GS Ngô Thế Chi:Vốn ODA với nguy cơ Việt Nam vỡ nợ
http://www.baodatviet.vn/kinh-te/tai-chinh/gs-ngo-the-chivon-oda-voi-nguy-co-viet-nam-vo-no-3031006?p/p20
(Tài chính) – Nếu cứ vay bằng được mà không tính toán đến hiệu quả thì một lúc nào đó sẽ rơi vào tình trạng bị vỡ nợ…
Nó không chỉ đơn giản là gánh nặng nợ nần cho những giái đoạn sau này.
Mối nguy vỡ nợ…
Nguyễn Vũ
GS.TS Ngô Thế Chi, Giám đốc Học viện Tài chính phân tích.
Mất nhiều hơn được?
PV: – Ông nghĩ sao, khi có
đến hai nghi án công ty của Nhật Bản hối lộ quan chức Việt Nam liên quan
đến ODA giữa 2 nước đều bắt đầu từ thông tin trên báo chí Nhật Bản?
GS Ngô Thế Chi: – Theo tôi, những
nước phát triển, trong đầu tư, sử dụng vốn họ rất công khai minh bạch
nên mới có chuyện người ta biết còn Việt Nam lại không biết.
GS Ngô Thế Chi |
Tôi thì không thấy bất ngờ trước thông tin hố lộ mà họ
đưa ra, nhưng cũng thấy bất ngờ vì một quốc gia mà cứ để xảy ra tình
trạng như thế này. Điều này chứng tỏ công tác quản lý đang có vấn đề.
PV: – Một chuyên gia về ngành
giao thông cho biết, với những dự án từ nguồn vốn ODA Nhật Bản, có đấu
thầu cũng chỉ chọn trong những nhà thầu Nhật Bản. Trước đó, nhiều ý kiến
cũng đã nhận định, giá công trình, dự án ODA từ nguồn Nhật Bản thường
cao gấp nhiều lần từ các nước khác.
Đây có phải là nguyên nhân dẫn đến tình trạng đút lót, bôi trơn để được trúng thầu như trường hợp trên, thưa ông?
GS Ngô Thế Chi: – Tôi không bình luận
chuyện hối lộ hay không, nhưng nếu để đảm bảo tính công khai
minh bạch thì không nhất thiết phải là bên cho vay mới được chỉ định nhà
thầu.
Tuy nhiên, quốc tế cũng có những luật riêng mà Việt Nam phải tuân thủ vấn đề là sử dụng nó như thế nào.
Điều này phụ thuộc vào hai vấn đề, một là tính công khai minh bạch, thứ hai là cái tâm của bên cho vay và người đi vay.
Phải khẳng định, nếu không có lãi họ không bao giờ cho
vay chính vì vậy họ phải có cả chiến lược để tính toán cho cái lợi của
họ. Ngay cả việc bỏ tiền hối lộ để thắng thầu mà thực tế đã thấy.
Nhưng, số tiền bôi trơn chỉ là một phần rất nhỏ, nguồn lợi lớn họ có chính là từ các dự án giải ngân ODA.
Vì vậy, VN phải có sự tính toán, kiểm soát làm sao
hiệu quả đối với những dự án này. Để làm được việc này bắt buộc phải lựa
chọn những nhà thầu đáng tin cậy.
Nếu quản lý không tốt, cái Việt Nam mất còn nhiều hơn gấp nhiều lần cái mà chúng ta được.
PV: Nếu vậy, được vay ODA cũng không hoàn toàn là niềm vui?
GS Ngô Thế Chi: – Thực tế cũng phải nhìn nhận những mâu thuẫn, nước nghèo không có tiền sẽ không làm được gì?
ODA sẽ là niềm vui lớn nhưng đó là niềm vui khi nó
được sử dụng hiệu quả. Và chỉ khi nào lợi ích quốc gia được đặt lên
trên, không bị chi phối bởi lợi ích nhóm lúc đó dân mới không lo phải
còn lưng trả nợ.
Đi vay tiền là bị phụ thuộc!
PV: – Chính các học giả Nhật Bản
cũng đã thừa nhận, ODA chính là binh pháp mới, là “sát thủ kinh tế” của
Nhật Bản. Theo đó, chính những hiệp hội nghề nghiệp của Nhật Bản sẽ lựa
chọn “con mồi” để cho vay.
Họ sẽ tạo ra và duy trì một “nhu cầu viện trợ giả
tạo”, hướng đến “lợi nhuận cho doanh nghiệp Nhật” và “đưa ô nhiễm của
Nhật ra nước ngoài”. Ông nhìn nhận về quan điểm này của các học giả Nhật
Bản như thế nào?
GS Ngô Thế Chi: – Việt Nam là nước còn hạn chế về kinh nghiệm, trình độ quản lý, tư duy lạc hậu.
Do đó, nếu không có tính toán kỹ thì kiểu gì bên đi
vay cũng phải chịu thua thiệt. Bên cho vay họ luôn xác định chắc chắn
việc đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận, đặc biệt đối với những nước tư bản
phát triển như Nhật thì mục tiêu về lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu.
Vì vậy, không chỉ riêng ODA mà ngay cả các lĩnh vực
hợp tác kinh tế khác cũng vậy, dưới những hình thức khác nhau, họ sẽ
nuốt hết những lợi nhuận còn Việt Nam sẽ trở thành đối tượng bị phụ
thuộc vào họ.
Do đó, Việt Nam phải tỉnh táo, không phải vì lý do nghèo mà chấp nhận bằng mọi giá.
PV: – Vậy với góc độ người đi vay
chúng ta phải hiểu về ODA này như thế nào. Nó có đơn giản là “vay hôm
nay ngày mai phải trả”, thưa ông?
GS Ngô Thế Chi: – Theo tôi, khi đi vay là cần thiết
đối với một nước như Việt Nam nhưng phải tính toán để tiền vay đó mang
lại hiệu quả. Nếu cố vay bằng được mà không có khả năng trả thì sẽ phải
gánh chịu hậu quả rất lớn.Nó không chỉ đơn giản là gánh nặng nợ nần cho những giái đoạn sau này.
Mối nguy vỡ nợ…
PV: – Một vấn đề không thể không
thẳng thắn nhìn nhận là chất lượng của các công trình ODA Nhật Bản. Rất
nhiều công trình đã gặp sự cố, thậm chí sự cố nghiêm trọng (như vụ sập
cầu Cần Thơ).
Vay vốn giá cao, nhận công nghệ thấp, phần tăng
trưởng cho kinh tế từ các dự án ODA lại giành cho nước ngoài. Thưa ông,
phải chăng Việt Nam không có lựa chọn nào khác nên buộc phải chọn cách
phát triển thiệt đơn thiệt kép như vậy?
GS Ngô Thế Chi: – Tôi không cho rằng
vay vốn ODA là thiệt đơn thiệt kép, vấn đề ở đây là phải có sự tính toán
kỹ chứ không phải vay bằng mọi giá nhưng lại không hiệu quả.
Không nên quá nôn nóng, đốt cháy giai đoạn. Phải vận động vào sức mình là chính.
Trước mắt, có thể nhìn thấy có những công trình nọ,
công trình kia được xây dựng nhưng tới một lúc nào sẽ dẫn tới tình trạng
vỡ nợ. Và như vậy, sẽ là gánh nặng cho thế hệ sau còng lưng đi trả nợ.
PV: – Vậy, về phần mình, Việt Nam
cần phải có chiến lược và “thế trận” thế nào để sử dụng nguồn vốn ODA
một cách hiệu quả, tương thích với đối phương, thưa ông?
GS Ngô Thế Chi: – Theo tôi, trước hết
phải cải tổ tư duy của bộ máy quản lý nhà nước. Nhất là những người có
trách nhiệm từ đó mới có sự đổi mới, tính toán hiệu quả chứ không phải
bằng mọi giá phải huy động nguồn vốn đó được.
Còn giữ tư duy nhiệm kỳ, tranh thủ huy động dự án ODA
kiếm lời rồi không ai chịu trách nhiệm, không ảnh hưởng đến ai thì làm
sao tốt lên được.
Xin cảm ơn ông!Nguyễn Vũ
Chứng thư đọc tại Tòa án Công luận Quốc tế vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam
http://boxitvn.blogspot.com/2014/04/chung-thu-oc-tai-toa-cong-luan-quoc-te.html#more
Trần Tố Nga
Tôi là Trần Tố Nga, tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm
Hà Nội bộ môn Hóa hữu cơ năm 1965, thuộc vào lớp những cô gái trẻ đầu
tiên đi vào chiến trường miền Nam Việt Nam đầu năm 1966 bằng con đường
bộ mà người ta gọi là «Đường mòn Hồ Chí Minh». Chúng tôi vào miền Nam
với mục đích dạy chữ cho trẻ em các vùng mới được giải phóng. Nhưng sau 4
tháng đi vượt núi, trèo đèo, về đến Tây Ninh thì quân đội Mỹ đã vào
miền Nam, gây nên cuộc chiến tranh cục bộ giữa Quân đội Giải Phóng miền
Nam Việt Nam và quân đội Mỹ. Không còn làng mạc để cho trẻ học vì hố bom
đã thay thế cho làng mạc, tôi về làm việc tại Thông tấn xã Giải phóng,
trở thành phóng viên chiến truờng.
Cuối năm 1966, tôi ở tại Củ Chi, nơi quân đội Mỹ dùng
mọi cách để biến thành một vùng trắng, không còn sự sống, không có dân,
theo chính sách «tách cá ra khỏi nước», cô lập bộ đội giải phóng, bảo
vệ căn cứ Đồng Dù nơi đóng quân của quân đội Mỹ. Củ Chi biến thành mảnh
đất không còn màu xanh, cây trơ cành, ban ngày không có bóng nguời. Cuộc
sống của người dân cũng như của tất cả các chiến binh, du kích đều ở
trong lòng đất.
Một hôm, nghe tiếng máy bay quần rất lâu trong vùng,
ngước nhìn lên, tôi thấy như có một đám mây phủ trên đầu. Nguời con gái
còn quá ngây thơ với chiến truờng là tôi lúc ấy, tò mò leo ra khỏi hầm
để nhìn cho rõ. Tôi ho sặc sụa, cả người ướt đẫm bởi một chất bột …
Hai năm sau, tôi sinh cháu gái đầu lòng, một đứa bé
mới sinh bụ bẫm, xinh xắn. Nhưng rồi da của cháu tróc từng lớp, cháu
không lớn, thở một cách khó nhọc. Người mẹ trẻ chưa được một lần ôm con
vào lòng vì cháu không chịu được sức ép, dù là sự ôm ấp nhẹ của mẹ… Cháu
bị dị tật tim, căn bệnh mang tên tứ chứng Falot. Cháu sống được 17
tháng. Mấy mươi năm ròng, tôi ân hận đã không biết giữ gìn khi mang thai
để đến nỗi con bị chết. Đứa con gái thứ hai của tôi còn sống, nhưng đã
bị tôi truyền cho một căn bịnh khó chữa: Alpha thalassémie.
Câu chuyện của tôi quá nhỏ bé, quá tầm thường so với
câu chuyện của hàng triệu nạn nhân chất độc da cam đang sống trên khắp
đất nước Việt Nam. Nếu như hôm nay, tôi xin được làm nhân chứng tại Tòa
án này, chính vì tôi muốn nói thay cho những người không còn nói được,
không đến được nơi này, hy vọng rằng những lời nói tự đáy lòng sẽ góp
phần đánh thức lương tâm của những kẻ đã tạo ra chết chóc, thương đau,
thảm cảnh diệt hàng loạt gia tộc.
Đúng vậy, tôi xin được dùng chữ diệt gia tộc.
Trong số các bạn nhà giáo cùng vào chiến trường với
tôi năm ấy, có nhiều nguời đã chết vì ung thư như các anh Nguyễn Văn Ba,
Lê Phụng, Phạm Xuân Phương… chỉ vì các anh đã đi đến những vùng bị quân
Mỹ rải chất độc, tìm các em nhỏ để dạy chữ. Các anh chết đi mà nào đã
biết được hạnh phúc có một người yêu, có một gia đình, có những đứa con
nối dõi theo truyền thống của xã hội Việt Nam. Có những anh cùng làm
việc với tôi tại Thông tấn xã Giải phóng, mà đa số là phóng viên thì
đương nhiên phải đi chiến truờng, khi hòa bình về, cưới vợ, sinh con như
mọi nguời. Anh Phạm Văn Thính, phóng viên chiến trường miền Đông Nam bộ
và vợ Nguyễn Thị Kim Liên hiện đã được các bác sĩ kết luận chỉ còn 23%
sức khỏe, đã sinh 3 lần, 3 lần con không sống được. Vợ chồng anh Lê
Trường Kỳ sinh 2 người con, cứ đến 3 tuổi, 4 tuổi cháu bị ung thư máu
rồi chết. Cuối cùng rồi chính anh cũng chết, gia đình họ Lê của anh Kỳ,
gia đình họ Phạm của anh Thính không còn ai tiếp nối. Như vậy gia tộc
không bị diệt là gì?
Tôi quyết định giành những năm tháng còn lại chăm sóc
những người bất hạnh hơn mình, những người khuyết tật, các cháu mồ côi …
Tôi quay về với những nỗi thống khổ do chiến tranh để lại dù đã hơn 30
năm trôi qua.
Một giáo sư Đài Loan, ông Chen Chin Cheng giành tiền
xây 200 căn nhà cho những người nghèo. VN chúng tôi gọi là «ngôi nhà của
tình thương». Ông chấp nhận xây nhà cho nạn nhân chất độc da cam vùng
Thái Bình, một tỉnh có 1.810.000 dân mà đã có 30.000 nạn nhân chất độc
da cam, trong đó có 19.500 nạn nhân thuộc thế hệ thứ nhất, 9.5000 thuộc
thế hệ thứ hai và 1.600 nạn nhân thuộc thế hệ thứ ba.
Chỉ một ngày đi thăm một vài gia đình ở các huyện
Tiền Hải, Kiến Xương, Vũ Thư mà cả tháng trời sau, tôi không ngủ được,
nước mắt cứ chực trào ra khi nghĩ đến những gì tôi đã thấy. Chỉ xin đưa
ra đây một vài câu chuyện:
- Một người lính trẻ trở về làng. Anh cưới cô Nhu, cô
gái xinh nhất làng đã chờ anh trong mấy năm anh đi vào chiến trường.
Cuộc sống tưởng chừng êm đềm, hai vợ chồng hạnh phúc khi người vợ có
thai lần đầu. Ngờ đâu, họ cho ra đời, không phải là một đứa bé, mà là
một bọc thịt. Vừa mất con, vừa bị làng xóm dè biu, cho là họ đã làm nên
tội lớn ở kiếp trước, họ sống trong cô đơn, trong mặc cảm tội lỗi, nhưng
cũng không thể không tiếp tục sinh con theo phong tục tập quán phải có
con nối dõi. Lần thứ hai, lần thứ ba, vẫn cứ là những bọc thịt. Lần thứ
tư, lần thứ năm, hai đứa bé trai ra đời, mang hình người nhưng không có
óc. Họ đã sinh ra hai người con mang bịnh tâm thần. Khi tôi đến, một đứa
bé đang đập đầu vào góc cây, đứa kia nằm dãy dụa, phát những âm thanh
không thành lời. Nguời cha cũng bị tâm thần, giờ chỉ còn như một nắm
xương, đang nằm bất động. Cô Nhu xinh đẹp ngày nào, nay đã là một bà già
40 tuổi hom hem, nét đầy khắc khổ. Chị nói trong tiếng khóc : «Đã ba
lần tôi ra sông, định tự tử, nhưng nghĩ đến khi tôi chết, ai là người
chăm sóc người chồng liệt, ai là người lo cho hai đứa con điên, đành kéo
dài kiếp sống đọa đày». Người phụ nữ, nguời mẹ ấy, cả ngày quần quật
ngoài đồng nuôi 3 nguời vừa bịnh vừa mất trí, mấy mươi năm qua chưa một
lần được một lời yêu thương, một lần an ủi, chưa một ngày được sống cuộc
sống của một con người bình thường.
- Tại một gia đình khác ở xã Tân Hòa, huyện Vũ Thư:
Đô một chàng trai – nếu gọi được hình hài đó là một chàng trai vì cậu đã
hơn 20 tuổi, tay chân cong queo như mấy cây que cắm vào một thân chia
làm 3 khúc, chỉ có thể nằm sấp vì mấy cục bướu lớn ở sau lưng, ngước
chào tôi bằng nụ cuời méo mó của cậu. Cậu dùng mấy ngón tay cong lau
giọt nước mắt của tôi đang lăn dài, ú ớ an ủi con người khỏe mạnh !
- Còn nữa, còn nhiều nữa, đi qua 30 gia đình trong số
15.000 gia đình nạn nhân của Thái Bình, tôi đã gặp không phải 30 cảnh
đau khổ, 30 con nguời đau khổ, mà là gấp đôi, gấp ba. Có những gia đình
đã cho ra thế hệ thứ ba nạn nhân, thế hệ thứ ba khuyết tật, dị tật, điên
khùng….
- Còn nữa, còn nhiều nữa những cảnh đời bị tước đoạt
niềm vui làm vợ, niềm hạnh phúc làm mẹ… Và khi chúng tôi xây được 50
ngôi nhà đầu tiên thì đã có ba người không chờ được nhà mới, ra đi về
với tổ tiên.
Mà tôi cũng chỉ mới đến một vài xã của Thái Bình
thôi. Còn Quảng Trị, A Lưới, còn Bến Tre, còn Củ Chi… còn bao nhiêu gia
đình tôi chưa đến được. Tôi sẽ không bao giờ kể hết được nỗi đau thể
xác, nỗi đau tâm hồn, những vết thương không thể nào hàn gắn của một xã
hội do hậu quả tội ác mà quân đội Mỹ đã để lại trên đất nước tôi khi rải
cái chất được gọi là chất độc da cam.
Các bạn đừng hỏi tại sao đã một lần sinh con dị tật
mà người ta vẫn tiếp tục sinh? Bản thân tôi đã học ngành hóa mà mãi sau
này mới nghĩ ra là có thể bản thân mình đau ốm, con mình chết, con mình
bịnh vì cái chất bột đã phủ lên nguời mình năm nào. Còn họ, những người
nông dân, những người còn trẻ, chưa kịp học hành đã dấn thân vào chiến
tranh, cho đến khi hiểu biết về hậu quả của chất độc da cam đến với họ
thì đã quá muộn rồi. Vả chăng, ai có thể cắt được của con người những
tia hy vọng được làm cha, làm mẹ, được hoàn thành sứ mạng nối dõi tông
đường như tập quán dân tộc?
Tôi xin có một lời mời, mà cũng là một lời thách
thức: tất cả những người cầm quyền Mỹ đang lớn tiếng yêu cầu tôn trọng
quyền con người, tất cả những tập đoàn sản xuất chất hóa học đã rải lên
Việt Nam từ năm 1961 đến 1971 đang chối bỏ trách nhiệm của mình, xin hãy
đến Việt Nam, đến với các nạn nhân chất độc da cam dù chỉ một ngày
thôi, để tận mắt thấy, để tận tay sờ lên những vết thương, để cảm nhận
đến tận cùng nỗi thảm khốc ghê tởm mà mình đã gây ra, để cùng tìm một
giải pháp chuộc lại lỗi lầm. Dù tuổi cao, sức yếu, tôi xin tình nguyện
cùng đi với các vị, đi đến cùng trời cuối đất, đi đến tất cả những nơi
có nạn nhân chất độc da cam, đi đến khi nào các vị đã thấy rõ điều cần
làm.
Lòng tôi ngổn ngang trăm câu hỏi không có lời giải đáp :
Thảm họa này sẽ kéo dài đến bao giờ ? Tất nhiên là
cho đến khi nạn nhân cuối cùng của gia đình ấy chết đi và dòng họ ấy bị
xóa sổ hoàn toàn. Tên gọi của tội ác ấy là gì nếu không phải là diệt
chủng?
Khi thế hệ cha mẹ – thế hệ nạn nhân đầu tiên mất đi,
ai sẽ là người lo cho những thế hệ sau? Một người mẹ có thể quên thân mà
lo cho những đứa con của mình, dù chu đáo hay không, nhưng vắng mẹ rồi,
những con người không có óc, những thân thể không ra hình người kia sẽ
do ai chăm, ai lo? Bao nhiêu trung tâm từ thiện cho vừa, bao nhiêu tiền
thuốc thang cho đủ?
Vậy thì, những kẻ đã gây ra thảm họa ấy sao không bị
trừng trị ? Tòa án Mỹ đã hai lần bác bỏ vụ kiện, phủi sạch trách nhiệm
của mình.
Để kết thúc, tôi xin đuợc kể về một người lính Mỹ tôi
đã quen khi là đại diện cho Hội Cựu tù binh Đông Dương trong các hoạt
động xã hội tại Viêt Nam. Anh tên là William Fry, thường gọi là Bill
Fry, đi lính vào những năm 60 của thế kỷ trước. Giải ngũ, anh về sống
tại quê nhà ở Tahiti. Yêu đất nước anh đã đến thời trẻ, anh xin đuợc
cưới một cô gái Việt làm vợ. Đưa vợ và hai người con của vợ về Tahiti
không bao lâu, anh vui mừng báo tin: vì anh đã từng ở Quảng Trị là nơi
máy bay Mỹ đã rải chất độc da cam, nên với căn bệnh tiểu đường loại 2,
anh được chính phủ Mỹ cho một khoản bồi thuờng thiệt hại lớn. Cả gia
đình chuyển về Mỹ sinh sống vì ngoài tiền bồi thường, anh được Chính phủ
Mỳ trợ cấp suốt đời trong khi Tòa án Mỹ đã hai lần bác bỏ đơn kiện của
nạn nhân chất độc da cam Việt Nam và các tập đoàn sản xuất ra chất độc
này vẫn từ chối trách nhiệm.
Nhân danh những người đã chết vì chất độc da cam,
nhân danh những nạn nhân đang sống ngắc ngoải vì chất độc da cam, nhân
danh lương tâm loài người, tôi xin hỏi chính phủ Mỹ và tất cả các tập
đoàn sản xuất ra chất độc đã rải xuống Việt Nam từ năm 1961 đến 1971: TẠI SAO?
Paris 15/05/09
T. T. N.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Để đảm bảo Hội thẩm nhân dân độc lập chỉ tuân theo pháp luật cần thay đổi chế định hiện nay
Luật sư Hà Huy Sơn
Chế độ bầu Hội thẩm nhân dân được thực hiện đối với
các Toà án nhân dân địa phương. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với
Thẩm phán và chỉ tuân theo pháp luật. Tòa án xét xử tập thể và quyết
định theo đa số.
Điều kiện để trở thành Hội thẩm nhân dân: Công dân
Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, có phẩm chất, đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có
kiến thức pháp lý, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, thì có thể
được bầu hoặc cử làm Hội thẩm.
Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương do Hội
đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc cùng cấp và do Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm
theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp sau khi thống nhất
với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Tòa
án nhân dân địa phương theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Số
lượng Hội thẩm nhân dân của các Tòa án nhân dân địa phương do Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao. Chánh án quyết định phân công, thay đổi Hội thẩm nhân dân tham
gia tiến hành tố tụng.
Hội thẩm nhân dân tại các phiên tòa sơ thẩm với số
lượng 02 hoặc 03 người và Thẩm phán là 01 hoặc 02 trong Hội đồng xét xử
03 hoặc 05 người tùy theo quy định của pháp luật. Nếu xét về số lượng
thì Hội thẩm nhân dân có vai trò quyết định đối với phán quyết của Tòa
án. Nhưng thực tế ngược lại, các Hội thẩm nhân dân thường chịu ảnh hưởng
và ngả theo quyết định của Thẩm phán. Yêu cầu đối với Hội thẩm nhân dân
không phải là kiến thức pháp lý mà là sự khách quan, sự phản ảnh khách
quan thái độ của xã hội đối vụ việc. Nhưng với chế định về Hội thẩm nhân
dân hiện nay thì Hội thẩm nhân dân phụ thuộc vào sự phân công, sự thay
đổi của Chánh án. Nếu Hội thẩm nhân dân nào mà “độc lập” với Thẩm phán
thì sẽ khó được trưng dụng. Vì lợi ích của mình và với chế định hiện
hành, “không ít” Hội thẩm nhân dân đã trở thành vật cảnh, trang trí cho
phiên tòa.
Để đảm bảo Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, cần phải thay đổi chế định Hội thẩm nhân dân hiện nay:
-
Không biến Hội thẩm nhân dân thành một nghề.
-
Hội thẩm nhân dân hoàn toàn không được biết đến sẽ tham gia xét xử vụ việc nào, không được biết đến hồ sơ vụ việc, không được biết đến đương sự trước khi phiên tòa được mở.
-
Việc tham gia tiến hành tố tụng của Hội thẩm nhân dân theo thứ tự vụ án, vụ việc của tòa án mà không theo sự phân công của Chánh án.
-
Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân không quá 01 năm và không được bầu trở lại. Số lượng Hội thẩm nhân dân phải tăng gấp nhiều lần hiện nay để đảm bảo hoạt động tiến hành tố tụng của Tòa án.
Thực hiện tốt vai trò của Hội thẩm nhân dân sẽ góp
phần làm cho người dân tham gia nhiều hơn vào hoạt động tiến hành tố
tụng của Tòa án.
Hà Nội, ngày 30/03/2014.
H. H. S.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Làm quan lớn ở Việt Nam oai ghê!
http://boxitvn.blogspot.com/2014/04/lam-quan-lon-o-viet-nam-oai-ghe.html
Tô Văn Trường
Tô Văn Trường
Sau khi viết bài “Toàn cảnh bức tranh màu xám của
ngành nông nghiệp” tôi nhận được gần trăm tin nhắn, email, điện thoại
bình luận chia sẻ, đồng tình của bạn đọc cả trong và ngoài ngành.
Tôi mới nhận được thông tin, sau khi bộ trưởng Cao
Đức Phát bằng mọi cách đưa bằng được giám đốc Viện Khoa học Thủy lợi
Việt Nam Lê Mạnh Hùng sang làm Tổng cục phó Tổng cục Thủy lợi thì đúng
10 ngày sau, ông chỉ đạo Vụ tổ chức và lãnh đạo mới của Viện đề bạt vợ
mình (chị Tuyết) lên chức phó giám đốc trung tâm đào tạo và hợp tác quốc
tế của Viện Khoa học Thủy lợi VN.
Trước đây, anh Phát đưa vợ là giáo viên trường cao
đẳng nhạc họa Hà Nội về Viện Khoa học Thủy lợi VN đã là chuyện bôi bác,
tréo cẳng ngỗng, nhưng nay lại đưa lên cán bộ lãnh đạo thì đúng là làm
quan lớn ở VN “oai” thật! Thô thiển đến thế là cùng.
T. V. T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét