Ngô Nhân Dụng
Ðọc một bài trên mạng Bô Xít Việt Nam về câu chuyện vạch ra những lầm lẫn trong hai cuốn từ điển, bỗng nhớ đến hai câu thơ của Tú Xương tả cảnh các nhà Nho trong thời Pháp thuộc:
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi
Nhiều vị độc giả có thể chưa đọc bài “Hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt” của tác giả Lê Mạnh Chiến, cho nên xin phép tóm tắt lại. Hai cuốn từ điển được nói tới trong bài này là của Giáo Sư Nguyễn Lân, đã tạ thế năm 2003. Cuốn đầu là “Từ điển từ và ngữ Hán Việt” đã in nhiều lần, từ năm 1993, dài 867 trang (chắc tổng số trang phải là một số chẵn, 868?). Cuốn thứ nhì là “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” in lần đầu năm 2000, dùng phần lớn nội dung cuốn trước, cộng thêm phần tiếng Việt nên dài hơn, tới 2112 trang, cũng đã xuất bản lại nhiều lần.
Năm 2004, tác giả Lê Mạnh Chiến đã viết một bài nhận xét về cuốn đầu, Từ điển Hán Việt, ông nêu ra 170 chỗ giải nghĩa sai lầm. Khi viết bài, chính ông chưa biết tên tác giả và cũng không thấy tên đầy đủ của cuốn từ điển, vì tập sách ông có trong tay đã bị rách mấy trang đầu. Nghe chi tiết đó, chúng ta có thể thương cảm các học giả độc lập sống trong một nước nghèo. Nhưng ông Lê Mạnh Chiến vẫn viết bài, để giúp các giáo sư và học sinh cả nước dùng cuốn từ điển này biết mà tránh những sai lầm trong đó. Ông gửi bài cho tạp chí Thế Giới Mới để đăng nhiều kỳ. Nhưng tờ báo của Bộ Giáo Dục chỉ đăng được sáu kỳ (từ số 582 đến số 587, giữa năm 2004), thì loạt bài bị ngưng lại, không đăng nữa; các độc giả mới được thấy 67, 68 thí dụ, dưới một nửa số sai lầm mà ông Lê Mạnh Chiến tìm ra.
Tác giả sau đó có dịp gặp một nhà biên tập trong tờ báo trên, được nghe những lời giải thích. Mặc dù độc giả Tạp chí Thế Giới Mới chưa biết tên tác giả cuốn từ điển đó, nhưng những người trong cuộc biết đây là tác phẩm của Giáo Sư Nguyễn Lân, người được trao tặng giải thưởng nhà nước năm 2001 về khoa học và công nghệ. Người ta cho biết “Bài này được độc giả hoan nghênh nhiệt liệt vì đã vạch rõ những cái sai nghiêm trọng trong một cuốn từ điển từng được nhiều người ‘có tiếng’ ca ngợi.” Nhưng họ phải ngưng đăng vì Giáo Sư Nguyễn Lân được coi là một ngôi sao sáng của ngành giáo dục Việt Nam, còn tạp chí Thế Giới Mới là cơ quan thuộc Bộ Giáo dục, cho nên, nếu “vạch áo cho người xem lưng” một cách kỹ quá thì cũng có phần “bất tiện.” Ông Lê Mạnh Chiến kể: “Nghe vậy, tác giả rất thông cảm và biết ơn tạp chí Thế Giới Mới.”
Sau khi bài báo bị chấm dứt, ông Lê Mạnh Chiến kể ông đã viết những bài ngắn hơn, mỗi bài khoảng 4,000 chữ, nêu ra khoảng 20 chỗ sai lầm làm thí dụ, cho đăng trên những tờ báo khác, như báo Ðại biểu Nhân dân, tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, tạp chí Văn hóa Nghệ An, vào năm 2005. Ông Lê Mạnh Chiến cũng tiết lộ rằng ngay khi báo Ðại biểu Nhân dân đăng kỳ đầu tiên, đã có người đến phản đối; đó là một giáo sư tiến sĩ, đại biểu Quốc hội, liên hệ mật thiết với Giáo Sư Nguyễn Lân. Ông ta đến tòa báo nói rằng Giáo Sư Nguyễn Lân là một nhân vật nổi tiếng đã “thành danh,” sao dám làm mất uy tín của ông?
Giáo Sư Nguyễn Lân đã qua đời trước khi những bài báo của ông Lê Mạnh Chiến xuất hiện, cho nên chúng ta không thể biết nếu còn sống ông cụ sẽ phản ứng ra sao. Lúc in hai cuốn từ điển trên, Nguyễn Lân đã gần 80 tuổi (cụ sinh năm 1906). Ở tuổi đó, ngồi biên soạn những cuốn từ điển một, hai ngàn trang giấy, khó tránh khỏi lỗi lầm. Thường ở các nước văn minh, không ai một mình soạn từ điển, mà lúc nào cũng có hàng chục, hàng trăm người cộng tác, nhiều người chỉ làm một công việc là tìm những chỗ sai lầm mà thôi. Chỉ ở những nước nghèo khó như nước ta mới có cảnh những tác giả “một mình một ngựa” làm từ điển! Theo thói quen của những người Việt Nam được giáo dục theo lối cổ truyền, chúng ta không nên vì câu chuyện này mà xúc phạm một người đã khuất. Nhưng điều đáng nói trong cả câu chuyện trên là thái độ và cách suy nghĩ, cách nói năng của những người trong chuyện.
Thứ nhất là một tờ báo của Bộ Giáo Dục phải tránh không vạch ra những sai lầm do “một ngôi sao sáng của ngành giáo dục” vấp phải! Ðó cũng là lối lý luận của một đại biểu Quốc hội, nói rằng “một nhân vật nổi tiếng đã ‘thành danh,’ sao dám làm mất uy tín của ông?”
Thái độ và lối suy nghĩ đó sẽ làm cho nước ta chậm tiến; không bỏ đi thì sẽ lạc hậu mãi mãi. Nhất là khi câu nói xuất phát từ miệng một giáo sư tiến sĩ, một nhà khoa học, đứng đầu một cái viện nghiên cứu to lớn có tầm vóc quốc gia. Khoa học tiến bộ chính là vì người lớp sau dựa trên các công trình của người lớp trước rồi tìm cách vượt lên trên tìm ra những điều “đúng” với thực tại hơn. Nếu Newton cứ sợ sệt, không dám nói những điều trái ngược với nhân vật nổi tiếng đã 'thành danh' là Aristote, thì vật lý học vũ trụ đã giậm chân tại chỗ từ thế kỷ 16! Nếu Einstein sợ không dám làm mất uy tín của Newton thì loài người chắc vẫn chưa biết rằng trọng khối và năng lượng chỉ là hai hình thức biểu hiện của một thực tại. Chính Newton, vào lúc cuối đời, cũng công nhận rằng suốt đời ông coi thường lý thuyết vật lý lượng tử (quantum) là sai lầm.
Thứ hai, là hành động “tự kiểm duyệt” của một tờ tạp chí thuộc Bộ Giáo Dục, che lấp những sai lầm của “một ngôi sao sáng của ngành giáo dục” là một thói quen đáng xấu hổ. Bao nhiêu người đang tranh đấu đòi tự do ngôn luận, tự do báo chí, có ai chấp nhận những hành động “tự kiểm duyệt” như vậy hay không? Chắc hẳn những người phụ trách tờ báo Thế Giới Mới đã nhận được nhiều cú điện thoại gây áp lực, họ cũng lo sợ cho nồi cơm của gia đình mình, cho nên tự đục bỏ một bài viết có giá trị và rất ích lợi cho xã hội. Ðó chính là cảnh “sĩ khí rụt rè gà phải cáo” mà Tú Xương đã mô tả.
Tại sao “sĩ khí” lại “rụt rè” như gà phải cáo?
Chúng ta cũng không nên chê trách riêng những người biên tập báo Thế Giới Mới. Họ là sản phẩm của một nếp sống, một thứ “văn hóa” của thời đại; họ tập được thói quen đó vì những kinh nghiệp cuộc đời. Cho nên họ phản ứng theo những điều kiện trước mặt, như một phản xạ Pavlov. Nền nếp “văn hóa” đó được diễn tả qua câu tục ngữ “vạch áo cho người xem lưng.”
Không nên vạch áo cho người xem lưng. Nhưng nếu cái lưng đó có bệnh, cần phải chữa trị, thì có thể nào cứ khăng khăng không vạch áo cho người xem lưng mãi được chăng? Nhất là căn bệnh đó không phải chỉ tai hại cho một cá nhân, người có cái lưng cần vạch ra, mà còn tác hại trên hàng triệu sinh viên, học sinh sử dụng những cuốn từ điển đầy sai lầm. Một, hai thế hệ sử dụng các cuốn từ điển đó sẽ học sai, hiểu sai, tương lai tiếng Việt Nam sẽ ra sao?
Ðây là hậu quả của lối sống trong một chế độ độc tài chuyên chế, tác hại đến cả xã hội. Ðảng Cộng sản luôn luôn bưng bít các lỗi lầm. Ðảng có cả một bộ máy công an và tuyên truyền để che đậy, giấu giếm những sai lầm. Các cuộc họp đều bí mật, bên trong chửi bới nhau, kể tội nhau những gì người ngoài không được biết. Các lãnh tụ không bao giờ sai lầm cả, chỉ có các cấp dưới thi hành sai mà thôi. Các cán bộ không được nói đến sai lầm của cấp trên.
Tất cả chỉ vì một chế độ độc tài chắc chắn phải đi đôi với bạo lực và gian trá. Bao giờ nước Việt Nam thoát khỏi ách độc tài thì mới thoát khỏi lối sống giả dối, xóa tan nền “văn hóa” che đậy, bưng bít.
Năm 1974, nhà văn Aleksandr Solzhenitsyn đã viết một bài có tựa đề “Ðừng Sống Dối Trá” (Live Not By Lies) đúng vào ngày ông bị mật vụ đến bắt đem đi. Sau đó ông bị trục xuất, sống lưu vong cho đến ngày chế độ cộng sản sụp đổ mới về nước. Cố Tổng Thống Tiệp Khắc Václav Havel (1936-2011) viết trong cuốn “Quyền lực cho những người Bất lực” (The Power of the Powerless,) năm 1978, đã mô tả nước ông là nơi các công dân bị bắt buộc phải “sống trong một trò giả dối” (live within a lie). Năm 1984, chính ông đã kêu gọi đồng bào ông: “Hãy sống thật!” Năm năm sau, ông được mời làm tổng thống một quốc gia bắt đầu lên đường dân chủ hóa.
Nhiều nhà trí thức Việt Nam như Hà Sĩ Phu cũng đang kêu gọi đồng bào hãy “biết hổ thẹn,” hãy ngẩng đầu lên nói sự thật. Một đảng viên cộng sản lâu năm như Lê Hiếu Ðằng cũng can đảm công khai từ bỏ đảng để được sống thật. Những tấm gương đó cho thấy trong đất nước chúng ta vẫn còn rất nhiều người có sĩ khí. Hy vọng những tấm gương đó sẽ được nhiều người bắt chước. Ðể người Việt Nam có thể chúc nhau, nhân dịp Tết sắp đến, như lời Tú Xương đã chúc đồng bào phải sống ra sao để:
Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Báng đầu thằng trọc phải nể lòng ông sư
Chu Mộng Long
– Thành ngữ, tục ngữ không dễ giải thích, mặc dù ta vẫn dùng (dùng đúng
hoặc không ít trường hợp dùng tùy tiện, sai) trong nói năng, viết lách,
chưa kể những khó khăn khi gặp nhiều thành ngữ, tục ngữ đã thành cổ
ngữ, tử ngữ. Nhưng cách giải thích của tiến sĩ ngữ học Nguyễn Đức Dương
(được các giáo sư, tiến sĩ tên tuổi ca ngợi, biểu dương mới lạ?) là
không thể chấp nhận, đúng là “làm hỏng di sản tục ngữ”.
Vì
chủ quan, kiêu ngạo, thiếu thực tế, và quan trọng hơn, kém hiểu biết về
ngôn ngữ và văn hóa Việt, cho nên tác giả cuốn từ điển đồ sộ này đã
giải thích thô thiển, dung tục, sai lệch nhiều câu tục ngữ sinh động
trong đời sống dân gian Việt.
Đa
phần các mục trong quyển từ điển này, Nguyễn Đức Dương diễn nôm nghĩa
đen của tục ngữ bằng cách đệm thêm từ ngữ cho rõ câu theo cách hiểu rất
trẻ con, dung tục chứ người kinh nghiệm, từng trải chẳng ai hiểu thế.
Bài
phản biện của Hoàng Tuấn Công tôi cho là giải thích xác đáng những câu
tục ngữ mà Nguyễn Đức Dương đã giải thích một cách ngớ ngẩn. Rất tiếc,
để tăng sức thuyết phục và thú vị của cách giải thích này, tác giả chỉ
dựa vào giải nghĩa từ và suy luận theo hiểu biết kinh nghiệm mà không
bắt đầu từ cấu trúc và ngữ dụng của từng câu tục ngữ. Bởi vì chính hình
thái cấu trúc tạo nên lôgic ngữ nghĩa, và ngữ cảnh sử dụng rất rộng làm
cho đa phần tục ngữ tồn tại sinh động không dưới một nghĩa.
Riêng câu Báng đầu thằng trọc phải nể lòng ông sư, Hoàng Tuấn Công giải thích chưa hết nghĩa, thậm chí chưa ổn:
“-Từ “báng” cũng có một nghĩa là “cốc”. Tuy nhiên, trong câu tục ngữ trên, “cốc” không thể hiểu là “cốc (vào) sọ” được. Nếu “cốc” vào đầu kẻ trọc thì kẻ trọc chịu đau, đâu ảnh hưởng gì đến ông sư ? Báng ( 謗) là từ Hán-Việt có nghĩa là: báng bổ, mỉa mai,lên tiếng chê bai, xúc phạm đến hình ảnh hoặc những điều đối với người khác là linh thiêng. Câu này có ý khuyên mọi người nên thận trọng khi ăn nói, nhất là những lời có ý báng bổ, xúc phạm kẻ khác.” (Hoàng Tuấn Công)
Đây là câu tục ngữ có cấu trúc đặc biệt. Giữa thằng trọc và ông sư có quan hệ tương đồng về hình dạng: đầu trọc, nhưng lại tương phản về tính cách: thằng (khinh bỉ) và ông
(tôn trọng). Nghĩa đen: báng bổ thằng đầu trọc coi chừng động chạm, mất
lòng ông sư vì đơn giản ông sư cũng có đầu trọc (chứ chẳng phải linh thiêng
gì). Nghĩa bóng: câu này khuyên nên ăn nói cẩn thận, tế nhị, chê bai,
phỉ báng người này nhưng lại mất lòng người khác vì liên quan đến một
đặc điểm hình thức nào đó. Với nghĩa này, ngữ cảnh sử dụng của nó rất
rộng, cho hàng trăm trường hợp khác nhau, chẳng cần phải đem đầu trọc ra phỉ báng mà đem lé, lùn, sẹo, thọt, chột, què, mù…, kể cả những cách nói/ viết không dám gọi đích danh mà chung chung, xỏ xiên, vơ đũa cả nắm như một số phóng viên báo chí hèn mạt hiện nay: hiệu trưởng loạn dâm, thầy giáo gạ tình, công an ăn hối lộ, cán bộ tỉnh ủy ngoại tình, kiều nữ hiếp dâm… đều có thể gây động chạm đến nhiều người.
Tất
nhiên, đây là bài viết thể hiện trình độ ngôn ngữ – văn hóa đáng kính
phục so với quyển từ điển được xem là kinh điển kia. Biết là báng thằng đầu trọc phải nể lòng ông sư,
nhưng phải nói tác giả bài viết này xứng đáng là bậc thầy của nhiều
thầy ngữ học mà mình đã học, xin được đăng lại để mọi người cùng học.
——————————-
Ai làm hỏng ” Di sản tục ngữ”?
Hay là những sai lầm của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương trong Từ điển tục ngữ Việt
Hoàng Tuấn Công
Trong bài “Giới 8X, 9X với di sản tục ngữ” trên báo Lao động cuối tuần (số 10-8/3/2013) Nhà ngữ học, TS Nguyễn Đức Dương viết: “Không
ít ý kiến cho rằng giới trẻ ở độ tuổi 8X, 9X ngày nay đang quá thờ ơ
với tục ngữ [TN]. Một cô giáo dạy văn ở THCS tôi quen đã không chia sẻ
nhận định ấy, mà thậm chí còn gay gắt bác lại. Theo cô, các em chỉ thờ ơ
khi chưa thấu hiểu nội dung thôi, chứ một khi đã nắm được rồi, các em
còn tỏ ra thích thú là đằng khác”.
Thế
rồi, được sự giúp đỡ của cô giáo nọ, Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương đã
làm một cuộc trắc nghiệm thú vị: Đưa ra 10 câu tục ngữ, mỗi câu kèm 2
cách giải thích trong 2 cuốn sách để các em chọn “thích” hoặc “không thích”: một cách giải thích trong Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân (NXB Văn Hóa – 1989); một của chính Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương (trong Từ điển tục ngữ Việt-NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh-2012). Kết quả (theo bài báo): cách giảng giải của Nguyễn Đức Dương được các em học sinh đánh dấu “thích” chiếm tỉ lệ áp đảo so với GS Nguyễn Lân. Nguyễn Đức Dương (NĐD) đi đến kết luận: “Nhận
xét cuối cùng xin để bạn đọc tự đưa ra. Riêng về phần mình, chúng tôi
chỉ có một nhận xét nhỏ: Làm cho nội dung của các đơn vị tục ngữ vốn vô
giá của chúng ta sai lệch đi tới mức ấy thì ít người ưa và lắm người
ghét âu cũng là chuyện thường. Chẳng phải vô cớ mà người xưa hay dặn:
“Tiên trách kỷ; hậu trách nhân”(Nên tự trách mình trước khi trách
người)”.
Việc làm trên của TS Nguyễn Đức Dương thể hiện tâm huyết, trách nhiệm
cao của một Nhà ngữ học lão thành đối với thế hệ trẻ. Nhưng tiếc thay,
chính ông lại quên mất lời “người xưa hay dặn”. Bởi GS Nguyễn Lân
giải thích sai đã đành, đến lượt mình, Nguyễn Đức Dương lại mắc phải
cái sai kiểu khác, không kém phần nghiêm trọng. Sau đây là một phần nhỏ những sai lầm trong cuốn Từ điển tục ngữ Việt
của Nguyễn Đức Dương, kể cả những câu được nhà ngữ học xem là chuẩn
mực, đem ra làm mẫu cho các em học sinh, qua đó phê phán GS Nguyễn Lân.
Những câu in đậm, in nghiêng của Nguyễn Đức Dương. Nội dung gạch đầu dòng là trao đổi lại của Hoàng Tuấn Công:
Ăn khi đói; nói khi say
Ăn là chuyện hay diễn ra khi bụng đói; nói là chuyện hay diễn ra khi đã ngà ngà say.
-Đối
với loài vật, chúng chỉ ăn khi đói (theo bản năng). Nhưng với con
người, chúng ta còn ăn để thưởng thức, ăn cho vui, ăn để giao lưu, kết
tình bạn bè… Ba ngày Tết, bụng không đói, mồm chẳng thèm, thế mà người
ta vẫn ăn. Thậm chí ăn rất nhiều món, nhiều thứ. Còn khi “đã ngà ngà say”
có người nói nhiều, nhưng không ít người lại im thít, hoặc lăn ra ngủ
tít thò lò ! Cái “chân lý” mà Nhà ngữ học đưa ra thật khó đứng vững. Vả
lại, giải thích như vậy thì còn gì là tục ngữ nữa ? Thử hỏi ta học được
gì qua cách giải thích của N.Đ.D ? Tục ngữ là tri thức, là kinh nghiệm
cơ mà ?
Câu tục ngữ đang bàn khuyên người ta cần thận trọng trong ăn và nói, đặc biệt là lúc đói và lúc say. Ăn lúc đói có thể không làm chủ được bản thân, ăn hỗn, ăn tham làm mất tư cách con người (Miếng ăn là miếng nhục-Tục ngữ); hoặc khi đói ăn không kịp nhai, ăn uống bậy bạ, dễ sinh bệnh tật. Nói lúc say (Rượu vào lời ra, Nói với người say như vay không trả-Tục ngữ) dễ
sinh ra nói càn, nói bậy, phạm sai lầm, mắc lỗi đáng tiếc. Cách giải
thích “tự nhiên chủ nghĩa” của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương khiến câu
tục ngữ bị mất đi giá trị vốn có của nó là giáo dục, răn đời sâu sắc.
Ăn vụng không biết chùi mép
Đã ăn vụng lại còn chẳng biết chùi mép (thì quả là dại dột hết chỗ nói). Hay dùng để nhắc mọi người hãy nhớ chùi kỹ mép sau khi ăn vụng xong (cho khỏi bị phát giác).
-Cứ theo cách lý giải này, tục ngữ khuyên dạy “mọi người” (trong đó chắc hẳn có tôi, chúng ta và cả… nhà ngữ học ?!) “nhớ chùi kỹ mép sau khi ăn vụng xong” (!) để sao cho trót lọt, “cho khỏi bị phát giác” (!) Hóa ra tục ngữ cũng dạy kinh nghiệm ăn vụng thế nào cho khéo ư ?
Thực ra, đây là một câu chửi, câu phê phán, chế giễu, mỉa mai kẻ làm chuyện vụng trộm, bất chính nhưng lại hớ hênh, để lại chứng cứ, dấu vết quá rõ ràng khiến người đời cười chê.
Ba tháng con sẩy, bẩy tháng con sa
Mới ba tháng mà đã sinh (thì gọi là) con sẩy, mới bẩy tháng mà đã sinh (thì gọi là) con sa.
-Dân gian không có ý dùng tục ngữ để giải nghĩa từ vựng “con sẩy” và “con sa” trong tiếng tiếng Việt.
“Ba tháng con sẩy, bẩy tháng con sa”
là câu tục ngữ đúc kết kinh nghiệm dưỡng thai, an thai của dân gian (mà
đến nay đã được khoa học chứng minh): trong ba tháng đầu thai kỳ, người
mẹ thường dễ bị sẩy thai nhất. Bởi vậy trong thời kỳ này, chuyện đi
đứng, sinh hoạt, thai phụ phải kiêng khem cẩn thận. (Đông y có bài thuốc
“an thai”, Tây y cũng có liệu pháp điều trị chống sẩy thai). Vượt qua
được thời kỳ 3 tháng đầu, thai nhi sẽ ổn định hơn. Tuy nhiên đến tháng
thứ 7, thai phụ lại rất dễ bị đẻ non (con sa). Do đó từ tháng thứ 7
người mẹ cũng phải cẩn trọng trong đi đứng, sinh hoạt để tránh bị sinh
non. Ba tháng con sẩy, bảy tháng con sa là vậy đó.
Báng đầu thằng trọc phải nể lòng ông sư
Cốc (vào) sọ những kẻ đầu trọc thì phải nể lòng ông sư (vì đầu ông sư cũng trọc).
-Từ “báng” cũng có một nghĩa là “cốc”. Tuy nhiên, trong câu tục ngữ trên, “cốc” không thể hiểu là “cốc (vào) sọ” được. Nếu “cốc” vào đầu kẻ trọc thì kẻ trọc chịu đau, đâu ảnh hưởng gì đến ông sư ? Báng ( 謗) là từ Hán-Việt có nghĩa là: báng bổ, mỉa mai,lên tiếng chê bai, xúc phạm đến hình ảnh hoặc những điều đối với người khác là linh thiêng. Câu này có ý khuyên mọi người nên thận trọng khi ăn nói, nhất là những lời có ý báng bổ, xúc phạm kẻ khác.
Bạng duật tương trì ngư ông đắc lợi
Trai
và cò mà tranh ăn với nhau thì kẻ được hưởng lợi thường là ông đánh cá
(vốn được mời đứng ra phân xử vụ tranh chấp). Hay dùng để khuyên mọi
người chớ có tranh ăn với nhau mà dễ bị kẻ ngoài cuộc đoạt mất.
-Sẽ thật không phải nếu dám coi thường nhà ngữ học – TS Nguyễn Đức Dương chưa hề biết đến điển cố“Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi”.Tuy nhiên, việc TS giải thích sai câu tục ngữ này lại nói lên điều đó.
Ở đây không có chuyện “trai và cò tranh ăn với nhau”, càng không có chuyện ông đánh cá “vốn được mời đứng ra phân xử vụ tranh chấp”. Điển cố này tóm tắt: Theo Chiến quốc sách,
một hôm con trai mở miệng phơi nắng trên bãi cát, cò đi kiếm mồi, mổ
ngay vào ruột con trai, trai liền khép chặt hai mảnh vỏ lại. Cò và trai
cùng giằng nhau mãi, không con nào chịu nhường con nào, lão đánh cá đi
qua thấy vậy liền chộp được cả hai (Điển Cố văn học - Nhà XB Khoa học xã hội – Hà Nội 1977).“Tương trì” nghĩa là níu giữ, giằng co nhau, không phải là “tranh ăn”như
soạn giả giải thích. Lẽ nào nhà ngữ học không biết đến cả mấy câu ca
dao diễn dịch rất hay câu chuyện này: “Cái cò mà mổ cái trai, Cái trai
quặp lại lại nhai cái cò, Ngư ông bước tới lò dò, Giơ tay chộp lấy cả cò
lẫn trai” ?!)
Cà làng Hạc ăn gãy răng; khoai làng Lăng ăn tắc cổ
Cà làng Hạc (rắn tới độ) có thể làm gãy cả răng khi nhai; khoai làng Lăng (cứng tới độ) có thể làm tắc cả cổ khi nuốt.
-Lẽ nào nhà ngữ học lại không hiểu lời ăn tiếng nói của dân gian ? “Gãy răng” và “tắc cổ”
chỉ là cách nói ngoa dụ mà thôi. Cà làng Hạc (nay thuộc TP Thanh Hoá)
là thứ cà màu trắng, ăn rất giòn. Khi cắn, âm thanh quả cà vỡ ra, giòn
tan, khiến người ta tưởng như hàm răng người ăn cà cũng gãy ra, vỡ theo đánh “đốp”. (Còn có giống cà quả nhỏ, mầu trắng, ăn giòn tan như “pháo” nên gọi là cà pháo).
Làng Lăng (làng Linh Lộ-xã Quảng Hợp-Quảng Xương- Thanh Hóa) có giống
khoai tên là Ô Xập, lá chia nhiều thùy hình chân vịt, củ tròn, bột trắng
xóa từ ngoài vào trong nên khi ăn thường bị nghẹn, cảm tưởng như cổ bị tắc lại. Câu tục ngữ này ngợi ca hai sản vật cà và khoai đều ngon, quý, không phải chê“rắn” và “cứng tới độ” ăn “gãy răng khi nhai” và “tắc cả cổ khi nuốt” như soạn giả lầm tưởng.
Chiêm khê; mùa thối
(Tình trạng hay gặp ở vùng chiêm trũng là đất gieo trồng) trong vụ chiêm hay bị khê; trong vụ mùa hay bị thối.
-Từ “khê” được Nguyễn Đức Dương giải thích “Khê (Đất phơi ải) chẳng tài nào khô nỏ và tơi xốp nổi (do ít được dãi dầu cùng nắng gió)”. Và chữ “Thối (Đất làm dầm) chẳng tài nào nhuyễn ra nổi (do nước mất hết khả năng ngấm sâu vào đất).
Loại đất cày ải không đủ thời gian hoặc điều kiện thời tiết làm cho khô nỏ, người ta gọi là ải thâm, không ai gọi đất “khê”(Ải thâm không bằng dầm ngấu) Nếu đất “không tài nào nhuyễn ra nổi” nguyên do “nước mất hết khả năng ngấm sâu vào đất” thì sao gọi là “thối” được ?
Câu
tục ngữ trên nói về khó khăn của vùng đất không chủ động được tưới
tiêu.Vụ chiêm (gắn với mùa khô) chỉ trông chờ vào nước trời, nên đất đai, cây trồng thường bị “khê” – khô cháy (“khê” - trong từ cơm khê – cơm bị cháy khét).
Vụ mùa (gắn với mùa mưa lũ) hệ thống tiêu nước kém nên đất đai và cây
trồng bị ngâm đến thối trong nước lũ. Bởi thế đối tượng mà tục ngữ nói
đến ở đây không chỉ là đất gieo trồng (như NĐD giải thích) mà bao gồm cả
cây trồng trên đất ấy (cụ thể là cây lúa nước).
Thực ra câu tục ngữ “Chiêm khê, mùa thối” chỉ là cách nói hình tượng hơn câu “Chiêm khô; mùa úng”
mà nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương dẫn ra ngay sau đó. Tuy nhiên, soạn giả
lại tìm ra một cách giải thích khác, kèm thêm một cái sai khác: “Chiêm khô; mùa úng(Tiết trời hay gặp) khi làm chiêm là hanh khô (vì ít mưa); khi làm mùa là úng ngập (vì mưa nhiều)”.
Theo cách giải thích này, Nhà ngữ học đã biến câu tục ngữ nói về nỗi
khổ cực của người trồng lúa trên vùng đất canh tác khó khăn thành câu
tục ngữ có nội dung nhận xét về đặc điểm “thời tiết hay gặp” của vụ chiêm và vụ mùa.
Đám cưới chọn ngày; đi cày chọn hướng
(Làm) đám cưới thì nhớ chọn ngày (lành); cho trâu ra đồng đi cày thì nhớ chọn hướng (vượng).
-Làm đám cưới “chọn ngày (lành)” thì đúng rồi. Nhưng “cho trâu ra đồng đi cày” cũng phải “nhớ chọn hướng (vượng)”
mới cày thì nghe kỳ dị quá ! Nếu vậy, muốn trở thành thợ cày, người ta
phải đi học thày phong thủy trước đã; và khi ra đồng, ngoài con trâu,
cái cày, bác nông dân còn phải kè kè thêm cái la bàn ? !
Sản
xuất nông nghiệp Việt Nam manh mún, nhỏ lẻ. Ruộng thì vuông, ruộng hình
chữ nhật, ruộng xéo, gẫy góc, đủ mọi hình thù. Đường cày đầu tiên sẽ là
đường quyết định cho tất cả đường cày, luống cày tiếp theo. Do đó, phải
chọn hướng để cày, sao cho có được nhiều đường cày dài, trâu ít phải
quay đầu, đồng nghĩa ít phải cuốc bờ, cuốc góc. “Đi cày chọn hướng” chỉ đơn giản vậy thôi.
Đất sỏi có chạch vàng
Đất chỉ toàn là sỏi với đá, nhưng sinh sống bên dưới lại là những con chạch bằng vàng.
-“Chạch vàng” ở đây không phải là “những con chạch bằng vàng” mà là những con chạch béo vàng-thứ chạch thường sinh sống dưới đất bùn có nhiều màu mỡ.
Đóm ăn ra; tim la ăn vào
Đóm là thứ hay cháy theo hướng từ trong ra: tim la là chứng hay ăn theo hướng từ ngoài vào.
-Có thể dễ dàng nhận ra soạn giả chép nhầm từ “đom” thành “đóm” rồi giải nghĩa từ vựng, diễn giải nội dung tục ngữ rất khiên cưỡng. Tại sao bỗng đâu đem chuyện đóm cháy so sánh với bệnh tim la ? Mặt khác khi cố tình lý giải “đóm là thứ hay cháy theo hướng từ trong ra ngoài” cho
hợp với từ chép nhầm khiến đã sai càng thêm sai. Khi đóm cháy, ngọn lửa
lan dần từ ngoài vào phía trong (phía tay người cầm đóm) đâu có cháy từ
phía trong tay người cháy ra ngoài ? Sai sót này xuất phát từ chỗ soạn
giả không hiểu quy luật cấu trúc từ của tục ngữ, thành ngữ dân gian. (Giống trường hợp câu Áo cứ tràng, làng cứ xã bị GS Nguyễn Lân chép nhầm thành Áo cứ chàng, làng cứ xã , mà chính Nguyễn Đức Dương đã từng phê phán trong phần phụ lục Từ điển tục ngữ Việt).
Đom (là cách gọi tắt bệnh lòi đom hay lòi dom) cũng là tên gọi khác của bệnh trĩ. Bệnh này là chứng sa trực tràng, phát triển theo chiều hướng “ăn ra”, tức ngày càng lòi (lồi) ra ngoài hậu môn. Còn bệnh “tim la” (hay tiêm la hoặc xiêm la, bệnh lậu) lại xâm nhập (chủ yếu qua đường tình dục, đường máu…) rồi ăn sâu vào lục phủ ngũ tạng, không nhìn thấy được. Như vậy lòi đom và tim la đều là hai chứng bệnh. Câu “Đóm cháy ăn ra; tim la ăn vào” (thêm chữ “cháy”) Nguyễn Đức Dương dẫn ra ngay sau đó và cho rằng đồng nghĩa với“Đóm ăn ra; tim là ăn vào”, chẳng qua chỉ là một dị bản ngụy tạo, mục đích cố chứng minh cho cái vô lý của “Đóm ăn ra, tim la ăn vào” mà thôi.
Đói giỗ cha; no ba ngày tết
Hay
bị đói là vào dịp giỗ cha (vì đâu còn lúc nào mà nghĩ tới chuyện ăn
trong khi đang mải lo chuyện cúng giỗ); hay được ăn no là vào dịp ba
ngày Tết (vì đó là một thông lệ vốn có tự ngàn xưa)
-Không phải “hay đói là vào dịp giỗ cha”. Chẳng có ở đâu phong tục làm giỗ cha lại theo quy luật như thế. Giỗ cha là dịp lễ trọng (Trâu bò được ngày phá đỗ, cón cháu được bữa giỗ ông - tục ngữ). Nếu “đói vì mải lo chuyện cúng giỗ” thì cúng xong cũng phải được ăn chứ ? Tục ngữ có câu “Trước cúng cha sau va vô miệng” cơ mà ? (Chữ va có tính chất hài hước, ý chỉ con cháu ăn uống thực sự sau khi cúng giỗ). Thực
ra, câu tục ngữ “Đói giỗ cha, no ba ngày Tết” được hiểu như sau: Ngày
giỗ cha rất quan trọng, nhưng không dứt khoát phải cỗ bàn thịnh soạn.
Gặp năm mùa màng thất bát, đói kém, chiến tranh loạn lạc thì ngày giỗ
cha có khi chỉ có nén hương, chén nước, bát cơm, quả trứng gọi là nhớ
ngày kỵ. Như thế không có gì là trái đạo lý. Bởi tín ngưỡng thờ cúng của
người Việt không câu nệ mâm cao cỗ đầy, “Bắt thiếu giỗ, không ai bắt cỗ
lưng”. Thế nhưng ba ngày Tết lại là chuyện khác. Người ta có thể túng
thiếu, quanh năm nhịn đói, nhịn thèm, nhưng ba ngày Tết cũng phải chạy
vạy bằng được để ít nhất không được ăn ngon cũng phải ăn no. Thế nên có
câu “Giàu hay nghèo, ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà”. Tết đến
người ta không chỉ ăn cho no bụng mà còn ăn để lấy may cả năm. Ngày Tết
được ăn ngon, ăn no, mặc đẹp, vui vẻ, nhàn hạ thì hy vọng cả năm cũng sẽ
được như vậy. Tóm lại, câu tục ngữ đưa ra ngày quan trọng (giỗ cha) để
so sánh, khẳng định một ngày khác quan trọng hơn: Tết là ngày quan trọng nhất trong tất cả những dịp lễ quan trọng trong năm; Có thể bị đói vào ngày giỗ cha nhưng ba ngày Tết dứt khoát phải được no. Ta còn bắt gặp cách nói này của dân gian trong câu “Cha chết không lo bằng gái to trong nhà”. Thực tế “cha chết” là đại tang, việc lớn lắm. Thế mà dân gian lại đem so sánh và cho rằng không bằng chuyện “gái to trong nhà”. Thủ
pháp này cũng nhằm gửi đến một thông điệp, kinh nghiệm: có con gái lớn
đến tuổi lập gia đình ở trong nhà là nỗi lo lắng lớn, (ví như lo quá lứa
lỡ thì, lo chẳng may “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”, chửa hoang, tai
tiếng…) Sẽ là việc làm khá hài hước nếu chúng ta thắc mắc và cố đi tìm
nguyên nhân tại sao, ở đâu lại có chuyện coi thường việc “cha chết” như
vậy.
Tham khảo: Về câu “Đói giỗ cha no ba ngày Tết”, trên Báo Lao động Cuối tuần (7/1/2012), mục “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” PGS TS Phạm Văn Tình cho biết: “bản
thân tôi nhiều lúc cũng không rõ nguyên do từ đâu dẫn đến câu tục ngữ
này. Hầu hết các sách sưu tầm văn hoá dân gian chỉ thống kê chứ chưa
giải thích kỹ câu đó (…). Đầu năm 2010, khi cuốn “Từ điển tục ngữ Việt”
(Nguyễn Đức Dương, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2010) xuất bản, tôi vội
vã tra ngay”. Theo PGS TS Phạm Văn Tình “cách cắt nghĩa như vậy (tức cách giải thích của Nguyễn Đức Dương-HTC) cũng chưa thật rõ ý”. Thế là PGS TS Phạm Văn Tình đã phải đi làm cuộc “điền dã” không cần thiết theo cách “hỏi
các cụ cao niên ở nhiều nơi tôi qua (Đông Cứu, Gia Lương, Hà Bắc; Yên
Xá, Ý Yên, Nam Định; Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ, Thái Bình…)” để
được các cụ giải thích tại sao lại đói vào ngày giỗ cha rất dài dòng.
Theo đó, cách giải thích của PGS TS Phạm Văn Tình công phu hơn nhưng
cũng không ngoài một số nguyên nhân là phải lo chuyện lễ lạt, cúng cấp,
tiếp khách…nên bị đói vào ngày giỗ cha như TS Nguyễn Đức Dương. Việc làm
này khác nào cất công đi tìm hiểu xem ở đâu, tại sao lại có chuyện “Cha chết không lo bằng gái to trong nhà”.
Đói no vua bếp hay; đắng cay bà gừng biết
Cả
khi đói lẫn khi no vua bếp đều biết tường tận; cả khi khỏe mạnh lẫn khi
ốm đau bà gừng đều biết rõ hết. Hay dùng để ngợi khen lòng cảm thông
sâu sắc của ông Táo và củ gừng đối với thân phận của người nghèo ở nông
thôn hồi trước.
-Nguyễn Đức Dương chú thích: “Bà gừng. Tên dân gian hay dùng để gọi củ gừng theo lối ẩn dụ, vị thầy thuốc tài ba vẫn cứu giúp người dân quê nghèo trong việc chạy chữa mọi thứ bệnh tật“.
Cách
giải nghĩa và chú thích nghe thật mùi mẫn. Thế nhưng, đó chỉ là lời
“tán” vô căn cứ. Nghĩa đen của câu thành ngữ này là: Ông Bếp phụ trách
việc bếp núc nên gia chủ đói hay no, nấu nướng ăn uống món gì đều không
giấu được. Còn “bà Gừng” thường được
dùng để “làm thang” cho ấm thuốc Bắc (cắt ba lát gừng bỏ chung với ấm
thuốc để đun). Vì “nằm” ngay trong siêu thuốc suốt quá trình sắc nên
thuốc đắng hay cay “bà gừng đều biết” cả, không thể giấu được. Và
vai trò của “bà gừng” chỉ là phụ gia dẫn thuốc, để tăng công hiệu của
thuốc. Không nên vì không hiểu mà tâng bốc “bả” thành “vị thầy thuốc tài ba vẫn cứu giúp người dân quê nghèo trong việc chạy chữa mọi thứ bệnh tật” (!) Nghĩa bóng câu thành ngữ này là: Không thể giấu giếm được sự thật; Sự thật sẽ được xác minh bởi những người trong cuộc.
Đừng chờm mà có ngày chấn móng
Đừng (xây tường vách) chờm (ra quá xa chân móng đỡ nó) mà có ngày sẽ bị chấn móng.
-“Chấn móng” được Nguyễn Đức Dương chú thích: “(Tường vách) bị gãy gập lại ngay tại nơi tường, vách tiếp giáp với chân móng”. Thế nhưng như thế là tường bị đổ chứ móng đâu có chấn ? Hơn nữa, nếu giải thích theo hướng này thì “chờm” (vần ch) phải thay bằng “trờm” (vần tr) mới đúng. Việt Nam tự điển giải nghĩa: “Trờm: Thừa ra, trùm lên cái khác. Tóc trờm quá tai, Vung trờm miệng nồi”. Đây là “chờm”
kia mà ? Cách giải thích của Nguyễn Đức Dương không thể đứng vững, bởi
nội dung tục ngữ chẳng liên quan gì đến chuyện xây dựng tường vách. Đại Nam Quấc âm tự vị (Huình Tịnh Paulus Của) giải thích từ chờm: “Chờm: nhảy dựng, nhảy xơm mà chụp… Ngựa chờm- Ngựa dựng lên mà chụp”. Và xin tham khảo Việt Nam tự điểngiải nghĩa một số từ có trong câu tục ngữ đang bàn: “Chờm: Cũng như chồm (…) Móng: Móng chân móng tay, móng lừa móng ngựa (…) Chấn: Xén, cắt bớt đi: Chấn móng ngựa”. Như vậy, từ chỗ lầm lẫn “chờm” (động từ) với trờm (tính từ) rồi lại giảng sai nghĩa từ vựng của “chờm”, Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương đã cho cái móng ngựa đi xa cả ngàn dặm rồi biến thành cái…móng nhà (!) Câu Đừng chờm mà có ngày chấn móng theo nghĩa đen là lời đe nẹt đối với con ngựa bất kham: Đừng nhảy chồm lên mà có ngày bị chấn (cắt, xén) bớt móng đi (do nhảy chồm nhiều móng bị bè, bẹt ra). Hiểu theo nghĩa bóng: đây là lời răn đe, cảnh cáo đối với kẻ ương bướng, ưa phá phách, sẽ có ngày tự mình làm hại mình.
Gà kị hổ mang; lúa kị màng rạp
Gà
là giống rất kỵ rắn hổ mang (tới độ dễ bị chột đi sau khi bị giống rắn
ấy “thổi”); lúa là giống rất kỵ màng rạp (tới độ khó mà trổ nổi sau khi
bị lũ rầy ấy ập tới hút nhựa)
-Nguyễn Đức Dương chú thích: “Màng rạp dt. Tên dân gian hay dùng để chỉ giống rầy chuyên hút nhựa từ lá lúa khiến lá bị đen đi và không sao làm nổi đòng”.
Giải thích như vậy là không hiểu tập tính sinh trưởng và sự gây hại của con sâu rầy thế nào. Con rầy không bao giờ “hút nhựa từ lá lúa”. Vì nhựa (chất dinh dưỡng của lúa) không tập trung ở lá mà ở thân, bẹ lúa. Thứ hai “lũ rầy” không “đánh tập kích” kiểu “ập tới hút nhựa” giống như đàn chim mà chúng di trú ngay tại ruộng, đẻ trứng, sinh sôi nảy nở, lứa nọ gối lứa kia (gọi là rầy gối lứa)
và thi nhau chích hút ở phần thân dưới gốc lúa. Thế nên khi phun thuốc
diệt rầy, người ta phải rẽ lúa thành băng, đưa trực tiếp vòi phun xuống
gốc lúa để thuốc tiếp xúc trực tiếp với con rầy chứ không phun trên bề
mặt của lá lúa. Nếu bị rầy hại nặng ở thời kỳ nào, cây lúa sẽ bị chết khô giống như hơ vào lửa (gọi là cháy rầy). Đâu phải chỉ “khiến lá bị đen đi và không sao làm nổi đòng” hay “khó mà trổ nổi” như cách giải thích của nhà ngữ học. Còn cái thứ hại mà “khiến lá bị đen đi” chính là do giống rệp muội đen chứ không phải rầy.
Rệp chích hút nhựa cây, chất thải của chúng tiếp tục được một loại nấm
cộng sinh tạo thành lớp phấn màu đen phủ kín lá cây, nên gọi là rệp muội đen. Và rệp muội đen thường gây hại trên cây trồng cạn như: cây ăn quả, mía, chuối, cam quýt …chứ không phải cây lúa nước.
Mài mực dỗ con: mài son đánh giặc
Mài mực (nho là việc dễ làm còn hơn cả) dỗ con; mài son (cục là việc khó làm còn hơn cả) cầm quân đánh giặc.
Mài mực ru con, mài son đánh giặc
Mài mực (nho là việc dễ làm còn hơn cả) ru con; mài son (cục là việc khó làm còn hơn cả) cầm quân đi đánh giặc.
-Nguyễn Đức Dương giải thích câu này không đến nỗi sai lạc nghiêm trọng như GS Nguyễn Lân: “Mài mực ru con, mài son đánh giặc. Nói
các ông đồ ngày xưa ngày thường ngồi dạy học đồng thời giúp vợ làm việc
vặt trong nhà, nhưng khi có giặc thì tham gia phục vụ quân sự” (Từ điển Thành ngữ tục ngữ Việt Nam-NXB Văn hóa thông tin-1989) Nhưng soạn giả Nguyễn Đức Dương lại mắc phải cái sai kiểu khác.
Xin
hỏi, trẻ nhỏ mà quấy khóc, dỗ được nó nín, ru cho nó ngủ đâu dễ tới mức
có thể đem so sánh với những việc làm dễ nhất trên đời ? Tục ngữ cũng
đâu nói “dễ làm còn hơn cả” ru con, hay “khó làm còn hơn cả” đánh giặc. Hơn nữa, mài mực nho đâu có dễ ?
Câu tục ngữ “Mài mực ru con, mài son đánh giặc” được diễn giải là: Mài mực phải mài nhẹ nhàng giống như ru con (hoặc dỗ con); mài son phải mài mạnh mẽ giống như đi đánh giặc. Bởi
vì, mực tàu đóng thành thỏi rất rắn, nhưng khi mài lại không được phép
mạnh tay. Nếu sốt ruột, mài mạnh tay cho nhanh, mực sẽ không mịn, sinh
ra lắm hạt sạn nhỏ; khi viết ngọn bút bị xơ, nét bút không đẹp. Ngược
lại, nếu mài nhẹ nhàng, từ từ, êm ái (như “ru con”) mực trong
thỏi sẽ ngấm dần, hoà tan, quyện với nước, cho một thứ mực mịn màng,
sóng sánh, khi viết đầu bút chụm lại, bút lông có độ đàn hồi tốt và nét
bút không bị xơ, cứng, mặt chữ bóng, đẹp. Còn đối với mài son. Xưa kia,
người ta thường lấy các loại đá có màu đỏ trong tự nhiên để làm son, rất
rắn. Tuy nhiên, son không yêu cầu mịn như mực, bởi thông thường người
ta không dùng son để viết chữ mà chỉ dùng để phê, khuyên, đánh dấu hoặc
đóng ấn, triện. Do đó, khi mài son được phép mài (và phải mài) mạnh tay
mới được (mạnh mẽ như đi “đánh giặc” vậy). Việc mài mực rất quan
trọng. Chuyện kể rằng, xưa có người ở làng Hạc Oa (nay thuộc TP Thanh
Hóa) chuyên mài mực cho Tổng đốc Thanh Hóa Vương Duy Trinh, sau được hàm
Cửu phẩm, gọi là ông Cửu Mặc (ông Cửu phẩm mài mực).
Mâm cao đánh ngã bát đầy
Mâm cỗ bày lắm món đặt chồng lên nhau bao giờ cũng đánh bại dễ dàng các mâm cỗ chỉ bày vài ba món dù đĩa nào cũng được đơm rất đầy. Hay dùng để chỉ rõ một lẽ thật: “Mâm cỗ bày lắm món bao giờ trông cũng bắt mắt hơn là mâm cỗ chỉ bày vài ba món được đơm đầy”.
-Giải thích như vậy câu tục ngữ trở nên tầm thường quá. Cần chú ý hai khái niệm: mâm cao và bát đầy. Mâm cao
là mâm được dọn ra ở vị trí cao (sang) nhất thường dành cho các vị chức
sắc, các cụ cao niên hoặc người được tôn trọng trong làng xã (hay đình
đám). Còn bát đầy được hiểu là đồ ăn thức uống không được dọn thành mâm (cỗ) mục đích chỉ cốt ăn uống cho no bụng. Do đó, cái “mâm cao” sang trọng giữa làng vẫn được người ta thích hơn là cái bát đầy ở xó bếp. Vì “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp” kia mà ! Dân gian còn có câu: “Mâm cao, cỗ đầy”, nghĩa là được cả danh và lợi: vừa sang trọng về vị trí, vừa thịnh soạn về các món ăn. Chữ “mâm cao” ở đây chính là mâm cao trong câu “Mâm cao đánh ngã bát đầy” chứ không phải là “mâm cỗ bày lắm món đặt chồng lên nhau” như cách giải thích của nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương.
Mẻ không ăn cũng chết
Mẻ
mà chẳng ăn thì cũng chết (nên có để dành được đâu mà cố để giành) Hay
dùng để khuyên mọi người chớ có dè sẻn những thứ không thể để giành
được mà uổng công.
-Thực ra ở đây là mẻ không được ăn chứ không phải không ăn đến mẻ. Mẻ không phải là loại gia vị thiết yếu.
Cho nên người ta chỉ nuôi mẻ bằng cơm nguội, cơm thừa, thậm chí cơm đã
có mùi thiu mới đem cho mẻ (ngày xưa hiếm lương thực). Nếu thừa cơm thì
cho mẻ ăn, không thừa thì thôi. Thế nên có câu thành ngữ Coi như mẻ (xem thường, xem khinh ai đó giống như mẻ). Có vẻ như mẻ thật dễ tính, ăn cũng được, không ăn cũng không sao.
Tuy nhiên, thực tế, nếu mẻ không được ăn trong thời gian dài, lọ mẻ hết
chất tinh bột để vi khuẩn gây men hoạt động thì mẻ cũng chết như
thường. Câu tục ngữ trên đề cao tầm
quan trọng nhu cầu ăn uống của tất cả mọi sinh vật. Ai cũng phải ăn uống
mới duy trì được sự sống. Vì đến dễ tính như mẻ kia không ăn cũng chết
cơ mà !
Mồ cha chẳng khóc khóc đống mối; mồ mẹ chẳng khóc khóc bối bòng bong.
Mồ
cha chẳng khóc, lại khóc mấy nấm đất do mối đùn; mồ của mẹ chẳng khóc,
lại khóc mấy cái búi bòng bong. Hay dùng để chê trách những kẻ quá tin
vào lời đám thầy địa lý/thầy cúng tới độ chỉ đi than khóc các thứ vớ
vẩn, mà chẳng thèm ngó ngàng gì tới mồ mả của cha mẹ mình.
-“Bòng bong” ở đây được nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương chú thích là “búi xơ vót ra từ các đôi đũa tre cắm trên bát cơm cúng đặt trên quan tài người mới chết”.
Nếu
chỉ dừng ở việc diễn giải tục ngữ thì đúng. Nhưng thêm mấy dòng chú
thích lại trở thành sai. Đũa tre cắm trên bát cơm cúng gọi là “đũa bông”
chứ không phải là “bòng bong”. Có một loại gọi là bòng bong là
phoi tre (kiểu như phoi bào nhưng dài mà mảnh hơn, quăn hơn) do người ta
vót nan tre, nứa để đan đồ đựng rồi vò thành đống. Có câu “Rối như búi
bòng bong” cơ mà ! Mấy cái xơ của đũa tre vót ra tuy cong tít nhưng một
đầu vẫn dính vào chiếc đũa nên xơ nào ra xơ ấy chứ đâu có rối ? Còn bòng bong
trong câu tục ngữ lại là một loại dây leo, hay mọc ở các bụi rậm, mầu
nâu, mảnh như sợi miến mà dai, quấn nhằng nhịt vào nhau. Câu “Rối như
bối bòng bong” cũng được dùng để chỉ loại bòng bong này.
Trở
lại với câu tục ngữ. Cái tổ mối đùn nó lùm lùm gần giống như một nấm
mồ vô chủ. Còn cái bụi rậm nhằng nhịt những búi (bối) bòng bong cũng tựa
như một ngôi mộ bịt thất lạc, lâu ngày hóa hoang rậm. Thế nên, ông thầy
đi tìm mộ mới chỉ vào đó để người ta khóc lóc, khấn vái, vì cứ ngỡ mộ
tổ tiên ông bà bấy lâu không ai chăm sóc. Còn nếu khóc búi “bòng bong” là “búi xơ vót ra từ các đôi đũa tre cắm trên bát cơm cúng đặt trên quan tài người mới chết”, thì lúc này con cháu đang than khóc chung quanh làm sao có thể nhầm ra mộ tổ tiên mình bị thất lạc được ?
Một ngôi sao một ao nước Mỗi một ngôi sao hiện ra trên bầu trời đêm hôm trước (là điềm ngày mai trời sẽ trút xuống mặt đất) một ao đầy nước mưa.
-Rất
khó chấp nhận cách giải thích trên của Nguyễn Đức Dương. Bởi theo kinh
nghiệm dân gian, nếu đêm hôm trước bầu trời đầy sao là dấu hiệu ngày mai
trời sẽ không một gợn mây, nắng chang chang. Đâu có chuyện ngược đời,
đêm hôm trước càng nhiều sao, ngày mai càng mưa lớn ?
Vậy,
câu tục ngữ của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương được hiểu như thế nào ?
Nói như dân gian “đến trời cũng không thể hiểu nổi”. Bởi hình thức chính
xác của câu tục ngữ là: Một sao, ao nước. Một sao nghĩa là không có ngôi sao nào. “Một” là từ Hán Việt có nghĩa như sau:
- “① Chìm đắm, bị nước tràn ngập gọi là một. ② Chết, mất rồi, có khi viết là 歿.③ Hết, như một thế 沒世 hết đời. ||④ Không có, chế người không biết chữ gọi là một tự bi 沒字碑 ý nói trong lòng không có một chữ nào. ⑤ Mất tích, như mai một 埋沒 vùi mất, dẫn một 泯沒 tan mất, v.v.” (Hán Việt tự điển-Thiều Chửu).
- “Một 沒: Không, không có (một hữu 沒有)① Chìm, lặn: một nhập thủy trung 沒入水中 Chìm xuống dưới nước;…③ Ẩn, mất: (xuất một 出沒 ẩn hiện” (Từ điển Hán Việt - Trần Văn Chánh, lược trích)
Nghĩa của từ “một” trong Hán văn là như vậy. Thế nhưng trong ngôn ngữ hàng ngày, hoặc câu kết hợp Hán + Nôm, người ta có dùng “một” với nghĩa là không có, ẩn giấu, chìm lấp, mất không ? Thưa là có:
- Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của : “Một 歿. Chết, mất: (…) “Làm tờ một hạ: làm giấy khai về sự bị ăn trộm, ăn cướp, cho làng làm chứng”.
- Việt Nam tự điển - Hội Khai Trí Tiến Đức : “Một 沒 mất (không dùng một mình) một tích, mai một. Một thú: mất thú: đi chơi không có bạn thật là một thú”.
Kết luận: từ “một” trong câu tục ngữ Một sao, ao nước được hiểu là vắng, không có, chìm mất, ẩn mất. Tục ngữ dùng “một” với ý là sao trời bị chìm lấp, bị che lấp đi bởi mây đen. Một sao, ao nước được hiểu: Nếu sao đêm bị mây đen che lấp hết thì ngày mai mưa to, ao chuôm đầy nước. (Dị bản nhìn sao để đoán thời tiết: Đông sao thì nắng, vắng sao thì mưa; Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa).
Như vậy, do người sưu tầm (hoặc chính do Nhà ngữ học) không hiểu tục ngữ “Một sao, ao nước” là gì nên tự ý chữa “một” (tính từ), thành “một” (số từ) và thêm ngôi cho “sao”: “Một ngôi sao, một ao nước”. Thế
nhưng tục ngữ chẳng những không dễ hiểu mà trở nên bế tắc về cách hiểu.
Cuối cùng soạn giả từ điển giải thích theo kiểu ngược đời, bất chấp
thực tế khách quan.
Lắm thầy rầy ma
Càng
có lắm thầy (cúng) bao nhiêu thì lũ ma càng kéo tới quấy rầy bấy nhiêu.
Hay dùng để khuyên mọi người chớ có tin những lời nhảm nhí của đám thầy
cúng về ma quỷ (vì đó đều là những trò lừa đảo chỉ cốt moi tiền).
Lắm thầy thối ma.
Càng
có lắm thầy (lang) bao nhiêu thì các con bệnh càng dễ hóa thành ma thêm
bấy nhiêu. Hay dùng để nhắc mọi người là chớ có tin vào các trò chữa
chạy của đám lang băm mà dễ bị mất mạng.
Lắm thầy thối ma; lắm cha con khó lấy chồng
Càng
có lắm thầy (lang) bao nhiêu thì các con bệnh càng dễ hóa thành ma thêm
bấy nhiêu; càng có lắm bậc làm cha (dự phần vào việc chọn chồng cho
con) bao nhiêu thì các con càng khó lấy chồng thêm bấy nhiêu.
-Hai dị bản “rầy ma” và “thối ma” là đồng nghĩa. Nhưng thật khó hiểu, “rầy ma”(lưu ý: khác ma rầy) được soạn giả giải thích là do “thầy cúng” mà“lũ ma kéo tới quấy rầy”, còn “thối ma”lại được giải thích là do “thầy lang” nên“các con bệnh dễ hóa thành ma”. (Con bệnh dù nặng đến mấy, khi chưa chết cũng không thể gọi là ma được). Và điều quan trọng cả hai cách hiểu này đều sai.
Câu Lắm thầy rầy ma, hay Lắm thầy thối ma đều liên quan đến cùng một “thầy” đó là thầy cúng. Nghĩa đen được hiểu: khi một người chết (không phải con bệnh như cách hiểu của NĐD) nằm đó, nếu để cho nhiều thầy cúng
xem ngày giờ đưa ma, hay chọn huyệt để táng sẽ rất phiền hà. Vì thầy
này nói được, thầy kia nói không, lắm ý kiến khác nhau, hậu quả người
chết cứ nằm đó, muốn yên thân, mồ yên mả đẹp cũng không xong. Rầy ma là như thế. Thậm
chí khi thầy phán chưa chọn được giờ tốt, ngày tốt thì người chết cứ
nằm đó đợi, đến mức xác chết bắt đầu phân hủy (thối) còn chưa được chôn.
Thối ma là như vậy.
Đất sỏi có chạch vàng
Đất chỉ toàn là sỏi với đá, nhưng sinh sống bên dưới lại là những con chạch bằng vàng.
-Có ai đúc chạch “bằng vàng” yểm dưới đất sỏi chăng ? Xin thưa“Chạch vàng” ở đây không phải là “những con chạch bằng vàng” mà là những con chạch béo vàng-thứ
chạch thường sinh sống dưới đất bùn có nhiều màu mỡ. Ở đây, đất sỏi mà
lại vẫn có chạch vàng như thường.Ý dân gian muốn nói đến vùng đất tuy
khô cằn, nghèo khó nhưng lại sinh ra những nhân tài kiệt xuất, hoặc sản
vật nổi tiếng.
Trong Từ điển tục ngữ Việt có những câu soạn giả suy diễn sai hoàn toàn. Ví dụ:
Kẻ ăn rươi người chịu bão
Kẻ muốn ăn rươi nhưng lại bắt người khác phải dầm mưa bão để vớt về cho mình. Hay dùng với ẩn ý: nh. Ngồi mát ăn bát vàng.
-Không ai đi “dầm mưa bão để vớt rươi”
cả. Rươi là giống rất mẫn cảm với thời tiết, nên bao giờ nó cũng từ
dưới bùn sâu chui lên trước khi thời tiết thay đổi. Giống rươi lại phải
thật tươi ăn mới ngon. Thế nên, bắt đầu có rươi là dân đồng sác nhao ra
đồng vớt ngay. Nếu gặp phiên chợ thì gánh chạy cho nhanh để kịp bán khi
rươi còn sống, bò lúc nhúc. Bằng không cũng phải gánh vội đi bán ở các
làng xã lân cận cho kịp. Khi rươi ươn, vỡ bụng, chảy gạch ra coi như
hỏng. Thường người ta vớt được rươi lên, hoặc mua rươi về nấu ăn xong,
nửa ngày, hoặc một ngày sau đó mới nổi mưa gió trái mùa như hiện tượng
bão, gọi là “bão rươi” hoặc “mưa lấp lỗ rươi”. (Câu đố về rươi: Mỗi năm vài bận ra chơi, Làm cho lở đất long trời mới nghe). Chỉ
ít dân đồng sác và mấy xã lân cận là được ăn rươi (do số lượng có hạn
và rươi khó bảo quản để vận chuyển đi xa bán). Thế nhưng cả tỉnh, cả
huyện phải chịu chung cảnh thời tiết mưa bão ấy. Kẻ ăn rươi người chịu bão là như vậy.
Quạ ăn dưa bắt cò dãi nắng
Quạ muốn ăn dưa nhưng lại bắt cò phải dãi nắng (để kiếm dưa về cho mình). Hay dùng với ẩn ý: nh. Kẻ ăn rươi, người chịu bão.
-Trong thực tế nghĩa đen, làm gì có chuyện con quạ bắt con cò phải dãi nắng “để kiếm dưa về cho mình” ? Không nên suy diễn thay cho lời giải thích câu tục ngữ.
Quạ
là giống chim đa thực. Ngoài gà con, xác thối…chúng còn rất thích ăn
các thứ quả như mít, dưa hấu…(vào mùa mít rừng chín, chúng khoét vỏ,
chui đầu vào ăn, con nào con nấy đầu trọc lóc do bị nhựa mít “vặt” hết
lông). Chìa khóa để giải mã câu tục ngữ trên là “Nắng tốt dưa, mưa tốt
lúa”. Thời tiết nắng nhiều khiến quạ được chén những quả dưa ngọt lành.
Trong khi đó, cò không ăn được dưa (loài chim này chỉ ăn tôm tép, cá
con, côn trùng…) lại phải chịu chung đặc điểm thời tiết nắng nóng chang
chang ấy (đôi khi làm cạn nước, chết hết cá tôm, ảnh hưởng đến môi
trường kiếm ăn của cò).
Như vậy, hai câu “Kẻ ăn rươi, người chịu bão” và “Quạ ăn dưa, bắt cò dãi nắng” ý
nói: lợi ích hoặc hoàn cảnh thuận lợi của (nhóm) người này, đôi khi (vô
tình) gây trở ngại, khó khăn đối với (nhóm) người khác. Ví như mùa hè
nắng nóng kéo dài, dân kinh doanh du lịch biển “hốt bạc”. Trong khi
người thường hoặc nông dân cày cấy lại “lãnh đủ”. Không thể hiểu và
dùng với ẩn ý “Ngồi mát ăn bát vàng” như Nguyễn Đức Dương giải thích.
Quan họ thịt gà; giỗ cha thịt ếch
(Thết các liền anh liền chị trong làng) quan họ thì nên dùng thịt gà; (làm giỗ cho cha thì nên dùng thịt ếch).
-Cách
giải thích sai lầm nghiêm trọng. Trong các lễ vật dâng cúng, con gà
được xem là con vật hiến tế rất quan trọng. Thế nên, không có gà cúng,
người ta còn có thể thay bằng quả trứng gà. Gà hay xôi gà là lễ vật sang
trọng đối với cả người sống và người chết. Trong khi đó mặc dù thịt ếch
thơm ngon, trắng như thịt gà, dân gian hay gọi là gà đồng (gọi theo tên chữ của ếch là điền kê田雞).
Nhưng thịt ếch đâu có được coi là loại đồ ăn “ra tấm, ra miếng”; càng
không phải là phẩm vật dâng cúng thể hiện sự kính trọng đối với tiền
nhân. Do đó, giảng rằng: “(làm giỗ cho cha) thì nên dùng thịt ếch” là cách giải thích liều, không hiểu gì về phong tục tập quán của người Việt. Mặt khác các liền anh, liền chị trong làng quan họ thì liên quan gì đến giỗ cha ?
Thực ra, câu tục ngữ này có hình thức là: Con họ thịt gà; giỗ cha thịt ếch. Cách phát âm của người Thanh Hóa, con phát âm gần giống như cu…ân (quân). Con họ tức là con cháu trong họ. Vì không hiểu con họ là gì nên người sưu tầm tục ngữ (hoặc soạn giả) chữa “quân họ” (con họ) thành “quan họ”
rồi giảng sai hoàn toàn nội dung. Câu tục ngữ đang bàn nói cách cư xử
trái với lẽ thường, đáng phê phán: Đối với hạng con cháu trong họ thì
làm thịt gà thết đãi; đến khi giỗ cha mình (ngày rất quan trọng) lại làm
thịt ếch để cúng. Dị bản: Có khách làm thịt kha (gà) giỗ cha làm thịt ếch.
Mưa rừng cọ; gió rừng thông
(Gặp)
mưa trong rừng cọ cũng như gió trong rừng thông (thì chớ có lo ướt cũng
như lo lạnh vì đã được cọ cũng như thông che chắn hết cho rồi).
-Giải
thích như vậy là không hiểu.Thực ra, trong rừng cọ, chỉ cần mấy hạt mưa
đã nghe tiếng lào rào, lộp bộp rất lớn do hàng ngàn giọt mưa rơi trên
tàu lá cọ (lá cọ bản rộng, dày, cứng). Và trong rừng thông, chỉ cần
thoảng làn gió đã nghe vi vút hoặc tiếng rít lên như muôn ngàn ngọn roi
quật vào không khí, (do thông là cây lá kim). Thế nên thơ, nhạc hay ví thông reo, thông hát, thông ru là vậy. Câu tục ngữ trên đưa ra nhận xét: Tiếng mưa trong rừng cọ nghe rất lớn, tiếng gió trong rừng thông nghe rất mạnh (so với thực tế).
Nuôi lợn ăn cơm không; nuôi tằm ăn cơm nhộng
Nuôi lợn (chẳng mấy khó nhọc nên) chỉ được ăn cơm không có thức ăn; nuôi tằm (vốn khó nhọc) nên sẽ được ăn cơm với cả nhộng nữa.
-Ý
dân gian không ám chỉ nghề nào vất vả, khó nhọc hơn nghề nào, mà ý nói
sự khác biệt giữa hai nghề. Nghề nuôi lợn giống như ống tiết kiệm, dồn
mãi tới lúc đầy (lợn béo) mới xẻ thịt hoặc bán một lần duy nhất, không
thể mỗi bữa xẻo ra vài miếng thịt mà nấu ăn dần. Tuy nhiên, đối với nghề
nuôi tằm, mỗi lứa tằm vài ba tháng, tằm kéo kén ươm tơ có nhộng ăn,
người nuôi được thu sản phẩm phụ, trong khi nuôi lợn ngày xưa cả năm mới
được một lứa. Nghĩa là mối lợi của nghề nuôi tằm có thể khai thác dần,
rải rác mà không cần phải đợi đến lúc ươm, dệt thành tơ lụa mới có.
Rau cải làng Tiếu nấu nước điếu ăn cũng ngon
Rau cải (trồng ở ) làng Tiếu (vốn ngon tới độ chỉ) nấu với nước điếu thôi ăn vẫn cứ thấy ngon.
- Cách hiểu và diễn giải của soạn giả khi dùng “chỉ”, “thôi” trong câu khiến bạn đọc hiểu lầm “nước điếu”
là loại nước lã bình thường (nấu món canh suông) nhưng khi có rau cải
làng Tiếu để nấu thì ăn vẫn cứ thấy ngon. Tuy nhiên, nước điếu có mùi
hôi, khắm, vị đắng chát rất khó tả. Lỡ đánh đổ chút ít ra nhà, đến cả
người vốn nghiện thuốc lào cũng không chịu nổi cái mùi của nó. Nước điếu
độc nên người ta còn dùng để tắm trừ ghẻ cho chó. Thế mà rau cải làng
Tiếu thơm ngon, ngọt lành tới độ có thể hóa giải được cả nước điếu,
khiến khi nấu canh rau cải với thứ nước “kinh khủng” đó, ăn cũng (vẫn)
ngon. Như thế câu tục ngữ phải được diễn giải là: Rau cải làng Tiếu dẫu có nấu với nước điếu ăn vẫn ngon.
Thông
thường, một câu tục ngữ có thể được hiểu theo nhiều nghĩa. Tuy nhiên,
hiểu theo nghĩa nào cũng phải đảm bảo tính biện chứng. Trong Từ điển tục ngữ Việt, soạn giả Nguyễn Đức Dương có hẳn một hạng mục (được ghi ngoài bìa sách) là “dịch”
một số câu tục ngữ gốc Hán. Soạn giả không đưa ra phần nguyên văn chữ
Hán, cũng không chú thích nghĩa từ vựng trong câu dẫn đến sai sót khá
nghiêm trọng bởi hiện tượng đồng âm, dị nghĩa; đồng tự, đa nghĩa.Ví dụ:
Kỵ hổ nan hạ
Tránh mặt hổ thì khó mà hạ sát được nó.
-Thay vì dùng chữ kỵ 騎là cưỡi, soạn giả lại đưa ra chữ “kỵ” 忌là kiêng tránh, sợ; chữ hạ 下với nghĩa là xuống, lại được chọn hạ 下 với nghĩa là “hạ sát”. Thoạt nghe cũng có lý. Thế nhưng, giết hổ mà chọn cách đối mặt với hổ là hạ sách, là bất đắc dĩ. Người ta có thể “tránh mặt hổ”
mà vẫn giết được hổ dễ dàng bằng cách đặt bẫy, đánh bẫy, nấp bắn. Vậy
soạn giả nghĩ sao ? Cần trả lại nghĩa vốn có (đã đi vào lời ăn tiếng nói
hàng ngày của dân gian) là:Cưỡi lên lưng hổ thì khó xuống (hay nói Thế cưỡi hổ, hoặc Ở thế cưỡi hổ).
Lão bất tử thành tặc
Già
rồi mà chẳng chịu chết đi cho yên phận thì dễ hóa thành giặc. Hay dùng
để chê những kẻ đã già mà chẳng chịu sống yên phận, nên hay gây ra bao
thứ rắc rối cho con cháu trong nhà.
-Thực ra chữ tặc 賊ở đây không có nghĩa là “giặc” mà là ranh, tinh quái, gian xảo, xảo quyệt. Ví dụ “Lão thử chân tặc老鼠眞賊 = con chuột này ranh ma lắm” hoặc “Giá nhất khỏa nhân chân tặc 這一夥人眞賊= bọn này xảo quyệt lắm ( Xem Tự điển Hán Việt – Trần Văn Chánh -NXB Từ điển bách khoa-2011). Mặt khác chữ “lão” không chỉ có nghĩa người già, mà còn chỉ chung các giống loài khi sống lâu thường trở nên khôn ngoan, tinh quái. Câu này dịch nghĩa là: Già mà không chết sẽ thành kẻ tinh quái, dịch thoát thành tục ngữ là: Sống lâu thành xảo quyệt; gần nghĩa câu tục ngữ Việt Mèo già hóa cáo (con mèo sống lâu thường mang bản chất của một con cáo khôn ngoan, tinh quái). Giải thích như nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương “Già rồi mà chẳng chịu chết đi cho yên phận thì dễ hóa thành giặc” vô tình đi ngược lại tinh thần “Kính lão đắc thọ”, dễ khiến các cụ cao niên buồn lòng.
Lộng giả thành chân
Cái
giả hễ cứ được mặt sức hành hoành thì dần dà rồi sẽ hóa thành cái
chân.Hay dùng để nhắc mọi người đừng để cho cái giả mặc sức hoành hành
nhằm tránh xảy ra tình trạng thực giả lẫn lộn.
- Chữ lộng 弄ở đây có nghĩa là giở thủ đoạn, lại được soạn giả hiểu nôm na là lộng hành rồi giải thích “Cái giả hễ cứ được mặt sức hoành hành thì dần dà rồi sẽ hóa thành cái chân”. Nghĩa
này có thể chấp nhận được.Tuy nhiên, câu tục ngữ phải chữa lại là “Giả
lộng thành chân” mới đúng với ngữ pháp tiếng Hán. Bởi vậy, câu tục ngữ
“Lộng giả thành chân” phải được hiểu là: Dùng thủ đoạn biến giả thành thật. (Có khi chữ “lộng” cũng được dùng với nghĩa “đùa cợt”: Vờ đùa cợt để biến giả thành thật).
Lương y đa kỳ tật
Các viên thầy thuốc giỏi đa phần đều có lắm thói quen kỳ lạ.
- Chữ “tật” 疾nghĩa là bệnh, “kỳ tật” 奇疾là bệnh lạ, bệnh nặng, bệnh hiểm ác, nhưng bị soạn giả hiểu nôm na “kỳ tật” là “thói quen kỳ lạ”.
Thực
tế, có nhiều thầy thuốc giỏi, chữa bệnh cho nhiều người nhưng chính
mình lại hay bị những chứng bệnh nan y, bệnh lạ mà bản thân không khám,
chữa cho mình được. Thế nên, câu thành ngữ này phải được dịch là: Thầy thuốc giỏi hay bị chứng bệnh (lạ) hiểm ác, nói đến sự trớ trêu của nghề thầy thuốc, “Dao sắc không gọt được chuôi”.
Mệnh do ngã lập; phúc tự kỷ cầu
Số mệnh là do tự mình định đoạt lấy (chứ đâu phải do trời sắp xếp sẵn); phúc đức là do mình tự cầu xin lấy (chứ đâu phải do trời tự ý ban cho).
-Nếu nói “phúc đức là do mình tự cầu xin lấy” chỉ có nghĩa không cần người khác cầu xin hộ, nhưng vẫn có nghĩa là bản thân mình không tự quyết định được mà phải đi cầu xin người khác mới có.
Như vậy, chữ “cầu” (求)ở đây phải được hiểu nghĩa là tìm, không thể hiểu nghĩa là cầu xin như dịch giả nhầm lẫn. Câu tục ngữ được dịch là: Số mệnh tự ta định đoạt, hạnh phúc tự mình tìm lấy.
Nhìn
chung, với sách biên soạn, (đặc biệt là lĩnh vực tục ngữ, thành ngữ)
khó tránh khỏi sai sót. Tuy nhiên, tỉ lệ sai sót, mức độ sai sót, hạn
chế (số lượng hàng trăm câu) như Từ điển tục ngữ Việt của
Nhà ngữ học TS Nguyễn Đức Dương là quá lớn. Nếu đọc kỹ, chúng ta sẽ còn
nhận thấy không ít lỗi về từ vựng, cách giải nghĩa, cách diễn đạt, từ
ngữ,v.v…mà khuôn khổ bài viết này không thể nêu hết (*). Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương nhiều lần kêu gọi các nhà biên soạn sách giáo khoa đưa “di sản tục ngữ” vào nhà trường (xem Bài “Sao không đưa tục ngữ vào giảng dạy ở bậc tiểu học” – Báo Thanh Niên). Đề xuất này không có gì sai. Tuy nhiên, nếu các em học sinh tiếp thu “di sản tục ngữ” thông qua “kênh” Từ điển tục ngữ Việt của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương với những “sai lệch” như trên thì thật nguy hại !
H.T.C
Một phần nội dung bài viết này đã đăng Tạp chí Văn hóa dân gian – Viện nghiên cứu Văn hóa số 4 tháng 8/2013). Bạn đọc có thể tham khảo thêm tại tuancongthuphong.blogspot.com.
Một số thông tin thêm:
Từ điển tục ngữ Việt - tác
giả Tiến sĩ Nguyễn Đức Dương – Trung tâm biên soạn từ điển Ngôi Sao –
Ban biên soạn từ điển đơn ngữ – Nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh –
2010.
Lời NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh: “Từ điển Tục ngữ Việt
của nhà ngôn ngữ học – Tiến sĩ Nguyễn Đức Dương là một công trình biên
soạn công phu, hoàn toàn dựa theo những tiêu chí mới về cách thu thập
dữ liệu, cũng như cách diễn giải từng câu tục ngữ trong các đề mục. Với
quy mô và phương pháp nghiên cứu khoa học, cập nhật nội dung, có thể nói
đây là quyển Từ điển tục ngữ Việt hoàn chỉnh nhất hiện nay… một công trình nghiên cứu chuẩn hóa về tục ngữ Việt”. Lời người biên soạn: “Quyển
Từ điển này khác với nhiều công trình cùng loại đã ra mắt bạn đọc trước
đây ở hai điểm chính: (1) ở cách thức thu thập dữ liệu và (2) ở cách
thức diễn giải dữ liệu…Quyển Từ điển này ra mắt bạn đọc được là nhờ sự
giúp đỡ chí tình cả về tinh thần lẫn vật chất của GS. Cao Xuân Hạo, nhà
khảo cứu An Chi, nhà giáo Hoàng Xuân Tâm, PGS Hoàng Dũng, PGS Bùi Mạnh
Hùng”. Theo đó, Tiến sĩ Nguyễn Đức Dương cho rằng Từ điển tục ngữ Việt sẽ tránh được những sai lầm “phải trả giá, lắm khi rất đắt” của một số cuốn từ điển khác.
——————————
- Những sách đã dẫn và tham khảo:
1,“Đại Nam quấc âm tự vị” (Dictionnaire ANNAMMITE) Huình Tịnh Paulus Của – Sài Gòn 1895.
2,Việt Ngữ Tinh nghĩa từ điển - Long Điền Nguyễn Văn Minh -NXB Quảng Vạn Thành- Hà Nội 6/1950.
3,Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam - GS Nguyễn Lân (NXB Văn Hóa – 1989)
4,Việt Nam tự điển - Hội Khai Trí Tiến Đức – Nhà in Trung Bắc Tân Văn – 1931 (bản Scan của vietnamtudien.org )
5, Từ điển An Nam-Lusitan-La tinh (Thường
gọi Từ điển Việt – Bồ – La) Alexandre De Rhodes – Phiên dịch: Thanh
Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính – NXB Khoa Học Xã Hội – 1991.
6, Tự điển Hán Việt – Trần Văn Chánh -NXB Từ điển bách khoa-2011).
7, Điển Cố văn học - Đinh Gia Khánh chủ biên – Nhà XB Khoa học xã hội – Hà Nội 1977.
8, Hán Việt tự điển – Thiều Chửu – NXB Thành phố Hồ Chí Minh – 2004.
9. Hán Việt Từ điển – Đào Duy Anh biên soạn – Hãn Mạn Tử hiệu đính – NXB Trường Thi – Sài Gòn 1957.
10. Khang Hy tự điển – 2002 (sách ngoại văn xuất bản tại Trung Quốc)
Theo Quê Choa
8 Điểm Chung Của Những Người THÀNH CÔNG
Business Insider 30/12/2013
Tỷ phú Warren Buffett từng nói “Sự khác biệt giữa người thành công và người cực kỳ thành công là người cực kỳ thành công nói KHÔNG với hầu hết mọi thứ”
1. Không ngừng làm việcPhóng to Khảo sát thói quen làm việc của hơn 150 tác gia, nghệ sĩ và nhà khoa học nổi tiếng chỉ ra điểm chung của họ là không ngừng làm việc, không bao giờ để lãng phí một phút nào.
Giáo sư tâm lý học nổi tiếng Mihaly Csikszentmihalyi đã tiến hành nghiên cứu những thiên tài để làm tư liệu cho cuốn sách Creativity của mình và ông phát hiện ra nhiều điều thú vị về IQ. Không ai trong số những nhân vật thay đổi thế giới có IQ dưới 130. Nhưng sự khác biệt giữa những người có IQ từ 130 tới 170 là không đáng kể. Bạn có thể vượt qua mức IQ 130, điều đó cho thấy bạn đã làm việc chăm chỉ nhiều thế nào.
2. Nói “Không” với hầu hết mọi thứ
Tỷ phú Warren Buffett từng nói “Sự khác biệt giữa người thành công và người cực kỳ thành công là người cực kỳ thành công nói KHÔNG với hầu hết mọi thứ”. Và chính điều đó giúp họ có thời gian để làm điều họ muốn.
3. Hiểu rõ bản thân
Trong bài luận văn Managing Oneself, giáo sư Pete Drucker có viết: Hãy lờ đi những điểm yếu của bạn và liên tục hoàn thiện những điểm mạnh. Khi tìm kiếm cơ hội hoàn thiện, đừng phí thời gian trau dồi những kỹ năng mà bạn có ít khả năng làm được.
Thay vào đó hãy tập trung vào việc bồi đắp ưu điểm. Điều đó có nghĩa là bạn biết mình là ai và khả năng của mình là gì.
4. Xây dựng nhiều mạng lưới quan hệ
Một ví dụ điển hình, nhà toán học Paul Erdos là trung tâm của toán học trên thế giới khi ông hợp tác cùng hàng trăm người khác theo đuổi các vấn đề như xác suất, hình học… Ông cùng những người cộng tác tìm tòi nghiên cứu và cùng phát triển, giúp họ trở nên giỏi hơn. Chính nhờ đó, ông có được thành công rực rỡ trong ngành khoa học này
5. Tạo ra may mắn
Giáo sư tâm lý học Richard Wiseman thuộc đại học Hertfordshire (Anh) từng nhiên cứu nhiều người may mắn để viết cuốn sách Luck Factor. Ông cho biết, bằng cách cởi mở với những ý tưởng mới, kiên trì theo đuổi những ý tưởng đó và luôn lạc quan, những người may mắn tạo ra cơ hội.
Wiseman đã thực hiện một bài khảo sát, theo đó 80% người tham gia cho biết nhờ những điều trên mà may mắn của họ cũng tăng lên.
6. Kiên trì, bền bỉ
Sự thông minh và sáng tạo là những điều tuyệt vời để thành công nhưng lòng kiên trì trước khó khăn cũng quan trọng không kém nếu bạn muốn làm được điều gì đó lớn lao.
Kiên trì, nhẫn nại và đam mê cho những mục tiêu dài hạn là một trong những đức tính cần thiết để có được thành công. Khi thất bại, thay vì tốn thời gian vào việc than vãn, đổ lỗi hay từ bỏ, những người thành công coi đó là bài học kinh nghiệm, là những cơ hội.
7. Không ngừng thử nghiệm và thất bại
Đối với những người thành công, thất bại là yếu tố cần thiết. Họ gây ra nhiều lỗi lầm hơn để có thể học được nhiều hơn từ chúng. Đó chính là sự thử nghiệm. Giáo sư tâm lý Peter Sims từng giải thích trong cuốn sách của mình về quy tắc được nhiều người thành công sử dụng. Việc sẵn sàng để dành 5-10% thời gian của bạn để làm thử nghiệm, về lâu dài, sẽ giúp bạn trở nên sáng tạo hơn và có nhiều cơ hội hơn.
8. Tìm kiếm người thầy thông thái
Để thành công, bạn luôn cần có một người thầy hay cố vấn. 10.000 giờ đồng hồ đề học tập và rèn luyện có thể giúp bạn trở thành một chuyên gia, nhưng điều gì giúp bạn có đường hướng để dành ra 10.000 giờ đó lúc đầu? Giáo sư Adam Grant, trường Wharton, thuộc đại học Pennsylvania, cho biết câu trả lời chính là những người cố vấn tuyệt vời.
Trung Anh Hà - Đáp án khoá mõm bọn phản động
Theo FB Trung Anh Hà
Hiện nay, trong thời đại công nghệ thông tin, các luận điệu xuyên tạc, chống phá đảng và nhà nước Việt Nam xuất hiện khắp nơi, với mọi vấn đề, trên từng trang facebook và blog. Để giúp các con bò yêu đảng nhưng thường đuối lý khi thảo luận, anh đã tổng kết những luận cứ để khóa chặt a lô bè lũ phản động, những đúc kết tinh túy và vô cùng hiệu quả:
1- Nếu kẻ phê phán Đảng đã lớn tuổi thì ta bảo chúng mày ăn mày dĩ vãng, thù hằn quá khứ.
2- Nếu chúng còn trẻ thì ta bảo là lũ chẩu tre chưa biết sự đời, hãy đi làm đi rồi nhẽ lên tiếng.
3- Nếu đã đi làm thì ta bảo chúng mày bất mãn vì vô tài, bất dụng nên thất bại
4- Nếu đã thành công có sự nghiệp như Lê Công Định và Cù Huy Hà Vũ ta bảo chúng không có cái tâm, ngụy trí thức.
5- Nếu là trí thức hẳn hoi không thể cãi như Ngô Bảo Châu, Lê Đăng Doanh, Hoàng Tụy thì ta bảo chúng đéo có kinh nghiệm chính trị.
6- Nếu có kinh nghiệm chính trị ta sẽ bảo chúng có dã tâm chính trị.
7- Nếu là dân đen ta thách chúng, hãy thử nhìn từ tầm nhìn của người đảng viên, của người lãnh đạo để thấy cái khó.
8- Nếu là đảng viên như Bùi Tín, Trần Độ ta bảo chúng là bọn phản bội.
9- Nếu chưa đi ra nước ngoài, ta bảo: hãy ra ngoài để hiểu Việt Nam, đất nước tốt đẹp hiền hòa, được bạn bè anh em khắp nơi trên thế giới ưa chuộng.
10- Nếu đã ở nước ngoài thì ta bảo chúng là bọn vọng ngoại, rận nô cõng rắn cắn gà nhà. Tàn dư Mỹ - Ngụy, bè lũ tư bản giẫy mãi đéo chết.
11- Nếu ở trong nước ta bảo chúng bị kích động, nhận tiền của các thế lực thù nghịch.
Chốt lại chỉ có chúng ta, lũ chã ngọng, đm những con bò của đảng là thành phần tinh túy nhất, có phẩm chất và trình độ đầy đủ nhất để đánh giá mọi vấn đề xã hội văn hóa chính trị ở Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét