Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 11 tháng 1, 2014

Dân chủ, minh bạch và …”tha hóa”- Liên quan đến những sai phạm của Thiếu tướng Trần Văn Vệ: Vụ Trung ương 1A, Ủy ban Kiểm tra Trung ương làm việc với Báo Người cao tuổi

Liên quan đến những sai phạm của Thiếu tướng Trần Văn Vệ: Vụ Trung ương 1A, Ủy ban Kiểm tra Trung ương làm việc với Báo Người cao tuổi

http://baophapluat.vn/dataimages/201208/original/images660388_206610_400.jpg
Thiếu tướng Trần Văn Vệ
Với những sai phạm nghiêm trọng của ông Trần Văn Vệ, diễn ra trong thời gian làm Giám đốc Công an tỉnh Thái Bình và thời kì ông chuyển công tác lên Bộ Công an năm 2010, Báo Người cao tuổi có loạt bài điều tra phản ánh, đồng thời kiến nghị xử lí nghiêm theo pháp luật. Tuy nhiên, ông Vệ không những không chịu hình thức kỉ luật nào, trái lại còn được thăng hàm từ Đại tá lên Thiếu tướng, hiện giữ chức Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Quản lí Hành chính về Trật tự An toàn xã hội (Tổng cục VII) Bộ Công an. Vì thế, nhiều cựu chiến binh, người cao tuổi và độc giả cả nước gửi nhiều ý kiến bất bình, khiến Tổng Biên tập Báo Người cao tuổi có văn bản kiến nghị Chủ tịch nước, Chủ nhiệm Ủy Ban Kiểm tra Trung ương (UBKTTW) và Viện trưởng VKSND Tối cao xem xét.
Thực hiện ý kiến của lãnh đạo ủy ban kiểm tra Trung ương về ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, chiều 13/11/2013, ông Nguyễn Quang Đạo, Phó Vụ trưởng và ông Nguyễn Văn Nhụ, Kiểm tra viên cao cấp thuộc Vụ Trung ương 1A, UBKTTW đã có cuộc làm việc với Báo Người cao tuổi tại trụ sở của Báo (12 Lê Hồng Phong, Ba Đình, Hà Nội). Sau khi nghe ông Nguyễn Quang Đạo tóm tắt 12 nội dung thông tin cần nắm bắt, nhà báo Nguyễn Trọng Thắng (tác giả loạt bài “Ma thuật của một Đại tá Công an”) bổ sung thêm nhiều thông tin về các sai phạm của ông Trần Văn Vệ, trong đó nhấn mạnh việc ông Vệ lập hồ sơ giả cho vợ là bà Bùi Thị Kim Liên hưởng lương hưu và gửi bảo hiểm xã hội. Mặc dù sai phạm đã bị xử lí năm 2007, nhưng năm 2009 ông Vệ tiếp tục giả mạo hồ sơ cho bà Liên giả danh Phó Tổng Giám đốc “tháp tùng” Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan trong chuyến đi Mỹ và Mê-hi-cô. Ông Vệ còn dùng thủ đoạn thâu tóm tài sản của Công an tỉnh Thái Bình: Bán nhà công vụ Công an tỉnh và trụ sở Công an huyện Đông Hưng cho Ngân hàng CP Đông Á của anh trai ông Vệ là Trần Văn Đình sử dụng trái mục đích… Vụ chuyển trụ sở Công an tỉnh ra bãi tha ma Trần Lãm – Kỳ Bá trái với quy hoạch của TP Thái Bình, để nâng lợi thế, giá trị kinh doanh chia lô bán nền đất tại Khu đô thị Trần Lãm, do em trai ông Vệ là ông Trần Văn Kỳ làm chủ đầu tư, đã bán xong 650 lô nền đất, thu ước tính khoảng 650 tỉ đồng, có dấu hiệu trốn thuế, Thanh tra Cục Thuế Thái Bình đã làm rõ, truy thu 10,883 tỉ đồng, tỉnh đã thành lập Đoàn Thanh tra liên ngành thanh tra toàn diện Dự án Khu đô thị Trần Lãm. Thanh tra Cục Thuế sẽ thanh tra tiếp, có thể truy thu thêm nhiều tỉ đồng nữa… Ngoài ra, nhà báo Nguyễn Trọng Thắng còn thông tin thêm dư luận ở Thái Bình về mối quan hệ bất chính của ông Trần Văn Vệ…
Ông Nguyễn Quang Đạo cho biết, do ông Trần Văn Vệ là Phó Tổng cục trưởng, nên căn cứ Quyết định số 67-QĐ/TW ngày 4/7/2007 của Bộ Chính trị ban hành quy định về phân cấp quản lí cán bộ thì thuộc thẩm quyền xử lí của Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương, không thuộc thẩm quyền của UBKTTW. Vụ Trung ương 1A chỉ thực hiện nhiệm vụ nắm bắt tình hình và đề xuất. Theo đó, Vụ Trung ương 1A đã dự thảo báo cáo, đề xuất UBKTTW chuyển kiến nghị của Tổng Biên tập Báo Người cao tuổi đến Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương giải quyết, trả lời Báo Người cao tuổi, đồng thời làm căn cứ để báo cáo Chủ tịch nước. Tổng Biên tập Kim Quốc Hoa cho biết, ngoài văn bản số 3088 BCA-V24 ngày 5/11/2010 Bộ Công an gửi Bộ Thông tin và Truyền thông, Báo Người cao tuổi không nhận được phản hồi từ phía Bộ Công an. Ông Trần Văn Vệ cũng chưa chịu bất cứ hình thức kỉ luật nào, trong khi chỉ với 2 việc khai man hồ sơ cho vợ hưởng chế độ và “giả danh” để cùng Phó Chủ tịch nước đi nước ngoài ông Vệ đã không xứng đáng đứng trong ngành Công an chứ nói gì còn được phong tướng, gây bức xúc cho dư luận. “Giải quyết như vậy chúng tôi chưa thông. Nếu lãnh đạo Bộ Công an đối thoại, chúng tôi sẵn sàng để làm rõ sai phạm của ông Vệ để xử lí nghiêm theo pháp luật” – Tổng Biên tập Kim Quốc Hoa nói thêm.
PV
(Người Cao tuổi)

Dân chủ, minh bạch và …”tha hóa”

Quyền lực trong thời đại kim tiền này có nguy cơ luôn “cặp kè” với sự tha hóa. Sự tha hóa phẩm cách giờ đây không còn là chuyện riêng biệt, phạm vi một cá nhân, hai cá nhân…

I-Năm 2014 vừa mở màn, còn hơn 03 tuần nữa mới sang năm Giáp Ngọ, nhưng có những sự kiện gây sự chú ý lớn và có những vụ việc “chạy” còn nhanh hơn … vó ngựa. 

Sự kiện lớn đó là thông điệp đầu năm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với cái tiêu đề ấn tượng: “Đổi mới thể chế, phát huy quyền làm chủ của dân” (VNN, ngày 01/01). 
Công bằng mà nói, những nội dung lớn của thông điệp: Dân chủ và nhà nước pháp quyền, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp, xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại.… không quá mới mẻ. Vì những tư duy kiểu này đã hiện diện đây đótrong quá trình trao đổi, góp ý cho việc sửa đổi Hiến pháp 1992. Nhưng nó mới mẻ bởi chính thức được vị quan chức đứng đầu Chính phủ phát ngôn, tạo nên dư chấn rộng và đa chiều. Người tin tưởng kẻ hoài nghi, người ủng hộ, kẻ phản biện. 
“Cú hích” của tư duy đó là thực tiễn đất nước, mà những cải cách trước đây tạo ra đã không còn đủ mạnh để thúc đẩy phát triển
Trong quá khứ lịch sử, loài người đã từng chứng kiến những bài học trả giá đắng cay của một quốc gia khổng lồ, bởi sự tự tin và chủ quan ấu trĩ về sự vững bền của hình thái xã hội, coi thường sự điều chỉnh, thay đổi để thích ứng quy luật phát triển. Bài học của nhân loại không bao giờ thừa.
Còn với nước Việt, đổi mới thể chế, phát huy quyền làm chủ của dân, từ lâu đã là tiếng gọi khẩn thiết của đời sống đương đại, của một xã hội nhiều khát vọng hướng tới hội nhập hiện đại, nhưng những bước đi dường như vẫn bị …lúng túng, không vượt lên nổi chính mình. Bởi tư duy xơ cứng, bảo thủ,  hay bởi những nhóm lợi ích ngấm ngầm ngăn cản? Hay là tất cả?
Liệu lần này, thông điệp đó có là chiếc chìa khóa vàng mở cửa cho những giải pháp còn chen chúc đâu đó trong những “hộp đen” tri thức?
Có rất nhiều giải pháp rồi đây sẽ được đưa ra, nhưng chắc chắn sự đổi mới thể chế, xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại không thể thiếu được hai yếu tố mang tính “phẩm cách” căn cốt. Đó là dân chủ và sự minh bạch. Cả hai phẩm cách vàng này là thước đo văn minh, là tiêu chí phân biệt xã hội lạc hậu hay tiến bộ, phát triển hay tụt hậu. 
Ở cả hai tiêu chí đó, xã hội Việt đang đứng ở đâu?
Người viết chú ý bài trả lời phỏng vấn của GS Lưu Văn Đạt, Chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn dân chủ – pháp luật MTTQVN với báo Pháp Luật TP.HCM (ngày 06/01) mới đây dưới đầu đề: Xóa dần e ngại trong góp ý phản biện.
Phản biện là nêu chính kiến góp ý cho một chủ trương, chính sách Nhà nước. Vậy tại sao ngay trí thức, tầng lớp tinh hoa xã hội- đối tượng được GS Lưu Văn Đạt đề cập trong bài, cũng rất e ngại, e dè sự phản biện, mà GS Lưu Văn Đạt cho rằng, đó cũng là sự lãng phí chất xám, khi họ thường chỉ phản biện ở nơi… ‘trà dư tửu hậu” với bạn bè.  
Phải chăng, nói như GS Lưu Văn Đạt, có người nghĩ phản biện là phản đối, là tiêu cực.
Xét cho cùng, tâm lý đó là hệ lụy sâu xa của một tư duy quản lý từ thời bao cấp, với cơ chế xin- cho ban phát. Ở đó, có không ít cấp quản lý chính quyền, không ít vị quan chức tự nhiên “nhất thể hóa” cá nhân mình với cơ chế tổ chức mà họ là đại diện. Nó cũng chính là sản phẩm đau khổ của một xã hội phong kiến Nho giáo chưa “thoát thai”, rút cục chân lý không phải ở thực tiễn, mà ở kẻ mạnh.
Chính vì thế, mọi ý kiến phản biện, có chính kiến khác biệt của những… “kẻ yếu” rất có nguy cơ  bị quy chụp là “phản  đối, chống đối”. Cái sự “đội mũ” cho nhau một cách thô bạo, đã dẫn đến tâm lý con người e dè, cảnh giác, và dần dà nảy sinh thái cực sống thờ ơ, vô cảm trước mọi xấu tốt, mọi thang giá trị ở đời. Những hiện tượng của người Việt bị lên án là “vô cảm”, chủ nghĩa “mackeno”, có góc khuất- nỗi sợ- liệu có phải là sản phẩm … chính hiệu của tư duy bao cấp, xin- cho ban phát này không? 
Tư duy ban phát xin- cho, quả thật mới là thứ tư duy “phản động” theo nghĩa triết học, cản trở sự phát triển của một xã hội, kéo tụt lùi cả dân tộc trước văn minh, văn hóa nhân loại. Mặt khác, lại là nơi ban phát lợi ích cho không ít vị tự cho mình có quyền sinh, quyền sát với đồng loại, trong khi thực ra, chỉ pháp luật và thần Công lý mới có cái quyền thiêng liêng đó.
Ở góc độ vĩ mô, nói như thông điệp của người đứng đầu CP, dân chủ luôn gắn bó với Nhà nước pháp quyền. Trong nhà nước pháp quyền đó, sải bước từ nền kinh tế tiểu nông, từ nền văn minh lúa nước, bản thân người Việt đều phải được thực tập dân chủ. 
Nhưng trước hết, quản lý chính quyền các cấp phải gắng nâng tầm mình để tương thích với yêu cầu phát triển của một xã hội dân chủ. Điều đó, đòi hỏi các quan chức, quản lý chính quyền các cấp phải biết lắng nghe, tôn trọng sự khác biệt, cầu thị và biết vượt lên bản thân mình, không có sự quy chụp, trù dập, định kiến. Điều đó, cũng đòi hỏi người Việt, từ trí thức đến thường dân ý thức được ý kiến phản biện rất cần cái tâm trong sáng, tinh thần trách nhiệm cao, vì lợi ích chung của quốc gia.
Có khó lắm không? Hẳn là rất khó. 
Vì nó đòi hỏi sự thành tâm của cả hai phía, trên cơ sở một nền quản trị quốc gia khoa học, văn minh, pháp luật thượng tôn. Và vì vậy, thông điệp về dân chủ và nhà nước pháp quyền đồng thời cũng là một thách thức cho cả xã hội Việt đương đại hôm nay.
II- Nếu như dân chủ là khí trời cho sinh hoạt tinh thần người Việt thì minh bạch trong quản lý, trong nền kinh tế thị trường, cần như cơm ăn, nước uống. Mà người Việt thì từ lâu, đã bị bỏ… đói.
Cho dù gần 30 năm đổi mới, kinh tế nước Việt đã tạo ra sự phát triển vượt bậc, đổi thay diện mạo quốc gia. Riêng năm 2013, đạt mức tăng trưởng GDP 5,42% và kiềm chế lạm phát ở mức 6,04%. Dù vậy, với hơn 60.000 doanh nghiệp hiện phải đóng cửa, phá sản, tạm ngừng hoạt động, công cuộc tái cơ cấu kinh tế trì trệ, sự bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế…, khó có thể nói kinh tế nước Việt sáng sủa, khỏe mạnh.

dân chủ, minh bạch, Dương Chí Dũng, Dương Tự Trọng
Siêu lừa Huyền Như
Trong bối cảnh đó, quốc nạn tham nhũng đã làm đau yếu quốc gia, suy kiệt niềm tin, và làm tổn thương cả xã hội. Chưa lúc nào, minh bạch là phương thuốc khả dĩ mà nhiều người trông đợi như lúc này, để đổi thay “thể trạng”xã hội. Minh bạch chính là tiêu chí văn minh của mọi nền quản trị quốc gia lành mạnh.
Nói như Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh (baodautu.vn, ngày 01/01): Không minh bạch, chúng ta sẽ còn nhiều khó khăn, thách thức và khó có thể phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
Hoạt động tình hình tài chính của các doanh nghiệp nhà nước phải được công bố công khai, minh bạch, nợ ở đâu, lỗ ra sao, hiệu quả thế nào, để tránh lặp lại các sai lầm Vinashin, Vinalines. 
Sự minh bạch sẽ là một thách thức với tài năng kinh bang tế thế giữa các DNNN với DN tư nhân, giữa các DNNN với nhau. Nó buộc các ông chủ tập đoàn, DNNN nỗ lực thể hiện năng lực điều hành, năng lực kinh doanh, chứ không thể dựa vào sự ưu tiên chiều chuộng kiểu “con đẻ, con trưởng, cậu ấm”. Không thể nhập nhằng mãi chức năng kinh doanh với nhiệm vụ chính trị, công ích, lãi các DN hưởng, lỗ người dân chịu.
Sự minh bạch là liều độc dược mạnh với các tế bào tham nhũng luôn ẩn nấp trong cơ thể các DNNN, các nhóm lợi ích sống “ký sinh” theo cơ chế xin- cho.
Sự minh bạch tạo điều kiện thu hút các thành phần kinh tế, cả tư nhân lẫn FDItham gia bình đẳng vào một sân chơi đầu tư. Ở đó, chỉ có tài năng kinh doanh ngự trị, tuân thủ quy luật cung- cầu của kinh tế thị trường đúng nghĩa, cũng tức là trả lại các thang bậc giá trị đúng chỗ, không thể đảo lộn trắng đen, đúng sai, tốt xấu.
Sự minh bạch hạn chế đến mức thấp nhất sự thất thoát lãng phí, và tạo niềm tin nơi người dân vốn cũng đã… xuống đến mức thấp nhất.
Dân chủ, minh bạch với nền quản trị quốc gia văn minh, khoa học, là mối quan hệ hữu cơ gắn bó chặt chẽ, nhưng không phải mối quan hệ của “con gà có trước hay quả trứng có trước”. Ở mối quan hệ này, nhận thức và hành động của các cấp quản lý phải đi trước, quyết liệt, mang ý nghĩa quyết định, vì lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc là lớn nhất. Nhưng liệu minh bạch sẽ có sớm… minh bạch không?
Chỉ khi đó, thông điệp của người đứng đầu CP mới có ý nghĩa là hành động, là nói vậy và làm vậy! 
III- Còn những vụ việc chạy nhanh hơn … vó ngựa, là thông tin của vụ án xử Dương Tự Trọng và đồng phạm tổ chức cho anh ruột mình- Dương Chí Dũng, nhân vật chính của vụ án Vinalines trốn ra nước ngoài. Một vụ án gây “sốt” trong xã hội và đầy kịch tính bởi tính chất nghiêm trọng, những nút thắt “cao trào” như sân khấu bi kịch vốn thường thấy. Mà đoạn kết của nó chắc chắn còn đầy kịch tính hơn, vẫn chưa diễn ra.
dân chủ, minh bạch, Dương Chí Dũng, Dương Tự Trọng
Cả nhân vật chính vụ án- Dương Tự Trọng, và nhân chứng (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) là Dương Chí Dũng- nhân vật chính của vụ án Vinalines vừa xử trước đó, là anh em ruột. Họ đều là những người thành đạt, sinh trưởng và lớn lên trong một gia đình được coi là có quyền có tiền có thế lực của đất Hải Phòng. Và nay, ra trước tòa, cùng là… bị cáo của hai phiên tòa. Cái sự giống nhiều khi là hạnh phúc, nhưng có khi là bi kịch.
Kết cục cay đắng của hai anh em- người vì chữ lụy tiền, người vì chữ lụy tình, vừa là “sản phẩm” tham- sân- si của thời kim tiền, vừa là nước mắt của tình ruột thịt, mà quên mất chữ lý (pháp luật, đạo lý công dân). Cũng vì thế mà với bị cáo Dương Tự Trọng, lý thì đáng giận, tình thì đáng thương.
Để rồi, từ một sĩ quan giỏi giang, nổi tiếng, con đường danh vọng mở ra nhiều hứa hẹn, bỗng chốc Dương Tự Trọng trở thành tội phạm. Cái khoảng cách giữa một quan chức với một tội phạm thời nay, hóa ra quá đỗi mong manh, như… không hề có ranh giới. 
Hay khi hành động như vậy, bản thân cả Dương Chí Dũng- kẻ bỏ trốn- và Dương Tự Trọng- kẻ tiếp tay cho anh ruột mình, đều có sự tự tin ở sức mạnh của họ, sức mạnh của những mối quan hệ, sự lọc lõi, mà đồng tiền tưởng là “dây tơ hồng”, hóa ra vẫn luôn phản trắc và cũng đầy bội bạc.
Và cũng vì cái tình “đồng đội”, tình “anh em” trong giới… giang hồ của Dương Tự Trọng, mà rút cục ông ta còn kéo theo một lô một lốc những đồng đội, những “chiến hữu” của ông ta theo nhau phạm tội, theo nhau ra trước vành móng ngựa. Họ có ân hận hay không? Không biết. Có điều vụ án cho thấy những góc khuất u tối của tâm hồn con người Dương Tự Trọng khi che giấu tội phạm, góc khuất u tối của nhiều kẻ cùng hội cùng thuyền nhân danh tình nghĩa, nhân danh nghĩa hiệp. Dù họ đa phần là cán bộ một ngành công cụ bảo vệ an ninh trật tự xã hội.
Nhưng nút thắt chặt nhất, cao trào nhất của vụ án đầy kịch tính này không ở nhân vật chính- Dương Tự Trọng- mà lại ở nhân chứng- Dương Chí Dũng khi ông này chính thức công khai công bố tên của người đã “mật báo” cho ông ta bỏ trốn trong vụ án Vinalines, dẫn đến tội lỗi của em trai ông ta. Đó là một quan chức cao cấp- Thứ trưởng ngành công an. 
Khi Dương Chí Dũng công bố tuốt tuột đã đưa tiền cho nhiều cán bộ cấp cao của Bộ Công an để tránh việc bị điều tra về ụ nổi 83M và những sai phạm ở Vinalines. Quan trọng hơn nữa, khi ông ta công bố số tiền 500 nghìn USD biếu ông thứ trưởng này, nhờ ông ta “lo việc” cho mình. Và công bố tuốt tuột số tiền 01 triệu USD mà ông ta và bà Lan (công ty Vạn Thịnh Phát ở TP.HCM) đưa cho vị này, liên quan đến chuyện đầu tư làm ăn. Cùng với một phát ngôn ấn tượng: Tôi là bị cáo trong một vụ án khác và phải chịu mức án cao nhất nên tôi chẳng có gì phải giấu giếm và sẽ khai thật
Quả là tiếng sét giữa trời quang. Khỏi phải nói về những bàn luận nóng ran xã hội. 
Cái tiếng “kêu” bi thương của kẻ bị án tử, rút cục đã đưa ra trước xã hội rất có thể là một vụ án “tử” kiểu khác, trong con mắt nhân dân. Khi mà trước cả 03 vụ việc, đại diện VKS sẽ có kiến nghị để HĐXX xem xét giải quyết theo đúng quy định của pháp luật. Cũng ngay tại phiên tòa, chủ tọa phiên tòa đã công bố Quyết định khởi tố vụ án “Làm lộ bí mật Nhà nước” theo Điều 263 Bộ luật Hình sự”.
Vấn đề còn lại, thuộc thẩm quyền của các cơ quan chức năng. 
Nếu như Dương Chí Dũng, bịa đặt chuyện “mật báo”, chuyện “chạy tiền” hàng trăm nghìn USD cho vị quan chức nọ, Dương Chí Dũng phải chịu xử lý trước pháp luật, bởi tội vu khống. Bởi một bên là đối tượng đang bị điều tra, một bên là thủ trưởng cơ quan điều tra vụ án. Nhưng nếu Dương Chí Dũng khai đúng sự thật, thì trách nhiệm thuộc về các cơ quan chức năng có thẩm quyền, phải làm sáng tỏ một vụ việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng, và phải xử lý nghiêm khắc, bất kể kẻ đó là ai. 
Vụ án Dương Chí Dũng, Dương Tự Trọng chưa khép lại, nhưng ngành tư pháp đã có thể tiếp tục khởi tố một vụ án hình sự khác, không chỉ cho một người, nói điều gì?
Rằng quyền lực trong thời đại kim tiền này, có nguy cơ luôn “cặp kè” với sự tha hóa. Sự tha hóa phẩm cách giờ đây không còn là chuyện riêng biệt, phạm vi một cá nhân, hai cá nhân… 
Khi người ta nhớ tới vụ anh hùng ‘khai man” Hồ Xuân Mãn, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên- Huế mới đây, người đã khai gian tới 15 thành tích của đồng đội thành của mình (trong số 17 thành tích được kê khai), một kiểu “tham nhũng thành tích”, để giành thêm về mình chút danh vọng tinh thần bằng xương máu đồng đội. Có gì “bẩn” hơn, và thất đức hơn thế?
Và chẳng đâu xa lạ, những vụ án Công ty cho thuê Tài chính II chiếm đoạt hàng chục tỷ đồng, vụ án “siêu lừa” Huyền Như lừa đảo, chiếm đoạt gần 4000 tỷ đồng đang bị xét xử những ngày này, cho thấy công thức “quyền +tiền+ tha hóa” là công thức khá thời thượng cho những kẻ tham nhũng.
Chính điều đó, mà thông điệp năm mới 2014 của Thủ tướng Chính phủ, về việc cải cách thể chế, về dân chủ gắn với nhà nước pháp quyền, xây dựng một nền quản trị quốc gia hiện đại đang trở thành vấn đề sinh tử, quyết định vận mệnh của một quốc gia phát triển hay tụt hậu trước nhân loại văn minh.
Câu trả lời còn ở thì… tương lai.
  Kỳ Duyên
  (Blog Kim Dung)

TÍNH ƯU VIỆT CỦA CNXH MÀ NHÂN DÂN TA ĐANG XÂY DỰNG

TSYG: Dưới đây là tham luận của GS TS Lê Hữu Nghĩa, Giám đốc học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh tại Đại hội Đảng lần thứ 11 mà tôi tình cờ được đọc ở trang Hanhchinh.com. Mặc dù đã cũ nhưng qua đó tôi mới được biết có 8 đặc trưng, thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng.
Điều đáng chú ý là trong bài tham luận, GS TS Lê Hữu Nghĩa đã dùng thuật ngữ ưu việt đến 38 lần. 
Được biết vào ngày 23-10-2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có nói: “… xây dựng CNXH còn lâu dài lắm, đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”.
Ở đây, dường như GSTS Lê Hữu Nghĩa đã “cẩm đèn chạy trước ô tô”. Chưa biết đến hết thế kỷ này ở Việt Nam đã có CNXH (hoàn thiện hay không thì cũng là CNXH) mà GSTS lại hồn nhiên khẳng định nó ưu việt quá nhiều lần. 
Hay là cứ nói ưu việt thật nhiều lần thì tự nhiên ưu việt sẽ đến? 
Thôi thì đành phải chờ đến hết thế kỷ này vậy, để xem có hay không đã, rồi mới nói tới chuyện ưu việt. Nếu hết thế kỷ này mà chưa có thì ta cứ vui lòng chờ thêm một thế kỷ nữa, thế kỷ nữa … 
Biết kiên nhẫn chờ đợi cũng là một đặc trưng mang tính ưu việt của con người mới xã hội chủ nghĩa mà thôi, bà con ạ.
 
Chủ nghĩa xã hội (CNXH) theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa. CNXH tiến bộ, ưu việt hơn tất cả các xã hội trước đó về các đặc trưng chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm giải phóng con người khỏi mọi tình trạng áp bức, bóc lột, bất công. Để xây dựng CNXH, những người cộng sản phải hình dung, phác thảo ra được những đường nét cơ bản nhất của mô hình CNXH (mà chúng ta gọi đó là những “đặc trưng”). Nếu không phác thảo được mô hình, những đường nét cơ bản thì rất khó định hướng để xây dựng CNXH và biến nó trở thành hiện thực. Hơn nữa, những đặc trưng thể hiện mô hình đó phải phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người, phản ánh được nét đặc sắc của truyền thống dân tộc và xu thế phát triển của thời đại. Đây là đòi hỏi tất yếu nhưng rất khó khăn đối với các Đảng Cộng sản trong quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH.
Mặc dù khi dự báo về những đặc trưng của xã hội XHCN, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin không coi đó là mô hình bất biến, song, các ông đã hình dung và phác thảo về CNXH – một chế độ xã hội ưu việt và tiến bộ hơn với các chế độ xã hội trước đó thể hiện trên một số nét cơ bản như sau:
(1) Mục tiêu cao nhất của CNXH là giải phóng con người khỏi mọi ách bóc lột về kinh tế và nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người pháttriển toàn diện;
(2) Cơ sở vật chất của CNXH được tạo ra bởi một lực lượng sản suất tiên tiến, hiện đại;
(3) CNXH là từng bước xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất;
(4) CNXH tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới với năng suất cao;
(5) CNXH thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động;
(6) Nhà nước trong CNXH là nhà nước dân chủ kiểu mới, thể hiện bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động;
(7) Trong xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), các quan hệ giai cấp – dân tộc – quốc tế được giải quyết phù hợp, kết hợp lợi ích giai cấp – dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng;
Ở nước ta, từ năm 1930 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, độc lập dân tộc luôn gắn liền với CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Trên cơ sở nhận thức về thời đại, nhận thức về dân tộc và sức mạnh dân tộc, từ thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam của Đảng ta ngày càng rõ hơn. Trong quá trình đổi mới nhận thức về CNXH và xây dựng CNXH, Đảng ta đã nhận thấy việc xác định đúng mô hình CNXH là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Bởi đó là cơ sở, là định hướng để Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm hiện thực hóa mục tiêu CNXH ở nước ta.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) của Đảng, mô hình CNXH mà nhân dân ta xây dựng đã được phác họa với sáu đặc trưng. Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng đã bổ sung, phát triển, làm cho mô hình CNXH Việt Nam toàn diện hơn, gồm tám đặc trưng. Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011) Đảng ta tiếp tục xác định tám đặc trưng trên cơ sở kết hợp, bổ sung, phát triển những đặc trưng của CNXH trong hai Văn kiện nêu trên.
Các đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về CNXH, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Đó cũng là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù”, cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình: CNXH Việt Nam.
Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng đã thể thể hiện tính ưu việt của CNXH Việt Nam.
- Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của CNXH ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của CNXH phải được biểu hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm Mác – Lênin về mục tiêu của CNXH, đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh…, là công bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ được sống cuộc đời hạnh phúc…
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới việc hiện thực hóa đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tư tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có CNXH mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh thật sự. Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Nói đến tính ưu việt của đặc trưng này, không thể không so sánh về mặt bản chất của xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng với các xã hội đã từng tồn tại trước đây ở Việt Nam nói riêng và với chủ nghĩa tư bản nói chung. Trước năm 1945, ở Việt Nam chưa hề có và chưa thể có các giá trị dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là một thực tế hiển nhiên mà mỗi người đều nhận biết. Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển), Đảng ta đã có đánh giá đúng đắn, khách quan về CNTB: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công”.
Nhân dân ta đã từng chứng kiến bản chất áp bức, bóc lột, bất công, tàn bạo của chủ nghĩa tư bản trong thời gian dài bị chủ nghĩa thực dân, đế quốc xâm lăng, đô hộ. CNXH phải xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, khuyến khích mọi người dân làm giàu chính đáng để tất cả cùng giàu có. Đó cũng là tiền đề để đất nước giàu mạnh thật sự trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh, quốc phòng. CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng là quá trình dân chủ hóa, phát huy mọi quyền dân chủ của nhân dân, đồng thời hướng tới những giá trị công bằng cho mọi tầng lớp, mọi người dân, xây dựng xã hội Việt Nam thành một xã hội văn minh, hiện đại.
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu việt của các giá trị, thể hiện trong mục tiêu cần đạt tới là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh thật sự.
Chúng ta đang xây dựng CNXH là đang từng bước hiện thực hoá tính ưu việt của đặc trưng thứ nhất vừa nêu.
- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu việt về chính trị của chế độ dân chủ XHCN trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: sự nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá trị trong tư tưởng truyền thống của dân tộc Việt Nam, tư tưởng dân là gốc. Đặc biệt, đã thể hiện quan điểm về dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức dân là chủ, dân làm chủ.
Tính ưu việt của CNXH trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện trong nhận thức của Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN gắn liền với việc bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực).
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung vả phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức dân chủ trực tiếp…”.
Nhân dân (bao gồm đông đảo các giai cấp, tầng lớp dân cư, các dân tộc, tôn giáo…) làm chủ thông qua các hình thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp, thông qua việc thực hiện các Quy chế dân chủ và Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở… cũng đã thể hiện tính ưu việt về chế độ chính trị của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng.
Tính ưu việt của CNXH tự bản thân nó đã đòi hỏi phải phát huy dân chủ cao độ, gắn với tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong tham gia xây dựng, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. V.I.Lênin từng nêu quan niệm: CNXH không phải là sản phẩm được tạo ra từ những sắc lệnh từ trên ban xuống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền lợi đều của dân…
Tính ưu việt của chế độ dân chủ XHCN thể hiện cụ thể, thiết thực ở Việt Nam hiện nay là một chế độ xã hội do nhân dân làm chủ. Tính ưu việt này đã, đang, sẽ biểu hiện thông qua quá trình đổi mới và dân chủ hóa ở Việt Nam.
- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu
Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác.
Về lực lượng sản xuất của xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng không thể là cái gì khác ngoài lực lượng sản xuất hiện đại với khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Về quan hệ sản xuất không thể không tính đến yếu tố quan trọng hàng đầu là chế độ sở hữu. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH việc xác định chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu thể hiện tính ưu việt của CNXH mà chúng ta đang xây dựng (đã khắc phục được tư duy cũ, giáo điều về CNXH ở Việt Nam đồng nghĩa với chế độ công hữu là duy nhất ngay trong thời kỳ quá độ).
Một luận điểm phản ánh thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về sự phát triển quá độ lên CNXH mà Đảng ta đã xác định từ Đại hội IX được tuyệt đại đa số nhân dân đồng tình: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” 1.
Trong xã hội tư bản, chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN giữ vai trò thống trị của quan hệ sản xuất; là cơ sở nảy sinh những bất bình đẳng về kinh tế và áp bức về xã hội. Bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất TBCN, từng bước xây dựng mối quan hệ sản xuất mới dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu thể hiện rõ tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng so với chế độ TBCN.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) tiếp tục khẳng định: Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khi bàn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu nhiều thành phần kinh tế, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của CNXH mà chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là một trong những yếu tố đảm bảo định hướng XHCN trong phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế.
- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tính ưu việt về văn hóa của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện khái quát ở tính chất tiên tiến của nền văn hóa (bao hàm những giá trị mới, tiến bộ, hiện đại, nhân văn của văn hóa nhân loại); ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường dân tộc…).
Hội nhập quốc tế đang là một xu thế lớn khách quan lôi cuốn nhiều quốc gia, khu vực tham gia. Xu thế này, một mặt tạo cơ hội để mở rộng giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc, quốc gia; mặt khác làm nảy sinh nguy cơ mai một các giá trị văn hóa truyền thống của từng dân tộc. Trong bối cảnh quốc tế mà các chế độ chính trị – xã hội khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh; trong giao lưu, hợp tác và phát triển văn hóa, tính ưu việt của CNXH mà chúng ta đang xây dựng phải được thể hiện không chỉ bằng việc xác định tính ưu việt của đặc trưng về văn hóa vừa nêu, mà còn phải hiện thực hóa đặc trưng đó trên thực tế.
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp thu những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa của các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ được thể hiện trong đặc trưng tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn được thể hiện qua đặc trưng về con người trong xã hội XHCN. Về phương diện con người, CNXH đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn xây dựng CNXH thì phải có con người XHCN. Để có con người XHCN phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của con người trong xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng.
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong xã hội XHCN, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã xác định hệ giá trị phản ánh nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của con người Việt Nam hiện nay là: có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Tính ưu việt của CNXH thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm nhân văn, vì con người, chăm lo xây dựng con người, phát triển toàn diện con người (đức, trí thể, mỹ) của Đảng và Nhà nước ta.
Trong những động lực để xây dựng thành công CNXH trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định một động lực rất quan trọng là giải quyết hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và toàn xã hội. Lợi ích thiết thân mà mỗi con người Việt Nam hiện nay mong đợi phản ảnh nhu cầu về đời sống vật chất, đời sống tinh thần và nhu cầu phát triển con người toàn diện. Giải quyết hài hòa các lợi ích, bảo đảm nhu cầu, lợi ích chính đáng của mỗi con người, tôn trọng và bảo vệ quyền con người là thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng.
- Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển
Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ dân tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người trong quốc gia ta dân tộc Việt Nam).
CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng nhất thiết phải bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, về lịch sử ra đời sớm hay muộn, trình độ phát triển cao hay thấp giữa các dân tộc. Đối lập với các chế độ áp bức bóc lột người thường phân biệt, kỳ thị và chia rẽ các dân tộc, CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng gắn liền với việc xây dựng tình đoàn kết các dân tộc, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển, từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc hiện nay.
Thực tiễn 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của CNXH trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng thuận trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.
- Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo
CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền XHCN.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền XHCN mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân.
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là biểu hiện cụ thể tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng. Nhà nước ấy phải kế thừa những giá trị trong kiểu tổ chức nhà nước pháp quyền và xã hội công dân với tư cách là giá trị của văn minh nhân loại vào điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay. Thành quả của công cuộc đổi mới đã giúp Đảng và Nhà nước ta xác định kiểu tổ chức và hoạt động mang tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là: Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự thống nhất của trung ương. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong quan hệ với Nhà nước, Đảng lãnh đạo để Nhà nước phát huy vai trò quản lý chứ không bao biện làm thay Nhà nước. Đảng luôn luôn chịu sự giám sát của nhân dân và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Đảng ta đã khẳng định: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong đặc trưng về Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là thành quả của việc vận dụng, phát huy sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước XHCN trong điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay.
- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới
CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu việt trong các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể hiện trong quan hệ đối ngoại, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Xác định quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới là đặc trưng nhất quán trên lĩnh vực đối ngoại của Đảng ta từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 đến nay.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế, đặc trưng này còn thể hiện tính ưu việt của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.
Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân ta và nhân dân các nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị – xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào các tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu vực đã chứng minh một cách sinh động tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng, thể hiện trong đặc trưng về quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Kính thưa: Đoàn Chủ tịch
Kính thưa: Các vị khách quý, các đồng chí đại biểu Đại hội
Những đặc trưng vừa nêu trên thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng trong việc xác lập những đường nét cơ bản mang sắc thái riêng của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam mà nhân dân ta đang xây dựng để từng bước hiện thực hóa đặc trưng, mô hình đó trong thực tiễn cuộc sống.
Sự vận động và biến đổi của thế giới hiện nay, của thực tiễn xây dựng CNXH sẽ tiếp tục cung cấp thêm những cứ liệu mới để bổ sung cho nhận thức của Đảng ta về mô hình CNXH và con đường để thực hiện mô hình đó ở Việt Nam.
Với quan điểm lịch sử – cụ thể, quan điểm thực tiễn và quan điểm phát triển, chúng tôi mong rằng tại diễn đàn Đại hội Đảng lần này sẽ có thêm những ý kiến đóng góp thiết thực về những đặc trưng và tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện qua những đặc trưng đó.

Thông báo số 4 của Ban vận động thành lập “Hiệp hội Dân oan Việt Nam"



Việt Nam, ngày 11/01/2013

Ngày 11/01/2014, Bà Lê Hiền Đức – Chủ tịch Ban vận động thành lập “Hiệp hội Dân oan Việt Nam”  đã gửi thư đến các ông: Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí thư Đảng, Trương Tấn Sang – Chủ tịch nước, Nguyễn Sinh Hùng – Chủ tịch Quốc hội, Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng Chính phủ, Nguyễn Thiện Nhân – Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trần Đại Quang – Bộ trưởng Bộ Công an, Nguyễn Bá Thanh – Trưởng Ban Nội chính TW, Huỳnh Phong Tranh – Tổng Thanh tra Chính phủ. Bà Lê Hiền Đức đề nghị các ông này tiếp các thành viên tham gia Ban vận động thành lập “Hiệp hội Dân oan Việt Nam”  trong các ngày 21,22/01/2014 tại Hà Nội. Chúng tôi hy vọng các vị này sẽ sớm trả lời cho bà Lê Hiền Đức và sớm bố trí lịch để tiếp chúng tôi, không chỉ với tư cách lãnh đạo Đảng và Nhà nước, mà với tư cách Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tiếp cử tri.

Thay mặt Ban vận động thành lập “Hiệp hội Dân oan Việt Nam”

Nguyễn Xuân Ngữ

(Kèm theo thông báo này là thư của bà Lê Hiền Đức gửi ông Nguyễn Phú Trọng) 




Ông Nguyễn Xuân Ngữ gửi cho Quê Choa
(Quê choa) 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét