hệ Trung Hoa – Việt Nam đi theo một khuôn mẫu tổng quát trong đó các mức độ thù nghịch gia tăng khi các vấn đề đuợc tích lũy lại.  Trung Hoa và Việt Nam đã ở vào tình trạng hòa bình với nhau hồi đầu thập niên 1970.  Các cuộc đụng độ ở biên giới đã khởi sự trong năm 1973 và đã gia tăng về cường độ và tần số khi các vấn đề chồng chất nhau.  Bẩy vấn đề đã ở trên nghị trình khi Trung Hoa và Việt Nam sau hết đã tham dự vào chiến tranh trong năm 1979.
Các vấn đề mới phát sinh từ các bất đồng trước đây mang một tầm quan trọng cho tự bản thân chúng một khi được thiết lập và mỗi sự bất đồng trên vấn đề đều đã đóng phần vào sự bùng nổ của chiến tranh.  Khác hơn cuộc xung đột quân sự hóa chính yếu trên một vấn đề cá biệt, các vấn đề tư thế, lãnh thổ, và căn cước đều đã tiếp sức cho tình trạng suy sụp của các quan hệ.  Sự tích lũy các vấn đề đã không chỉ làm gia tăng sự căng thẳng, nó cũng còn làm gia tăng các lợi lộc tiềm ẩn của sự chiến thắng cuộc chiến, nâng cao sự sẵn lòng của Trung Hoa để phát khởi cuộc xung đột quân sự hóa.
Khi sự căng thẳng và tính hợp lý của việc tham dự vào cuộc xung đột quân sự hóa quy mô gia tăng do động lực xoắn ốc các sự việc, Trung Hoa đã khởi động cuộc chiến tranh để “dạy cho Việt Nam một bài học” tiếp theo sau cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt.  Sự thiếu sót không biểu lộ quyết tâm trên một vấn đề gai góc có thể mời gọi đối thủ của một nước đưa ra các sự đòi hỏi của nó trên các vấn đề bổ túc.  Trong việc phát khởi chiến tranh, Trung Hoa đã tìm cách biểu lộ rằng các toan tính để xét lại sẽ gặp thất bại nhằm làm nản lòng Việt Nam khỏi việc đẩy ra các sự tuyên xác của nó trên các vấn đề khác cũng đang nằm duơi sự tranh chấp.
Sự phân tích nêu ý kiến rằng khác hơn việc khảo sát cuộc xung đột quân sự hóa từ một quan điểm tĩnh và trong sự liên quan với vấn đề có tầm quan trọng chính yếu đang bị đe dọa rằng có thể đôi khi cần đến việc khảo sát các quan hệ liên quốc gia năng động và cuộc tranh chấp trên vấn đề đa chiều kích.  Lập luận của tôi phù hợp với “kiểu mẫu núi lửa: volcano model” của sự đối địch bền bỉ trong đó sự căng thẳng được xây đắp (khi các vấn đề chồng chất lên nhau) cho đến khi có một sự phát nổ (sự bùng nổ cuộc tranh chấp quân sự hóa nghiêm trọng) (Goerts và Diehl 1998; Diehl và Goertz 2000:168-172).  Điều này tương hợp với một khuôn mẫu gia tăng hay lồi (phình) ra của sự tiến hóa tình trạng đối đầu trong đó các mức độ thù nghịch gia tăng với thời gian hay gia tăng tới một điểm sau đó sự đối đầu “tàn lụi đi” (Diehl và Goertz 2000:169-172).  Sự tích lũy vấn đề diễn ra một cách mau chóng trên sự thiết lập tình trạng đối đầu có thể giúp vào việc giải thích các trường hợp tranh chấp được quân sự hóa và chiến tranh diễn ra gần với sự phát sinh tình trạng đối đầu, sau đó các mức độ thù nghịch có thể trồi sụt quanh một mức độ đối đầu căn bản ngăn cấm sự tích lũy hơn nữa.
Quan điểm vòng xoắn ốc sự việc chiếu sáng tầm quan trọng của việc giải quyết các bất đồng khởi thủy một cách mau chóng với xác xuất rằng sự thiếu sót để làm như thế sẽ dẫn tới sự tích lũy các vấn đề thêm nữa, sự leo thang, và cuộc xung đột được quân sự hóa.  Một khi một vòng xoắn ốc đã được vặn cho chuyển động, bởi các mức độ gia tăng của sự thù nghịch và không tin tưởng, xác xuất ngày càng trở nên số không cho sự thành công của bất kỳ cuộc điều giải nào.  Nếu các nỗ lực điều giải tiên khởi thất bại, có thể chỉ sau cuộc xung đột bền bỉ và sự thất bại để giải quyết các vấn đề xuyên qua các sự sử dụng vũ lực, khi đó các quốc gia có thể mới đi đến sự kết luận rằng sự thỏa hiệp đáng được mong ước hơn là sự tiếp tục cuộctranh chấp (Grieg 2001).
Sự gai góc của vấn đề có thể ảnh hưởng đến xác xuất rằng một vòng xoắn ốc sự việc sẽ leo thang thành chiến tranh.  Dự án ICOW đã phát triển các biện pháp để đo lường các mức độ gai góc hữu hình và vô hình cho các vấn đề địa chính trị (Hensel và Mitchell 2005).  Cuộc xung đột quân sự hóa nhiều phần xảy ra hơn trên các sự tuyên xác địa chính trị có độ gai góc cao hơn các sự tuyên xác về địa chính trị ít gai goc hơn (Hensel và các tác giả khác 2008).  Phát triển các phương thức để đo lường sự gai góc của các vấn đề phi lãnh thổ sẽ cần thiết để khảo sát trọn vẹn các ảnh hưởng của sự gai góc của vấn đề trên động lực của các vòng xoắn ốc sự việc trong đó các quốc gia cạnh tranh trên cả các vấn đề lãnh thổ lẫn phi lãnh thổ.
Cùng với việc phát triển các phương cách thêm nữa để khảo sát sự gai góc của vấn đề, có các đường lối khác cho sự khảo sát tương lai.  Nhiều câu hỏi vẫn còn chưa được trả lời, bao gồm, điều gì gây ra sự tạo dựng lên một sự bất đồng trên vấn đề ban đầu? Các chiến lược nào mà các quốc gia có thể sử dụng để ngăn chặn sự tích lũy các vấn đề? Làm sao các quốc gia có thể quản trị một cách hiệu quả các tuyên xác tiếp diễn phức tạp? Các câu hỏi này và các câu hỏi khác sẽ cần được nhắm đến hầu tiến bước tới một sự hiểu biết đầy đủ hơn không chỉ các nguyên do của sự tranh chấp, mà còn cả các điều kiện cần thiết cho sự thiết lập nền hòa bình bền vững./-

_____
CHÚ THÍCH:
1. Trung Hoa loan báo rằng họ đã triệt thoái các lực lượng vào ngày 5 Tháng Ba, nhưng giao tranh tiếp diễn cho đến khi sự triệt thoái được hoàn tất vào ngày 17 Tháng Ba.  Xem Pike (1987: 220-221).
2. Một vấn đề được xác định cho mỗi quốc gia liên quan đến mỗi cuộc tranh chấp từ 1816 đến 1992.  Đến hai vấn đề được ghi ám hiệu cho mỗi quốc gia liên quan đến mỗi cuộc tranh chấp từ 1993 đến 2001.  Xem Ghosn và các tác giả khác.
3. Tương tự, Wendt (1999) lập luận rằng việc trình bày “nước khác” như một kẻ thù có thể dẫn đến các quốc gia có các quyền lợi trên nguyên trạng (status quo) hành động như các nước xét lại dựa trên nguyên tắc “giết hay bị giết chết”.
      Leng (1983) lập luận rằng các quốc gia “học được” rằng phải trả giá khi tham dự vào hành vi cưỡng bách trên các cuộc khủng hoảng tái diễn nhiều lần.  Tuy nhiên, các nước tranh đua, có thể hành động một cách xâm lấn trước khi có sự khai mào của cuộc khủng hoảng mà đối thủ của một nước có thể dành được ưu thế trên một vấn đề mới nếu họ không hành động phủ đầu.  Tác phong như thế có thể dẫn đến các cuộc khủng hoảng trong đó sự điều hành khủng hoảng kém có thể góp phần làm trầm trọng hơn nữa các quan hệ.
4. Thí dụ, sự đối tranh giữa Chile và Peru (Thompson 2001), bắt đầu như một cuộc tranh giành tư thế trong năm 1832 tập trung vào sự cạnh tranh trên việc thiết lập sự chế ngự chính trị và thương mại vùng Duyên Hải Thái Bình Dương (Pacific Coast) (Collier 2003: 51-52) với sự tranh chấp về không gian (spatial conflict) liên can đến miền Tacna-Arica trong Sa Mạc Atacama Desert (Dennis 1931) sau này chồng chất lên.
5. Các nhà lãnh đạo chính trị có thể lo sợ rằng các cá nhân cùng chủng tộc của một đối thủ có thể biến thành “đội quân thứ năm”.  Trên sự hòa dịu các quan hệ giữa Trung Hoa và Thái Lan tiếp theo sau sự thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, thí dụ, các nhà lãnh đạo Thái Lan đã bày tỏ sự quan ngại rằng nhóm dân thiểu số Trung Hoa tại Bangkok có thể tham gia vào hoạt động khuynh đảo (Shinn 1989: 214).  Các sự lo sợ như thế có để dẫn đến hay trợ lực cho sự trấn áp.  Sự trấn áp tập thể người Việt Nam tại Căm Bốt dưới thời trị vì của Pol Pot, thí dụ, được khẳng định một phần trên việc loại trừ các kẻ thù có thể trở thành đội quân thứ năm tìm cách phá hoại hay lật đổ chế độ (Nguyen-Vo 1992: 83).  Sự đối xử vô nhân đạo đối với người Việt Nam tại Căm Bốt đã trở thành một nguồn gốc của sự va chạm ngoại giao giữa Căm Bốt và Việt Nam, dẫn đến cuộc xâm lăng của Việt Nam trong năm 1978 (Haas 1991: 59).
6.  Sự chồng chất của sự tranh chấp lãnh thổ giữa các nước đối tranh dành tư thế đã xảy ra, thí dụ, giữa Chile và Peru (như được ghi nhận trong chú thích số 4) ngay trước khi có cuộc Chiến Tranh Thái Bình Dương (War of the Pacific).
7. Một quốc gia nhấn mạnh các đòi hỏi của nó trên một vấn đề khi đang có các sự bất hòa đa tầng phức tạp tiếp diễn ít có xác xuất khiêu dẫn một sự đáp ứng quân sự hóa nếu vấn đề tranh cãi ít gai góc hơn.
8. Tới hai vấn đề được ghi ám hiệu cho một quốc gia liên quan đến mỗi vụ tranh chấp từ 1993 đến 2001.  Xem Ghosn và các tác giả khác (2004).
9. Đường hướng nghiên cứu này đã chứng tỏ rằng có các sự khác biệt theo kinh nghiệm, quan trọng giữa các sự đối tranh về tư thế và không gian.  Thí dụ, sự đối tranh tư thế nhiều phần dẫn đến chiến tranh với một nước khác qua việc nối kết với một tranh chấp đang tiếp diễn, trong khi các cuộc chiến tranh giữa các đối thủ về không gian có khuynh hướng bao gồm cả hai [sự việc] (dyadic) hơn (Colaresi và các tác giả khác 2008).
10. Có chín mươi mốt cuộc tranh giành bị thúc đẩy bởi một loại vấn đề duy nhất.
***
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Amer, Ramses (1991) The Ethnic Chinese in Vietnam and Sino-Vietnamese Relations.  Kuala Lumpur: Forum.
Amer, Ramses. (1999) Sino-Vietnamese Relations: Past, Present and Future.  Trong quyển Vietnamese Foreign Policy in Transition, đồng chủ biên bởi Carlyle A. Thayer và Ramses Amer.  New York: St. Martin’s Press.
Benoit, Charles.  (1981) Vietnam’s ‘Boat People.  Trong quyển The Third Indochina Conflict, chủ biên bởi David W. P. Elliot, Boulder: Westview Press.
Ben-Yehuda, Hemda.  (2004) Territoriality and War in International Crises: Theory and Findings, 1918-2001.  International Studies Review 6 (4): 85-105.
Burton, Bruce.  (1978-79) Contending Explanations of the 1979 Sino-Vietnamese War.  International Journal 34: 699-722).
Buttinger, Joseph.  (1972) A Dragon Defiant: A Short History of Vietnam.  New York: Praeger.
Chang, Pao-Min.  (1986) The Sino-Vietnamese Territorial Dispute.  Washington, DC: Center for Strategic Studies.
Chen, King C.  (1987) China’s War with Vietnam, 1979: Issues, Decisions, and Implications.  Stanford: Hoover Institution Press.
Chen, Min. (1992) The Strategic Triangle and Regional Conflict: Lessons from the Indochina Wars.  Boulder: Lynne Rienner.
Cima, Ronald J.  (1989) Government and Politics.  Trong quyển Vietnam: A Country Study, biên tập bởi Ronald J. Cima, Washington, DC: Headquarters, Dept. of the Army.
Colaresi, Michael P., Karen Rasler, and William R. Thompson.  (2008) Strategic Rivalries in World Politics: Position, Space and Conflict Escalation.  Cambridge: Cambridge University Press.
Collier, Simon.  (2003) Chile: the Making of a Republic, 1830-1865.  Cambridge: Cambridge University Press.
Dennis, William Jefferson.  (1931) Tacna and Arica: An Account of the Chile-Peru Boundary Dispute and of the Arbitration by the United States.  New Haven: Yale University Press.
Dommen, Arthur J.  (1994) Historical Setting: Trong quyển, Laos: A Country Study, biên tập bởi Andrea Matles Savada.  Washington, DC: Headquarters, Dept. of the Army.
Dryer, David R.  (2010) Issue Conflict Accumulation and the Dynamics of Strategic Rivalry.  International Studies Quarterly 54 (3): 781-797.
Duiker, William.  (1986) China and Vietnam: The Roiots of Conflict.  Berkeley: University of California Press.
Elliot, David W. P.  (1981) The Third Indochina Conflict: Introduction.  Trong quyển The Third Indochina Conflict, biên tập bởi David W. P. Elliot.  Boulder: Westview Press.
Fineman, Daniel.  (1997) A special Relationship: The United States and Military Government in Thailand, 1947-1958.  Honolulu: University of Hawai’i Press.
Finlay, David J., Ole R. Holsti, and Richard R. Fagen.  (1967) Enemies in Politics.  Chicago: Rand-McNally.
Fravel, Taylor.  (2008) Strong Borders Secure Nation: Cooperation and Conflict in China’s Territorial Disputes.  Princeton: Princeton University Press.
Garrett, Banning.  (1981) The Strategic Triangle and the Indochina Crisis.  Trong quyển The Third Indochina Conflict, biên tập bởi David W. P. Elliot.  Boulder: Westview Press.
Ghosn, Faten, Glenn Palmer, and Stuart Bremer.  (2004) The MID3 Data Set, 1993-2001: Procedures, Coding Rules, and Description.  Conflict Management and Peace Science 21 (2): 133-154.
Gilks, Ann.  (1992) The Breakdown of the Soviet-Vietnamese Alliance.  Berkeley: Institute of East Asian Studies.
Goertz, Gary, and Paul F. Diehl.  (1998) The Volcano Model and Other Patterns in the Evolution of Enduring Rivalries.  Trong quyển The Dynamics of Enduring Rivalries, biên tập bởi Paul F. Diehl.  Urbana: University of Illinois Press.
Grieg, J. Michael.  (2001) Moments of Opportunity: Sources of Ripeness for International Mediation Between Enduring Rivals.  Journal of Conflict Resolution 45 (6): 691-718.
Haas, Michael.  (1991) Genocide by Proxy: Cambodian Pawn on a Superpower Chessboard.  New York: Praeger.
Hensel, Paul R.  (1996) Charting a Course to Conflict: Territorial Issues and Interstate Conflict, 1816-1992.  Conflict Management and Peace Science 15 (1): 43-73.
Hensel, Paul R.  (2000) Territory: Theory and Evidence on Geography and Conflict.  Trong quyển What Do We Know About War?, biên tập bởi John A. Vasquez.  Lanham: Rowman and Littlefield.
Hensel, Paul R.  (2001) Contentious Issues and World Politics: The Management of Territorial Claims in the America, 1816-1992.   International Studies Quarterly 45 (1): 81-109.
Hensel Paul R., and Sara McLaughlin Mitchell.  (2005) Issue Indivisibilty and Territorial Claims.  GeoJournal 64 (4): 275-285.
Hensel Paul R., Sara McLaughlin Mitchell, Thomas E. Sowers II, and Clayton L. Thyne.  (2008) Bones of Contention: Comparing Territorial, Maritime, and River Issues.  Journal of Conflict Resolution 52 (1): 117-143.
Holsti, Ole R.  (1962) The Belief System and national Images: A Case Study.  Journal of Conflict Resolution 6 (3): 244-252.
Holsti, Ole R.  (1967) Cognitive Dynamics and Images of the Enemy.  Journal of International Affairs 21 (1): 16-39.
Hood, Steven J.  (1992) Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War.  Armonk: M. E. Sharpe.
Huth, Paul K. and Tođ L. Allee.  (2002) The Democratic Peace and Territorial Conflict in the Twentieth Century.  New York: Cambridge University Press.
Jervis, Robert.  (1976) Perception and Misperception in International Politics.  Princeton: Princeton University Press.
Jervis, Robert, Richard Ned Lebow, and Janice Gross Stein.  (1985) Psychology and Deterrence.  Baltimore: John Hopkins University Press.
Jones, Daniel M., Stuart A. Bremer, and J. David Singer.  (1996) Militarized Interstate Disputes, 1816-1992: Rationale, Coding Rules, and Empirical Patterns.  Conflict Management and Peace Science 15 (2): 163; 216.
Kenny, Henry.  (2002) Shadow of the Dragon: Vietnam’s Continuing Struggle with China and the Implications for U.S. Foreign Policy.  Washington, DC: Brassey’s.
Kissinger, henry.  (1979) The White House Years.  Boston: Little, Brown.
Lawson, Eugene K.  (1984) The Sino-Vietnamese Conflict.  New York: Praeger.
Leng, Russell J. (1983) Will They Ever Learn? Coercive Bargaining in Recurrent Crises.  Journal of Conflict Resolution 27 (3): 379-419.
Lo, Chi-Kin.  (1989) China’s Policy Towards Territorial Disputes: The Case of the South China Sea Islands.  London: Routledge.
Mansbach, Richard W. , and John A. Vasquez.  (1981) In Search of Theory: A New Paradigm for Global Politics.  New York: Columbia University press.
Mitchell, Sara McLaughlin, and Cameron G. Thies.  (2010) Issue Rivalries.  Conflict Management and Peace Science.  Sắp phát hành.
Morgenthau, Hans.  (1948) Politics Among Nations: The Struggle for Power and Peace.  New York: Random House.
Mulvenon, James.  (1995) The Limits of Coercive Diplomacy: the 1979 Sino-Vietnamese Border War, Journal of Northeast Asian Studies 14 (3): 68-89.
Nguyên, Lien-Hang T.  (2006) The Sino-Vietnamese Split and the Indochina War, 1968-1975.  Trong quyển The Third Indochina War: Conflict between China, Vietnam and Cambodia, 1972-79, đông biên tập bởi Ođ Arne Westad và Sophie Quinn-Judge.  London: Routledge.
Nguyễn-Võ, Thu-Hương.  (1992) Khmer-Viet Relations and the Third Indochina Conflict.  Jefferson: McFarland & Company.
Nuechterlein, Donald E.  (1965) Thailand and the Struggle for Southeast Asia.  Ithaca: Cornell University.
Pike, Douglas.  (1987) Vietnam and the Soviet Union: Anatomy of an Alliance.  Boulder: Westview.
Pike, Douglas.  (1989) National Security.  Trong quyển Vietnam: A Country Study, biên tập bởi Ronald J. Cima, Washington, DC: Headquarters, Dept. of the Army.
Ray, Hemen.  (1983) China’s Vietnam War.  New Delhi: Radiant.
Rich, Norman.  (2003) Great Power Diplomacy Since 1914.  New York: McGraw Hill.
Rider, Toby J.  (2009) Understanding Arms Race Onset: Rivalry, Threat, and Territorial Competition.  Journal of Politics 71 (2): 693-703.
Ross, Robert S.  (1988) The Indochina Triangle: Vietnam Policy, 1975-1979.  New York: Columbia University Press.
Ross, Robert S.  (1991) China and the Cambodian Peace Process: the Value of Coercice Diplomacy.  Asian Survey 31 (12): 1170-1185.
Russett, Bruce, and John R. O’Neal.  (2001) Triangulating Peace: Democracy, Interdependence , and International Organizations.  New York: W. W. Norton.
Savada, Andrea Matles.  (1994) Introduction.  Trong quyển, Laos: A Country Study, biên tập bởi Andrea Matles Savada.  Washington, DC: Headquarters, Dept. of the Army.
Seekins, Donald M.  (1989) Historical Setting.   Trong quyển Thailand: A Country Study, biên tập bởi Barbara Leitch Lepoer..   Washington, DC: Headquarters, Dept. of the Army.
Seekins, Donald M.  (1990) Historical Setting.   Trong quyển Cambodia: A Country Study, biên tập bởi Russell R. Ross.   Washington, DC: Headquarters, Dept. of the Army.
Senese, Paul D.  (1996) Geographical Proximity and Issue Salience: Their Effects on the Escalation of Militarized Conflict.  Conflict Management and Peace Science 15 (2): 133-161.
Senese, Paul D. and John . Vasquez.  (2008) The Steps to War: An Empirical Study.  Princeton: Princeton University Press.
Shinn, Rinn-Sup.  (1989) Government and Politics.  Trong quyển Thailand: A Country Study, biên tập bởi Barbara Leitch Lepoer..   Washington, DC: Headquarters, Dept. of the Army.
Silverstein, B., and R. R. Holt.  (1989) Research on Enemy Images: Present Status and Future Prospects.  Journal of Social Issues 45 (2): 159-175.
Thompson, William R.  (1995) Principal Rivalries.  Journal of Conflict Resolution 39 (2): 195-223.
Thompson, William R.  (2001) Identifying Rivals and Rivalries in World Politics.  International Studies Quarterly 45 (4): 557-586.
Turley, William S., and Jeffrey Race.  (1980) The Third Indochina War.  Foreign Policy 38 (Spring): 92-116.
Vasquez, John A.  (1993) The Steps to War.  Cambridge: Cambridge University Press.
Vasquez, John A., and Mary T. Henehan.  (2001) Territorial Disputes and the Probability of War, 1816-1992.  Journal of Peace Research 38 (2): 123-138.
Vasquez, John Ạ, and Brandon Valeriano.  (2008) Territory as a Source of Conflict and a Road to Peace.  Trong quyển Sage Handbook on Conflict Resolution, đồng biên tập bởi Jacob Bercovitch, Victor Kremenyuk and I. William Zartman.  Newbury Park: Sage Publications.
Walter, Barbara F.  (2003) Explaining the Intractability of Territorial Conflict.  International Studies Review 5 (4): 137-153.
Weatherbee, Donald E.  (2008) Historical Dictionary of United States – Southeast Asia Relations.  Lanham: The Scarecrow Press.
Wendt, Alexander.  (1999) Social theory of International Politics.  Cambridge: Cambridge University Press.
Wilson, David A. (1970) The United States and the Future of Thailand.  New York: Praeger.
Womack, Brantly.  (2006) China and Vietnam: The Politics of Asymmetry.  Cambridge: Cambridge University Press.
____
Nguồn: David R. Dreyer, One Issue Leads to Another: Issue Spirals and the Sino-Vietnamese War, Foreign Policy Analysis (2010) 6, 297-315.

 Ngô Bắc dịch và phụ chú
13/12/2010

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét