Trẻ chết vì sởi, bình thường hay bất bình thường?
Ông Nguyễn Thanh Long, Thứ trưởng Bộ Y tế tuyên bố: “Bệnh sởi hiện nay chưa có gì bất thường!”. Vâng, chưa có gì bất thường tức là đang bình thường.
Vậy thưa thứ trưởng, tiếng kêu cứu “Bộ Y tế ơi!” của những bà mẹ có con đang hấp hối là bình thường hay bất thường?
Tại sao trong lúc con của các bà mẹ đang thập tử nhất sinh, lẽ ra họ chỉ phải kêu gào với các bác sĩ đang trực tiếp cứu chữa cho con của họ thì họ lại kêu gào trước tiên “Bộ Y tế ơi!”.
Những đứa trẻ bị bệnh sởi chỉ biết khóc cho đến lúc lịm đi
Có nghĩa là họ đã quá hiểu những
nguyên do nào, tình cảnh nào mà con của họ lâm nạn. Họ đã đập đúng cửa
chưa thưa ông thứ trưởng? Và cái tiếng gào thét, tiếng đập cửa ấy với
lãnh đạo ngành y tế - những người đã quá muộn mằn khi đến bệnh viện nơi
cả trăm trẻ đang hấp hối vì bệnh sởi có là điều bình thường hay bất
thường?
TS. Trần Đắc Phu, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng, (Bộ Y tế) đưa ra con số lạnh lùng: “86% trẻ mắc bệnh sởi là do không tiêm vacxin sởi hoặc không rõ tình trạng tiêm chủng”. Con số trẻ bị mắc sởi mà ông cục trưởng đưa ra là 2.500 trẻ, trong lúc con số mới nhất là 7.000 trẻ.
Con số này thưa ông thứ trưởng là bình
thường hay bất bình thường khi báo cáo hàng năm của các địa phương gửi
lên bộ y tế với những con số thành tích tiêm chủng cao ngất ngưỡng.
Nguyên do nào có tình trạng này để chính Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phải
chỉ đạo ngành y tế “Phải nghiêm chỉnh thực hiện chỉ đạo của thủ tướng về việc chấn chỉnh công tác tiêm chủng”.
Thưa ông thứ trưởng, cái chỉ thị của thủ
tướng cùng lời chỉ đạo trực tiếp của PTT về việc “tiêm chủng” là bình
thường hay bất bình thường đối với những người có trách nhiệm cao nhất
trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, tức là trách nhiệm cao nhất
bảo vệ an ninh quốc gia – an toàn của nhân dân, của giống nòi. Câu hỏi
được đặt ra, tại sao lại phải “chấn chỉnh việc tiêm chủng”.
Hầu hết bệnh nhi sởi bị bệnh nghiêm trọng đều dồn về bệnh viện Nhi Trung ương dẫn đến 4 trẻ cùng chung một giường
Vì rõ ràng việc tiêm chủng chưa hề được lãnh đạo bộ y tế coi là công
việc quan trọng cấp thiết hàng đầu và lâu dài, dẫn đến không huy động
được cả hệ thống chính trị, cả bộ máy truyền thông cảnh tỉnh cho dân
chúng để họ thức tỉnh được vai trò của tiêm chủng đối với con cái của
họ.
Đồng thời, hệ thống y tế cộng đồng đã nhiều nơi tắc trách với công việc tiêm chủng, dẫn đến nhiều trẻ không được tiêm chủng và nhiều trẻ được tiêm chủng nhưng lại “không rõ tình trạng tiêm chủng” tức tiêm chủng… dối trá. Đang xảy ra tình trạng ấy là bình thường hay bất bình thường?
Sự kiện Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam vì đọc trên facebook của một bác sĩ của bệnh viện Nhi Trung ương kể lại nỗi đau nhiều trẻ bị chết vì sởi, đã lập tức đi kiểm tra, mà lẽ ra ông phải được chính lãnh đạo bộ y tế báo cáo chính xác tình trạng trẻ chết vì sởi là bình thường hay bất bình thường.
Và, khi đi kiểm tra ông Phó Thủ tướng phát hiện sự thật hầu hết bệnh nhi sởi bị bệnh nghiêm trọng đều dồn về bệnh viện Nhi Trung ương dẫn đến 4 trẻ cùng chung một giường, lây nhiễm trầm trọng với nhau rồi cùng tử vong là bình thường hay bất bình thường?.
Vai trò quản lý hệ thống ở đâu để không kịp thời điều tiết bệnh nhân, bác sĩ, phương tiện ở các tuyến? Phải chăng vì lãnh đạo Bộ coi dịch bệnh chỉ chết vài chục đứa trẻ, có gì mà to tát, chỉ là chuyện bình thường, khẩn cấp gì đâu nên để xảy ra tình cảnh đó. Điều này là bình thường hay bất bình thường?
Gia
đình anh V. ở Văn Giang, Hưng Yên lầm lụi bế thi thể con về. Anh V. vừa
đi vừa khóc, còn vợ anh phải có người dìu vì không bước nổi
GS. Nguyễn Văn Tuấn, một người không xa lạ với Bộ Y tế Việt Nam, hiện
đang làm công tác y tế cộng đồng ở Sydney, Úc, trước tiếng kêu thảm
thiết “Bộ y tế ơi! Các bác sĩ ơi! Xin cứu lấy con tôi!” đã chua xót nói
rằng:
“Làm sao có thể là bình thường được khi có những đứa trẻ bị chết vì dịch bệnh thông thường? Ở các quốc gia khác họ đều coi đó là tình trạng khủng hoảng khẩn cấp báo động đỏ cho toàn hệ thống Y tế”.
Còn ở Philippine, khi 23 đứa trẻ bị chết vì sởi, họ đã tuyên bố toàn quốc vì dịch sởi để cảnh báo toàn dân và cũng để huy động mọi nguồn lực dập tắt nó.
Tiếng kêu cứu “Bộ y tế ơi! Bác sĩ ơi! Xin hãy cứu con tôi!” không thể là bình thường được. Và, nếu có sự sự vô cảm trước tiếng kêu cứu ấy cũng không thể là bình thường được!
Lưu Trọng Văn
Kinh tế èo uột có nên kích cầu?
Nam Nguyên, phóng viên RFA
Nghe bài này
Nền kinh tế đã có dấu hiệu thiểu phát Chính phủ cần tính tới một gói hỗ trợ kinh tế thông qua kích cầu, Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nhận định như vậy trên báo điện tử VnEconomy. Sức khỏe nền kinh tế được các chuyên gia chẩn bệnh như thế nào.
Kích cầu phải kích đúng chỗ
Trả lời phỏng vấn của Nam Nguyên, Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long chuyên gia kinh tế hiện sống và làm việc ở Hà Nội trình bày một quan điểm khác biệt. Ông nói:
“Dự báo tháng 3 chỉ số giảm, tháng 4 xu hướng giảm tiếp và không sâu bằng tháng 3. Có quan điểm lo ngại là trong bối cảnh tình hình với diễn biến như thế này thì khả năng giảm phát hoặc thiểu phát sẽ đến. Nhưng chúng tôi thấy rằng, giảm phát hay thiểu phát thì có mấy điều kiện là giá liên tục giảm nhưng đồng thời tốc độ tăng trưởng cũng phải giảm, tốc độ tăng trưởng âm. Trong bối cảnh tình hình Việt Nam hiện nay giảm là do sức mua mà tốc độ tăng trưởng không giảm nhưng có tăng chút ít.
Quí I năm 2014 so với quý I năm 2013, 2012 thì vẫn tăng nhưng tăng không cao, chủ yếu là có tăng. Theo tôi thiểu phát giảm phát đối với nền kinh tế Việt Nam là khó có khả năng xảy ra. Trong bối cảnh hiện nay Chính phủ đang tìm mọi cách để thúc đẩy tăng trưởng, bởi vì Việt Nam là nước đang phát triển mà mục tiêu đầu tiên là tốc độ tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng chậm lại là một trong các nguy cơ nên sẽ phải thúc đẩy tăng trưởng và chắc chắn đầu tư sẽ cao. Như vậy thiểu phát khó có khả năng xảy ra.”
“Thực trạng hiện nay sản xuất tăng trưởng rất chậm, chủ yếu đầu ra còn vướng mắc, cầu yếu cho nên hiện nay có quan điểm là cần nên kích cầu. Nhưng kích thì kích như thế nào và kích vào đâu và trong bối cảnh tình hình kinh tế hiện nay năng suất chất lượng hiệu quả còn rất thấp. Nếu kích cầu mà không chú ý vấn đề năng suất chất lượng hiệu quả thì cuối cùng sẽ quay lại với nguy cơ lạm phát.”
Đối với ý kiến nên có kích cầu cho nền kinh tế, TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển IDS một tổ chức độc lập ở Hà Nội đã tự giải thể, nói là ông không phản đối một gói kích cầu nhưng cần cụ thể mục tiêu và tránh vấn đề lợi ích nhóm.
“ Có thể cân nhắc đẩy đầu tư công lên một chút để nó kích thích hệ thống vào quĩ đạo tăng trưởng trở lại. Tuy nhiên việc này cần tính toán rất kỹ lưỡng bởi kinh nghiệm từ xưa đến nay thấy rằng những tính toán về kích cầu của Chính phủ đã không bao giờ được thực hiện tốt và những khoản đầu tư công, đầu tư từ ngân sách luôn luôn có hiệu quả rất là thấp. Phải tính toán làm sao nếu có một gói kích cầu thì cũng chỉ trong một thời gian rất ngắn hạn và hạn chế ở qui mô, để kích vào đúng những chỗ cần phải kích để nó đẩy hệ thống sang một trạng thái khác. Chứ không phải là kích dàn trải hay lại chạy theo nhu cầu của một số nhóm lợi ích nào đấy thì lợi bất cập hại.”
Đáp câu hỏi của chúng tôi là các chuyên gia đều tỏ ra thận trọng về mục tiêu kích cầu, vậy nên kích thích nền kinh tế ở các lĩnh vực nào. PGS-TS Ngô Trí Long nhận định:
“Kinh nghiệm kích cầu 2009 đã thấy rằng hiệu quả của nó chưa như mong đợi. Thế thí trong bối cảnh tình hình hiện nay một gói kích cầu phải kích đúng chỗ. Kích vào những lĩnh vực sản xuất mà những lĩnh vực đó tạo ra hàng hóa đáp ứng nhu cầu của người dân. Một vấn đề quan trọng nữa của kích thích cầu là phải tạo ra công ăn việc làm.”
Lời nói phải đi đôi với việc làm
Báo điện tử VnEconomy trích lời PGS Trần Hoàng Ngân thành viên Ban Kinh tế Quốc hội cho rằng, Chính phủ điều hành tích cực trong kiềm chế lạm phát. Song lạm phát giảm lúc này có hai mặt, cả tích cực và tiêu cực. Mặt tiêu cực là điều PGS Trần Hoàng Ngân lo âu, ông khuyến cáo cần chú ý đến nông nghiệp - nông dân, ngược lại giá lương thực thực phẩm sẽ tăng trở lại trong tương lai vì thiếu nguồn cung, nông dân đang rất khó khăn.
Tình hình kinh tế không khởi sắc, nền kinh tế quốc gia từng được dự báo đã xuống đáy và đi ngang trong thời gian dài, ảnh hưởng như thế nào đối với người lao động, người làm công ăn lương. PGS-TS Ngô Trí Long nhận định:
“Trong bối cảnh nền kinh tế có những biểu hiện khó khăn, hoặc có biều hiện suy thoái, có biểu hiện tăng trưởng chậm thì đối tượng chịu khổ chịu thiệt hại nhiều nhất là những đối tượng người lao động có thu nhập thấp. Thế thì trong bối cảnh tình hình vừa rồi, tăng trưởng rất là chậm, thứ hai là nền kinh tế còn rất nhiều khó khăn thách thức. cho nên là đầu ra không có sức mua thấp, công ăn việc làm không giải quyết được, thu nhập thấp. Chính những điều kiện đó đã tạo nên cho người lao động, đặc biệt người làm công ăn lương ở tầm trung bình và tầm thấp sẽ phải chịu nhiều khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi nhất.”
Đáp câu hỏi của chúng tôi, vậy thì đại đa số nông dân, công nhân nghèo trông đợi vào ai và giải pháp nào để cứu nguy cho họ. PGS-TS Ngô Trí Long phân tích:
“Thông điệp đầu năm của Thủ tướng đã nói rồi, đã nói rất rõ một trong những vấn đề đó. Theo tôi nghĩ làm sao phải có lời nói đi đôi với việc làm, nếu làm đúng như thông điệp đầu năm thì tôi nghĩ lúc ấy mới có khả năng gỡ được tình hình nền kinh tế hiện nay. Còn nếu nói mà không làm, nói mà không thực hiện thì chắc chắn những cái ý định những mục tiêu đó khó thực hiện được, khó thể thành công được.”
Bên cạnh đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cam kết đẩy nhanh tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới. Về pháp quyền và dân chủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hứa hẹn là người dân có quyền làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Mọi quyết định quản lý của Nhà nước đều phải minh bạch.
Theo các chuyên gia và giới quan sát chính trị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khoác lên mình một bộ áo mang tên “Đổi mới” sau những năm tháng điều hành kinh tế thất bại. Điển hình là sự lũng đoạn kinh tế quốc gia của các tập đoàn tổng công ty nhà nước dưới quyền điều hành tối cao của ông. Gần bốn tháng trôi qua sau bản thông điệp đầy hứng khởi, công luận bắt đầu hoài nghi về những hứa hẹn của Thủ tướng và giờ đây nhóm từ “nói mà không làm” đang trở thành phổ biến.
Nền kinh tế đã có dấu hiệu thiểu phát Chính phủ cần tính tới một gói hỗ trợ kinh tế thông qua kích cầu, Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nhận định như vậy trên báo điện tử VnEconomy. Sức khỏe nền kinh tế được các chuyên gia chẩn bệnh như thế nào.
Kích cầu phải kích đúng chỗ
Trả lời phỏng vấn của Nam Nguyên, Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long chuyên gia kinh tế hiện sống và làm việc ở Hà Nội trình bày một quan điểm khác biệt. Ông nói:
“Dự báo tháng 3 chỉ số giảm, tháng 4 xu hướng giảm tiếp và không sâu bằng tháng 3. Có quan điểm lo ngại là trong bối cảnh tình hình với diễn biến như thế này thì khả năng giảm phát hoặc thiểu phát sẽ đến. Nhưng chúng tôi thấy rằng, giảm phát hay thiểu phát thì có mấy điều kiện là giá liên tục giảm nhưng đồng thời tốc độ tăng trưởng cũng phải giảm, tốc độ tăng trưởng âm. Trong bối cảnh tình hình Việt Nam hiện nay giảm là do sức mua mà tốc độ tăng trưởng không giảm nhưng có tăng chút ít.
Quí I năm 2014 so với quý I năm 2013, 2012 thì vẫn tăng nhưng tăng không cao, chủ yếu là có tăng. Theo tôi thiểu phát giảm phát đối với nền kinh tế Việt Nam là khó có khả năng xảy ra. Trong bối cảnh hiện nay Chính phủ đang tìm mọi cách để thúc đẩy tăng trưởng, bởi vì Việt Nam là nước đang phát triển mà mục tiêu đầu tiên là tốc độ tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng chậm lại là một trong các nguy cơ nên sẽ phải thúc đẩy tăng trưởng và chắc chắn đầu tư sẽ cao. Như vậy thiểu phát khó có khả năng xảy ra.”
Hiện nay có quan điểm là cần nên kích cầu. Nhưng kích thì kích như thế nào và kích vào đâu và trong bối cảnh tình hình kinh tế hiện nay năng suất chất lượng hiệu quả còn rất thấp. Nếu kích cầu mà không chú ý vấn đề năng suất chất lượng hiệu quả thì cuối cùng sẽ quay lại với nguy cơ lạm phátTuy không đồng ý với đánh giá nền kinh tế đang có dấu hiệu thiểu phát, nhưng PGS-TS Ngô Trí Long chấp nhận một cách thận trọng về sự cần thiết của một gói kích cầu. Ông nói:
PGS-TS Ngô Trí Long
“Thực trạng hiện nay sản xuất tăng trưởng rất chậm, chủ yếu đầu ra còn vướng mắc, cầu yếu cho nên hiện nay có quan điểm là cần nên kích cầu. Nhưng kích thì kích như thế nào và kích vào đâu và trong bối cảnh tình hình kinh tế hiện nay năng suất chất lượng hiệu quả còn rất thấp. Nếu kích cầu mà không chú ý vấn đề năng suất chất lượng hiệu quả thì cuối cùng sẽ quay lại với nguy cơ lạm phát.”
Đối với ý kiến nên có kích cầu cho nền kinh tế, TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển IDS một tổ chức độc lập ở Hà Nội đã tự giải thể, nói là ông không phản đối một gói kích cầu nhưng cần cụ thể mục tiêu và tránh vấn đề lợi ích nhóm.
“ Có thể cân nhắc đẩy đầu tư công lên một chút để nó kích thích hệ thống vào quĩ đạo tăng trưởng trở lại. Tuy nhiên việc này cần tính toán rất kỹ lưỡng bởi kinh nghiệm từ xưa đến nay thấy rằng những tính toán về kích cầu của Chính phủ đã không bao giờ được thực hiện tốt và những khoản đầu tư công, đầu tư từ ngân sách luôn luôn có hiệu quả rất là thấp. Phải tính toán làm sao nếu có một gói kích cầu thì cũng chỉ trong một thời gian rất ngắn hạn và hạn chế ở qui mô, để kích vào đúng những chỗ cần phải kích để nó đẩy hệ thống sang một trạng thái khác. Chứ không phải là kích dàn trải hay lại chạy theo nhu cầu của một số nhóm lợi ích nào đấy thì lợi bất cập hại.”
Đáp câu hỏi của chúng tôi là các chuyên gia đều tỏ ra thận trọng về mục tiêu kích cầu, vậy nên kích thích nền kinh tế ở các lĩnh vực nào. PGS-TS Ngô Trí Long nhận định:
“Kinh nghiệm kích cầu 2009 đã thấy rằng hiệu quả của nó chưa như mong đợi. Thế thí trong bối cảnh tình hình hiện nay một gói kích cầu phải kích đúng chỗ. Kích vào những lĩnh vực sản xuất mà những lĩnh vực đó tạo ra hàng hóa đáp ứng nhu cầu của người dân. Một vấn đề quan trọng nữa của kích thích cầu là phải tạo ra công ăn việc làm.”
Lời nói phải đi đôi với việc làm
Báo điện tử VnEconomy trích lời PGS Trần Hoàng Ngân thành viên Ban Kinh tế Quốc hội cho rằng, Chính phủ điều hành tích cực trong kiềm chế lạm phát. Song lạm phát giảm lúc này có hai mặt, cả tích cực và tiêu cực. Mặt tiêu cực là điều PGS Trần Hoàng Ngân lo âu, ông khuyến cáo cần chú ý đến nông nghiệp - nông dân, ngược lại giá lương thực thực phẩm sẽ tăng trở lại trong tương lai vì thiếu nguồn cung, nông dân đang rất khó khăn.
Trong bối cảnh nền kinh tế có những biểu hiện khó khăn, hoặc có biều hiện suy thoái, có biểu hiện tăng trưởng chậm thì đối tượng chịu khổ chịu thiệt hại nhiều nhất là những đối tượng người lao động có thu nhập thấpMột gói kích cầu theo đề xuất của PGS Trần Hoàng Ngân là cần mang tính qui mô đồng bộ, tổng giá trị sẽ do các cơ quan tính toán cụ thể. Ông cho rằng gói kích cầu sẽ cần tập trung vào 4 nội dung chính. Thứ nhất hỗ trợ tài chính trực tiếp cho nông dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai dịch bệnh vừa qua. Ông Ngân cho là hỗ trợ khu vực nông nghiệp nông dân sẽ đạt nhiều mục tiêu như tăng tổng cầu, đảm bảo an sinh xã hội, kiềm chế lạm phát. Nội dung thứ hai là hỗ trợ lãi suất dưới 5% để cho vay vốn ngắn hạn, trung và dài hạn. Thứ ba là hỗ trợ tài chính và cơ chế để giúp các khoản vay của doanh nghiệp vừa và nhỏ đã vay với lãi suất cao trước đây kéo giảm xuống dưới 10%. Thứ tư là hỗ trợ xây dựng nhà ở cho gia đình diện chính sách; gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có công ….
PGS-TS Ngô Trí Long
Tình hình kinh tế không khởi sắc, nền kinh tế quốc gia từng được dự báo đã xuống đáy và đi ngang trong thời gian dài, ảnh hưởng như thế nào đối với người lao động, người làm công ăn lương. PGS-TS Ngô Trí Long nhận định:
“Trong bối cảnh nền kinh tế có những biểu hiện khó khăn, hoặc có biều hiện suy thoái, có biểu hiện tăng trưởng chậm thì đối tượng chịu khổ chịu thiệt hại nhiều nhất là những đối tượng người lao động có thu nhập thấp. Thế thì trong bối cảnh tình hình vừa rồi, tăng trưởng rất là chậm, thứ hai là nền kinh tế còn rất nhiều khó khăn thách thức. cho nên là đầu ra không có sức mua thấp, công ăn việc làm không giải quyết được, thu nhập thấp. Chính những điều kiện đó đã tạo nên cho người lao động, đặc biệt người làm công ăn lương ở tầm trung bình và tầm thấp sẽ phải chịu nhiều khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi nhất.”
Đáp câu hỏi của chúng tôi, vậy thì đại đa số nông dân, công nhân nghèo trông đợi vào ai và giải pháp nào để cứu nguy cho họ. PGS-TS Ngô Trí Long phân tích:
“Thông điệp đầu năm của Thủ tướng đã nói rồi, đã nói rất rõ một trong những vấn đề đó. Theo tôi nghĩ làm sao phải có lời nói đi đôi với việc làm, nếu làm đúng như thông điệp đầu năm thì tôi nghĩ lúc ấy mới có khả năng gỡ được tình hình nền kinh tế hiện nay. Còn nếu nói mà không làm, nói mà không thực hiện thì chắc chắn những cái ý định những mục tiêu đó khó thực hiện được, khó thể thành công được.”
Thông điệp đầu năm của Thủ tướng đã nói rồi, đã nói rất rõ một trong những vấn đề đó. Theo tôi nghĩ làm sao phải có lời nói đi đôi với việc làm, nếu làm đúng như thông điệp đầu năm thì tôi nghĩ lúc ấy mới có khả năng gỡ được tình hình nền kinh tế hiện nayTrong Thông điệp đầu năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhìn nhận Việt Nam không còn cách nào khác là phải đổi mới thể chế, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ông Nguyễn Tấn Dũng hứa hẹn thực hiện giá thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng. Theo lời người đứng đầu Chính phủ, mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phải hoạt động theo cơ chế thị trường. Xóa bỏ tình trạng độc quyền doanh nghiệp và những cơ chế chính sách tạo ra bất bình đẳng trong kinh doanh, nhất là trong tiếp cận nguồn lực.
PGS-TS Ngô Trí Long
Bên cạnh đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cam kết đẩy nhanh tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới. Về pháp quyền và dân chủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hứa hẹn là người dân có quyền làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Mọi quyết định quản lý của Nhà nước đều phải minh bạch.
Theo các chuyên gia và giới quan sát chính trị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khoác lên mình một bộ áo mang tên “Đổi mới” sau những năm tháng điều hành kinh tế thất bại. Điển hình là sự lũng đoạn kinh tế quốc gia của các tập đoàn tổng công ty nhà nước dưới quyền điều hành tối cao của ông. Gần bốn tháng trôi qua sau bản thông điệp đầy hứng khởi, công luận bắt đầu hoài nghi về những hứa hẹn của Thủ tướng và giờ đây nhóm từ “nói mà không làm” đang trở thành phổ biến.
Mỹ là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam
(VTV Online) - Chiều 17/4, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã tiếp Đoàn đại biểu cấp cao Thượng viện Hoa Kỳ do
Chủ tịch Thường trực Thượng viện Hoa Kỳ Patrick Leahy dẫn đầu đang ở
thăm Việt Nam.
Chân thành cảm ơn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dành thời gian tiếp
Đoàn và thông báo về kết quả của các cuộc hội kiến, hội đàm với các nhà
lãnh đạo Việt Nam, Chủ tịch Thượng viện Patrick Leahy vui mừng được
thăm và chứng kiến sự phát triển năng động của Việt Nam, đồng thời đánh
giá cao vị thế và vai trò ngày càng tăng của Việt Nam tại khu vực và
trên thế giới. Chủ tịch Leahy khẳng định, Quốc hội và Chính phủ Hoa Kỳ
mong muốn tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác nhiều mặt với Việt Nam,
triển khai có hiệu quả quan hệ Đối tác toàn diện đã được thiết lập giữa
hai nước từ tháng 7/2013.
Chủ tịch thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến việc phát triển quan hệ giữa
Quốc hội và ủng hộ việc thiết lập và tăng cường quan hệ trên kênh đảng
giữa hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ.
Chủ tịch chân thành cảm ơn Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã thiện chí
hợp tác, giúp đỡ giải quyết vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh,
cam kết tiếp tục nỗ lực hợp tác với Việt Nam trong việc giải quyết hậu
quả chiến tranh trên con người và môi trường Việt Nam.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp Chủ tịch Thường trực Thượng viện Mỹ Patrick Leahy. Ảnh: VGP
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hoan nghênh Chủ tịch Leahy thăm Việt Nam,
ghi nhận và đánh giá cao những tình cảm và đóng góp của phía Hoa Kỳ nói
chung và cá nhân Chủ tịch nói riêng trong hợp tác khắc phục hậu quả
chiến tranh tại Việt Nam. Tổng Bí thư bày tỏ hài lòng về những bước tiến
trong quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa hai nước, đặc biệt từ sau khi
khuôn khổ quan hệ Đối tác toàn diện được thiết lập.
Tổng Bí thư nhấn mạnh, Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; khẳng định coi Hoa Kỳ là một đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam; đề nghị duy trì và thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ ở các cấp độ, kể cả ở cấp cao; đề nghị Hoa Kỳ tăng cường hợp tác với Việt Nam trong các khuôn khổ và lĩnh vực hiện có, tiếp tục giúp đỡ và hợp tác với Việt Nam để giải quyết tích cực và hiệu quả các vết thương chiến tranh, nhất là vấn đề xử lý bom mìn, vật liệu chưa nổ và hỗ trợ các nạn nhân chất độc da cam dioxin Việt Nam.
Tổng Bí thư mong muốn tiếp tục chứng kiến những bước phát triển mới trong quan hệ hữu nghị, hợp tác song phương, nhất là trong bối cảnh hai nước đang kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ năm 2015.
Các Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ cũng đã trao đổi với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về một số vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm. Hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác giữa hai nước nhằm góp phần duy trì hòa bình, ổn định, thịnh vượng và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Phương Mai
Tổng Bí thư nhấn mạnh, Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; khẳng định coi Hoa Kỳ là một đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam; đề nghị duy trì và thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ ở các cấp độ, kể cả ở cấp cao; đề nghị Hoa Kỳ tăng cường hợp tác với Việt Nam trong các khuôn khổ và lĩnh vực hiện có, tiếp tục giúp đỡ và hợp tác với Việt Nam để giải quyết tích cực và hiệu quả các vết thương chiến tranh, nhất là vấn đề xử lý bom mìn, vật liệu chưa nổ và hỗ trợ các nạn nhân chất độc da cam dioxin Việt Nam.
Tổng Bí thư mong muốn tiếp tục chứng kiến những bước phát triển mới trong quan hệ hữu nghị, hợp tác song phương, nhất là trong bối cảnh hai nước đang kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ năm 2015.
Các Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ cũng đã trao đổi với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về một số vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm. Hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác giữa hai nước nhằm góp phần duy trì hòa bình, ổn định, thịnh vượng và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Phương Mai
Thư giãn cuối tuần: “Chuyển bại thành thắng”
Nghe Điền nợ ngân hàng không khả năng thanh toán có
thể bị khởi tố. Là chiến hữu một thời với nhau, tôi đến thăm Điền. Hỏi
ra mới biết, Điền nghe lời thương lái nước “lạ”, vay 1,5 tỷ của ngân
hàng Nông nghiệp trồng và mua gom khoai lang, dưa hấu để xuất sang Tàu.
Lái chuồn, hàng tồn không xuất được, hư thúi thua thê thảm. Nhìn cái nhà
cấp 4 trong “hóc bà tó”, tôi hỏi:
- Lấy gì thế chấp mà vay được nhiều tiền vậy ?
- Tín chấp – Điền đáp gọn với vẻ tĩnh bơ.
- Tôi nợ chưa đầy 20 triệu mà mất ăn mất ngủ, còn chú mầy nợ ngân hàng 1,5 tỷ mà sao tĩnh bơ?
- Nợ ít như anh lo trả là phải, ở tù không đáng. Còn tôi nợ lút đầu, buồn chi cho khổ thân. Với anh tôi mới nói, 1,5 tỷ tôi vay ngân hàng đâu phải “thua” hết, chỉ thua 500 triệu thôi – Điền nói cười thản nhiên.
- Đã trả cho ngân hàng số tiền còn lại chưa? – tôi hỏi.
- Bộ dại sao trả! Phải “chuyển bại thành thắng”chớ .
- Bằng cách nào?
- Nói là đã thua tất.
- Bộ chú mầy chấp nhận ngồi tù sao? Người ta nói “nhứt nhựt tại tù thiên thu tại ngoại” không ớn sao?!
- Biết sao giờ, 500 triệu tôi cũng không có khả năng trả, bất quá lấy cái nhà này trừ. Nếu 500 triệu ở tù, thì 1,5 tỷ cũng chỉ tù ở mà thôi – chớ chẳng lẽ xử bắn? Tôi đã tính thiệt hơn kỹ rồi anh đừng lo.
- Thiệt hơn thế nào nói nghe coi?
- Phải chuyển bại thành thắng theo 2 phương án: Nếu lấy nhà trừ nợ, sau đó tôi sẽ mua nhà khác. Nếu đưa ra tòa, tôi chấp nhận ở tù, nhiều lắm là 10 năm. Yểm 1 tỷ còn lại, giao cho vợ tôi, bảo nó chia nhỏ ra cho vay nóng, với lãi suất thấp nhứt cũng 4% tháng.Tính xổi cho anh nghe: 1 tỷ x 4% tháng = 40 triệu tháng. Tôi lấy ra 10 triệu tháng chi ăn nhậu với trại giam - thời bây giờ có tiền là ở tù cha, anh có biết không? Thế rồi, 30 triệu tháng còn lại x 12 tháng x 10 năm tù = 3,6 tỷ chớ ít gì? – đó là chưa nói nếu lãi nhập vốn sau 10 năm sẽ có số tiền lớn hơn nhiều.
Anh thử nghĩ, ở tù cha, hàng ngày có tiền vô ào ào. Sau 10 năm ra tù, tôi sẽ trở thành tỷ phú. Tôi thách anh, ở ngoài anh có làm đầu tắt mặt tối cũng không có được số tiền ấy đâu?
- Chú mầy lừa đảo thuộc hạng siêu sao, cáo già rồi!
- Hiền như Phật làm sao sống nổi trong xã hội đầy rẫy nhiễu nhương này! Phải thức thời, sống theo kiểu “gặp sãi mặc áo cà sa, gặp ma mặc áo giấy”.
19/04/2014
- Lấy gì thế chấp mà vay được nhiều tiền vậy ?
- Tín chấp – Điền đáp gọn với vẻ tĩnh bơ.
- Tôi nợ chưa đầy 20 triệu mà mất ăn mất ngủ, còn chú mầy nợ ngân hàng 1,5 tỷ mà sao tĩnh bơ?
- Nợ ít như anh lo trả là phải, ở tù không đáng. Còn tôi nợ lút đầu, buồn chi cho khổ thân. Với anh tôi mới nói, 1,5 tỷ tôi vay ngân hàng đâu phải “thua” hết, chỉ thua 500 triệu thôi – Điền nói cười thản nhiên.
- Đã trả cho ngân hàng số tiền còn lại chưa? – tôi hỏi.
- Bộ dại sao trả! Phải “chuyển bại thành thắng”chớ .
- Bằng cách nào?
- Nói là đã thua tất.
- Bộ chú mầy chấp nhận ngồi tù sao? Người ta nói “nhứt nhựt tại tù thiên thu tại ngoại” không ớn sao?!
- Biết sao giờ, 500 triệu tôi cũng không có khả năng trả, bất quá lấy cái nhà này trừ. Nếu 500 triệu ở tù, thì 1,5 tỷ cũng chỉ tù ở mà thôi – chớ chẳng lẽ xử bắn? Tôi đã tính thiệt hơn kỹ rồi anh đừng lo.
- Thiệt hơn thế nào nói nghe coi?
- Phải chuyển bại thành thắng theo 2 phương án: Nếu lấy nhà trừ nợ, sau đó tôi sẽ mua nhà khác. Nếu đưa ra tòa, tôi chấp nhận ở tù, nhiều lắm là 10 năm. Yểm 1 tỷ còn lại, giao cho vợ tôi, bảo nó chia nhỏ ra cho vay nóng, với lãi suất thấp nhứt cũng 4% tháng.Tính xổi cho anh nghe: 1 tỷ x 4% tháng = 40 triệu tháng. Tôi lấy ra 10 triệu tháng chi ăn nhậu với trại giam - thời bây giờ có tiền là ở tù cha, anh có biết không? Thế rồi, 30 triệu tháng còn lại x 12 tháng x 10 năm tù = 3,6 tỷ chớ ít gì? – đó là chưa nói nếu lãi nhập vốn sau 10 năm sẽ có số tiền lớn hơn nhiều.
Anh thử nghĩ, ở tù cha, hàng ngày có tiền vô ào ào. Sau 10 năm ra tù, tôi sẽ trở thành tỷ phú. Tôi thách anh, ở ngoài anh có làm đầu tắt mặt tối cũng không có được số tiền ấy đâu?
- Chú mầy lừa đảo thuộc hạng siêu sao, cáo già rồi!
- Hiền như Phật làm sao sống nổi trong xã hội đầy rẫy nhiễu nhương này! Phải thức thời, sống theo kiểu “gặp sãi mặc áo cà sa, gặp ma mặc áo giấy”.
19/04/2014
Thiện Tùng
-----------------
Trả lời thắc mắc:
Có một ít bạn đọc thắc mắc, hỏi “Từchọn thể loại đến văn phong không có vẻ gì là thầy tu cả, sao đặt tên Thiện Tùng nghe có vẻ Phật?”
Xin thưa rằng: Hồi năm 1961, tôi, bà Nguyễn thị Định và ông Hòa thượng Thích Thiện Hào, trên đường về Khu Trung Nam Bộ (Khu 8 cũ), cùng ngồi trú nắng dưới gốc cây Gáo ở Đồng Tháp Mười, Hòa thượng Thích Thiện Hào nhìn tôi nói:
- Để đừng lộn Tùng nầy với Tùng khác, ta đặt cho mi tên Thiện Tùng có chịu không?
- Nghe sao nặc mùi Phật? – tôi nói.
- Tên ấy có ý nghĩa lắm đấy,“thiện mới tùng” – ông Hào nói.
Chuyện qua đường nói cho vui vậy thôi. Khi tham gia viết báo, viết văn tôi nhớ ông Hào và lấy bút danh là Thiện Tùng, với ngụ ý không tùng ác. Rõ chưa, đừng có hỏi ba cái lẻ tẻ nầy nữa!
Thiện Tùng
(BVN)
-----------------
Trả lời thắc mắc:
Có một ít bạn đọc thắc mắc, hỏi “Từchọn thể loại đến văn phong không có vẻ gì là thầy tu cả, sao đặt tên Thiện Tùng nghe có vẻ Phật?”
Xin thưa rằng: Hồi năm 1961, tôi, bà Nguyễn thị Định và ông Hòa thượng Thích Thiện Hào, trên đường về Khu Trung Nam Bộ (Khu 8 cũ), cùng ngồi trú nắng dưới gốc cây Gáo ở Đồng Tháp Mười, Hòa thượng Thích Thiện Hào nhìn tôi nói:
- Để đừng lộn Tùng nầy với Tùng khác, ta đặt cho mi tên Thiện Tùng có chịu không?
- Nghe sao nặc mùi Phật? – tôi nói.
- Tên ấy có ý nghĩa lắm đấy,“thiện mới tùng” – ông Hào nói.
Chuyện qua đường nói cho vui vậy thôi. Khi tham gia viết báo, viết văn tôi nhớ ông Hào và lấy bút danh là Thiện Tùng, với ngụ ý không tùng ác. Rõ chưa, đừng có hỏi ba cái lẻ tẻ nầy nữa!
Thiện Tùng
(BVN)
Việt Nam và bẫy thu nhập trung bình
HÀ
NỘI – Tại một cuộc họp gây nhiều tranh cãi gần đây, kinh tế gia Nhật Bản
Kenichi Ohno nói ông tin rằng Việt Nam đang rơi vào bẫy thu nhập trung
bình. Điều này đã tạo ra một cuộc tranh luận giữa các nhà kinh tế và các
nhà phân tích tài chính về tình hình kinh tế tại Việt Nam.
Bẫy thu
nhập trung bình được hiểu theo nghĩa một quốc gia đạt được mức độ thu
nhập nhất định nhưng về lâu dài thì không vượt qua được số tiền thu nhập
đó. Kết quả là tăng trưởng kinh tế nội địa trở nên trì hoãn và chậm
lại.
Lo sợ
Ông Ohno đã chỉ ra những cảnh báo hồi đầu năm 2008 rằng Việt Nam có nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Tuy nhiên, ông nói rằng những cảnh báo đó đã không được chú ý đến và bây giờ thì có những dấu hiệu rất rõ ràng rằng nước này đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Đặc biệt, ông Ohno xác định năm dấu hiệu cho thấy nước này hiện đang bị sa lầy trong bẫy thu nhập trung bình:
Lo sợ
Ông Ohno đã chỉ ra những cảnh báo hồi đầu năm 2008 rằng Việt Nam có nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Tuy nhiên, ông nói rằng những cảnh báo đó đã không được chú ý đến và bây giờ thì có những dấu hiệu rất rõ ràng rằng nước này đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Đặc biệt, ông Ohno xác định năm dấu hiệu cho thấy nước này hiện đang bị sa lầy trong bẫy thu nhập trung bình:
- Tăng trưởng kinh tế ở trong nước bị trì hoãn;
- Hiệu quả thấp trong việc sử dụng vốn đầu tư;
- Năng suất đã không theo kịp với đà tăng lương – tăng chi phí sản xuất;
- Tiền đồng mất giá 5,5% so với đô la đã không bù đắp được khả năng cạnh tranh bị thụt giảm 22,7% hàng năm; và
- Bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam hầu như không được cải thiện trong thời gian qua.
Ông Ohno đã gọi là tỷ lệ tăng trưởng GDP của Việt Nam là một “cuộc khủng hoảng xã hội”.
Nhìn
sâu hơn vào những con số năng suất, ông Ohno chỉ ra rằng từ năm 2009 đến
năm 2012, năng suất cho toàn bộ nền kinh tế chỉ tăng trưởng với tốc độ
3,2% và khu vực sản xuất đã tăng trưởng với tốc độ 5,1%. Tuy nhiên, việc
gia tăng tiền lương trên danh nghĩa trong cùng kỳ là 25,9% trong tổng
thể nền kinh tế, và 23,5% đối với khu vực sản xuất.
Hình ảnh mà Ohno đã vẽ lên về khả năng cạnh tranh của nước này thậm chí còn ảm đạm hơn. Theo số liệu của Quốc hội, khả năng cạnh tranh của Việt Nam đã giảm với tốc độ hàng năm là 22,7% trong nền kinh tế nói chung và giảm 18,3% trong lĩnh vực sản xuất nói riêng. Theo ý kiến của Ohno thì trong thực tế việc tiền đồng mất giá đã không bù đắp được mức sụt giảm khả năng cạnh tranh và điều này chỉ làm tình hình trở nên trầm trọng thêm.
Bất đồng mạnh mẽ
Tuy nhiên, nhiều phân tích gia không đồng ý với cách chẩn đoán mà ông Ohno đưa ra. Kinh tế gia Nguyễn Minh Phong mạnh mẽ phản đối những phát hiện của ông Ohno.
Ông Phong chỉ vào hai yếu tố quan trọng cho thấy rằng Việt Nam không bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình như Ohno đề cập. Điểm đầu tiên ông Phong đưa ra rằng theo Ngân hàng Thế giới, một quốc gia chỉ có thể được coi là rơi vào bẫy thu nhập trung bình nếu thu nhập bình quân đầu người trung bình hàng năm ở mức 4.000 –6.000 liên tục trong vòng 42 năm. Việt Nam chỉ mới bước vào mức thu nhập này mới có ba năm chứ không phải là nhiều thập kỷ theo nghĩa của Ngân hàng Thế giới.
Điểm thứ hai là tăng trưởng của Việt Nam đã bị chậm lại do các quyết định có ý thức được chính phủ cho phép nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế để thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ hơn trong thời gian trung hạn.
Tuy nhiên, ông Phong thừa nhận rằng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay không cao như ông mong muốn. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế thì Việt Nam có thể sẽ lọt vào các nước có thu nhập cao vào năm 2058 – với điều kiện là nước này không bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình trong khoảng thời gian này.
Do đó, ông Phong đề ra một kế hoạch nhằm gia tăng hiệu suất kinh tế và đảm bảo rằng Việt Nam không rơi vào bẫy thu nhập trung bình trong tương lai. Những điểm chính của kế hoạch này là Việt Nam cần:
Xem xét kỹ lưỡng kế hoạch công nghiệp;
Hình ảnh mà Ohno đã vẽ lên về khả năng cạnh tranh của nước này thậm chí còn ảm đạm hơn. Theo số liệu của Quốc hội, khả năng cạnh tranh của Việt Nam đã giảm với tốc độ hàng năm là 22,7% trong nền kinh tế nói chung và giảm 18,3% trong lĩnh vực sản xuất nói riêng. Theo ý kiến của Ohno thì trong thực tế việc tiền đồng mất giá đã không bù đắp được mức sụt giảm khả năng cạnh tranh và điều này chỉ làm tình hình trở nên trầm trọng thêm.
Bất đồng mạnh mẽ
Tuy nhiên, nhiều phân tích gia không đồng ý với cách chẩn đoán mà ông Ohno đưa ra. Kinh tế gia Nguyễn Minh Phong mạnh mẽ phản đối những phát hiện của ông Ohno.
Ông Phong chỉ vào hai yếu tố quan trọng cho thấy rằng Việt Nam không bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình như Ohno đề cập. Điểm đầu tiên ông Phong đưa ra rằng theo Ngân hàng Thế giới, một quốc gia chỉ có thể được coi là rơi vào bẫy thu nhập trung bình nếu thu nhập bình quân đầu người trung bình hàng năm ở mức 4.000 –6.000 liên tục trong vòng 42 năm. Việt Nam chỉ mới bước vào mức thu nhập này mới có ba năm chứ không phải là nhiều thập kỷ theo nghĩa của Ngân hàng Thế giới.
Điểm thứ hai là tăng trưởng của Việt Nam đã bị chậm lại do các quyết định có ý thức được chính phủ cho phép nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế để thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ hơn trong thời gian trung hạn.
Tuy nhiên, ông Phong thừa nhận rằng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay không cao như ông mong muốn. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế thì Việt Nam có thể sẽ lọt vào các nước có thu nhập cao vào năm 2058 – với điều kiện là nước này không bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình trong khoảng thời gian này.
Do đó, ông Phong đề ra một kế hoạch nhằm gia tăng hiệu suất kinh tế và đảm bảo rằng Việt Nam không rơi vào bẫy thu nhập trung bình trong tương lai. Những điểm chính của kế hoạch này là Việt Nam cần:
Xem xét kỹ lưỡng kế hoạch công nghiệp;
- Ưu tiên phát triển công nghệ thông tin và các ngành công nghiệp hỗ trợ;
- Giảm xuất khẩu các nguyên liệu tài nguyên thiên nhiên;
- Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc nghiên cứu thị trường và thăm dò những thị trường thích hợp;
- Giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ được vay vốn ngân hàng và tăng giá trị gia tăng;
- Mở rộng các cuộc đàm phán hiệp định và các thỏa thuận thương mại song phương nhằm thúc đẩy thương mại;
- Cải cách những lĩnh vực không có lợi thế cạnh tranh; và
- Cải cách giáo dục và đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao.
Ông
Phong cũng nói rằng điều quan trọng là cần học hỏi từ các quốc gia khác
để tránh được bẫy thu nhập trung bình. Đặc biệt, Nhật Bản, Đài Loan,
Singapore và Hàn Quốc sẽ giúp cung cấp cơ hội học tập quan trọng cho
Việt Nam trong vấn đề này. Quan trọng hơn, tất cả các quốc gia này đều
nêu cao lĩnh vực kinh tế tư nhân và xem đó là điều quan trọng để phát
triển kinh tế. Ngoài ra, 18% GDP của các nước này đến từ ngành công
nghiệp.
Trong
khi phát triển ngành công nghiệp tiếp tục đóng vai trò quan trọng, ông
Phong cũng thảo luận về cách làm thế nào để phát triển lĩnh vực dịch vụ.
Đây có thể là một cách để đảm bảo tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ.
Quan điểm hỗn hợp
Giám đốc Ngân hàng Phát triển châu Á tại Việt Nam, ông Tomoyuki Kimura, cho biết “hiện nay rất khó để Việt Nam để trở lại con đường tăng trưởng kinh tế cao như những năm trước (7-8% trong 2004-2007) do tốc độ cải cách chậm chạp liên quan đến hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước (DNNN). [Nhưng] mức tăng trưởng 5,6% trong năm nay và 5,8% trong năm tới không phải là tệ, đặc biệt trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế thế giới đang có nhiều sự trì trệ. Với lý do này, Việt Nam chưa [bị] rơi vào giai đoạn thu nhập trung bình nhưng nguy cơ [vẫn còn] ở đó”.
Ông Kimura nói rõ rằng nếu Việt Nam muốn tiếp tục thấy tốc độ tăng trưởng cao thì họ cần phải tăng tốc cải cách nhiều hơn nữa, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, nước này cũng cần mạnh mẽ cải thiện lĩnh vực đầu tư công.
Các cuộc tranh luận về chủ đề này vẫn tiếp tục diễn ra nhưng có những dấu hiệu rằng nước này sẽ không bị sa lầy vào bẫy thu nhập trung bình, bằng chứng là cộng đồng công nghệ mới ra đời tại Việt Nam. Thay vào đó, trong tương lai Việt Nam sẽ tiếp tục đạt đến những đỉnh cao của hệ thống kinh tế tại châu Á .
Quan điểm hỗn hợp
Giám đốc Ngân hàng Phát triển châu Á tại Việt Nam, ông Tomoyuki Kimura, cho biết “hiện nay rất khó để Việt Nam để trở lại con đường tăng trưởng kinh tế cao như những năm trước (7-8% trong 2004-2007) do tốc độ cải cách chậm chạp liên quan đến hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước (DNNN). [Nhưng] mức tăng trưởng 5,6% trong năm nay và 5,8% trong năm tới không phải là tệ, đặc biệt trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế thế giới đang có nhiều sự trì trệ. Với lý do này, Việt Nam chưa [bị] rơi vào giai đoạn thu nhập trung bình nhưng nguy cơ [vẫn còn] ở đó”.
Ông Kimura nói rõ rằng nếu Việt Nam muốn tiếp tục thấy tốc độ tăng trưởng cao thì họ cần phải tăng tốc cải cách nhiều hơn nữa, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, nước này cũng cần mạnh mẽ cải thiện lĩnh vực đầu tư công.
Các cuộc tranh luận về chủ đề này vẫn tiếp tục diễn ra nhưng có những dấu hiệu rằng nước này sẽ không bị sa lầy vào bẫy thu nhập trung bình, bằng chứng là cộng đồng công nghệ mới ra đời tại Việt Nam. Thay vào đó, trong tương lai Việt Nam sẽ tiếp tục đạt đến những đỉnh cao của hệ thống kinh tế tại châu Á .
Đỗ Đăng Khoa chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Edward Barbour–Lacey, Vietnam Briefing
© 2014 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC
Công an tỉnh Hải Dương kết luận vụ "kiều nữ Hải Dương"
(Soha.vn) - Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hải Dương vừa ra kết luận sơ bộ về vụ kiều nữ Hải Dương gây xôn xao dư luận thời gian qua.
Chiều 19/4, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hải Dương cho biết đã hoàn tất kết quả điều tra ban đầu theo nội dung đơn tố của bà Phạm Ngọc Thị Thanh (hay còn gọi là Phạm Thị Thanh Ngọc, SN 1974, quốc tịch Hoa Kỳ, địa chỉ cư trú: số 1614 SANIBEL LANE, ARILINGTON TX 76018, USA) xung quanh sự việc "kiều nữ Hải Dương cưỡng dâm hàng trăm tài xế taxi" gây xôn xao dư luận thời gian qua.
Theo đơn tố cáo của "kiều nữ Hải
Dương" này, vào thời điểm cuối tháng 12/2013, 2 phóng viên có tên là
Diệu Nam và Sa Hà của báo Người đưa tin đã viết những bài báo không đúng
sự thật, gây ảnh hưởng uy tín, danh dự và cuộc sống của mình. Bà Ngọc
đã kiện 2 phóng viên có tên trên và
các tài xế lái xe taxi có tên Bối, Q, N và K thuộc hãng taxi Mai Linh
đã cung cấp tin và viết bài về mình là nữ dâm tặc, kẻ cuồng dâm chuyên
đi dụ dỗ, cho tài xế uống thuốc kích dục để ép buộc các tài xế lái taxi
quan hệ tình dục trái ý muốn của họ.
"Kiều nữ Hải Dương" cho rằng các nội dung trên được đăng trên báo điện tử trên là bịa đặt, dựng chuyện làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của bà Thanh (tức Ngọc) và đề nghị các cơ quan hữu quan truy tố những người này về tội vu khống quy định tại Điều 122 Bộ luật hình sự.
"Kiều nữ Hải Dương" cho rằng các nội dung trên được đăng trên báo điện tử trên là bịa đặt, dựng chuyện làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của bà Thanh (tức Ngọc) và đề nghị các cơ quan hữu quan truy tố những người này về tội vu khống quy định tại Điều 122 Bộ luật hình sự.
Văn bản trả lời của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hải Dương.
Qua xem xét nội dung đơn và kết quả xác minh ban đầu, Công an tỉnh Hải
Dương xác định: Trong các bài báo “Hoang mang kiều nữ có sở thích …
cưỡng hiếp lái xe taxi”, “Lết khỏi nhà kiều nữ, tài xế lẩy bẩy nhập
viện” và “Diện kiến kiều nữ thích lạm dụng tài xế taxi trong phòng ngủ”
do phóng viên Diệu Nam, Sa Hà viết đăng trên báo điện tử Người đưa tin
các ngày 26, 28 và 31/12/2013 phản ánh về một hiện tượng, vụ việc xảy
ra trên địa bàn tỉnh Hải Dương, nhân vật được gọi là “nữ dâm tặc”, “kẻ
cuồng dâm” trong bài viết không bị nêu đích danh họ tên, địa chỉ cụ
thể.
Do đó không có cơ sở cho rằng phóng viên Sa Hà và Diệu Nam viết bài xâm phạm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của bất cứ cá nhân nào, vì vậy không có dấu hiệu của tội vu khống theo điều 122 Bộ luật hình sự.
Do đó không có cơ sở cho rằng phóng viên Sa Hà và Diệu Nam viết bài xâm phạm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của bất cứ cá nhân nào, vì vậy không có dấu hiệu của tội vu khống theo điều 122 Bộ luật hình sự.
Vậy, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (PC45) Công an tỉnh Hải Dương thông báo để bà Pham Ngọc Thị Thanh (tức Phạm Thị Thanh Ngọc) và người bị tố cáo biết.
Được biết, bà Ngọc gửi đơn tố những nội dung trên đến Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hải Dương ngày 10/01/2014.
Mai Thái Lĩnh - Phải chăng Marx và Engels đã “xét lại” vào lúc cuối đời?
Mai Thái Lĩnh
Tác giả gửi đến Dân Luận
Ở các nước Á Đông chịu ảnh hưởng của Nho giáo – đặc biệt là ở Trung Hoa và Việt Nam, từ hàng ngàn năm nay đã hình thành một thói quen của tầng lớp kẻ sĩ: để xét lại học thuyết của một nhà tư tưởng đã lỡ được “phong thánh”, thay vì phê phán trực tiếp, người ta thường tìm cách lục lọi trong những phát biểu của vị thánh đó một vài ý kiến để làm chỗ tựa và tìm cách diễn giải học thuyết đó theo một cách mới. Ví như dưới thời nhà Tống, các nhà nho đã diễn giải học thuyết của Khổng Tử theo hai cách khác nhau, làm phát sinh hai trường phái: Lý học của Chu Hi và Tâm học của Vương Thủ Nhân (tức Vương Dương Minh).Thật ra, quan niệm cho rằng “Marx và Engels vào lúc cuối đời đã chủ trương xét lại” không xuất phát từ một công trình nghiên cứu của người Việt, mà bắt nguồn từ một tác phẩm của Tân Tử Lăng - một đại tá quân đội hồi hưu ở Trung Hoa lục địa, được xuất bản lần đầu tại Hong Kong vào tháng 7 năm 2007. Vào năm 2009, Thông Tấn Xã Việt Nam đã cho dịch và xuất bản cuốn sách này, lấy nhan đề là Mao Trạch Đông ngàn năm công tội. Vì cuốn sách chưa được Đảng Cộng sản Trung Quốc chính thức công nhận, bản dịch này chỉ được phát hành dưới dạng “lưu hành nội bộ” - chủ yếu dành cho các cán bộ trung và cao cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam đọc để “tham khảo”. Vào tháng 5 năm 2010, một ấn bản điện tử của bản dịch này đã được đưa lên mạng Internet và từ đó đến nay, tác phẩm của Tân Tử Lăng đã có ảnh hưởng đáng kể đến một số độc giả người Việt – nhất là các đảng viên cộng sản và giới trí thức trong nước.[1]
Cái thói quen ấy ngày nay được lặp lại trong những trí thức đã từng coi Marx như một nhà “minh triết” vĩ đại và chủ nghĩa Marx như con đường duy nhất đi đến chân lý. Thế nhưng, trong thời đại ngày nay, người ta có thể diễn giải các học thuyết một cách dễ dãi, tùy tiện như thế hay không? Nhất là trong trường hợp của chủ nghĩa Marx – một học thuyết gắn liền với thực tiễn xã hội và được diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ gần với ngôn ngữ của khoa học xã hội hiện đại chứ không phải bằng những câu chữ ngắn gọn, mơ hồ, đa nghĩa theo kiểu Kinh Dịch hay Đạo Đức Kinh.
Bài viết này chỉ nhằm mổ xẻ một vấn đề được dấy lên trong vài năm gần đây trong giới trí thức nước ta: phải chăng vào lúc cuối đời, Marx và Engels đã “xét lại” chủ thuyết của chính mình?
Điều đáng nói là ngoài những tư liệu về tình hình Trung Quốc, cuốn sách còn chứa đựng một phần lý luận về chủ nghĩa Marx và trào lưu dân chủ-xã hội trên thế giới. Bên cạnh những kiến thức đúng đắn và có ý nghĩa tích cực, cuốn sách cũng chứa đựng nhiều kiến thức sai lệch, không bảo đảm tính khoa học, vì vậy đã gây ra nhiều ngộ nhận, nhất là trong những người không có điều kiện nghiên cứu trực tiếp các tài liệu của trào lưu dân chủ-xã hội châu Âu.
Theo tác giả Tân Tử Lăng trong Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, vào cuối đời, Engels đã từ bỏ mục tiêu “chủ nghĩa cộng sản”. Ông viết như sau: “Chẳng có mục tiêu cao đẹp của “chủ nghĩa cộng sản” nào hết, đây là một mệnh đề do người sáng lập Chủ nghĩa Mác nêu ra hồi trẻ và đã từ bỏ vào những năm cuối đời. Tháng 10-1847, Ăngghen viết tác phẩm “Nguyên lý chủ nghĩa cộng sản” phác hoạ ước mơ của chàng trai 27 tuổi về một xã hội lý tưởng trong tương lai. Ngày 11-5-1893 khi 73 tuổi, nói chuyện với phóng viên báo Pháp “Le Figaro”, Ăngghen đã phủ định mô hình xã hội tương lai do mình thiết kế hồi trẻ.” (TTL, tr. 10)
Sau khi đã trích dẫn Lời nói đầu của Engels (viết ngày 6-3-1895, nhân dịp xuất bản cuốn Đấu tranh giai cấp ở Pháp của Karl Marx), Tân Tử Lăng viết tiếp: “Ngày 5-8-1895, không đầy 5 tháng sau khi đưa ra những ý kiến trên, Ăngghen qua đời. Nếu như cái quan định luận, thì đây là những ý kiến cuối cùng của Ăngghen về sách lược cách mạng của các nước châu Âu. Ông hy vọng thông qua cuộc đấu tranh hợp pháp của giai cấp công nhân giành được chính quyền, bảo lưu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, quá độ hoà bình lên chủ nghĩa xã hội. Phải nói đây là di ngôn cuối cùng của Ăngghen đối với phong trào xã hội chủ nghĩa ở các nước châu Âu, là sự sửa đổi quan trọng đối với “sách lược cũ” trong “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”. Như vậy, trong tác phẩm của Mác và Ăng-ghen có hai con đường xã hội chủ nghĩa: con đường chủ nghĩa xã hội bạo lực và con đường chủ nghĩa xã hội dân chủ. (…) Mác và Ăngghen những năm cuối đời càng ngả sang con đường quá độ hoà bình. Coi cách mạng bạo lực là con đường chính thống duy nhất để thực hiện chủ nghĩa xã hội là trái với bản ý của Mác và Ăngghen.” (TTL, tr. 274)
Ở đây có hai ý kiến cần làm rõ: (1) Marx và Engels có hoàn toàn từ bỏ con đường cách mạng bạo lực để ngả sang con đường quá độ hòa bình hay không? (2) Marx và Engels có từ bỏ mục tiêu cuối cùng (tức là chủ nghĩa cộng sản) hay không?
1) Phải chăng Marx và Engels từ bỏ con đường cách mạng bạo lực?
a) Marx và Engels có ủng hộ phái Lassalle hay không?Tân Tử Lăng viết:
“Sau khi được công bố năm 1848, “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” tuy đã làm chấn động tầng lớp thống trị các nước châu Âu, nhưng không được quần chúng nhân dân tiếp nhận rộng rãi. Sau này ôn lại tình hình lúc ấy, Ăngghen nói: “Tuyên ngôn tuy được dịch sang tiếng Anh, tiếng Pháp và nhiều thứ tiếng, nhưng nó không ảnh hưởng gì tới các dân tộc khác”. “Từ năm 1852 khi người cộng sản Koren bị kết án đã kết thúc giai đoạn đầu của phong trào công nhân độc lập Đức”. Từ đó đã đánh dấu chấm hết giai đoạn đầu của phong trào công nhân Đức dưới ngọn cờ chủ nghĩa cộng sản.Trong đoạn văn trên đây, Tân Tử Lăng lập luận:
Sau thất bại của cách mạng Châu Âu năm 1849, Chủ nghĩa xã hội ở Đức chỉ có thể tồn tại bí mật. Đến năm 1862, học trò của Mác là Lassall mới nêu ngọn cờ xã hội chủ nghĩa. Như chúng ta đã thấy, Chủ nghĩa xã hội của Lassall rất ôn hoà. Nhưng sự xuất hiện của nó trên vũ đài lại đánh dấu khởi điểm phát triển chủ nghĩa xã hội Đức giai đoạn 2. (…)
Để thay đổi tình trạng lý luận cao siêu ít người theo kịp, ngày 17-11-1852, Mác và Ăngghen đã giải tán Đồng minh những người cộng sản, hai ông không thành lập Đảng Cộng sản, mà chuyển sang ủng hộ phong trào xã hội chủ nghĩa ôn hoà của Lassall. Đây là chuyển biến lớn của Mác và Ăngghen về chính trị, từ người cộng sản sang người dân chủ xã hội. Dưới sự chỉ đạo của hai ông, tháng 8-1869, Đảng Dân chủ Xã hội Đức - chính đảng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới - ra đời. Đây là giai đoạn 2 của phong trào công nhân Đức, giai đoạn chủ nghĩa xã hội dân chủ.” (TTL, tr. 264)
- Năm 1852 – thời điểm giải tán “Đồng minh những người cộng sản”, đánh dấu chấm hết giai đoạn đầu của phong trào công nhân Đức dưới ngọn cờ chủ nghĩa cộng sản;
- Năm 1862, Ferdinand Lassalle nêu ngọn cờ xã hội chủ nghĩa, chủ trương đấu tranh ôn hòa. Marx và Engels sau khi giải tán “Đồng minh những người cộng sản” đã không thành lập Đảng Cộng sản mà “chuyển sang ủng hộ phong trào xã hội chủ nghĩa ôn hòa của Lassalle”. Đây là “giai đoạn hai của phong trào công nhân Đức – giai đoạn chủ nghĩa xã hội dân chủ”.
Cả hai điểm này đều không đúng với sự thật lịch sử, vì những lý do sau đây:
- Trước hết, “Đồng minh những người cộng sản”phải tự giải tán là do vụ án ở thành phố Cologne diễn ra từ ngày 4-10 đến ngày 12-10-1852 (Cologne trong tiếng Đức viết là Köln, nhưng không hiểu do đâu mà trong bản dịch, dịch giả lại phiên âm thành Koren). Trong Lời tựa viết cho bản tiếng Anh của Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản (viết năm 1888), Engels đã nói rõ: “Lập tức sau khi vụ án đã xử xong, Liên đoàn đã bị những hội viên không bị bắt chính thức tuyên bố giải tán.” (Tuyển tập, I, tr. 512)
Mục đích của hành động giải tán tổ chức này thật ra chỉ nhằm để bảo vệ phong trào cộng sản Đức, đối phó với sự đàn áp của nhà cầm quyền Đức lúc đó. Nhưng việc giải tán tổ chức mang danh nghĩa cộng sản đó không có nghĩa là Marx và Engels “không thành lập Đảng Cộng sản, mà chuyển sang ủng hộ phong trào xã hội chủ nghĩa ôn hoà của Lassalle” như suy luận của Tân Tử Lăng. Trong thực tế, thay vì thu gọn hoạt động trong phạm vi của nước Đức và những kiều dân Đức, hai ông đã tìm cách mở rộng phạm vi hoạt động, hình thành một tổ chức quốc tế. Sau những năm chuẩn bị, Hiệp hội Công nhân Quốc tế (International Workingmen's Association, Association Internationale des Travailleurs), thường gọi là Quốc tế I, đã được thành lập vào ngày 29-9-1864 và đại hội đầu tiên diễn ra tại Geneva (Thụy Sĩ) vào năm 1866. Quốc tế I hoạt động cho đến năm 1872 thì bị tê liệt và bốn năm sau (1876) phải tự tuyên bố giải tán vì sự chia rẽ giữa hai phe: phe theo Marx và phe vô chính phủ (anarchism) theo Bakunin.
Sở dĩ khi thành lập Quốc tế I, hai ông không gọi nó là cộng sản là do ý muốn mở rộng quy mô của phong trào nhằm lôi kéo nhiều xu hướng khác nhau, như Engels đã giải thích: “Nhưng hội này (Quốc tế I) – thành lập nhằm một mục đích rõ rệt là đoàn kết tất cả các lực lượng chiến đấu của giai cấp vô sản châu Âu và châu Mỹ thành một khối – lại không thể tuyên bố ngay tất cả những nguyên lý đề ra trong “Tuyên ngôn” được. Cương lĩnh của Quốc tế phải khá rộng rãi để cho cả những hội công liên ở Anh, những môn đồ của Proudhon ở Pháp, Bỉ, Ý và Tây Ban Nha lẫn phái Lassalle ở Đức đều có thể chấp nhận được.” (Tuyển tập, I, tr. 512-513). Nói cách khác, việc hạ thấp khẩu hiệu và các nguyên tắc nền tảng của Quốc tế I không thể hiện sự từ bỏ mục tiêu cộng sản mà chỉ là vấn đề chiến thuật (tactics, còn được dịch là sách lược). Nội dung của Tuyên ngôn vẫn là cốt lõi của tư tưởng Marx.
- Marx và Engels không hề ủng hộ Lassalle và những người thuộc phái Lassalle:
Vào năm 1863, nghĩa trước khi Quốc tế I được thành lập, Ferdinand Lassalle (1825-1864) đã sáng lập Tổng Hội Công nhân Đức (Allgemeiner Deutscher Arbeiterverein, General German Workers' Union, Association générale allemande de travailleurs; viết tắt là ADAV). Mặc dù Lassalle mất sớm trong một trận đấu kiếm vào năm 1864, phái Lassalle (Lassalleans) vẫn tồn tại dai dẳng trong lòng phong trào công nhân Đức và là nhân tố gợi hứng cho việc xét lại chủ nghĩa Marx tại Đức cũng như tại các nước Bắc Âu.
Song song với sự phát triển của ADAV, một nhánh khác của phong trào xã hội chủ nghĩa cũng hình thành tại nước Đức và đến năm 1869, thành lập Đảng Công nhân Dân chủ - Xã hội (Sozialdemokratische Arbeiterpartei, Social Democratic Workers' Party, Parti travailliste social-démocrate, viết tắt là SDAP). Đại hội thành lập Đảng được tiến hành tại thành phố Eisenach (miền Trung nước Đức); do đó phái này cũng được gọi là phái Eisenach, đảng Eisenach. Đây là phái chịu ảnh hưởng sâu đậm của chủ nghĩa Marx.
Hai phái Lassalle và Eisenach (mác-xít) vẫn cạnh tranh nhau mãi cho đến năm 1875. Vào năm này, hai tổ chức chính trị - ADAV của phái Lassalle và Đảng Công nhân Dân chủ-xã hội (SDAP) của August Bebel và Wilhelm Liebknecht, đồng ý hợp nhất với nhau để trở thành Đảng Công nhân Xã hội Chủ nghĩa (Sozialistische Arbeiterpartei, Socialist Workers' Party, Parti ouvrier socialiste; viết tắt là SAP). Đến năm 1890, đảng này đổi tên thành Đảng Dân chủ - Xã hội Đức (Sozialdemokratische Partei Deutschlands, Social Democratic Party of Germany, Parti social-démocrate d'Allemagne; viết tắt là SPD) – một danh xưng tồn tại mãi đến ngày nay.
Mặc dù đồng ý hợp nhất thành một tổ chức, hai phái này vẫn tranh chấp nhau - nhất là về lập trường chính trị. Sự tranh chấp này chính là mầm mống của cuộc tranh chấp giữa hai phái cải cách và cách mạng nổ ra trong lòng Đảng SPD vào lúc giao thời giữa hai thế kỷ 19 và 20, bắt đầu từ chủ nghĩa xét lại của Eduard Berstein. Một điều đáng lưu ý nữa là khi hai phái hợp nhất, cương lĩnh được thông qua thường gọi là Cương lĩnh Gotha (1875). Marx đã phê phán một số điểm trong cương lĩnh này, và cho rằng phái Eseinach đã thỏa hiệp một cách vô nguyên tắc với phái Lassalle về các điểm ấy.
Năm 1891, Engels đã công bố bản văn này của Marx, với nhan đề là Phê phán cương lĩnh Gotha. Trong Lời nói đầu giới thiệu tác phẩm này, Engels viết:
“Song bản thảo này còn có một ý nghĩa khác nữa, rộng lớn hơn nhiều. Trong bản thảo này, lần đầu tiên Mác đã trình bày rõ ràng và rành mạch thái độ của mình đối với đường lối mà Lassalle đã đi theo ngay từ khi ông ta mới tham gia công tác cổ động và hơn nữa, đối với cả những nguyên lý kinh tế lẫn sách lược của Lassalle.Vì vậy, không thể kết luận như Tân Tử Lăng rằng “Marx và Engels chuyển sang ủng hộ chủ nghĩa xã hội ôn hòa của Lassalle” ngay từ đầu thập niên 1860. Ngược lại, cho đến cuối đời, hai ông đều coi quan điểm của phái Lassalle là biểu hiện lệch lạc của xu hướng tiểu tư sản trong phong trào công nhân.[2]
Tính chất gay gắt không kiêng nể trong việc phân tích bản dự thảo cương lĩnh, tính cứng rắn trong việc nêu lên những kết luận đã rút ra, những chỗ yếu trong bản dự thảo bị bóc trần, - tất cả những cái đó, ngày nay, sau mười lăm năm, không có thể làm ai phật lòng nữa. Những môn đồ đặc biệt theo Lassalle chỉ còn tồn tại với tư cách là những đám tàn dư cá biệt ở nước ngoài, còn ở Halle thì Cương lĩnh Gotha cũng đã bị ngay cả những người thảo ra bỏ rơi, coi là hoàn toàn thiếu sót.” (Tuyển tập, IV, tr. 465-466)
b) Marx và Engels có chủ trương từ bỏ hoàn toàn con đường dùng bạo lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội hay không?
Công bằng mà nói, Marx – và nhất là Engels, đã đề cập đến phương thức đấu tranh ôn hòa. Vấn đề đặt ra là: hai ông có hoàn toàn từ bỏ phương thức dùng bạo lực và quan niệm chuyên chính vô sản hay không?
Ngay từ đầu thập niên 1870, Marx đã nêu ra khả năng quá độ hòa bình để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong bài diễn văn đọc tại Amsterdam – thủ đô của Hà Lan, nhân dịp bế mạc Đại hội của Quốc tế I năm 1872, thường gọi là Đại hội La Haye (Hague), Marx nói:
“Một ngày nào đó, người công nhân phải nắm quyền lực chính trị để xây dựng nên một tổ chức mới của lao động; họ phải lật đổ nền chính trị cũ là cái duy trì các thiết chế cũ, nếu họ không muốn đánh mất Thiên đường trên Trái đất giống như những người Ki-tô-giáo xưa kia đã bỏ bê và xem thường chính trị.Điều đó có nghĩa là Marx thừa nhận có “một số quốc gia” mà ở đó, giai cấp công nhân có thể giành được thắng lợi bằng con đường ôn hòa, không sử dụng bạo lực. Nhưng như ông đã nhấn mạnh ngay trong câu kế tiếp: ở hầu hết các nước tư bản chủ nghĩa khác trên lục địa châu Âu, vẫn phải dùng đến bạo lực; và bạo lực vẫn là phương pháp chủ yếu, bởi vì “một ngày nào đó chúng ta (nghĩa là những người vô sản) phải cần đến sức mạnh (tức là bạo lực) để dựng nên nền thống trị của lao động”. Nói cách khác, con đường đấu tranh ôn hòa vẫn không phải là con đường phổ biến. Hơn thế nữa, cho đến cuối đời, Marx vẫn chưa từ bỏ quan niệm chuyên chính vô sản (độc tài vô sản) mà ông tưởng đã nhìn thấy hình dạng của nó trong Công xã Paris năm 1871: một nền dân chủ trực tiếp của số đông, không thực hiện tam quyền phân lập, hoàn toàn tước bỏ các quyền chính trị của giai cấp tư sản. Sở dĩ ông còn khư khư ôm lấy quan niệm chuyên chính vô sản là bởi vì trong thâm tâm, ông vẫn nuôi dưỡng niềm tin “ngây thơ” (nhưng hết sức ngớ ngẩn) rằng chế độ độc tài tạm thời này sẽ mở đường cho sự tự tiêu vong của Nhà nước. Đó là chưa kể đến tình cảm thù ghét bộ máy thư lại (bureaucracy) một cách cực đoan mà ông đã nuôi dưỡng trong lòng ngay từ thời còn trẻ - một thứ tình cảm mà ông chia sẻ với những người theo chủ nghĩa vô chính phủ (anarchism).
Nhưng chúng tôi không khẳng định rằng những con đường để đạt được mục đích đó ở nơi nào cũng giống nhau. Các bạn đều biết rằng cần phải lưu ý đến các thiết chế, tập tục và truyền thống của các nước khác nhau, và chúng tôi không phủ nhận rằng có những nước – như Mỹ, Anh và nếu tôi biết rõ hơn về các thiết chế của các bạn, có lẽ tôi sẽ tính thêm cả Hà Lan – là những nơi mà công nhân có thể đạt được mục đích của họ bằng các phương tiện hòa bình. Nhưng cho dù là như thế, chúng ta cũng phải thừa nhận sự thật rằng trong hầu hết các nước ở lục địa, cái đòn bẩy của cuộc cách mạng của chúng ta phải là sức mạnh; chính sức mạnh là cái mà vào một ngày nào đó chúng ta phải cần đến để dựng nên nền thống trị của lao động.”[3]
Tôi đã phân tích khá đầy đủ quan niệm chuyên chính vô sản của Marx và hậu quả của nó trong cuốn Huyền thoại về một Nhà nước tự tiêu vong, công bố năm 2005. [4]
c) Về bài viết cuối cùng của F. Engels
Tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp của Marx nguyên là một loạt bài báo được đăng trên tạp chí kinh tế-chính trị Neue Rheinische Zeitung (Báo sông Rhin mới) vào năm 1850 với chủ đề Từ 1848 đến 1849. Năm 1895, theo yêu cầu của các nhà lãnh đạo đảng SPD ở Đức, Engels đã cho xuất bản toàn bộ các bài viết này dưới dạng một tập sách với nhan đề Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848-1850 và nhân dịp này, ông viết Lời nói đầu để giới thiệu tác phẩm của bạn mình. Lời nói đầu này (viết xong ngày 6-3-1895, 5 tháng trước khi Engels qua đời) được xem là bài viết cuối cùng của Engels, một tác phẩm quan trọng chứa đựng một số ý tưởng mới của ông về phương pháp đấu tranh ôn hòa, hợp pháp. Bài viết cũng là nguyên nhân gây tranh cãi giữa hai phái cải cách và cách mạng trong nội bộ phong trào công nhân châu Âu – nhất là giữa những người những người chủ trương xét lại và những người kiên quyết bảo vệ “chủ nghĩa Marx chính thống”.
Trong bản văn này, Engels đã công khai ca ngợi phương thức đấu tranh ôn hòa của Đảng SPD và những thành tựu mà đảng này đã đạt được trong thập niên cuối thế kỷ 20. Có thể trích một vài đoạn quan trọng:
“Nhưng, ngoài cống hiến thứ nhất là mang lại cho bản thân một sự tồn tại với tư cách là một đảng xã hội chủ nghĩa, đảng mạnh nhất, có kỷ luật nghiêm minh nhất và trưởng thành nhanh chóng nhất, thì giai cấp công nhân Đức còn có một cống hiến lớn thứ hai cho sự nghiệp của họ. Trong khi chỉ ra cho những người đồng chí của mình ở tất cả các nước thấy nên sử dụng quyền đầu phiếu phổ thông như thế nào, công nhân Đức đã cung cấp cho những người đồng chí ấy một vũ khí mới, một trong những vũ khí sắc bén nhất.” (Tuyển tập, VI, tr. 609)Những đoạn văn trích dẫn trên đây làm cho người đọc tưởng chừng Engels mở đường cho phương thức xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng con đường đấu tranh ôn hòa. Thật ra, nếu đi sâu tìm hiểu bối cảnh ra đời của bài viết, chúng ta sẽ thấy vấn đề không hoàn toàn đơn giản như thế.
“Ngay từ bây giờ, chúng ta đã có thể trông cậy vào 2 triệu 25 vạn cử tri. Nếu tình hình đó cứ tiếp diễn như vậy thì từ nay cho đến cuối thế kỷ, chúng ta sẽ tranh thủ được bộ phận lớn nhất trong các tầng lớp trung gian trong xã hội, tức là những người tiểu tư sản và những người tiểu nông, và chúng ta sẽ lớn lên cho đến khi trở thành lực lượng quyết định ở trong nước, trước nó tất cả những lực lượng khác, dù muốn hay không, cũng đều phải chịu khuất phục. Không ngừng duy trì sự tăng trưởng đó cho đến khi tự bản thân lực lượng đó vượt ra ngoài phạm vi chi phối của chế độ thống trị hiện nay (không được làm hao mòn lực lượng của đội xung kích đang ngày càng lớn mạnh đó trong những trận chiến đấu tiền tiêu mà phải giữ gìn nó nguyên vẹn cho đến ngày quyết định) – đó là nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta. (…) Lịch sử thế giới trớ trêu đã làm đảo lộn tất cả. Chúng ta, những người “cách mạng”, những “người lật đổ”, chúng ta phát triển bằng những biện pháp hợp pháp thì tốt hơn rất nhiều là bằng những thủ đoạn bất hợp pháp và sự lật đổ.” (sđd, tr. 620)
Tình hình thực tế là Đảng Dân chủ-Xã hội Đức đã gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn Luật chống-xã hội chủ nghĩa (Anti-socialist Laws) có hiệu lực, nghĩa là từ 1878 cho đến năm 1890. Tháng 9 năm 1890, khoảng 6 tháng sau khi Thủ tướng Otto von Bismarck qua đời, luật này mới bị hủy bỏ. Nhờ việc hủy bỏ luật này, uy tín của đảng SPD lên cao, thu được số phiếu bầu ngày càng lớn trong các cuộc bầu cử vào nghị viện.
Vào đầu năm 1895, khi những người lãnh đạo SPD nêu ý định xuất bản cuốn Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848-1850 và đề nghị Engels viết Lời nói đầu, ông đã tán dương phương pháp đấu tranh công khai hợp pháp bằng con đường nghị trường, bởi vì đó là con đường phù hợp với hoàn cảnh lúc đó. Mặc dù vậy, ông chỉ coi đó là chiến thuật (tactics) trong giai đoạn “chờ thời” – nhất là trong hoàn cảnh riêng của nước Đức. Mặt khác, ông vẫn luôn coi mục đích cuối cùng của phong trào công nhân là chiếm lấy chính quyền nhằm thực hiện mục tiêu công hữu hóa các tư liệu sản xuất. Trong khi chủ trương sử dụng phương pháp đấu tranh ôn hòa, hợp pháp, ông vẫn không từ bỏ chủ trương dùng bạo lực khi cần thiết.
Sau khi Engels viết xong bản thảo Lời nói đầu, Richard Fisher – đại diện cho SPD, đề nghị ông sửa lại một số đoạn cho nhẹ bớt, vì họ lo rằng phe bảo thủ đang chuẩn bị một dự luật “chống - phá hoại” nhằm vào những người xã hội chủ nghĩa. Engels đồng ý sửa một số đoạn. Thế nhưng trong khi cuốn sách đang ở giai đoạn chuẩn bị, chưa kịp xuất bản thì Karl Liebneck đã cho công bố Lời nói đầu trên tờ Vorwarts, trong đó cắt xén thêm nhiều đoạn khiến người đọc nghĩ rằng Engels đã hoàn toàn mở đường cho một phương thức mới, từ bỏ con đường bạo lực. Engels rất giận về điều này và đã than phiền trong một số lá thư gửi cho một số người thân cận. Như trong lá thư gửi cho Paul Lafargue (con rể của Marx) vào ngày 3-4-1895, ông viết:
“… Liebknecht vừa mới lừa tôi một cú tài tình. Anh ta đã lấy từ Lời nói đầu của tôi (giới thiệu các bài báo của Marx viết về nước Pháp những năm 1848-1850) mọi thứ có thể phục vụ cho anh ta nhằm ủng hộ chiến thuật hòa bình với bất cứ giá nào và chống đối lại vũ lực và bạo lực – tức là những điều làm hài lòng anh ta để có thể rao giảng vào một lúc nào đó, đặc biệt là vào lúc này – khi mà các luật cưỡng chế đang được chuẩn bị tại Berlin. Nhưng tôi truyền bá những chiến thuật này chỉ nhằm dành cho nước Đức ngày nay, và thậm chí với một điều kiện quan trọng. Ở Pháp, Bỉ, Ý, và Áo, không thể tuân theo trọn vẹn các chiến thuật này và ở Đức, chúng có thể không áp dụng được vào ngày mai…”[5]Về sau, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra nhiều đoạn cắt xén trong Lời nói đầu này, chứng tỏ cả ban lãnh đạo của SPD lúc đó đã tìm cách xuyên tạc ý kiến của Engels để tiến hành phương thức đấu tranh ôn hòa. Đặc biệt là Bernstein, cha đẻ của chủ nghĩa xét lại. Sau khi Engels qua đời, Bernstein đã coi Lời nói đầu như một di chúc chính trị của Engels, lấy đó làm cái cớ để phát triển tư tưởng xét lại của ông.
Trong khuôn khổ của bài viết, tôi không tiện đi sâu phân tích vấn đề lý luận khá tế nhị này. Độc giả nào muốn tìm hiểu kỹ vấn đề, có thể đọc bài viết của Paul Hampton về “di chúc chính trị” của Engels [6] hoặc mục từ “Marxisme” trong Từ điển bách khoa Larousse - phần nói về “các bản văn cuối cùng của Engels” (Les derniers textes de Engels).[7]
2) Marx và Engels có từ bỏ lý tưởng cộng sản vào cuối đời hay không?
Để chứng minh rằng vào cuối đời, Engels đã nhìn thấy sai lầm của mình và từ bỏ mục tiêu xây dựng xã hội cộng sản của thời trẻ, Tân Tử Lăng viết: “Chẳng có mục tiêu cao đẹp của “chủ nghĩa cộng sản” nào hết, đây là một mệnh đề do người sáng lập Chủ nghĩa Mác nêu ra hồi trẻ và đã từ bỏ vào những năm cuối đời. Tháng 10-1847, Ăngghen viết tác phẩm “Nguyên lý chủ nghĩa cộng sản” phác hoạ ước mơ của chàng trai 27 tuổi về một xã hội lý tưởng trong tương lai. Ngày 11-5-1893 khi 73 tuổi, nói chuyện với phóng viên báo Pháp “Le Figaro”, Ăngghen đã phủ định mô hình xã hội tương lai do mình thiết kế hồi trẻ. Ông nói: “Chúng tôi không có mục tiêu cuối cùng. Chúng tôi là những người theo thuyết không ngừng phát triển. Không tính chuyện áp đặt cho loài người quy luật cuối cùng nào. Còn cách nhìn, dự định chi tiết trên phương diện tổ chức xã hội tương lai ư? Ngài không thể tìm thấy ở chỗ chúng tôi ngay cả hình bóng của chúng”. (TTL, tr. 10)Độc giả có thể tìm đọc toàn văn bài trả lời phỏng vấn nói trên trên mạng Internet cả bản tiếng Pháp[8] lẫn bản dịch tiếng Anh[9]. Bài phỏng vấn này được thực hiện ngày 11-5 và được đăng trên tờ Le Figaro vào ngày 13-5-1893.
Nguyên văn của đoạn trích dẫn nói trên như sau: “Nhưng chúng tôi không có mục đích cuối cùng. Chúng tôi là những người theo thuyết tiến hóa (évolutionnistes), chúng tôi không có ý định áp đặt cho nhân loại các quy luật cuối cùng. Về những dự kiến đối với vấn đề tổ chức một cách chi tiết xã hội trong tương lai? Các ông sẽ không tìm thấy dấu vết nào nơi chúng tôi. Chúng tôi sẽ thỏa mãn khi chúng tôi đã đặt các phương tiện sản xuất trong tay của cộng đồng, và chúng tôi biết rõ rằng đối với chính quyền quân chủ và liên bang hiện tại, điều đó là không thể có.”
Như vậy là Tân Tử Lăng đã cắt bỏ cả một đoạn sau (gạch dưới), qua đó chúng ta thấy Engels không hề từ bỏ mục đích “đặt các phương tiện sản xuất trong tay cộng đồng” (tức là công hữu hóa, xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất).
Hơn thế nữa, cần xem lại một đoạn trước đó của bài phỏng vấn:
“[Lời của phóng viên] Tuyên bố vừa rồi của Engels không thuyết phục được tôi, tôi nhấn mạnh về tình huống có thể xảy ra một cuộc đảo chính từ bên trong.Có thể nói nội dung trả lời của Engels mang tính chiến thuật nhiều hơn là chiến lược. Qua tờ Figaro (một tờ báo cánh hữu của Pháp), ông muốn “trấn an” nhà cầm quyền Đức rằng Đảng SPD sẽ đấu tranh một các hợp pháp bằng con đường hòa bình chứ không chủ trương dùng bạo lực, vì lúc này tương quan về lực lượng hai bên không cho phép phong trào công nhân ở Đức sử dụng bạo lực. Tuy nhiên, cách trả lời khôn khéo của ông không cho thấy ông thật sự có ý định từ bỏ con đường bạo lực. Việc tạm thời từ bỏ bạo lực chỉ nhằm đối phó với tình hình trước mắt, khi mà lực lượng của công nhân còn yếu so với chính quyền của giai cấp tư sản.
- Ồ, ông (tức Engels) trả lời: tôi không nói rằng điều mà tôi gọi là cuộc cách mạng từ bên trên (la révolution d’en haut) lại không phải là một mối đe dọa trong tương lai. Bebel và nhiều người bạn của ông ấy đã nói rằng họ đã dự kiến một cuộc tấn công chống lại quyền phổ thông đầu phiếu.
- Trong trường hợp đó, các ông sẽ dùng bạo lực để đáp trả bạo lực?
- Chúng tôi không điên đến mức sa vào cái bẫy mà chính quyền đã giăng ra cho chúng tôi, bởi vì chính quyền Đức không mong gì hơn một cuộc nổi dậy để có thể đè bẹp chúng tôi. Chúng tôi quá biết tình trạng hiện nay về lực lượng chúng tôi cũng như về lực lượng của chính phủ để sẵn lòng liều mình làm điều đó. Vả lại, Guillaume II có dám hủy bỏ hoàn toàn quyền phổ thông đầu phiếu hay không? Tôi không tin điều đó. Có lẽ ông ta sẽ nâng cao giới hạn về tuổi và ban hành cho chúng tôi một thứ phổ thông đầu phiếu đã được xem xét và sửa chữa lại mà nước Bỉ sắp đem ra thí nghiệm (khi nói điều này, Engels bắt đầu cười).
Những dẫn chứng trên đây cho thấy Engels chưa hoàn toàn từ bỏ con đường bạo lực, mặc dù tán đồng sử dụng phương pháp đấu tranh ôn hòa như một sách lược (chiến thuật) để thích ứng với hoàn cảnh. Vì vậy, không thể kết luận: Marx và Engels vào lúc cuối đời đã chuyển sang phương thức đấu tranh ôn hòa, càng không thể kết luận hai ông đã từ bỏ mục tiêu cộng sản mà hai ông đã đề ra lúc còn thanh niên.
Trong thực tế, việc xét lại chủ nghĩa Marx chỉ bắt đầu sau khi Engels qua đời, với việc Eduard Bernstein đã cho công bố một số bài viết gây tranh cãi trong lòng Đảng SPD trong thời gian từ 1896 đến 1898. Đặc biệt là vào năm 1899, với việc xuất bản công khai cuốn Die Voraussetzungen des Sozialismus und die Aufgaben der Sozialdemokratie (The Prerequisites for Socialism and the Tasks of Social Democracy, Những điều kiện tiên quyết của chủ nghĩa xã hội và nhiệm vụ của trào lưu dân chủ-xã hội), chủ nghĩa xét lại đã xuất hiện trong lòng phong trào công nhân thế giới như một xu hướng muốn sửa đổi chủ nghĩa Marx cho phù hợp với tình hình mới.
Cuộc đấu tranh giữa hai phái mác-xít (chính thống và xét lại) đã diễn ra trong lòng nhiều đảng công nhân, nhất là Đảng Dân chủ - xã hội Đức (SPD). Tuy trường phái chính thống thắng lợi trong giai đoạn trước mắt, nhưng ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại vẫn tiếp tục mở rộng trong lòng phong trào công nhân Đức cũng như trong lòng Quốc tế II. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến sự chia tách phong trào công nhân trên thế giới thành hai xu hướng: cách mạng và cải cách. Cách mạng tháng 10 Nga thành công vào năm 1917 đã dẫn đến sự hình thành và lớn mạnh của phong trào cộng sản (dựa vào bạo lực) tách ra khỏi trào lưu dân chủ-xã hội (dựa vào phương thức đấu tranh ôn hòa, chấp nhận nền dân chủ tự do và hệ thống đa đảng).
Kết luận
Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể rút ra những kết luận sau đây:- Marx và Engels cho đến cuối đời không hề từ bỏ mục tiêu lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản (mà giai đoạn đầu được gọi là chủ nghĩa xã hội). Để làm được điều này, hai ông chủ trương (1) phải xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và (2) phải hủy bỏ toàn bộ bộ máy Nhà nước cũ để xây dựng một Nhà nước mới – một Nhà nước chuyên chính vô sản mang tính tạm thời để tiến tới một xã hội không có giai cấp, không có Nhà nước.
- Việc Marx và nhất là Engels vào lúc cuối đời bật đèn xanh cho một phương thức đấu tranh ôn hòa thật ra chỉ là một sách lược (chiến thuật) dùng cho một giai đoạn hoặc trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó. Hai ông không hề có ý định từ bỏ hoàn toàn con đường dùng bạo lực để lật đổ giai cấp tư sản, thiết lập nền chuyên chính vô sản.
Vì vậy, mặc dù trong tư tưởng của hai ông có những mầm mống của tư duy tích cực, xây dựng, nhưng những mầm mống phôi thai, yếu ớt đó vẫn không lấn át được những yếu tố tiêu cực của dòng tư duy mang tính “phủ định”, “phá hoại” đã ăn sâu vào toàn bộ các trước tác của hai ông. Đó chính là lý do khiến cho khiến cho việc “xét lại” chủ nghĩa Marx trở nên khó khăn. Trong thực tế, những yếu tố góp phần vào việc hình thành chủ nghĩa xét lại (revisionism) thường có nguồn gốc từ những trào lưu tư tưởng phi - mác-xít như: phái Lassalle ở Đức, học phái Fabian (Fabianism) ở Anh, v.v… chứ không đến từ bản thân Marx và Engels.
Đà Lạt ngày 17-4-2014
Mai Thái Lĩnh
________________________________________________
Tài liệu tham khảo chính:
- Mác-Ăng-ghen, Tuyển tập, 6 tập, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà nội và Nxb Dietz Verlag (Berlin, Đông Đức), 1980-1984.
- F. Engels, Lời mở đầu cho tác phẩm lẻ của Các Mác “Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848-1850”: bản dịch tiếng Việt in trong Tuyển tập Mác - Ăng-ghen (sđd, tập 6, tt. 594-624). Có thể tham khảo bản dịch tiếng Anh: Friedrich Engels, Introduction to Karl Marx’s The Class Struggles in France 1848 to 1850:
http://www.marxists.org/archive/marx/works/1895/03/06.htm
- Tân Tử Lăng, Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, Thông Tấn Xã Việt Nam, 2009, 328 trang. Bản điện tử đầu tiên được đưa lên Việt Nam Thư quán ( http://vnthuquan.net ) vào ngày 1-5-2010, sau đó được đưa lên trang Viet-sudies của Gs Trần Hữu Dũng vào ngày 10-5-2010:
http://www.viet-studies.info/kinhte/MaoTrachDong_NganNamCongToi.htm
[1] Do bản điện tử có một số lỗi đánh máy, những dẫn chứng trong bài này dựa trên bản in của TXXVN.
[2] Có thể xem thêm: Mai Thái Lĩnh, “Dân chủ- xã hội là gì?” © 2007 talawas.
[3] Karl Marx, La Liberté Speech, delivered by Karl Marx on September 8, 1872, in Amsterdam, printed: September 15, 1872, in La Liberté. Source: K. Marx and F. Engels, On Britain, Foreign Languages Press, Moscow, 1962:
http://www.marxists.org/archive/marx/works/1872/09/08.htm
[4] Mai Thái Lĩnh, Huyền thoại về một Nhà nước tự tiêu vong, © 2005 talawas.
[5] Engels to Paul Lafargue in Paris, 3 April 1895:
http://www.marxists.org/archive/marx/works/1895/letters/95_04_03.htm
[6] Paul Hampton, “Engels' political testament”, Workers' Liberty 1 April, 2005:
http://www.workersliberty.org/node/3999
[7] “Marxisme”, Encyclopédie Larousse:
http://www.larousse.fr/encyclopedie/divers/marxisme/68479
[8]Conversation avec F. Engels (1893), Article paru dans Le Figaro du 13 mai 1893:
http://bataillesocialiste.wordpress.com/2009/05/06/conversation-avec-f-engels-1893/
[9]Le Figaro Interviews Engels, Le Figaro May 13, 1893:
http://www.marxists.org/archive/marx/bio/media/engels/93_05_13.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét