Chính trị – Xã hội
TQ bất ngờ tổ chức hội thảo quốc tế về vụ kiện trọng tài Biển Đông -(GDVN) >>> Hillary Clinton tiết lộ sách lược Biển Đông, sớm liên hệ với Việt Nam >>> Dấu hiệu Trung Quốc sắp leo thang gây hấn hơn nữa ở Biển Đông >>> Ngoại trưởng Ấn Độ thăm Việt Nam, thúc đẩy hợp tác kinh tế-quốc phòngPhilippines bác bỏ đàm phán song phương với TQ về tranh chấp lãnh thổ -(VOA) — Trung Quốc – Philippines lại căng thẳng ở biển Đông -(TP) — Âm mưu thay đổi hiện trạng Biển Đông - (PT) — Phi-líp-pin phản đối tàu Trung Quốc ở Biển Đông - (BP) — Dấu hiệu Trung Quốc sắp leo thang gây hấn hơn nữa ở Biển Đông -(GDVN) — “Đường lưỡi bò 10 đoạn”: Đến dân Trung Quốc cũng không hiểu nổi -(Infonet)
ASEAN và Trung Quốc sẽ họp đặc biệt vào tháng 9 -(VnEx) — Báo TQ: Tướng Mỹ đến VN để trồng hoa hay trồng gai? -(NĐT)
Vì sao Mỹ chưa bỏ cấm vận vũ khí sát thương với Việt Nam? -(Infonet) -Một lý do khác khiến Washington chưa thực sự “nhiệt tình” đối với việc dỡ bỏ lệnh cấm là vì họ cho rằng “Hà Nội chỉ mong muốn điều đó để làm cảnh chứ không thực sự có ý định trở thành khách hàng của ngành công nghiệp vũ khí Mỹ”.
Chủ tịch EC sắp thăm Việt Nam -(VOA) — Có cần thiết chống Diễn biến hòa bình nữa hay không? -(RFA) — Trái đắng của sự lệ thuộc -(RFA)
Dựng sự kiện lịch sử và phá hủy lịch sử -(RFA)
Hỗ trợ vốn đóng không quá 2.097 tàu đánh bắt xa bờ -(CAND) — Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh: “Tổ chức lại sản xuất nghề cá, tạo bước đột phá trong phát triển bền vững thủy sản” -(LĐ) — Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh: Tàu cũ, tàu nhập không nằm trong diện ưu tiên -(PLTP) — Hỗ trợ ngư dân, không tăng vô hạn tàu đánh bắt xa bờ -(TQ) — Ngân hàng cho vay mua tàu cũ không được cấp bù lãi suất -(VnEx) — Doanh nghiệp muốn hưởng ưu đãi phải sống chết với nghề cá -(VnEx)
Phía sau tờ giấy xác nhận bệnh tâm thần -(RFA) — Trao đổi thư tín với thính giả (22.08.2014) -(RFA)
Nguy cơ Ebola vào VN tỷ lệ thuận với đà tăng của dịch trên thế giới -(VOA) — Vì sao người Việt kiện chủ đất Thương Xá Eden? -(RFA)
Giáo dục – văn hoá Nhân Bản cho Việt Nam -(VNTB) – BS Nguyễn đan Quế
Công kích cá nhân: Thủ đoạn đê tiện của những người mang danh nhà báo!-(VNTB)
Tổ quốc đang cần một nhà lãnh đạo dũng cảm và anh minh -(VNTB) - Đặng xương Hùng -“…Tình
trạng thỏa hiệp trong giới lãnh đạo thời gian qua đã làm cho các chính
sách đều nửa vời. Duy trì tình trạng này thì rất khó có được một quyết
sách làm chuyển hẳn hướng đi của đất nước và dân tộc. Lãnh đạo một nước
nhỏ phải giỏi hơn về thuật trị quốc…”
Bi kịch trí thức – Bi kịch dân tộc (Phần 2)-(VNTB) —Dân biểu Hoa Kỳ đòi thả Ls. Lê Quốc Quân vô điều kiện-(VNTB)
Mặt trận phải độc lập để nói được tiếng nói của nhân dân -(TN)Cầm tiền đi và hãy trả lời “công chức họ hàng” tốt hay xấu -(LĐ) —- Trình Quốc hội thông qua Luật trưng cầu ý dân vào tháng 11/2015 (ĐSPL)
Huế: Công an đánh dân cũng vì… “công việc chung” -(ĐV)
Vụ CN căng biểu ngữ trước cổng TCty Vinaconex đòi lương: Công nhân bức xúc vì bị nợ gần 10 tỷ đồng tiền lương -(LĐ)
Nên chăng bỏ phí xe gắn máy ? -(TN) -Nếu đề xuất của Sở GTVT TP.HCM
được chấp thuận, từ năm tới, mỗi xe gắn máy bị thu phí “sử dụng đường
bộ” từ 50.000 đồng đến 150.000 đồng/năm tùy theo dung tích xi lanh.
Những ông trời con và những món quà to -(TVN) >>> Di chúc Bác Hồ qua hồi ký của Thư ký riêng >>> Đốt tiền tỷ để thêm ‘đầu to, mắt cận’?
Thật bất công nếu chỉ nói giọng Bắc trên truyền hình -(VNN) — Nhà giàu chán quê, triệu đô mua danh phận ngoại quốc -(VEF)
‘Ám ảnh vụ 118 cô gái lột đồ để được chọn làm vợ’ -(VNN) -Theo PGS.TS Quý, thực trạng này hiện đang diễn ra rất nghiêm trọng. Vì, căn cứ vào số lượng mỗi năm có hơn 10 ngàn phụ nữ lấy chồng ra nước ngoài, đó là một con số rất cao.
-Facebooker Thùy Linh: “Nhân
tiện đây, Thông tấn xã VN được quyền tuyên bố: hơn 90% người dân đều
thấy hài lòng với sự lãnh đạo của đảng CSVN… Nhân sự kiện này, VN được
ghi vào kỷ lục guiness là dân tộc có tính hài hước và lạc quan nhất thế
giới...”.
Nhân vụ này, nhớ tới những câu truyền miệng về những nghịch lý ở VN như sau: “Ai
cũng có việc làm nhưng không ai làm việc/ Ai cũng không làm việc nhưng
ai cũng có lương/ Ai cũng có lương nhưng không ai đủ sống/ Ai cũng không
đủ sống nhưng ai cũng sống/ Ai cũng sống nhưng không ai hài lòng/ Ai cũng không hài lòng nhưng ai cũng giơ tay đồng ý“.
*** Cho nên mấy cô mong lấy chồng
Ngoại (hầu hết ở xứ bọn tư bản giãy chết mà cọng sản nguyền rủa), đành
rằng có người làm biếng, nhưng chắc số người này rất ít, còn là do đời
sống, kinh tế, xã hội,…mới sinh ra như thế mà trong nửa thế kỷ qua xứ ta
không hề có tình trạng này – Bà TS này nên đứng trên “quan điểm giai
cấp vô sản và CNXH” để mà lập luận chớ , tại sao xứ XHCN tốt đẹp nhất
trần ai mà mấy cô lại bỏ đi- Phải lý giải cho thực tế cái chỗ này- Còn
nếu 10 ngàn cô / một năm lấy chồng ở đây có việc làm cho họ( trong khi
ngay cả có học vẫn thất nghiệp, học sinh ra ngoại quốc là ở luôn không
về…) và họ kiếm tiền để đủ nuôi con ăn ,học, bệnh…theo kiểu xứ ta không,
còn cha mẹ già yếu không làm việc được….Làm sao sống đây với tầng lớp
“đáy xã hội” không thế lực, không tiền bạc…vô sản thứ thiệt, ở cái xứ mà
tiền là tất cả, an sinh xã hội kiểu “thiên đường”…không lấy chồng ngoại
“cạp đất mà ăn” cũng không được vì “của chung” mà.
UBND tỉnh Bắc Ninh nợ trùm Minh ‘Sâm’ hơn 400 tỷ đồng? -(VTC) >>> Xây sân bay trong trụ sở UBND: ‘Lộ’ bí mật, sẽ loại bỏ?
Kinh tế
Bank of America bị phạt gần 17 tỷ đôla
-(VOA) -Ngân hàng Bank of America phải chi khoản tiền phạt cao kỷ lục
gần 17 tỷ đôla vì các khoản nợ xấu về bất động sản mà ngân hàng này đã
bán lại cho các nhà đầu tư >>> Thị trường nhà cửa Mỹ phát triển tốt
Những kẽ hở đưa đến chuyển giá trốn thuế -(RFA)870 triệu USD và phi vụ ma mãnh của METRO – Kỳ 2: Bí mật đến phút 89 -(TN)
Thế giới
Mỹ phản đối đoàn xe Nga vượt biên giới vào Ukraine -(VOA) — Ngũ Giác Đài: Máy bay TQ lượn vòng ‘nguy hiểm’ gần máy bay Mỹ -(VOA) — Mỹ áp đặt trừng phạt với hai người đàn ông có liên hệ với Al-Qaida -(VOA)Dân quân Shi’ite Iraq tấn công đền thờ Sunni, hàng chục người chết -(VOA) — Một em bé Israel thiệt mạng trong cuộc tấn công bằng súng cối của Palestine -(VOA) — LHQ: 190.000 người thiệt mạng ở Syria -(VOA) — Số người chết do nội chiến tại Syria đã hơn 191 ngàn -(RFA)
Ấn Độ cấm phim về vụ ám sát thủ tướng Gandhi -(VOA) —
Người biểu tình Tây Tạng chết trong khi bị cảnh sát TQ câu lưu -(VOA) — Mỹ và Trung Quốc dễ xung đột vì “ông nói gà, bà nói vịt“ -(MTG) — Nhật Bản tăng cường phòng thủ, phòng chống Trung Quốc … -(MTG) — Trung Quốc lại điều 4 tàu hải cảnh xâm nhập Senkaku/Điếu Ngư - (ANTĐ)
Các nhóm nhân quyền đả kích chính quyền quân nhân Thái -(VOA) — Căng thẳng dịu lại ở Ferguson -(VOA)
Nigeria xác nhận các ca Ebola do tiếp xúc gián tiếp với người bệnh -(VOA)
Mỹ không tiêu diệt bây giờ, IS sẽ thành kẻ thù mạnh trong tương lai -(GDVN)
Văn hóa – Giáo dục – Khoa học- Xã hội
Minh “Sâm” – Phương “Ninh Hột”: Truyền kỳ chất chơi của giang hồ (ĐSPL)
Trộm viếng nhà nguyên thượng tá công an (DT)
Con bạc ‘đốt’ hàng chục triệu USD mỗi ngày -(TN) — Cháy tàu chở dầu, ít nhất 1 người chết, 2 người bị thương -(TNO)
Thịt thú rừng và nguy cơ mắc bệnh khủng khiếp hơn Ebola -(VTC)
[NÓNG] Đây có phải là sách giáo khoa điện tử?
Baron Trịnh: Được một
người bạn trên Facebook share cho thông tin này. Giật mình khi xem hình
ảnh thấy máy tính bảng có ghi rất rõ ở phần lưng: AIC Group Smart Education. Không biết điều này có liên quan gì đến Công ty Cổ phần Tiến bộ Quốc Tế (AIC)? Một đơn vị với vai trò tư vấn trong Đề án “Thí điểm mô hình đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục tiểu học từ lớp 1 đến lớp 3 tại TP.HCM năm học 2014-2015” cho Sở GD&ĐT Tp.Hồ Chí Minh - trong "Một đề án sặc mùi tiền, thiếu tính người" đang làm nóng dư luận trong thời gian qua?
Chủ blog rất băn khoăn và đặt ra câu hỏi "Đây có phải là sách giáo khoa điện tử?" sử dụng trong đề án nói trên?
Lưu ý: Bài đăng chỉ đặt câu hỏi mở. Không quy chụp, không kết luận. Thông tin (nội dung status và hình ảnh) lấy từ Facebook Thienhai Blue
chỉ có giá trị tham khảo vì chưa được kiểm chứng về độ xác thực. Nội
dung của status copy về đây thể hiện quan điểm tiêng của FB-er này,
không phải là quan điểm của chủ blog.
---------------------------------
Facebook Thienhai Blue: Chuyện về thí điểm mô hình đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục tiểu học từ lớp 1 đến lớp 3
Một tháng trước có một lô hàng nhập từ Đài Loan về Hải Phòng, đó là máy
tính bảng, thật bất ngờ và tình cờ khi tôi quen biết với người Đài Loan
đó và lấy được 1 mẫu về thử, thưc sự tôi không biết nó dành riêng cho
giáo dục, chỉ thấy giá nhập cho 3000 thiết bị rất hấp dẫn, chỉ khoảng
900.000VND, với màn hình 7inch-hệ điều hành android 4.2, bên ngoài ghi
smart education, và còn bất ngờ hơn nữa khi mở máy lên, toàn bộ đều giao
diện tiếng Việt, và thêm bất ngờ là máy cài sẵn một số giáo trình và
sách giáo khoa Việt Nam.
Suy nghĩ ban đầu của tôi “Thật tốt khi cháu tôi nó có một cái như này để
học! Tôi thấy thật bổ ích”, Nhưng đó chỉ là cảm nhận ban đầu, sau khi
nhận thấy phần cứng của thiết bị này thật không phù hợp với trẻ nhỏ, vì
toàn bộ đều bằng nhựa, không kiên cố chắc chắn (tất nhiên với giá thành
như vậy thì không thể làm tốt hơn đươc nữa!). Với mức hoạt động của trẻ
nhỏ thì chỉ một vài tháng là IPAD còn hư hỏng chứ chưa nói đến thiết bị
như thế này. Thật là lãng phí.
Câu chuyện sẽ chỉ dừng lại ở đó khi hôm nay tôi không đọc bài báo Nếu đề
án sách giáo khoa điện tử hơn 4.000 tỷ đồng được thông qua thì hơn
327.000 học sinh lớp 1-3 sẽ phải mua máy tính bảng với giá dao động 3-5
triệu đồng/máy.
Tôi đã rất bức xúc và cảm thấy buồn, khi mà khi biết giá nhập vào của
thiết bị và giá bán dự định của nó, ăn lời 2-3 triệu trên một thiết bị
mà đối tượng ở đây là thế hệ tương lại của đất nước. Bạn có chấp nhận
được không? Thật là xấu hổ khi kinh doanh kiểu này.
Bỏ ra 3-5 triệu đồng để mua một máy tính bảng với tuổi thọ không quá 1
năm. Với đối tượng là hơn 327.000 em học sinh, điều đó có nghĩa là một
năm có khoảng 300.000 thiết bị biến thành rác thải công nghiệp, và lợi
nhuận thu về cho các đối tượng kinh doanh thiết bị này khoảng 1000 tỷ
đồng/ năm. Thật sự tôi rất mong đề án này thất bại, để con em chúng ta
không phải vác thêm 1 đống sách giáo khoa cộng với sức nặng của chiếc
máy tính bảng, và bố mẹ không phải nhức đầu khi phải kiếm tiền mua máy
tính bảng cho con em mình mỗi năm một cái. Việt Nam sẽ không có thêm một
đống rác thải công nhiệp.
Và đây là hình ảnh thực tế.
Đọc công trình của Thomas PIKETTY
TƯ BẢN Thế kỷ XXI
NGUYỄN QUANG
Trái
ngược với mọi dự đoán, năm nay cuốn sách best-seller
ăn khách nhất thế giới lại là một cuốn sách về kinh
tế học chính trị dầy cộm và chi chít những bảng số
và biểu đồ. Bản in tiếng Pháp gần một nghìn trang,
cộng thêm khoảng một trăm trang phụ lục kỹ thuật công
bố trên mạng, hiện nay đã được dịch ra 25 thứ
tiếng. Bản tiếng Pháp đã bán được 120.000
cuốn, đứng đầu loại sách tài liệu – tiểu luận ;
bản tiếng Anh 450.000 cuốn : trong mấy tuần lễ liền,
đó là tác phẩm bán chạy nhất so với tất cả các loại
sách, kể cả cuốn Game
of Thrones ! Song song với thành
công về xuất bản, là cuộc « lưu diễn » rất
ư là siêu sao nhạc rock của tác giả tại các trường
đại học lớn nhất nước Mỹ, giảng đường nào cũng
chật ních, với những lời ca ngợi của những giải
Nobel kinh tế học (Krugman, Solow, Stiglitz), và cũng như
Alexis de Tocqueville (Về nền dân chủ Mỹ),
Thomas Piketty đã
được mời tới Nhà Trắng. Do tính kỹ thuật giả định
của tác phẩm (về tư bản đầu thế kỷ XXI) và sự khô
khan (cũng) giả định của luận đề cơ bản (là sự tái
hiện những bất bình đẳng xã hội ở thế kỷ XXI), có
thể nói không ngoa rằng cái mốt « pikettymania
»
quả là một hiện tượng trí thức của thập niên này.
Có lẽ đây chuyện Zeitgeist –
tinh thần của thời đại
– có sự trùng hợp giữa tác phẩm và tâm trạng xã hội
của thời đại : với cuộc khủng hoảng 2008 và
những hậu quả của nó, trước những quá trớn của chủ
nghĩa tư bản tài chính và sự bất cẩn của một tập
đoàn tài phiệt thiểu trị, người dân bình thường cảm
thấy một cách mơ hồ mà sâu đậm rằng sự bất bình
đẳng ngày càng gia tăng, đe dọa phá vỡ « khế ước
xã hội » của nền dân chủ. Điều này không hề
làm suy suyển chất lượng tác nghiệp của một công
trình nghiên cứu đã phân tích tới mức cạn kiệt (khiến
người đọc cũng kiệt lực luôn) sự bùng phát những
bất bình đẳng về tài sản và thu nhập diễn ra trong 25
năm cuối của thế kỷ XX ở các nước phát triển, với
nguy cơ đưa thế kỷ XXI quay trở lại tình trạng man rợ
của chủ nghĩa tư bản vào cuối thế kỷ XIX. Đối với
nhiều người, đây là một sự phát hiện. Thậm chí Bill
Moyers, một nhà báo Mỹ, còn dùng danh từ epiphany, tức là
sự linh hiện, mặc khải theo nghĩa tôn giáo !
Diễn
biến của sự phân phối của cải, liên quan tới sự
tích lũy và tập trung tư bản, vốn là đối tượng
nghiên cứu ưu tiên của Piketty từ khi ông bắt đầu bước
vào kinh tế học. Nhưng trước ông, có những người, lại
là những học giả tầm cỡ (Galbraith, Krugman, Stiglitz) đã
viết về bất bình đẳng rồi. Cái mới của Tư
bản thế kỷ XXI thể hiện ở ba cấp độ :
-
tiếp cận thực nghiệm :
trở lại và đề cao nghiên
cứu thống kê của những giai đoạn dài, cùng với khoảng
ba chục cộng tác viên (đặc biệt, Emmanuel Saez ở Mỹ và
Anthony Atkinson ở Anh) xây dựng một ngân hàng khổng lồ,
chứa đựng những số liệu lịch sử về thu nhập, đưa
lên mạng dưới tên tắt WTID (World Top
Incomes Database / Cơ
sở dữ liệu các thu nhập cao nhất toàn thế giới), sắp
tới sẽ được bổ sung thành WWID (World
Wealth and Income
Database / Cơ sở dữ liệu về của cải và thu nhập toàn
thế giới), tích hợp thêm những dữ liệu về tài sản.
- tổ
chức và nghiên cứu những chuỗi thống kê đã thu thập
được, từ đó, tác giả đã đưa ra hai nhận xét cơ
bản, tóm tắt bằng hai đường cong
biểu thị hình chữ
U cho thấy rõ tích lũy tư bản đã tăng vọt trở lại
(xem biểu đồ I.2 ở dưới) cũng
như sự tập trung thu
nhập (biểu đồ I.1) ở mức tương tợ như cuối thế kỷ
XIX.
-
diễn giải hai xu hướng cấu trúc đó
bằng « quy
luật phân kỳ » (có tính chất thực nghiệm), thể
hiện bằng bất đẳng thức r > g, trong đó r chỉ tỉ
suất lợi tức của tư bản và g tỉ suất tăng trưởng
thu nhập quốc dân.
Công
trình đồ sộ này, bao gồm các khâu thu thập, trình bày,
phân tích và diễn giải các chuỗi số liệu thống kê
thực ra một phần lớn đã được trình bày trong những
bài nghiên cứu mà tác giả và các cộng tác viên đã
công bố (xem [PZ]). Một số kết quả đã được những
tác giả khác khai thác (xem [P] chẳng hạn), nhưng họ khai
thác một cách rõ ràng là « ấn tượng chủ nghĩa »
và vụn vặt, chứ không trình bày một cách thuần nhất,
nhất quán và chi li cạn kiệt như Tư bản thế kỷ XXI.
Đến đây, với mục đích dẫn giải về phương pháp
luận, chúng tôi xin phép đưa ra một bình luận : với
tác phẩm đồ sộ này, Piketty đã khẳng định chỗ đứng
của mình trong dòng dõi các nhà kinh tế học « trường
phái sử quan Đức » cuối thế kỷ XIX – đầu thế
kỷ XX, lấy tiếp cận thực nghiệm làm ưu tiên, và phân
tích các hiện tượng trong bối cảnh lịch sử và định
chế của chúng. « Trong khoa học
xã hội (…), tham
vọng của việc nghiên cứu không phải là biến cải kinh
tế học, xã hội học và sử học thành những khoa học
chính xác. Mà, bằng cách kiên nhẫn xác định những sự
kiện, ghi nhận những nét điều hòa đều đặn, bình
tĩnh phân tích những cơ chế kinh tế, xã hội và chính
trị khả dĩ phản ánh trung thực, sự nghiên cứu có thể
góp phần làm cho cuộc thảo luận dân chủ được thông
tin tốt hơn, tập trung vào những vấn đề thích đáng»
(tr. 18). Theo Robert Boyer, « đóng
góp quan trọng nhất
của tác phẩm này, không nghi ngờ gì nữa, là đưa lịch
sử kinh tế và xã hội trở lại vị trí trung tâm của
bộ môn kinh tế học ». Có thể nói hẳn ra : vốn
cảnh giác đối với « tham vọng
của kinh tế
học nhằm đạt tới tính khoa học », tác giả
đã kiên định với phương pháp luận chủ đạo là :
đưa (trở lại) phương pháp khoa học thực nghiệm vào bộ
môn kinh tế. Trong chừng mực có thể so sánh khoa học vật
lý với khoa học xã hội, ta hãy ví « ca Piketty »
với « ca Kepler ». Trong lịch sử thiên văn học,
vào đầu thế kỷ XVII, Johann Kepler đã phát hiện ra hai
quy luật vận động của các hành tinh chung quanh mặt trời
(Arthur Koestler đã kể lại rất lý thú trong [K] ; ở
đây chúng tôi không nói tới quy luật thứ ba, được
phát hiện mãi về sau) : cũng một cung cách làm việc
cặn kẽ để thu thập dữ liệu thực nghiệm ; cũng
một cung cách tổ chức và kết cấu để nhận ra rằng
quỹ đạo của các hành tinh đều là đường ellip ;
cũng một trực quan và tư duy để tìm ra « định
luật diện tích » quy định sự di chuyển hành tinh
trên quỹ đạo. Chúng ta sẽ thấy rõ, trong khuôn khổ
những định nghĩa mà Piketty đề ra và những số liệu
thống kê mà ông đã tích lũy, các dữ liệu thực nghiệm
(nghĩa là các sự kiện) của Piketty là không thể chê
trách vào đâu. Và các đối thủ của Piketty, cũng không
ai có một lời công kích, ngoại trừ vụ bài báo
Financial Times (xem khung).
Các « định luật » mà
Piketty rút ra, cũng như trong trường hợp Kepler, đều là
những định luật thực nghiệm, nghĩa là những sự điều
hòa, đều đặn được nêu rõ cho thấy, hoàn toàn không
có sự « mô hình hóa » hay « lý thuyết
hóa » nào cả.
Hình
bìa nguyên tác tiếng Pháp và bản dịch tiếng Anh (Mỹ).
Thấy rõ sự câu khách hay khiêu khích của bản dịch :
chữ « TƯ BẢN » in to, đỏ chót, làm người đọc liên tưởng ngay tới tác phẩm của Marx.
Thấy rõ sự câu khách hay khiêu khích của bản dịch :
chữ « TƯ BẢN » in to, đỏ chót, làm người đọc liên tưởng ngay tới tác phẩm của Marx.
1 – Sự tích lũy tư bản
Trung thành với lôgic phương pháp luận của khoa học thực
nghiệm, chúng tôi sẽ trình bày các kết quả và luận
chứng của Piketty theo một trình tự hơi khác trình tự
của cuốn sách : chúng tôi sẽ bắt đầu bằng sự
tích lũy tư bản, thông qua sự tập trung tư bản và tập
trung thu nhập, rồi mới đi tới những hậu quả có thể
về « phân kỳ » xã hội phát sinh từ bất bình
đẳng. Cũng xin báo trước : sự tổ chức và sắp
xếp lớp lang các dữ liệu thống kê (cũng như mọi dữ
kiện thực nghiệm trong các lãnh vực khác) nhất thiết
phải sử dụng ngôn ngữ toán học. Dưới đây, bạn đọc
sẽ thấy xuất hiện một vài công thức toán học, ở
mức độ tối thiểu, cụ thể là sẽ dùng những phân
số, nghĩa là áp dụng quy tắc tam suất mà mọi người
đã quen dùng ở trường tiểu học. Để cho dễ hiểu,
trước tiên xin nhắc lại một vài khái niệm cơ bản :
Thu
nhập thực chất là một luồng (chảy). Thu nhập quốc gia
liên hệ chặt chẽ với khái niệm tổng
sản phẩm quốc
nội (produit intérieur brut / PIB, viết tắt tiếng Anh là
GDP), thường được dùng trong
các cuộc tranh luận công
cộng, nhưng khác nhau ở hai điểm quan trọng. GDP là số
lượng sản phẩm và dịch vụ được sản xuất mỗi năm
trong phạm vi lãnh thổ của một nước. Muốn tính ra thu
nhập quốc gia, thì trước hết phải lấy GDP trừ đi sự
mất giá của tư bản đã tạo ra sản xuất đó (chủ yếu
là sự hao mòn các loại thiết bị đã sử dụng trong sản
xuất), sự mất giá này không phải là thu nhập của tác
nhân kinh tế nào cả. GDP trừ đi sự mất giá này gọi
là tổng sản phẩm quốc nội thuần
(NDP), thường thường
bằng 90% GDP. Nhưng trong thời đại các công ti đa quốc
gia, còn phải tính tới sự tham gia đan chéo giữa các
nước, nghĩa là phải cộng thêm (hay trừ đi) những thu
nhập nhận được từ (hay gửi ra) nước ngoài. Tóm lại,
nếu ta gọi là R thu nhập quốc gia :
R =
tổng sản phẩm quốc nội thuần + thu nhập (dương hay
âm) nhận được từ nước ngoài
Trong
các phần nói trên đã thấp thoáng khái niệm tư bản.
Bản chất tư bản là một thứ kho. Trong khuôn khổ công
việc của mình, Piketty định nghĩa tư
bản là tập hợp
các tài sản không phải con người, khả dĩ sở hữu hay
trao đổi trên thị trường. Định nghĩa này loại trừ
« vốn con người », nghĩa là sức lao động,
trình độ tác nghiệp, đào tạo, khả năng cá nhân… vì
« vốn con người không thể do
người khác sở hữu,
không thể trao đổi trên thị trường, ít nhất trên cơ
sở thường trực (và trong một xã hội hiện đại) »
(tr. 83). Nhưng tư bản bao gồm cả « vốn phi vật
thể », thí dụ như các bằng sáng chế, quyền sở
hữu trí tuệ. Định nghĩa « tư bản » mà
Piketty sử dụng đại để cũng trùng hợp với định
nghĩa « chính thức » (trên thực tế) trong các
thống kê của Liên Hiệp Quốc, song cũng cần lưu ý là
một số trường phái muốn dành chữ « tư bản »
để chỉ các hình thái di sản do con người tích lũy (nhà
cửa, trang thiết bị…), loại trừ đất đai, tài nguyên
thiên nhiên, và những thành phần di sản trực tiếp được
sử dụng trong quá trình sản xuất. Để đơn giản hóa
sự trình bày, Piketty còn sử dụng « tư bản »
và « di sản » như là
hai danh từ hoàn toàn đồng
nghĩa với nhau, có thể thay thế lẫn nhau. Ở đây, cũng
nên ghi nhận là trong di sản quốc gia,
có phần di sản tư
và di sản công, nhưng hiện
nay, tại các nước phát
triển, thành phần di sản công rất nhỏ bé (thậm chí là
âm, khi mà nợ công vượt quá tài sản công cộng), thành
thử trên thực tế, danh từ tư bản hầu như đồng nghĩa
với tư bản tư nhân từ đây trở đi trong bài. Thực ra,
như vậy là từ « tư bản »
dùng trong bài này
hầu như đồng nghĩa với khái niệm « tư bản bất
biến » của Marx. Do đó, cũng nên làm rõ vai trò thu
nhập của tư bản trong thu nhập quốc gia trong công thức
dưới đây :
R =
thu nhập của tư bản + thu nhập của lao động
Trong
từ vựng mác-xít, thu nhập của tư bản chính là « giá
trị thặng dư », ký hiệu là P (đây là một quy ước,
không mang màu sắc ý thức hệ). Công thức viết tắt
là : R = P + V.
Cuộc tranh luận với báo Financial Times
Như
đã nói trong phần mở đầu, các số liệu thống kê, biểu đồ và bảng trong
cuốn sách, do tính chất thực nghiệm của chúng, là những gì không thể
tranh cãi, và thực ra không thấy ai phản bác một cách nghiêm chỉnh. Trừ
một lần, với tờ báo Financial Times,
trước đó báo này đã đăng một bài ca ngợi công trình của Piketty. Cuộc
bút chiến kéo dài trong một tuần lễ, và kết thúc bằng sự tiu nghỉu của Financial
Times. Dưới đây, chúng tôi trích dịch
tường thuật của Wikipedia về cuộc luận chiến và bổ sung bằng một vài
thông tin (chữ nghiêng) :
Ngày 23.5.2014, nhà báo Chris Giles
công bố trên Financial Times
[trên trang nhất của số báo cuối tuần]
một bài chỉ trích những dữ liệu
do Piketty thu thập và phê phán một loạt những sai lầm trong các phích
Excel mà tác giả công bố trên trang mạng của mình. Chris Giles thấy
rằng thành phần của cải trong tay 10% những người giàu nhất [ở Vương
Quốc Anh] là 44% theo Office for National Statistics trong khi
Piketty
đưa ra con số 71%. Giles còn nêu ra những sai lầm và nhiều điểm không
chính xác khiến người ta phải nghi ngờ hai kết luận cơ bản của cuốn
sách : bất bình đẳng về tài sản tăng lên từ 30 năm nay ; bất bình đẳng
về tài sản ở Hoa Kỳ lớn hơn ở Châu Âu. Trong những sai lầm mà Giles nêu
ra, có những sai lầm về sao lục, chẳng hạn về bất bình đẳng ở Thụy Điển
năm 1920 ; những sửa đổi không căn cứ, thí dụ về ước tính các bất bình đẳng về
tài sản ở Pháp vào thế kỷ XIX
lấy từ sổ sách thừa kế ; những lựa chọn đáng phê phán về phương pháp
luận, chẳng hạn như khi Piketty tính trung bình giản đơn những con số
ước tính về Anh, Pháp và Thụy Điển mà không quan tâm tới tỉ trọng dân
số của mỗi nước ; những nội suy quá đáng, thí dụ về phần tài sản của
10% người Mỹ giầu nhất trong thời kỳ 1910-1950. [Nham hiểm hơn, Giles
còn so sánh một cách vô lối Piketty với vụ Reinhart-Rokoff, hai nhà
kinh tế học danh tiếng, đã công bố một bài viết về tăng trưởng và nợ
công, bài báo làm cho họ bị mất tín nhiệm vì một sai lầm trong bảng
Excel do một sinh viên năm thứ nhất phát hiện.] Ngay ngày hôm
ấy,
Piketty đã trả lời [ông chỉ được FT thông báo trước đó hai ngày] bằng
cách nhấn mạnh rằng nếu như các dữ liệu hiện tồn về tài sản không đầy
đủ, thì ngược lại, dữ liệu trong sổ sách thừa kế lại đáng tin cậy hơn
và phù hợp với kết luận của ông. Ông còn nhấn mạnh là các điều chỉ
trích của Financial Times
không làm thay đổi các kết luận [vì
các chỉ
trích chỉ liên quan tới những điểm chi tiết, có lẽ chỉ trừ điểm nói về
sự phân kỳ trong thống kê về nước Anh ; thế mà tất cả các thống kê liên
quan tới các nước khác đều xác nhận]. Sau đó, Piketty đã công bố
một
bài trả lời chi tiết hơn [khoảng 10
trang, trả lời từng điểm một] vào
ngày 28.5.2014 trên trang mạng internet [và trong phần phụ lục công bố
trên mạng cho cuốn sách] trong đó ông chứng minh rằng phần lớn
những
điểm mà Chris Giles cho là sai lầm đều là có căn cứ, vả lại phần lớn
các điểm này chỉ dẫn tới những thay đổi không quan trọng. Còn đề nghị
của Chris Giles về diễn biến của các bất bình đẳng về tài sản ở Vương
quốc Anh, Piketty cho rằng chính phương pháp mà Giles chọn lựa mới có
vấn đề. Thật vậy, Giles dựa vào số liệu điều tra chứ không sử dụng số
liệu thuế khóa. Mà số liệu của các cuộc điều tra thường hạ thấp những
tài sản lớn [như cuốn sách đã chỉ rõ
; thêm nữa, Giles lại ghép những
con số trước năm 1980 của sở thuế với những con số sau 1980 lấy từ các
cuộc điều tra, nghĩa là thấp hơn số thực, tất nhiên là bài báo FT đi
tới kết luận là gia sản có chiều hướng giảm xuống]. Trên trang
blog của
mình, Paul Krugman đã bênh vực Piketty và cho rằng cuộc tranh luận như
thế là đã kết thúc. Trên mặt báo Washington
Post,
Matt O'Brien cũng nhận định là Chis Giles có công đọc kỹ những số liệu
mà Piketty công bố trên mạng, nhưng đã quá vội vã khi hiểu sai những
điều chỉnh mà ông ta coi là sai lầm của Piketty. Trên báo Guardian, nhà kinh tế học Howard
Reed chỉ rõ những sai lầm nghiêm trọng của nhà báo Financial Times, và bênh vực những
dữ liệu mà Piketty đưa ra [đáng chú ý
nhất là tuyệt đại đa số độc giả Financial Times
đều cho rằng tờ báo đã trở thành trò cười sau vụ này ; có độc giả còn
đòi Chris Giles và tổng biên tập phải từ chức. Cũng nên thêm là FT đã
đăng bài trả lời thứ nhất của Piketty nhưng không đăng bài thứ nhì. Dẫu
sao thì cú chơi xấu đã xảy ra. Nếu mục đích của Financial Times là gieo rắc sự nghi ngờ, thì họ đã thành
công một phần].
1.1 – Đường biểu diễn thứ nhất của Piketty :
Định
nghĩa như vậy rồi, theo Piketty nhận xét (tr. 88), « vẫn
rất khó định giá cho tư bản. Tuy nhiên, mức độ tổng
thể của di sản quốc gia, ở phạm vi cả nước chứ
không nói riêng một tài sản cụ thể nào, vẫn tuân theo
một số quy luật và có những sự điều hòa đều đặn
nhất định » mà ta có thể làm hiện rõ. Có một
cách tự nhiên và bổ ích là nghiên cứu tỉ số β = C/R,
trong đó C là tư bản quốc gia, R thu nhập quốc gia, và β
được tính theo từng năm thu nhập. Ưu điểm của hệ
thống đơn vị này là có thể áp dụng cho mọi nước và
mọi thời kỳ. Thí dụ, đối với một nước, β = 6 (hay
600 %) có nghĩa là tổng giá trị tư bản quốc gia của
nước ấy ngang với 6 năm thu nhập quốc gia của nó. Con
số thí dụ này không phải tình cờ : hiện nay tỉ
số β của các nước phát triển ở vào mức từ 5 đến
6. Phát kiến quan trọng đầu tiên (theo trình tự trình
bày trong cuốn sách, thì đây là phát kiến thứ nhì) là
đường cong biểu diễn tỉ lệ tích lũy
tư bản β theo
thời gian là một đường hình U. Để dễ nhớ, ta sẽ
gọi nó là « đường biểu diễn thứ
nhất của
Piketty ». Dưới đây là hai biểu đồ, biểu đồ thứ
nhất ghi nhận những quan sát thực sự trong khoảng thời
gian từ 1870 đến 2010, biểu đồ thứ nhì có thêm phần
ngoại suy cho đến năm 2100. « Đầu
tiên, ta nhận
thấy tình trạng đại thịnh vượng của di sản ở Châu
Âu trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XIX sang « Thời
kỳ Đẹp » (trước Thế chiến 1914) : giá trị
các di sản tư tương đương với khoảng sáu-bảy năm thu
nhập quốc gia, một tỉ số rất cao. Tiếp đó là tụt
xuống mạnh trong giai đoạn 1914-1945 (hai cuộc Thế chiến
và cuộc Đại khủng hoảng năm 1929) : tỉ suất tư
bản / thu nhập tụt xuống mức 2-3 năm thu nhập quốc
gia. Từ 1950 tỉ suất này tăng liên tục, tới mức sang
đầu thế kỷ này, nó đạt tới những đỉnh điểm được
khi nhận vào những năm trước Đại chiến Thế giới lần
thứ nhất : tỉ suất tư bản / thu nhập trong giai
đoạn 2000-2010 ở vào mức năm-sáu năm thu nhập »
(tr. 53-54). Sự ngoại suy cho đến năm 2100 dựa vào những
« quy luật động lực học » mà ta sẽ xét tới
trong một phần dưới đây. Theo sự ngoại suy này có thể
dự đoán (một cách khả tín) là cho đến cuối thế kỷ
XXI, tỉ suất β sẽ tiếp
tục tăng lên tới mức 700 %,
nghĩa là tương tợ như tình hình Châu Âu ở « Thời
kỳ Đẹp » (gọi là đẹp cho nó đẹp chứ đó cũng
là thời kỳ tư bản man rợ). Tóm lại, như đầu đề
của một bài báo ký tên Piketty và Zucman [PZ], tư bản đã
trở lại.
Biểu đồ I.2. Tỉ suất tư bản / thu nhập ở Châu Âu, 1870-2010
Biểu đồ 5.8. Tỉ suất tư bản / thu nhập trên thế giới, 1870-2100
Câu
hỏi tự nhiên được đặt ra : tư bản sẽ tập
trung như vậy tới mức nào ? Tỉ số β sẽ nhất
thiết bị chặn lại không ? và nếu thế, có thể
ước tính giới hạn trên của nó là bao nhiêu ? Không
thể thảo luận một cách nghiêm chỉnh về hàm số β
này, về ý nghĩa sâu xa của đường chữ U nếu ta gạt
qua một bên giá trị thặng dư P, dưới dạng nào chăng
nữa. Ngoài β = C/R, các tham số kinh tế vĩ mô sau đây
cũng thường được nêu ra :
-
Phần thu nhập của tư bản trong thu nhập quốc gia, tức là tỉ số α = P/R = P/(P+V)
-
Tỉ suất lợi tức của tư bản, r = P/C. Chú ý : r khác với tỉ số lợi nhuận được định nghĩa theo quan điểm mác-xít bằng công thức ρ = P/(C+V), trong đó V là « tư bản khả biến », tức là giá trị của sức lao động đã được huy động trong quá trình sản xuất, từ đó tạo ra « giá trị thặng dư » trong quan niệm của Marx.
-
Tỉ suất tăng trưởng g = (∆R/∆t)/R, trong đó ∆R là lượng biến thiên của thu nhập R trong khoảng thời gian ∆t (theo tập tục kế toán, người ta thường lấy ∆t=1, thời gian tính theo năm)
-
Tỉ suất tiết kiệm s = (∆C/∆t)/R, trong đó ∆C là lượng biến thiên của tư bản C trong khoảng thời gian ∆t (theo tập quán kế toán nói trên).
Cần
nhắc lại là các tham số này (đều là hàm số của thời
gian) được định nghĩa theo những tiêu chuẩn kế toán,
hoàn toàn không dựa vào những giả định có tính chất
ý thức hệ. Tác động hỗ tương giữa chúng với nhau sẽ
cho phép ta chẩn đoán sự biến chuyển của tỉ suất tư
bản / thu nhập, theo hai « quy luật » mà Piketty
gọi là « hai quy luật cơ bản của chủ nghĩa tư
bản » (một cách gọi hơi cường điệu, hay là diễu
cợt ?). Ta hãy xem xét hai kịch bản có thể, nhưng
chỉ nêu lên những khía cạnh định tính – các chi tiết
kĩ thuật và chứng minh toán học xin để ở phần phụ
lục. Để nhớ rằng đó là những hàm số theo thời gian
(t), chúng ta sẽ dùng ký hiệu β(t), α(t) vv… Khi nào
những hàm số này là hằng số (không thay đổi theo thời
gian), ta mới bỏ bớt ký hiệu t.
Nếu
tỉ suất β(t) bị chặn trên – nói theo ngôn ngữ của
thị trường chứng khoán « cỏ cây
không mọc lên
tận trời cao » – ta hãy
chú tâm tới phần đường
cong Piketty « đi lên » (kể từ năm 1950) tức là
đoạn thời gian trong đó hàm số β(t) đồng biến theo
thời gian (phần hàm số nghịch biến có thể được xử
lý một cách đối xứng). Từ những định nghĩa nói
trên, chỉ cần giả định là hàm β(t) đồng biến theo
thời gian, ta có thể chứng minh bằng toán học (xem khung ở cuối bài)
là hai điều kiện sau đây được thỏa mãn và tương
đương với nhau : tư bản tăng nhanh hơn thu nhập quốc
gia và bất đẳng thức s(t)/g(t) ≥ β(t) được nghiệm
đúng với mọi giá trị của t (bất đẳng thức giữa
hai hàm số). Giả thiết hàm số β(t) là đồng biến và
bị chặn trên kéo theo hệ quả là đường cong Piketty có
thể có những « bậc thang » hoặc những « điểm
uốn » (« bậc thang » khoảnh khắc) ở những
thời điểm τ sao cho β(τ) = s(τ) / g(τ), nhưng β(t) không
thể giảm xuống như trước đó, nó phải tiệm tiến tới
sát gần một giá trị « trần », là một đường
thẳng ngang, tung độ cố định. Nói cách khác, khi t
tiến đến vô cực, hàm số β(t) tiệm tiến tới một
giá trị giới hạn β, cũng là giới hạn của hàm số
s(t)/g(t). Đẳng thức tiệm cận đó, Piketty viết dưới
dạng β = s/g và đặt tên nó là « quy
luật cơ bản
thứ nhì của chủ nghĩa tư bản » ở chương 5. Tuy
một mặt Piketty nhấn mạnh đẳng thức đó chỉ có giá
trị về dài hạn (và cũng phải có thêm một số điều kiện nữa, xem tr. 265
và tiếp theo), ông vẫn sử dụng nó như một « quy
luật động lực học » để nghiên cứu sự tích lũy
tư bản. Như những người phê phán Piketty đã không quên
nhấn mạnh (xem [H] chẳng hạn), đứng về mặt phương
pháp luận và khái niệm thì việc này không ổn :
đứng vào một giai đoạn β(t) ổn định mà nghiên cứu
sự biến thiên của β(t) trong thời gian thì chẳng có mấy
ý nghĩa ; xin xem thêm khung kỹ thuật để biết thêm
về biểu hiện « động lực học » của β(t).
Trừ phi, rất có thể là tác giả đặt mình vào tình
huống « bậc thang », trong đó các hàm β(t) và
s(t)/g(t) ổn định trong những thời kỳ dài và công thức
tiệm cận (vẫn còn giá trị cho từng bậc thang) cho phép
ta so sánh các thời kỳ đó với nhau (song tác giả không
nói thật rõ, mà chỉ thoáng qua một câu, như ở trang
367 : « Trái nghịch với một
ý tưởng cho đến
gần đây khá phổ biến, quy luật β = s/g không mâu thuẫn
với những biến thiên rất lớn của tí suất tư bản /
thu nhập theo thời gian và từ nước này sang nước
kia »). Tiến hành như thế, đẳng thức tiệm cận β
= s/g « thể hiện một thực tế
hiển nhiên mà quan
trọng : một nước tiết kiệm nhiều mà tăng trưởng
chậm (tức là s lớn, g nhỏ) về dài hạn sẽ tích lũy
một kho tư bản khổng lồ -- và việc này dẫn tới những
hậu quả lớn về cấu trúc xã hội và sự phân bố của
cải. Có thể nói cách khác : trong một xã hội gần
như trì trệ, thì những di sản phát xuất từ quá khứ
sẽ đóng một vai trò quan trọng quá mức. Việc tỉ suất
tư bản / thu nhập, sang thế kỉ XXI, trở lại mức cấu
trúc cao gần như thời thế kỷ XVIII và XIX đương nhiên
có thể lí giải là sự tái hiện tình trạng tăng trưởng
thấp. Chính sự giảm tăng trưởng – trong đó có giảm
tăng trưởng về dân số – đã dẫn tới « sự trở
lại của tư bản» » (tr. 263).
1.2 – Tích lũy vô hạn hay hữu hạn ?
Nếu
tỉ suất β(t) không có hạn trên, hay, nói theo ngôn ngữ
mác-xít, nếu « tư bản tích lũy
vô hạn định »
(ca tăng trưởng theo bậc thang mà Piketty đã xem xét, có
hay không có hạn trên, đều nằm trong hình thái này), thì
phải nói, mặc dầu đây không phải là chủ đề của
bài viết này, là không thể không thảo luận về dự báo
của Marx « tỉ suất lợi tức có xu
hướng giảm ».
Không ai phủ nhận tài bút chiến và tầm nhìn của Marx,
nhưng suy luận của ông không phải lúc nào cũng sáng sủa.
Xin được phép tóm tắt dự báo ấy như thế này :
tỉ suất lợi nhuận là phân số
ρ =
P/(V+C) = (P/V)/(1+(C/V)) = ε / (1+ω)
trong
đó ω = C/V là « cấu thành hữu cơ
của tư bản »,
còn ε = P/V là « tỉ suất giá trị
thặng dư »
mà ít nhiều Marx bỏ qua sự bất ổn định có thể ; hễ
ω tăng là ρ giảm ; sự giảm thiểu này được gọi
là « xu thế » vì nó không diễn ra một cách máy
móc và đều đặn, vì có những xu thế nghịch (tăng tỉ
suất bóc lột, giảm giá trị của tư bản bất biến,
thay đổi trong cấu thành hữu cơ của tư bản…) – Marx
không phủ nhận những xu thế này, nhưng ông cho rẳng tác
động của chúng yếu so với xu thế mạnh của ω. Vì
vậy Marx tiên đoán là hệ thống này, rốt cuộc, sẽ bị
hủy diệt bởi mâu thuẫn nội tại : « Hoặc là
các nhà tư bản sẽ xâu xé lẫn nhau vì họ đấu tranh
một cách tuyệt vọng chống lại tỉ suất lợi tức có
xu hướng giảm (thí dụ như các cuộc giao tranh giữa
các đế quốc) ; hoặc là họ áp
đặt, làm giảm
được phần của lao động trong thu nhập quốc gia, và
điểu này cuối cũng sẽ dẫn tới cách mạng vô sản và
sự truất hữu phổ quát » (tr. 362). Ta có thể suy
luận y hệt như vậy mà dùng các tham số α, β và r đã
được nghiên cứu trong cuốn sách. Ba hàm số (của thời
gian) ấy không độc lập với nhau mà liên thuộc nhau bằng
công thức α = r.β mà Piketty gọi là « quy luật cơ
bản thứ nhất của chủ nghĩa tư bản » (chẳng qua
đây chỉ là một đẳng thức kế toán suy ra từ các định
nghĩa). Từ đẳng thức này, ta có thể viết tỉ suất
lợi tức dưới dạng r = α/β. Biết rằng α nhỏ hơn 1,
ta có thể kết luận như Marx rằng nếu β tăng trưởng
vô hạn thì r sẽ giảm dần xuống zero. Còn có thể nhận
xét thêm : vì r = P/C = ε/ω nên việc tỉ suất r giảm
dần xuống 0 tương đương với việc tỉ suất ρ giảm
dần xuống 0. Thế nhưng các dữ liệu của kho WTID (cặn
kẽ và đầy đủ hơn nhiều so với những nghiên cứu
trước đây về thế kỷ XIX và XX, như của Kaldor) không
cho thấy xu thế suy giảm dài hạn nào cả. Ngược lại,
ít nhất tại những nước còn giữ được nhiều số
liệu lịch sử đáng tin cậy, thì người ta có thể thấy
rõ tình trạng tính hầu như ổn định của tỉ suất lợi
tức bình quân và lợi tức thuần (tức là trong tư
bản đã trừ đi mọi chi phí về quản lý danh mục chứng
khoán, chính thức hay không chính thức) trong toàn bộ
những giai đoạn dài hai ba thế kỷ. Hai biểu đồ dưới
đây liên quan tới Anh và Pháp cho thấy tỉ suất (trước
khi nộp thuế) luôn luôn ở trên mức 4-5 % cho đến phần
ba cuối cùng của thế kỷ XX, và từ đó đến nay, vẫn
xấp xỉ ở mức đó. Piketty còn đưa ra nhận xét hóm
hỉnh là trong xã hội tiền công nghiệp của thế kỷ XIX
(chính xác là trước khi đường sắt phát triển, khoảng
1840), lợi tức của tư bản đầu tư vào đất đai, nợ
công và thương mại ổn định tới mức trong các tiểu
thuyết của Jane Austen (Price and Prejudice,
1813) hay của
Balzac (Le Père
Goriot, 1835), người ta chỉ cần đong đếm
gia tài của mỗi nhân vật bằng tiền tô hàng năm, « sự
tương đương giữa tư bản và tô, với tỉ suất lợi
tức 5% (hiếm lắm mới xuống 4%), là một điều tuyệt
đối hiển nhiên » (tr. 327). Trở lại câu chuyện suy
giảm xu thế của tỉ suất lợi tức, làm sao hóa giải
được mâu thuẫn giữa số liệu thống kê và tiên đoán
mác-xít (cũng phải nói ngay là không phải tất cả những
người mác-xít đều chấp nhận, xem [J] chẳng hạn) ?
Biểu đồ 6.3 Lợi tức thuần của tư bản ở Anh, 1770-2010.
Biểu đồ 6.4 Lợi tức thuần của tư bản ở Pháp, 1820-2010.
CHÚ
THÍCH : Trên trục tung độ (thẳng đứng) có nói tới
« rendement du travail » (năng suất lao động),
nhưng thực ra các đường biểu diễn chỉ liên quan tới lợi tức của tư bản thôi.
nhưng thực ra các đường biểu diễn chỉ liên quan tới lợi tức của tư bản thôi.
Sách vở về kinh tế đương đại bàn về các nhân tố tăng trưởng dài hạn đã quá dồi dào, một người không phải chuyên gia cũng chẳng nên thêm mắm thêm muối. Nhưng cũng phải nói là cách suy luận trình bày ở trên, về cơ bản không sai, nhưng rõ ràng là không đủ, vì nó không tính tới sự liên thuộc thể hiện trong đẳng thức α = r.β, nhờ đó mới có những tình huống β tăng mà α cũng tăng (tr. 350), hoặc là β tăng trong khi mà cả r lẫn α đều giảm (tr. 341) ; trong tình huống vừa nói, khi đẩy tới giới hạn thì công thức α = r.β sẽ cho một dạng thức bất định 0/0, loại bỏ được bất định hay không là tùy vận tốc biến thiên tương đối của ba tham số. Mặt khác, trong một giai đoạn mà r bị chặn trên (như trong các biểu đồ), công thức α = r.β cho thấy không thể có sự tích lũy vô hạn của tư bản ; nói chính xác hơn, β có thể tăng, sau đó ổn định trong một thời gian, rồi lại tiếp tục tăng : đó là tình huống có những bậc thang (đã nói ở trên) β nhảy từ bậc này lên bậc kia ngày càng khó khăn vì có « lực kéo lại » do r giảm xuống, cứ như thế cho đến đường tiệm cận tột cùng. Đứng về mặt thuần túy toán học, mặc dầu không thiếu những mô hình quá giản đơn xây dựng trên tiên đề ổn định dài hạn của sự phân chia tư bản – lao động (thí dụ như hàm số sản xuất của Cobb-Douglas), hiện nay chúng ta chưa biết gì mấy về cấu thành hữu cơ của tư bản cũng như về tỉ suất thặng dư giá trị, hay về tư bản khả biến V, thứ « hổ lốn » chắc phải chứa đựng trăm thứ bà rằn : đầu tư về vốn con người, giáo dục, đào tạo. Về điểm cụ thể này, Marx không biết gì hơn vào thời ông : « Cũng như các tác gia Malthus và Ricardo trước ông, Marx hoàn toàn bỏ qua khả năng có tiến bộ kĩ thuật kéo dài, và năng suất tăng trưởng liên tục, [đó là một « lực kéo lại »] nhờ đó có thể cân bằng – trong một chừng mực nhất định – quá trình tích lũy và tập trung ngày càng cao của tư bản tư nhân (…) Trong đầu óc của Marx, cũng như của tất cả các nhà kinh tế học thế kỷ XIX, đàu thế kỷ XX, và nói chung cho đến khi có các công trình của Solow (vào những năm 1950-60), bản thân khái niệm tăng trưởng liên tục và có tính cấu trúc, do tăng trưởng năng suất thường trực và dài lâu, chưa được xác định và nhận chân rõ ràng » (tr. 28 và 328). Thêm nữa, cho dù Marx cũng cố gắng huy động tối đa bộ máy thống kê còn thô sơ của thời ấy (báo cáo nghị viện những năm 1820-1840 để lấy tư liệu về sự khổ cực của giai cấp vô sản, thống kê về thuế « phân loại » (impots cédulaires) đánh vào tiền lời để chứng minh là lợi nhuận công nghiệp đã tăng vọt lên trong những năm 1840-50, thống kê về thừa kế để vạch ra sự tăng tiến mạnh mẽ của những gia tài lớn nhất từ thời các cuộc chiến tranh của Napoléon…), Marx « thường chỉ tiếp cận một cách lặt vặt, thiếu hệ thống (...) khiến cho ông đã ngoại suy thành xu thế dài hạn và có giá trị phổ quát những diễn biến mà ông quan sát được trong những khoảng thời gian ngắn và trong những thời đoạn đặc biệt » (tr. 363). Dẫu sao đi nữa thì « nguyên lý tích lũy vô hạn » mà Marx bảo vệ hàm chứa một trực giác cơ bản để phân tích tình thế kỷ XXI cũng như thế kỷ XIX, còn đáng ngại hơn cả nguyên lý về sự khan hiếm mà Ricardo thiết tha kiên trì. Một khi mà cả tỉ suất tăng trưởng dân số cũng như tỉ suất tăng trưởng năng suất tương đối đều thấp, thì những tài sản tích lũy trong quá khứ trở thành quan trọng quá mức và mang lại sự bất ổn định trong các xã hội liên quan. Nói cách khác, một sự tăng trưởng yếu kém rất khó làm cân bằng nguyên lý mác-xít về sự tích lũy vô hạn : từ đó dẫn tới một sự cân bằng không đến nỗi tai họa như Marx tiên đoán, nhưng cũng đủ để gây rối ren. Tích lũy khựng lại ở một điểm hữu hạn, những điểm ấy có thể rất cao và gây ra bất ổn định » (tr.29)
1.3 – « Phân kỳ Piketty » :
Thế
là đặt ra bài toán các mối quan hệ giữa tỉ suất lợi
tức r và tỉ suất tăng trưởng g, vấn đề mà các nhà
kinh tế học rất quan tâm, bằng chứng điển hình là
« quy tắc vàng về tích lũy tư bản » của
Edmund Phelps (chúng tôi sẽ trở lại chuyện này). Hay hơn
cả là biểu thị hai tỉ suất ấy một cách tương đồng
về mặt « phạm trù » (hiểu theo nghĩa triết
học), tức là r = ε/ω (hay hơn nữa, ρ = ε / 1+ω,
xem ở trên) và g = tỉ suất biến thiên của V +
tỉ suất biến thiên của (1+ε). Sự
hình thức hóa bằng
toán học phải ngừng ở đây vì ta không biết gì về
vận tốc biến thiên của các hệ số -- cái không biết
này chính là tử huyệt của những mô hình lí thuyết quy
giản hay « đèn cù » (tautologic)
chẳng hạn như
« mô hình chuẩn về chân trời vô cực » tự
nhận có khả năng định ra một giá trị cân bằng cho r
tùy theo g, « tỉ suất ưa thích hiện tại » và
tùy theo tính lõm của một « hàm số lợi ích » !
(tr. 571). Độc đáo của Piketty ở chỗ là, một cách hệ
thống, ông quay trở về các dữ liệu thực nghiệm :
tập hợp một số lớn những chuỗi thống kê từ thế
kỷ XVIII cho thấy tỉ suất tăng trưởng toàn cầu vẫn
luôn luôn ở mức 1,5 %/năm, ngoại trừ thời kỳ ta gọi
là « Ba mươi năm vinh quang », nó lên tới mức
4,5 %.
Bảng 2.2. Luật tăng trưởng chồng chất
Nếu tỉ suất tăng trưởng mỗi năm là… | …thì tỉ suất tăng trương mỗi thế hệ (30 năm) sẽ là… | …tức là, cứ mỗi 30 năm, sẽ nhân lên với hệ số… | …tức là, cứ mỗi 100 năm, sẽ nhân lên với hệ số… | …tức là, cứ mỗi nghìn năm, sẽ nhân lên với hệ số… |
---|---|---|---|---|
0,1% | 3% | 1,03 | 1,11 | 2,72 |
0,2% | 6% | 1,06 | 1,22 | 7,37 |
0,5% | 16% | 1,16 | 1,65 | 147 |
1,0% | 35% | 1,35 | 2,70 | 20 959 |
1,5% | 56% | 1,56 | 4,43 | 2 924 437 |
2,0% | 81% | 1,81 | 7,24 | 398 264 652 |
2,5% | 110% | 2,10 | 11,8 | 52 949 930 179 |
3,5% | 181% | 2,81 | 31,2 | … |
5,0% | 332% | 4,32 | 131,5 | … |
Đọc : Tỉ suất tăng trưởng 1% một năm có nghĩa là tăng trưởng 35% mỗi thế hệ (30 năm) ; nhân lên với hệ số 2,7 mỗi trăm năm, với hệ số hơn 20 000 mỗi nghìn năm. |
Trong
các cuộc tranh luận hiện nay, dường như người ta coi
thường những tỉ suất tăng trưởng dưới 1%. Trên mặt
báo này, chúng tôi đã có dịp nhắc lại là tỉ suất
tăng trưởng mô tả một quá trình tiến triển lũy thừa
chứ không phải tuyến tính, mà bảng trên đây cho ta
những con số kết quả « chóng mặt » : với
tỉ suất tăng trưởng toàn cầu 4-5% mỗi năm (đó là tỉ
suất trong « Ba mươi năm Vinh quang »), cứ thế liên
tiếp mãi, thì không thể có một nền kinh tế lâu bền
nào. Bài học lớn nhất có thể rút ra từ các chuỗi
thống kê không nằm trong giá trị tuyệt đối của các
tỉ suất r và g, mà ở trong sự đối sánh r > g
mà, để thuận miệng, ta sẽ gọi là sự « phân kỳ
Piketty » (song cũng phải nhấn mạnh đây là mối quan
hệ có tính chất thực nghiệm) mà các biểu đồ dưới
đây cho thấy rõ :
Biểu đồ 10.9 : Lợi tức của tư bản và tỉ suất tăng trưởng trên phạm vi thế giới
từ Cổ đại đến năm 2100.
Cách đọc : tỉ suất sinh lời của tư bản (chưa tính thuế) bao giờ cũng cao hơn
tỉ suất tăng trưởng toàn cầu ; trong thế kỷ 20, khoảng cách giữa hai tỉ suất
đã giảm đi, sang thế kỷ 21 có cơ tăng trở lại.
NGUỒN : piketty.pse.ens.fr/fr/capital21c
Biểu đồ 10.10 : Lợi tức của tư bản (sau khi nộp thuế)
và tỉ suất tăng trưởng toàn cầu
từ thời Cổ Đại đến năm 2100.
từ thời Cổ Đại đến năm 2100.
Cách
đọc : tỉ suất lợi tức của tư bản (sau khi trừ
tiền thuế và mất mát vốn), trong thế kỷ 20
đã xuống dưới mức tỉ suất tăng trưởng, nhưng sang thế kỷ 21, có thể sẽ vượt lên trên trở lại.
đã xuống dưới mức tỉ suất tăng trưởng, nhưng sang thế kỷ 21, có thể sẽ vượt lên trên trở lại.
CHÚ
Ý : Các tỉ suất từ năm 1700 trở về trước là những
con số ngoại suy bằng luật lũy thừa dựa trên địa tô
và ước tính dân số. Độ chính xác như vậy rất thấp,
nhưng quan trọng là mức đại lượng và xu hướng diễn
tiến chung. Trên biểu đồ thứ nhì, để ý sự song song
hiển nhiên giữa hai đường biểu diễn trong đoạn
1913-1950 – có lẽ điều này phản ánh kết quả những
chính sách công và các định chế được đặt ra ở
nhiều nước để điều chỉnh quan hệ tư bản / lao động
(mặc dù đây là những con số bình quân cho cả thế
giới ; về vấn đề này, xin xem « lý thuyết
điều tiết »).
Dựa
trên những dữ liệu thực nghiệm, trong khuôn khổ những
định nghĩa chính xác, đứng ngoài mọi toan tính lí
thuyết hay ý thức hệ, bất đẳng thức r > g
có thể được coi như là một « hiện
thực lịch sử
không thể tranh cãi », cho dù đó không nhất thiết
là một nhân tố thuần túy kinh tế học, mà còn tùy
thuộc cả vào những chính sách đã được thi hành, đặc
biệt về mặt thuế má : « Trong
chủ yếu lịch
sử loài người, có một sự kiện lớn là : tỉ suất
lợi tức của tư bản luôn luôn cao ít nhất mười –
hai mươi lần tỉ suất tăng trưởng của sản xuất và
của thu nhập » (tr. 561). Đúng là có một giai đoạn
biệt lệ, đại để bắt đầu với Thế chiến lần thứ
nhất và kéo dài tới cuối thời kỳ « Ba mươi năm
vinh quang » (đầu những năm 1970). Trong giai đoạn đặc
biệt này, khoảng cách giữa tỉ suất tăng trưởng và
lợi tức thô đã thu hẹp lại, thậm chí bất đẳng thức
(với r thuần) đã đảo ngược (xem biểu đồ), nhưng
trong kịch bản trung tâm mà Piketty lưu giữ, nghĩa là
trong bối cảnh hiện nay (chính sách liberal, tranh đua giảm
thuế má, với tỉ suất tăng trưởng bình quân ở mức
1,5%) thì khoảng cách giữa r và g vào đầu thế kỷ XXI
có cơ trở lại mức thế kỷ XIX. Đương nhiên người ta
có thể hỏi : ngoài thời kỳ lâu dài mà Piketty quan
sát, không biết (r – g) biến thiên ra sao ? Bài
toán này chưa có giải đáp về mặt lý thuyết, nhưng với
những giải thiết đơn giản, người ta có thể đi tới
« quy tắc vàng » mà Phelps đã phát biểu vào năm
1961, r = g, hao hao như « chiến lược bão
hòa », nghĩa là tích lũy tư bản để giảm bớt tỉ
suất lợi tức (xem 1.2) cho tới giới hạn dưới g. Công
thức tiệm cận β = s/g dẫn tới hệ quả là :
r = g nếu, và chỉ nếu s = α, điều này
cụ thể có nghĩa là tổng số các thu nhập của tư bản
trong một năm phải tiết kiệm và cho vào kho tư bản. Để
« bão hòa » tư bản, có phải trữ kho khoảng
10-15 năm thu nhập quốc gia hay hơn nữa (đây chỉ là một
ước tính thực nghiệm), thành thử « quy tắc vàng »
trở thành phi hiện thực, cho dù lôgic của nó tương
thích với lôgic của các phần 1.1 và 1.2.
Piketty
trình bày sự phân kỳ (r – g) như là tác nhân
trung tâm trong sơ đồ ông sử dụng để giải thích động
lực của các bất bình đẳng. Trước đây đã thấy rõ
(xem 1.1) rằng sự tích lũy tư bản, nghĩa là tăng tỉ số
β khiến cho vốn tư tăng nhanh hơn thu nhập quốc gia.
Còn bất đẳng thức r > g có nghĩa là các di
sản tích tụ từ quá khứ tái tư bản hóa nhanh hơn sự
tăng trưởng kinh tế, ngay cả trong trường hợp hoàn toàn
vắng bóng thu nhập của lao động (ở trên đã ký hiệu
là V). Cụ thể, giả dụ g = 1% và r = 5%,
« chỉ cần tiết kiệm một phần năm
thu nhập của
tư bản – và tiêu thụ bốn phần năm còn lại – là
khối lượng tư bản do thế hệ trước để lại có thể
tăng tiến cùng nhịp độ với toàn bộ nền kinh tế. Nếu
người ta tiết kiệm nhiều hơn (…), thì di sản sẽ tăng
trưởng nhanh hơn mức trung bình của nền kinh tế, và
các bất bình đẳng về di sản sẽ có xu hướng tăng
lên, mà không cần tới tác động của thu nhập lao động.
Cho nên, chỉ đứng về mặt lôgic mà xét, ta thấy đó là
những điều kiện lý tưởng để một xã hội « con
ông cháu cha » phát đạt, đặc điểm của xã hội
này là tập trung di sản cao độ, và khối lượng di sản
to lớn ấy trường tồn trong thời gian, kéo dài từ thế
hệ này sang thế hệ khác » (tr. 558). Nên lưu ý là
bất đẳng thức r > g chẳng liên quan gì tới sự
không hoàn hảo của thị trường (hiểu theo nghĩa kinh tế
học), cho dù thị trường có tự do hơn, nhiều cạnh
tranh hơn, cũng chẳng giải quyết được gì.
Tóm
lại : Xem xét các chuỗi thống kê tương ứng với những
thời gian dài, ta thấy nổi lên hai hiện tượng có thể
được gọi là những dữ liệu thực nghiệm của sự
tích lũy tư bản. Hai hiện tượng này coi như kéo theo xu
thế gia tăng của sự tập trung của cải :
- đường chữ U của Piketty cho thấy, sau cuộc suy thoái mà
các cuộc chiến tranh và cuộc khủng hoảng kinh tế đã
khoét sâu, thì « tư bản đã trở về » những
mức độ tích lũy to tát, có thể so với Thời kỳ Đẹp
- sự phân kỳ của Piketty là một hiện thực lịch sử chỉ bị
đảo ngược trong những thời đoạn đặc biệt trong đó
khoảng cách (r – g) rút ngắn lại vì những
nguyên nhân tình thế (tái thiết sau chiến tranh trong
trường hợp các nước phát triển, còn ở các nước
đang trỗi dậy thì là thời đoạn cất cánh và bắt kịp
nước khác)
Nghiên cứu chuỗi như trên mang lại cho ta nhiều điều bổ ích
để hiểu động lực của sự tích lũy tư bản, nhưng
không mấy bổ ích về động lực của những sự bất
bình đẳng, mà dưới đây chúng ta sẽ phải phân tích
sâu hơn.
2 – Sự tập trung tư bản và thu nhập
Đứng
về mặt cấu trúc, thì trong xã hội nào cũng vậy, sự
bất bình đẳng về thu nhập có thể là tổng số của
ba số hạng : bất bình đẳng về sở hữu tư bản
và về thu nhập do tư bản mang lại ; bất bình đẳng
trong thu nhập lao động ; và thứ ba là sự xâm nhập
đan chéo giữa hai chiều kích nói trên, một trong những
nhân tố của sự tương quan (theo nghĩa thống kê) này là
hệ số β = C/R.
2.1 – Tập trung di sản : đối sánh Châu Âu và Mỹ
Sự « trở lại » của tích
lũy tư
bản đã rõ rồi, tự nhiên là ta hãy xem xét sự tập trung của tư bản. Nhìn
chung, theo nhận xét của Piketty, « trong tất cả các
xã hội được biết, ở thời đại nào cũng vậy, nếu
ta chia dân số ra làm hai, nửa trên có nhiều tài sản hơn
nửa dưới, thì tổng cộng tài sản của nửa dưới là
không đáng kể (thường chỉ bằng 5 % tổng số tài sản),
và nếu cộng tài sản của một phần mười những người
giàu nhất, ta sẽ có hơn một nửa tổng số tài sản
trong xã hội (thường là trên 60%, có nơi có thời lên
tới 90%), và dân số còn lại (40%), tài sản của họ
chiếm vài khoảng từ 5% đến 35% tài sản tổng cộng »
(tr. 536). Biểu đồ 10.6 dưới đây cho thấy rõ điều đó.
Xem xét kỹ hơn, ta còn rút ra thêm nhiều điều nữa :
-
sau những đỉnh điểm quá quắt của « Thời đại
Đẹp » (từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1914), những
năm xáo trộn 1914-1950 đã làm sụt xuống tỉ suất gia
sản của phần mười và phần trăm giàu nhất, nhưng từ
giữa thập niên 1970 trở đi, tỉ suất này lại tăng lên,
ở các nước Anh-Mỹ nhiều hơn ở các nước Châu Âu.
Biểu đồ 10.6 : Bất bình đẳng về di sản ở Châu Âu và Hoa Kỹ 1810-2010
Cho đến giữa thế kỷ 20, bất bình đẳng về di sản ở Châu Âu lớn hơn ở Hoa Kỳ
NGUỒN : piketty.pse.ens/capital21c
-
trái ngược với những định kiến phổ biến, sự bất
bình đẳng về tài sản ở Hoa Kỳ không lớn bằng ở
Châu Âu cho đến thập niên 1960 ; từ sau thập niên
1960 trở đi, bất bình đẳng ở Hoa Kỳ lớn hơn ở Châu
Âu. Trên biểu đồ, đường Châu Âu và đường Hoa Kỳ
chạy ở hai mức khác nhau, nhưng « song song » với
nhau, đến thập niên 1960 thì giao nhau và đảo lộn trên
dưới. Giải thích lịch sử : « Ở
Châu Âu, xã
hội đã hoàn toàn biến đổi trong thế kỷ XX : những
chênh lệch giàu nghèo, cho đến chiều hôm trước Thế
chiến lần thứ nhất vẫn to lớn như dưới Chế độ
Quân chủ, đã giảm hẳn xuống một mức thấp chưa từng
thấy, đến độ khoảng một nửa dân số đã có được
một gia tài tối thiểu [xuất hiện một giai cấp trung
lưu về gia sản], lần đầu tiên, tổng
cộng chiếm một
phần không nhỏ trong tư bản quốc gia [khoảng một phần
ba]. Điều này giải thích một phần tại
sao Châu Âu
trong Ba mươi năm Vinh Quang đã sống trong một bầu không
khí phấn khích lạc quan (người ta có cảm tưởng đã
vượt qua chủ nghĩa tư bản, bất bình đẳng và xã hội
giai cấp đang bị đẩy lùi vào quá khứ), cho nên rất
khó mà chấp nhận sự thật là từ những năm 1980 trở
đi, con đường thẳng tiến lên tiến bộ xã hội đã bị
khựng lại (…) Ở Hoa Kỳ, nhận thức khác hẳn. Trong
một phạm vi nhất định, ngay từ đầu thế ký XIX đã
tồn tại một giai cấp trung lưu (da trắng). Thành phần
này đã bị khốn đốn trong những năm Gilded Age [thời kỳ
thành hình những đại gia công nghiệp và tài chính], tươi
tỉnh trở lại vào giữ thế kỷ XX, rồi lại khốn đốn
trong những năm 1970-1980 (…). Ở Hoa Kỳ, thế kỷ XX không
đồng nghĩa với bước nhảy vọt về công bằng xã hội.
Bất bình đẳng về tài sản ở Mỹ đầu thế kỷ XX
thậm chí còn lớn hơn hồi đầu thế kỷ XIX » (tr.
557).
-
với xu thế đang đi lên, liệu hai đường biểu diễn sẽ
bắt kịp những kỷ lục của đầu thế kỷ XX hay chăng ?
Hiện nay, đầu thập niên 2010, gia tài của phần mười
giàu nhất chiếm khoảng 60% gia tài quốc gia. Hơn nữa
(hay : tệ hơn nữa), phần trăm giàu nhất (nghĩa là
45 triệu người lớn trong số 4,5 tỉ người lớn) chiếm
hữu 50% tài sản thế giới, nói cách khác, mỗi người
trong nhóm 45 triệu này, nắm giữ một gia sản gấp 50 lần
gia tài trung bình. Trong khi đó « nửa nghèo nhất
trong dân chúng hầu như chẳng có của nả gì trong tay :
50% dân chúng ít của cải nhất, tổng cộng gia sản của
họ chưa tới 10%, thậm chí chưa tới 5% gia sản tổng
cộng (…). Tại Hoa Kỳ, cuộc điều tra mới nhất
do Federal Reserve tổ chức cho biết phần mười giàu nhất
trong dân số Mỹ sở hữu 72% của cải tổng cộng, còn
nửa dân số nghèo chỉ sở hữu vỏn vẹn 2%. Có cần nói
thêm rằng nguồn thông tin này, cũng như phần lớn các
cuộc điều tra dựa trên bản khai, thường đánh giá thấp
các tài sản đại gia » (tr. 404).
Cũng
xin thêm một câu thôi, về những gia tài cao ngất này :
chúng cao đến mức không thấy chúng chót vót tận đâu.
Các nguồn thông tin duy nhất là : một là những bảng
xếp hạng như của tạp chí Forbes,
hai là các « báo
cáo toàn cầu về của cải » (Global
Wealth Reports) do
một số cơ quan tài chính quốc tế (ngân hàng, công ti
bảo hiểm…) công bố. Đó là những nguồn tin và ước
tính không mấy chính xác, nhưng ít nhất là chúng tồn
tại, và cho ta một ý niệm về đại lượng. Để bổ
sung các dữ liệu của biểu đồ 10.6, với tất cả sự
thận trọng cần thiết, ta có thể nói rằng « 0,1%
những người giàu nhất trên hành tinh này, tức là khoảng
4,5 triệu người (trên 18 tuổi) trong số 4,5 tỉ người
trưởng thành trên thế giới, coi như có trong tay một tài
sản bình quân mỗi người 10 triệu Euro, tức là gấp gần
200 lần tài sản bình quân trên thế giới, nghĩa là 4,5
triệu người này sở hữu 20% tài sản thế giới »
(tr. 698).
Tóm
tắt : Nói cách nào chăng nữa để mô tả mức độ
tập trung của tư bản : 1% số
dân thế giới sở hữu
50% tài sản toàn cầu, hay Tài
sản của 1% giàu nhất tổng
cộng lên tới 110 tỉ tỉ (trillion) đô-la, tức là 65% tài sản
của nửa giàu nhất trong loài người, hay Nửa nghèo nhất
của nhân loại, của nả của họ cộng lại mới bằng
tài sản của 85 người giàu nhất thế gian, thì phản ứng
duy nhất chỉ có thể là : kinh ngạc. Của đáng tội,
đối với một nửa tay trắng của nhân loại, « khái
niệm tài sản và tư bản là một khái niệm tương đối
trừu tượng. (Đối với họ), gia
sản vỏn vẹn là vài
tuần lương ứng trước – hay chậm trả -- trên cuốn sổ
séc trong tài khoản ngân hàng, hay sổ tiết kiệm A xơ
xác, cái xe hơi hay mấy cái bàn ghế trong nhà. Cái hiện
thực sâu xa ấy – tài sản tập trung cao độ, tới mức
mà đại bộ phận xã hội không biết ngay tới sự tồn
tại của nó, đôi khi còn mường tượng rằng đó là của
những thực thể huyền thoại hay những của những nhân
vật hư ảo – càng cho thấy sự cần thiết phải nghiên
cứu tường tận tư bản và sự phân bố của nó » (tr.
407)
2.2 – Bất bình đẳng trong thu nhập :
Trong
các lực phân kỳ, ta đã thấy có bất đẳng thức r >
g, thể hiện động lực của sự tích lũy tư bản. Nó
đòi hỏi phải nghiên cứu sự bất bình đẳng không
những về tài sản, mà cả về thu nhập. Kể từ thập
niên 1980 và cuộc « cách mạng bảo thủ » của
Reagan & Thatcher, hầu như cuộc tranh luận nào về bất
bình đẳng cũng xoáy quanh (để tán thành hay phản đối)
lập luận « trickle down »
(chảy ròng từ trên
xuống dưới), một cách diễn giải Lý thuyết về Công
lý của John Rawls (1971) : bất bình đẳng tăng lên
thực ra không có gì đáng chê trách nếu như sự tập
trung của cải rốt cuộc tạo ra được một động lực
có lợi cho toàn bộ xã hội thông qua việc tạo ra những
doanh nghiệp mới, công nghiệp mới, của cải mới. Người
ta minh họa bằng hình ảnh của cải như dòng suối chảy
từ đỉnh tháp xuống chân tháp. Ở các nước Anh-Mỹ,
người ta ưa dùng một hình ảnh « nước đẩy thuyền
lên » rất ư là Nguyễn Trãi : « Tăng trưởng
là làn sóng thủy triều đẩy mọi con thuyền lên cao »
(Growth is a rising tide that lifts all boats). Cũng nên nhắc lại
lập luận này chỉ là phóng tác kiểu « tân tự do »
của một lý thuyết dựa trên « đường cong Kuznets »
(1955) dùng để tiên đoán rằng sự bất bình đẳng về
thu nhập sẽ « tự nhiên » giảm bớt đi khi bước
vào những thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển (bất
luận chính sách nào được chọn hay đặc điểm riêng
của mỗi nước) để rồi cuối cùng sẽ bình ổn ở một
mức chấp nhận được. Kuznets căn cứ vào một công
trình thống kê chi ly, lập ra những chuỗi số liệu về
phân bố thu nhập ở Hoa Kỳ trong thời gian 35 năm
(1913-1948) để tính toán diễn biến thu nhập của những
tầng lớp phần trăm và phần mười giàu nhất. Kuznets đã
phát hiện ra điều gì ? Thu nhập của tầng lớp này
đã tụt hẳn xuống trong thời gian 35 năm đó, « tụt
xuống hơn 10 điểm bách phân của thu nhập quốc gia, tức
là rất nhiều, tương đương với thu nhập của toàn bộ
50% người Mỹ nghèo nhất » (tr. 33). Piketty nhận
xét : Kuznets thừa biết rằng sự giảm cách biệt này
không phải ngẫu nhiên mà có (hai cuộc thế chiến, đại
khủng hoảng kinh tế, chính sách thuế má mang tính « tịch
thu » của Roosevelt, thuế suất lên tới 94% đánh vào
những thu nhập cao nhất), nhưng vì những lý do thuần túy
ý thức hệ (đọc tình tiết trong các trang 34-37), Kuznets
đã làm ngơ, để mặc cho lan truyền « lý thuyết
đường cong Kuznets », theo đó « trong quá trình
công nghiệp hóa và phát triển kinh tế, các bất bình
đẳng ở nơi nào cũng thế, sẽ đi theo một « đường
biểu diễn hình chuông », nghĩa là lúc đầu thì tăng
lên, rồi sau đó giảm xuống ». Nhưng khi người ta
áp dụng chính những phương pháp mà Kuznets sử dụng,
nhưng mở rộng quy mô không gian và thời gian, thì lại
được « đường cong Piketty thứ nhì » mô tả
diễn biến tỉ suất thu nhập của phần mười giàu nhất,
phô bày ra một thực tại ngược lại hẳn ! Đó là :
không hề có một quy trình có tính « cấu trúc »
nào của sự giảm bớt bất bình đẳng, đặc biệt ở
nước Mỹ vẫn tự vỗ ngực mình là xứ sở của « giai
cấp trung lưu », sang đầu thế kỷ XXI này, đã trở
thành quốc gia bất bình đẳng nhất thế giới.
(Về mặt phương pháp luận, cuộc tranh luận này khiến
ta liên tưởng tới cuộc tranh luận ở phần trên, về tỉ
suất lợi nhuận có xu hướng giảm).
Biểu đồ I.1 Bất bình đẳng trong thu nhập ở Hoa Kỳ, 1910-2010
Cách
đọc : Tỉ lệ trong thu nhập toàn quốc của phần
mười giàu nhất Mỹ, trong những năm 1910-1920 chiếm
45-50%, sang thập niên 1950, đã xuống dưới mức 35% (đó
là những đo lường của chính Kuznets) ; sau đó từ
thập niên 1970 sang những năm 2000-2010, nó đi từ dưới
mức 35% lên 45-50% (Nguồn : piketty.pse.ens.fr/fr/capital21c)
« Đường
cong đi lên rất ấn tượng, tự nhiên là ta tự hỏi nó
sẽ leo lên tới đâu : nếu cứ theo nhịp độ này,
thì phần bách phân của phần mười giàu nhất, đến năm
2030, sẽ chiếm hơn 60% thu nhập quốc gia » (tr.464).
Đến
đây, có lẽ không thừa nếu cung cấp cho bạn đọc một
ý niệm cụ thể về mức độ thu nhập trung bình (từ
đó, muốn tính ra tài sản bình quân, chỉ cần nhân lên
với hệ số
β
) và
trung vị. Đầu thập niên 2010, thu nhập
trung bình ở các nước phát triển là vào khoảng
2 500 €/tháng, còn thu nhập trung vị *
thấp hơn khoảng 20%-30%, tức là khoảng 1 800 €/tháng.
Để thấy được sự chênh lệch, thì khái niệm trung vị
có ý nghĩa hơn khái niệm trung bình. Bạn hãy tưởng
tượng một ngày đẹp trời bạn đi cùng chuyến bay với
Bill Gates. Và ngồi tính thu nhập trung bình của hành khách
trong chuyến bay ấy, thì bạn sẽ rất phấn khởi khi thấy
« thu nhập » của mình bỗng được nhân lên gấp
ít nhất một triệu lần !
Nhìn
vào bậc thang thu nhập theo cả hai chiều, ta hãy ghi nhận
Eurostat định nghĩa ngưỡng nghèo khó ở mức 60% thu nhập
trung vị ; tại Pháp, viện thống kê INSEE định nghĩa
« người thu nhập cao » là phần mười giàu nhất
trong các bảng của Piketty (mức thu nhập thấp nhất của
những người này ở vào khoảng gấp đôi thu nhập trung
vị, nghĩa là cũng không có gì ghê gớm). Nhưng đó là
nhìn thống kê bằng kính lúp. Phải dùng kính hiển vi mới
có thể mổ xẻ bên trong tầng lớp phần mười, bởi vì
« ta không thể tiếp cận sự giàu
sang thực thụ
bằng cách leo từng bậc thang đều đặn, bởi vì ở phần
trên cùng của cái thang, không còn sự liên tục nữa »
([P], tr.29). Trong các bảng và biểu đồ, Piketty chia phần
mười trên cùng làm ba nhóm : 5% thấp nhất, 4% trên
đó, và 1% trên cùng (tại Hoa Kỳ, thu nhập trung bình tính
theo « hộ đóng thuế » của những người thuộc
phần trăm trên cùng này là 1,5 triệu USD). Đo bằng cách
này, ta mới hiểu rõ hơn quy mô sự chuyển dịch thu nhập
quốc gia Mỹ – khoảng 15 % tổng thu nhập quốc gia –
diễn ra giữa 90% là những người nghèo nhất và 10% là
những người giàu nhất từ thập niên 1970 trở đi. Cụ
thể là, nếu ta tính tổng cộng sự tăng trưởng của
nền kinh tế Mỹ trong suốt 30 năm trước cuộc khủng
hoảng tín dụng dưới chuẩn « subprime »
(tức
là từ 1977 đến 2007), sẽ thấy 10% giàu nhất thôn tính
75% tăng trưởng ; và nhìn soi mói hơn nữa : nhóm
5% ở « dưới » chiếm từ 5 đến 6% ; nhóm
4% ở giữa chiếm khoảng 16%, còn một mình 1% « top »
xơi gần 60% ; kết quả là tỉ suất tăng trưởng của
thu nhập trung bình ở vào khoảng 0,5% mỗi năm cho nhóm
90% dân số còn lại (tr. 469). Nói như Serge Halimi (nguyệt
san Le Monde Diplomatique),
đúng là thủy triều lên cao, nước
đã dâng thuyền, nhưng trước hết là các du thuyền hạng
sang.
Cảnh sát đứng canh tượng con bò tót khi phong trào « Chiếm phố Wall »
tuần hành gần đó ngày 17 tháng 11-2011 ở New York. Ảnh Getty Images.
Sự
« đăng quang » của phần trăm thượng đỉnh tự
nhiên là một hiện tượng có tính chất toàn cầu. « Tuy
thoạt trông có vè hơi trừu tượng, nhưng hiện tượng
này chiếu rọi vào những diễn biến ngoạn mục của
những sự bất bình đẳng, vào những hiện thực kỳ
thú, qua đó nó mang lại một cách đọc khá bổ ích về
xã hội, trong bối cảnh những cuộc vận động xã hội
– chính trị lớn [như phong trào Occupy Wall Street, xem
hình trên], phát huy từ những khẩu
hiệu tiên thiên khá
bất ngờ (« We are the 99% » / Chúng tôi là bọn
99%), nhưng cuối cùng không khỏi làm
người ta nhớ tới
tinh thần bài bút chiến của tu sĩ Sieyès công bố hồi
tháng giêng năm 1789 : « ‘Tiers état’ [đẳng cấp
thứ ba trong xã hội Pháp trước cách mạng] là gì ?
Là tất cả. Cho đến nay, như về mặt chính trị, nó là
gì ? Chẳng là gì cả. Nó đòi hỏi cái gì ?
Nó muốn trở thành cái gì đó trong đời sống chính
trị » (p.399).
Phân tích cái phần mười bên trên một cách tế vi sẽ cho ta những bài học bổ ích về sự phân chia lao động – tư bản, trong chừng mực mà nó làm hiện hình « hai thế giới rất khác nhau, một bên là 9% vẫn chịu sự chi phối của thu nhập lao động, và bên kia là 1% tột đỉnh, là thành phần mà thu nhập tư bản lấn át dần thu nhập lao động. Mọi sự chuyển tiếp đều diễn ra một cách tuần tự, ranh giới phân chia đầy lỗ trống để sự thẩm thấu có thể diễn ra, nhưng khác biệt thì rất rõ ràng và có tính hệ thống (…). Sự phân bố 80%-20% giữa lao động và tư bản tương đối tiêu biểu cho cơ cấu thu nhập của nhóm 9% (…). Ngược lại, trong nội bộ nhóm 1%, thu nhập từ lao động dần dần trở thành thu nhập thứ yếu, thu nhập từ tư bản dần dần trở thành thu nhập chủ yếu » (tr. 442).
Phân tích cái phần mười bên trên một cách tế vi sẽ cho ta những bài học bổ ích về sự phân chia lao động – tư bản, trong chừng mực mà nó làm hiện hình « hai thế giới rất khác nhau, một bên là 9% vẫn chịu sự chi phối của thu nhập lao động, và bên kia là 1% tột đỉnh, là thành phần mà thu nhập tư bản lấn át dần thu nhập lao động. Mọi sự chuyển tiếp đều diễn ra một cách tuần tự, ranh giới phân chia đầy lỗ trống để sự thẩm thấu có thể diễn ra, nhưng khác biệt thì rất rõ ràng và có tính hệ thống (…). Sự phân bố 80%-20% giữa lao động và tư bản tương đối tiêu biểu cho cơ cấu thu nhập của nhóm 9% (…). Ngược lại, trong nội bộ nhóm 1%, thu nhập từ lao động dần dần trở thành thu nhập thứ yếu, thu nhập từ tư bản dần dần trở thành thu nhập chủ yếu » (tr. 442).
Cũng
như trong trường hợp các tài sản, chúng ta hãy dành vài
câu cho phần nghìn (tức là 0,1%) có thu nhập cao nhất,
cũng là khu vực mà thu nhập tăng mạnh nhất. Ở Châu Âu
lục địa và ở Nhật chẳng hạn, trong mấy thập niên
gần đây, thu nhập của số phần nghìn này đã tăng gần
gấp đôi, từ 1,5% lên tới 2,5%. Nhưng ở Hoa Kỳ, là cả
một sự bùng nổ : từ 2% lên 10% (cùng thời kỳ). Để
bạn đọc cảm nhận rõ nét hơn, xin nhắc lại là 2% (hay
10%) thu nhập quốc gia dành cho 0,1% dân số có nghĩa là :
thu nhập của mỗi người trong nhóm này có thu nhập gấp
20 lần (hay 100 lần) thu nhập trung bình. Và để cho con số
« hiển ngôn » hơn nữa, có thể nói ở Pháp,
mỗi người trong nhóm này mỗi tháng thu nhập gấp 50 lần
SMIC (mức lương tối thiểu), và hàng năm, thu nhập của
người ấy lớn hơn thu nhập cả đời lao động của một
người ăn lương SMIC. Nếu tính theo tình hình bên Mỹ,
lương tối thiểu theo quy định của chính phủ liên bang
bằng khoảng một phần ba SMIC Pháp, thì thu nhập một năm
của 0,1% Mỹ bằng 12 đời ky cóp của cháu, con, cha, ông,
cụ, kỵ…. Mỹ ăn lương tối thiểu.
Tóm
tắt : Tuy không lớn bằng bất bình đẳng về tài
sản, nhưng bất bình đẳng trong thu nhập (nhất là sự
« đứt phanh » của phần trăm phần nghìn thu
nhập cao nhất) hàm chứa một cơ chế mạnh mẽ, kết hợp
với khoảng cách (r – g), sẽ đẩy mạnh sự
phân kỳ trong phân phối tài nguyên. Ta có những lí do
chính đáng để nghi vấn về sự bền lâu của một xã
hội, một nền kinh tế bị chi phối bởi những lực li
khai như thế.
Javier Jaén “ Phân kỳ “
3 – Bất bình đẳng, « tài năng trị », và tập đoàn « thiểu trị »
« Tự
do, bình đẳng, bác ái » là tiêu ngữ của nền cộng
hòa, nhưng ngày nay, trong ba giá trị ấy, « bình
đẳng » (trong đó có bình đẳng về các quyền) xem
ra là giá trị hơi bị hẩm hiu. Lôgic nào về bình đẳng
và về các quyền cho phép chúng ta khẳng định như vậy ?
Điều thứ nhất trong Tuyên ngôn Quyền
con người và công
dân năm 1789 nói « người ta sinh ra và sống tự do và
bình quyền » rồi nói thêm ngay (Piketty đã trích dẫn
ở đầu cuốn sách) : « Những
sự phân biệt
trong xã hội chỉ có thể dựa trên sự công ích ».
Câu hỏi đặt ra, thế nào là « công ích ». Các
nhà soạn thảo Tuyên ngôn 1789 chú tâm trước hết vào
việc bãi bỏ những đẳng cấp và đặc quyền của Chế
độ Quân chủ, nhưng ta có thể mở rộng diễn giải ý
định của họ như thế này « mở
rộng trong phạm
vi có thể các quyền cơ bản và lợi ích vật chất tới
mọi người, làm sao có lợi cho những người có ít quyền
hơn và phải đối diện với những cơ hội không rộng
rãi bằng người khác » (tr. 768). Nhưng ngay như vậy,
bài toán cũng chưa được giải quyết, ở cả hai « đầu »
của vấn đề. Ở đầu này, thí dụ như « nguyên
tắc khác biệt » mà John Rawls đưa ra trong A Theory of
Justice (cuốn sách đã bị lợi dụng để đưa ra chuyện
« nước chảy ròng xuống » trickle
down) :
nguyên tắc này cũng tương tợ về công bằng xã hội.
Nhưng ở « đầu » kia, quan niệm « tài năng
trị » (méritocratie :
quyền cai trị dành cho những
người có tài năng « xứng đáng ») cũng giống
như « chủ nghĩa ưu tú» (élitisme).
Thí dụ điển
hình là bản « sự vụ lệnh » năm 1872 mà Emile
Boutmy, nhà sáng lập « Sciences-Po », trao cho trường
chính trị học này : « Những
giai cấp tự nhận
là « giai cấp thanh cao », vì buộc phải quy phục
quyền hành của số đông, chỉ có thể duy trì được bá
quyền chính trị của mình bằng cách viện dẫn cái quyền
của « người có tài năng nhất » ; làn sóng
dân chủ, sau khi đã tràn qua vòng tường thành xập xệ
của đặc quyền và truyền thống, nay vấp phải thành
lũy thứ nhì làm bằng những tài năng sáng chói, ưu việt
và hữu ích, có điên rồ mới không chịu trọng dụng » ;
nói khác đi, « chính vì bản năng
sinh tồn mà các
giai cấp bên trên đã từ bỏ sự nhàn hạ, ăn không ngồi
rồi mà bày ra câu chuyện « tài năng trị »,
quyền bính về tay những phần tử ưu tú, để chế độ
phổ thông đầu phiếu không truất hết quyền lợi của
họ » (tr. 782). Đây không phải chỗ để đi sâu vào
cuộc tranh luận lý thuyết về các quan niệm khác nhau về
công bằng xã hội (xem chẳng hạn [AE], trang 70 và tiếp
theo), dưới đây chúng tôi chỉ nêu ra những luận điểm
thực chứng để phản bác thuyết « nước chảy ròng
xuống ».
3.1 – Cái « được thua » về kinh tế :
Để
trả lời câu hỏi then chốt mà những người thuộc
trường phái « tân tự do » thường nêu ra :
« Sự bình đẳng, hay lắm, nhưng
liệu nó đem lại
được mấy điểm bách phân cho sự tăng trưởng ? »
ta có thể đốp chát bằng câu hỏi ngược lại, cũng rất
hữu lý : « Bất bình đẳng làm mất đi
bao nhiêu điểm
bách phân cho sự tăng trưởng ? »
-
Trên biểu đồ I.1 (bất bình đẳng về thu nhập ở Hoa
Kỳ), ta thấy có hai đỉnh cao tuyệt đối ở thời điểm
1928 và 2007, tức là chiều hôm trước của cuộc Đại
khủng hoảng 1929 và của cuộc Khủng hoảng subprimes năm
2008. Không thể không đặt ra câu hỏi : phải chăng
bất bình đẳng là nguyên nhân (tất nhiên không phải là
nguyên nhân duy nhất) đã gây ra khủng hoảng ? Bất
luận thế nào, « không nghi ngờ
gĩ nữa, bất bình
đẳng tăng lên đã góp phần làm suy yếu hệ thống tài
chính Mỹ. Hậu quả của nó là sức mua của các giai cấp
bình dân và trung lưu hầu như bị khựng lại, tất nhiên
làm tăng xu hướng mang thêm nợ ở các hộ gia đình không
dư dả ; nhất là trong khi đó các ngân hàng và các
trung gian tài chính không mấy lương thiện lại mời chào
những tín dụng ngày càng dễ dàng, không còn những ràng
buộc chặt chẽ và quy định hóa, mục đích là kiếm
được lợi tức cao cho khối lượng tiết kiệm khổng lồ
mà các giai cấp khá giả đã bơm vào hệ thống »
(tr. 469).
Dầu
sao chăng nữa, cuộc Đại suy thoái 2008 (như ngày nay người
ta thường gọi) đã làm tăng những bất bình đẳng :
các ngân hàng đã tạo ra cuộc khủng hoảng toàn cầu thì
được hỗ trợ hàng tỉ đô-la, còn các nạn nhân của
họ thì nhận được tí chút gọi là ; hai ba năm sau
(xem biểu đổ I.1 để thấy đường cong tiếp tục đi
lên) các ngân hàng đều bình phục, còn nạn nhân của họ
thì mất sạch sành sanh hay bị trục xuất khỏi nhà.
-
Trong mục “The Great Divide” mà ông đảm nhiệm trên báo
New York Times, giải Nobel
kinh tế học Joseph Stiglitz nói tới
« những câu chuyện đau lòng và
nỗi ẩn ức của
những người trẻ tìm cách hội nhập vào giai cấp trung
lưu đang teo dần. Học phí tăng, thu nhập giảm, nên nợ
nần thêm nặng. Những người chỉ tốt nghiệp trung học,
thì thu nhập của họ trong 35 qua đã giảm đi 15% »
(xem [St]). Những câu chuyện như vậy được xác nhận
trong công trình của những nhà nghiên cứu như Goldin và
Katz. Họ đã « đối chiếu một cách
có hệ thống
sự diễn biến trong thời gian từ 1890 đến 2005 của :
một mặt là độ chênh lệch lương bổng giữa những
người tốt nghiệp đại học và những người học xong
trung học thì đi làm ; mặt khác, nhịp độ tăng
trưởng của số người tốt nghiệp đại học. Kết luận
là không thể tranh cãi : hai đường biểu diễn đi
ngược nhau. Cụ thể, chênh lệch lương giảm đều đặn
cho đến thập niên 1970, sang đến thập niên 1980 [chính
quyền Reagan] thì tăng lên trở lại,
đúng vào thời điểm
mà số người tốt nghiệp đại học, lần đầu tiên,
bắt đầu khựng lại, hay ít nhất cũng tăng chậm hơn
trước. Đối với hai nhà nghiên cứu này, không thể nghi
ngờ gì nữa : sự gia tăng những chênh lệch về
lương bổng phát sinh từ việc Hoa Kỳ đầu tư không đủ
và giáo dục đại học, nói chính xác hơn, đặc biệt là
vì học phí quá cao đối với các gia đình » (tr.
485). Tình trạng bất bình đẳng đã tới mức, chỉ cần
nhìn vào thu nhập của một gia đình, xem họ thuộc phần
mười, phần trăm nào trong bậc thang thu nhập, là biết
ngay con cái của họ có thể vào đại học hay không. Thế
mà, ta đã chẳng thấy ở trên (phần 1.2), một trong những
nhân tố quyết định của sự tăng trưởng, chính là đầu
tư vào giáo dục và đào tạo ?
-
Cũng trong loạt bài này, Stiglitz tố cáo sự làm giàu của
giới y tế (công nghiệp dược phẩm, bác sĩ, công ti bảo
hiểm) trong khi mà khoản trợ cấp y tế cho người nghèo
khó (Medicaid) bị cắt xén, còn
chương trình Obamacare tuy
đã bị khoét ruột vẫn sa lầy trong trò cù nhầy đủ
loại. « Thực ra, nếu tính cả phỉ
tổn bảo hiểm
tư, thì hệ thống bảo hộ sức khỏe Mỹ là hệ thống
tốn kém nhất thế giới (chiếm
gần 20% thu nhập quốc
gia, còn ở Châu Ẩu chỉ ở khoảng 10%-12%), trong khi một
bộ phận lớn trong dân chúng lại không được bảo hộ,
và các chỉ số y tế xem ra lại thua kém Châu Âu »
(tr. 762). Thử hỏi mất đi bao nhiêu điểm đối với một
nền kinh tế muốn có sức cạnh tranh cao ?
-
Hiệu ứng ngược của « sự phân kỳ Piketty »,
như đã nói, là di sản thừa hưởng từ quá khứ lại
tái tư bản hóa nhanh hơn là tiến độ của sản xuất và
lương bổng ; thêm vào cơ chế ấy là sự bất bình
đẳng về lợi tức (vốn ban đầu càng to thì lợi tức
càng lớn), nên đáng ngại là « quá
khứ nuốt chửng
tương lai » (tr. 942), nghĩa là, trong khuôn khổ thảo
luận ở đây, xã hội của nhà doanh nghiệp biến thành,
từng bước và không gì ngăn cản nổi, xã hội của
những người thực lợi (rentiers)
ngồi ăn tô tức
(theo nghĩa thế kỷ XIX) và của những con ông cháu cha.
« Ta hãy xem một thí dụ rõ ràng,
ở trên tận cùng
của bậc thang tư bản thế giới. Từ 1990 đến 2010, gia
tài của Bill Gates – nhà sáng lập Microsoft, đại gia số
1 về hệ điều hành tin học, hiện thân của sự làm
giầu bằng kinh doanh, số 1 trên bảng xếp hạng của tạp
chí Forbes – từ 4 tỉ đô la
lên tới 50 tỉ đô la. Trong
khi đó, gia sản của bà Liliane Bettencourt – người thừa
hưởng công ti Oréal, đứng đầu các công ti mĩ phẩm, mà
người sáng lập là thân sinh của bà, Eugène Schueller, nhà
phát minh thiên tài năm 1907 đã chế ra những thứ thuốc
nhuộm tóc – từ 2 tỉ đô la đã lên tới 25 tỉ đô la
(vẫn theo Forbes). Trong cả
hai trường hợp, tiến độ
tăng trưởng di sản của họ là 13% mỗi năm – hiệu
suất thực thụ là 10%-11% nếu ta trừ đi lạm phát. Nói
khác đi, bà Liliane Bettencourt chưa bao giờ lao động, nhưng
chẳng sao, gia tài của bà vẫn tăng cùng tốc độ với
gia tài của Bill Gates, nhà phát minh, mà gia tài của ông
này, từ khi ông ngừng tác nghiệp đến giờ, vẫn tiếp
tục tăng trưởng nhanh như trước (…). Lại xem trường
hợp của Steve Jobs, hiện thân một doanh nhân dễ mến và
xứng đáng có một gia tài to lớn : khi công ti Apple
lên tới đỉnh cao của quang vinh và của thị trường
chứng khoán, thì gia tài của S. Jobs chỉ tròm trèm 8 tỉ
đô la, tức là nhỏ gấp 6 lần gia tài của ông chủ
Microsoft (mà theo các nhà quan sát, S. Jobs sáng tạo hơn B.
Gates rất nhiều), và nhỏ gấp 3 lần gia tài của bà
Bettencourt (bà này nổi tiếng nhất là vì những món quà
mà bà đã ban phát cho đám nịnh thần và lợi dụng, theo
những tiết lộ trong « vụ Bettencourt ») »
(tr. 703). Khi Mervyn King, tống đốc Ngân hàng Vương quốc
Anh, biện minh cho sự giàu có của người giàu bằng may
mắn, học vấn và tài năng, thì rõ ràng ông ta chưa đọc
cuốn sách của Piketty cho đến trang chót. Thậm chí không
biết nhà tài chính vĩ đại này có hiểu gì về khái
niệm « nợ xã hội »
mà triết gia Léon Bourgeois
(thế kỷ XIX) đã trình bày. Nợ xã hội, là toàn bộ sự
vật vật thể và trí tuệ mà mỗi cá nhân sống trong một
xã hội có thể (phải) sử dụng : nền nông nghiệp
nuôi sống anh ta, nhà cửa cho anh ta nương náu, trường
học dạy dỗ anh ta, y tế chăm lo sức khỏe, tri thức
khoa học và triết học đưa anh ta lên khỏi trình độ
của thiên nhiên hoang dã. Những điều kể trên không phải
là lý thuyết, mà là thực tiễn của sự tập luyện và
tiến bộ. Ngay từ lúc chào đời, mỗi con người xã hội
vô hình trung đã đứng trên vai những người khổng lồ
tiền bối, nói theo hình ảnh của Newton. Cá nhân như thế,
doanh nghiệp cũng vậy : sự phát triển kinh tế, dù
đứng ở quan điểm « tự do chủ nghĩa » chăng
nữa, không xuất phát từ hư vô, mà dựa trên những cơ
sở hạ tầng xã hội của một Quốc gia, cung cấp vốn
con người (giáo dục, y tế) và những định chế (thị
trường có tổ chức, Nhà nước pháp quyền), không có
những thứ đó thì tư bản chỉ là một đống tiền nằm
ngủ. Thử hỏi những « tài năng » mà thống đốc
Kings ca ngợi có thể làm nên cơm cháo gì ở một nơi khỉ
ho cò gáy thiếu vắng mọi cơ sở và định chế, thí dụ
như vùng Laponie. Tóm lại, không ai sống trong xã hội,
không một doanh nghiệp hoạt động trong xã hội lại có
thể nói mình không dính dấp gì với những quan hệ tương
tác giữa con người với nhau cả. Thế mà trong sự tôn
sùng tài cán và thành đạt của trường phái « tân
tự do », lại ẩn tàng ý tưởng giải trừ mọi quan
hệ liên đới.
-
Thuế má là một vấn đề cộng tồn với tô tức và
thừa kế. Trong cái lôgic của « nước chảy ròng xuống »,
sự tái phân phối được tiến hành một cách tự nhiên
theo luật chơi của tiêu thụ và đầu tư của tư nhân,
và những người thụ hưởng những thu nhập cao không hề
chiếm đoạt của cải làm tổn hại những người thu
nhập thấp, họ chỉ thực hiện việc phân chia chúng mà
không có sự can thiệp của Nhà nước. Trong viễn tượng
ấy, việc có thể giảm thuế (kể cả đối với những
người dư dả nhất) có thể giảm bớt mà không ảnh
hưởng thực sự gì tới sự tái phân phối của cải cho
số đông người dân. Có cả những mô hình lý thuyết u
minh được giới thiệu là chúng « chứng minh »
tại sao phải miễn thuế, thậm chí trợ cấp cho người
giàu – trong phần phụ lục công bố trên mạng, Piketty
đã đưa danh sách một vài « mô hình » ấy.
Nhưng thực ra, nói theo cách diễn tả của Joseph Stiglitz,
« nước chảy ròng » chưa xuống tới dưới thì
đã « bốc hơi » sang đảo Caïman và các « thiên
đường trốn thuế » mất rồi. Ta có thể nhận thức
được quy mô của hiện tượng này khi thấy cán cân toàn
cầu về tài sản có và tài sản nợ bao giờ cũng chênh
lệch một cách hệ thống, tưởng như bình quân hành tinh
Trái Đất do Hỏa tinh nắm giữ, như Piketty nói mỉa mai.
Piketty đưa ra thí dụ cuộc khủng hoảng năm 2013 ở đảo
Chypre, trong đó « các nhà đương
cuộc châu Âu cũng
như Quỹ tiền tệ IMF thực sự không hề biết những ai
là người nắm giữ các tích sản tài chính ở Chypre,
nhất là con số chính xác về tài sản của từng người,
vì vậy mà họ đã triển khai những giải pháp thô thiển
và vô hiệu (…) Đòi lèo lái
hiệu quả một cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới kinh qua một đám sương mù
thống kê như vậy thì quả là không nghiêm chỉnh cho
lắm » (tr. 842). Như thế đã mất đi bao nhiêu điểm
bách phân cho sự tăng trưởng vì những thiên đường
trốn thuế mà năm 2008, Nicolas Sarkozy đã oai phong lẫm
liệt, tuyên bố là « từ nay đã chấm dứt » ?
Gabriel Zucman, một trong những người cùng viết những bài
nghiên cứu với Thomas Piketty, ước tính tổng số những
tích sản tài chính ẩn náu ở các thiên đường trốn
thuế vào khoảng giữa 4600 và 6400 tỉ €, nghĩa là trốn
được khoảng 130 tỉ € tiền thuế trên toàn thế giới.
Đối với Liên hiện Châu Âu, thì Ủy ban Châu Âu ước
tính mất 1000 tỉ € do trốn thuế, tham nhũng và rửa
tiền.
3.2 – Cái được-mất về mặt dân chủ :
Theo Piketty, rất khó đối phó với sự li khai chính trị của các tài sản lớn (thực sự đã bắt đầu) vì nó có xu hướng xóa nhòa khái niệm quốc tịch, do đó, muốn ngăn chặn nó, phải có sự phối hợp quốc tế chặt chẽ giữa những quốc gia vốn quen thói cạnh tranh với nhau (tr. 743). Nhưng sự li khai về tài sản còn chứa đựng một nguy cơ to lớn hơn nhiều đối với nền dân chủ : sự phân kỳ theo loại hình tập đoàn thiểu trị (divergence de type oligarchique), nghĩa là, « một quá trình khiến cho các nước giàu trở thành sở hữu của các tỉ phú, hay đúng hơn, các nước nói chung – kể cả Trung Quốc và các nước dầu mỏ, tất nhiên – bị tỉ phú và đủ thứ đa triệu phú trên thế giới chiếm hữu đại trà » (tr. 741). Chuyện chính trị - dự tưởng chăng ? Cần thấy là một số gia tài lớn nhất (xem biểu đồ) hiện nay đã tương đương với thu nhập của một nước nhỏ ; nhưng quan trọng hơn nữa, phần nghìn (0,1%) cao nhất gồm 4,5 triệu người lớn (nửa triệu ở Pháp ; 2,6 triệu ở Hoa Kỳ), « một số dân đủ đông để cấu trúc nên cảnh quan xã hội và trật tự chính trị, kinh tế toàn cục » (tr. 398).
Biểu đồ 12.3 : Phần sở hữu của những thiểu số có tư sản lớn nhất thế giới, 1987-2013.
Diễn
giải : Từ năm 1987 đến năm 2013, tỉ suất tài sản
của 20/1000000 (hai mươi phần triệu) người giàu nhất,
từ 0,3% đã lên tới 0,9% tổng tài sản thế giới ;
của 100/1000000 (trăm phần triệu) người giàu nhất, từ
0,1% đã lên tới 0,4% tổng tài sản thế giới.
Nguồn ;
piketty.pse.ens.fr/fr/capital21c
CHÚ DẪN : SỰ TẬP TRUNG QUYỀN LỰC KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ GIẢI THÍCH
CHỦ YẾU TẠI SAO BẤT BÌNH ĐẲNG NGÀY CÀNG TĂNG Ở HOA KỲ
3.3 – Điều tiết tư bản :
Một
vài nhà bình luận (như Allègre và Timbeau) nghĩ rằng khi
ông « mô tả một xã hội thực lợi
(ngồi mát ăn
bát vàng) chiếm đóng nền tảng của dân chủ, lèo lái
pháp luật và cơ quan hành chính phục vụ cho quyền lợi
riêng, vơ vét bất cứ cái gì có thể vơ vét được, đẩy
chúng ta tiến tới một cuộc bùng nổ xã hội » thì
Piketty đã phơi bày tâm trạng bi quan cố hữu ([AE],
tr.66). Dường như Piketty muốn phản bác ngay từ trước
những lời buộc tội như vậy, ông đã dành phần thứ
tư cũng là phần cuối tác phẩm để đưa ra một số đề
nghị nhằm điều tiết tư bản thế kỷ XXI. Không biết
tác giả tin tưởng tới đâu, dưới đây chúng tôi sẽ
tập trung nói về dự án « hải đăng » của ông
về thuế lũy tiến đánh vào tư bản trên phạm vi toàn
cầu nhằm bảo vệ các xã hội dân chủ chống lại xu
thế li khai của các phần tử siêu-phú (đây cũng là đề
nghị của Piketty bị công kích dữ dội nhất).
Tuy
nhiệt tình chủ trương áp dụng thuế lũy tiến trên thu
nhập, Piketty cũng không đề nghị tăng thuế suất cho
những thu nhập quá cao. Ở Pháp chẳng hạn, thuế thu nhập
mãi đến tháng bảy 1914 mới ban hành, nhằm ủng hộ nỗ
lực chiến tranh, nhưng thuế suất đánh vào thu nhập cao
nhất cũng không quá 2% ; sau chiến tranh, nó tăng lên
nhiều, năm 1920 là 50%, năm 1925 lên 72% ; từ 1940 đến
những năm 1980, nó ở mức 50% (trong khi ở Đức lên tới
70%). Lưu ý là dưới thời tổng thống Hollande, dự án
thuế suất 75% đã bị Hội đồng bảo hiến phán định
là « có tính chất tịch thu ». Tại Hoa Kỳ,
thì thuế suất này từ 8% trước chiến tranh 14-18, sau
chiến tranh lên 77%. Ngay trước cuộc khủng hoảng tháng
mười 1929, thuế suất cho thu nhập cao được tổng thống
Hoover hạ xuống còn 25%. Đến năm 1933, ngay năm đầu của
nhiệm kỳ tổng thống, Roosevelt đưa lên 63%, rồi cứ
tăng dần, năm 1944 lên đến 94%. Thuế suất cao này được
duy trì ở mức 90% cho đến giữa thập niên 1960 ; và
cho đến giữa thập niên 1970, nó vẫn giữ ở mức 80%.
Năm 1972, khi ra tranh cử tổng thống, thượng nghị sĩ dân
chủ McGovern đề nghị đưa thuế suất này lên hẳn 100%,
nhưng người thắng cử là Nixon : thuế này giảm dần,
sang đầu thập niên 1980 còn 70%, thì Reagan hạ xuống 60%.
Cuối thập niên 1980 còn 40%, sang triều đại G. W. Bush
35%. Điểm lại diễn trình này, có thể rút ra mấy điều :
-
trái
với thành kiến của nhiều người, « thuế tịch thu » là do chính
người Mỹ đặt ra và áp dụng ở mức cao (hay rất cao) từ năm 1930 đến
1980, mà nền kinh tế Mỹ xem ra vẫn « phây phây ».
-
việc
giảm hẳn thuế suất đối với thu nhập cao từ thập niên 1980 trở đi đã dẫn
tới tăng vọt lương bổng của lãnh đạo cao cấp của các doanh nghiệp và tỉ
suất tài sản của 1% dân số giàu nhất (xem 2-2).
-
một
thông tin nữa : trong những năm chiếm đóng Đức và Nhật sau Thế
chiến lần thứ hai (1946-48), Mỹ đã buộc hai nước này đưa thuế suất cho
thu nhập cao lên trên mức 90%, với chủ ý là thuế lũy tiến gắn liền với
sự kiến lập một chính thể dân chủ. Không xa ý kiến của Piketty !
Kết
luận của Piketty : muốn có kết quả thực chất,
phải đặt mức thuế suất rất cao (hơn 80%) đối với
những phần thu nhập trên mức nửa triệu hay một triệu
đô la ; 50 hay 60% đối với phần thu nhập ở trên
mức 200.000 USD. Vì vậy, Piketty chủ trương đánh thuế
năm trên tư bản (chứ không đánh trên thu nhập của tư
bản), áp dụng một cách thường trực, với một tỉ
suất do đó vừa phải. Ông đưa ra ba biến tướng thuế
lũy tiến :
-
Biến
tướng 1 : thuế suất 0% cho tư bản dưới 1 triệu € ; 1% cho tư
bản từ 1 đến 5 triệu € ; 2% cho trên nữa.
-
Biến
tướng 2 : thêm một loại cho tư bản trên 1 tỷ € : thuế suất 5
hay 10%.
-
Biến
tướng 3 : thêm một loại cho phía dưới : dưới 200 000 € thuế
suất 0,1%, từ 200 000 € đến 1 triệu, 0,5%.
Đối
tượng của thứ thuế này là 2,5% dân số và có thể
mang lại cho ngân sách một số tiền tương đương với
2% GDP Châu Âu. Thuế suất ở vào khoảng từ 1 đến 2%
(biến tướng 1), trong khi mà các tài sản lớn đã tăng
trưởng với nhịp độ 6-7% trong những thập niên vừa
qua, như thế nó không thể tác động tiêu cực đến nền
kinh tế. Tuy nhiên tác giả cũng không nuôi ảo tưởng là
đề nghị của mình sẽ nhanh chóng được áp dụng :
« Thuế toàn cầu về tư bản là một
sự không
tưởng : trong ngắn hạn, khó tưởng tượng được
rằng các nước đều đồng ý định đoạt và thiết lập
một bảng thuế có thể áp dụng cho mọi tài sản trên
thế giới, rồi sau đó phân phối một cách hài hòa tiền
thuế thu được giữa các nước. Không tưởng, nhưng đó
là một không tưởng có ích ».
Kết
luận : Với chủ tâm « cạn kiệt » các vấn
đề, Piketty đã dồn vào tác phẩm đồ sộ này nhiều
trang sách, đề cập và phát triển nhiều vấn đề khác
nữa, chẳng hạn sự thừa kế, những bất bình đẳng
trong sản xuất và phân chia, « đấu tranh tuổi tác »
thay thế (hay không thay thế) đấu tranh giai cấp, tiền
hưu bổng, Nhà nước xã hội, vân vân, nhưng chúng ta cũng
đã đề cập khá đủ để thấy tầm quan trọng của Tư
bản thế kỷ XXI, về những phát hiện của tác giả cũng
như về phương pháp luận đã giúp ông đi tới những
phát hiện đó. Robert Solow, giải Nobel kinh tế năm 1987,
vốn là người kiệm lời, mà cũng đã phá lệ để chào
đón công trình của Piketty như sau : « Tôi có
người bạn, một nhà đại số học xuất sắc. Mỗi lần
khen ai, bạn tôi thường dùng tính từ « nghiêm
chỉnh ». Bạn tôi thường
nói : « Z là một
nhà toán học nghiêm chỉnh », « bức họa này
nghiêm chỉnh đấy ». Vậy đó, đây
là một cuốn
sách nghiêm chỉnh » ([So], tr.2). Những người ủng hộ
cũng như những người chê bai Piketty, mỗi người một
cách, đều nhận thức được sự « nghiêm chỉnh »
ấy. Như chúng tôi đã viết ở đầu bài, những người
chỉ trích Piketty không phản đối được các con số
(ngoại trừ vụ bút chiến của báo Financial
Times, xem
khung) nên họ chỉ tập trung phê phán chữ nghĩa, cụ thể
là những đề nghị về chính sách trình bày ở chương
cuối tác phẩm (khoảng 1/5 cuốn sách), với một giọng
điệu thường khá bạo liệt, đôi khi hận thù. Như
thường xảy ra, một bộ phận phái hữu có thói quen chỉ
trích cá nhân, đánh « dưới thắt lưng ». Dù bỏ
qua những cái gì quá đà, người ta cũng không khỏi ngạc
nhiên trước sự thiếu lương thiện của một vài « giáo
chủ » độc chiếm các media : có vị ở Pháp gọi
tác phẩm này là « mác-xít chợ huyện », chứng
tỏ ông ta chưa hề đọc ngay cả phần mở đầu ;
một quý bà ở Mỹ thì nói ngay là chưa đọc cuốn sách,
nhưng sẽ không ngần ngại bầm dập nó… Điều thú vị
là phần lớn những phê bình về nội dung lại đến từ
các nhà kinh tế học phái tả (Boyer, Husson, Galbraith…) họ
trách Piketty khiếm khuyết về « thiết bị lí luận »,
chẳng hạn như khi nghiên cứu về sự phân bố các bất
bình đẳng, Piketty không xét tới những xung đột về
phân phối chung quanh quan hệ lương bổng, cũng không nói
tới sự bất đối xứng cơ bản hay tới quan hệ thống
trị đặc biệt của tổ chức sản xuất trong nền kinh
tế tư bản chủ nghĩa… Cho dù một số phê phán là có
cơ sở, song tôi cho rằng họ đã nhầm đối tượng. Như
đã nói ở đầu bài, công trình của Piketty thuộc thể
loại thực nghiệm và quy nạp, nghĩa là ở một giai đoạn
coi như không có lý thuyết. Để lấy lại sự ví von
(trong phạm vi có thể) với Kepler, việc phát hiện các
quỹ đạo hình bầu dục và quy luật diện tích không
phải là sự xác nhận một mô hình chuẩn xuất phát
từ một lý thuyết lớn nào cả, nó « đơn thuần »
là sự ghi nhận cái đều đặn, điều hòa trong một loạt
sự kiện, và lập quy nó dưới dạng những quy luật để
mô tả nó. Lý thuyết là chuyện về sau, công việc của
Newton… Trong khi chờ đợi, chỉ trong vòng vài tháng, và
hầu như không ai ý thức được điều này, Piketty đã
« áp đặt » một cách phân tích của cải và
những sự bất bình đẳng « làm
thay đổi diễn ngôn
kinh tế học của chúng ta » (P. Krugman). Còn Diễn đàn
kinh tế Davos – ai học được chữ ngờ ! – thì
viện dẫn thống kê (của WTID) để xếp sự « phân
tán » thu nhập vào vị trí thứ 2 trong các nguy cơ
lớn cuả thế giới (tháng 11.2013). OECD – ai dám tiên
đoán – thì công bố một loạt bảng và biểu đồ (lấy
từ WTID) về thành phần thu nhập quốc gia, về tỉ suất
thuế (tháng năm 2014). Ngoài việc gặt hái, tập hợp một
khối lượng to lớn những kết quả thực nghiệm để
các nhà kinh tế học từ nay nghiên cứu, công lao bộ « Tư
bản » của Piketty là « cung cấp cho chúng ta một
cái khung có tổ chức để tư duy sự diễn biến các bất
bình đẳng và sự diễn biến của cải » (J.
Stiglitz). Tất nhiên, những xem xét phê phán (đàng hoàng)
cần được tiếp tục, nhưng không phải ngày một ngày
hai mà một nhà nghiên cứu có diễm phúc đề xuất một
ý hệ (paradigme) mới như thế.
Tháng
7.2014
NGUYỄN QUANG
(Nguyễn
Ngọc Giao dịch,
Nguyễn Đôn Phước và Trần Hải Hạc hiệu đính)
Nguyễn Đôn Phước và Trần Hải Hạc hiệu đính)
Về động lực của tỉ số tư bản / thu nhập
Ta hãy xét các hàm số (tính theo thời
gian t) đã được định nghĩa trong bài : tỉ số tư bản / thu nhập β(t) =
C(t)/R(t), tỉ suất tiết kiệm s(t) = C’(t)/R(t) và tỉ suất tăng
trưởng g(t) = R’(t)/R(t), kí hiệu (.)’ là đạo hàm của (.). « Quy luật cơ bản thứ nhì
» mà Piketty dùng ở chương 5 là một công thức « tiệm cận » hiểu theo
nghĩa như sau : nếu giả sử các hàm s(t) và g(t) ổn định, nghĩa là tiến
tới giới hạn s và g, thì hàm số β(t) cũng tiến tới một giới hạn β sao
cho β = s/g. Công thức này, gọi là công thức Harrod-Domar-Solow
(viết tắt HDS) được chứng minh bằng một phương pháp « sơ đẳng » ở trang
268, « song với điều kiện là giá của
các tích sản bình quân diễn biến như là giá cả tiêu dùng trong một thời
gian dài hạn
». Về sự hội tụ của s(t) và g(t), Piketty dẫn phần phụ lục kỹ thuật,
trong đó dẫn bài báo [PZ], bài báo này đưa ra những ví
dụ ổn định với những giả thiết về các hàm số sản xuất (Cobb-Douglas,
vv.) hay là về bản chất thị trường (mô hình có một hay hai của cải,
vv.). Trong bài viết, ta đã thấy rằng, tuy công thức HDS thuộc loại
hình tiệm cận và có những giả thiết về ổn định, Piketty vẫn dùng công
thức này để nghiên cứu động lực của β(t) trong trường hợp có « bậc
thang » (dường như thế), nghĩa là hàm số ổn định ở mỗi bậc thang, nhưng
từ bậc này lên bậc kia, có thể biến thiên lớn. Để giải quyết chỗ bất
tiện này, xin đề nghị là, trong trường hợp này (đây là một quan sát
thực nghiệm), ta sẽ dùng toán học để nghiên cứu động β(t), như vậy sẽ
có cơ sở chính xác cho phương pháp luận của Piketty, mà không phải
vướng víu với những điều kiện thêm thắt về kinh tế (tất nhiên những
điều kiện này không vô dụng : nhờ đó mà người ta đã thiết lập được tình
huống « có thềm bậc thang » dù không biết tại sao sự thể lại diễn ra
như vậy ; đây cũng là vấn đề của các bộ môn khoa học thực nghiệm).
Xuất phát từ các định nghĩa, ta chỉ cần
tính đạo hàm là chứng minh được rằng trong khoảng thời gian J, hàm số
β(t) là nghiệm của phương trình vi phân tuyến tính cấp một :
β'(t) = s(t) – β(t)g(t) (*)
Như đã nói trong bài, ta có thể thu hẹp
vào trường hợp hàm β(t) là đồng biến và bị chặn trên trong một khoảng
thời gian J đã cho. Đó là những giả thiết duy nhất mà ta cần.
Sự đồng biến của β(t) có nghĩa đạo hàm
của nó là dương, tức là s(t) ≥ β(t)g(t) với mọi t ở trong J, hay
là s(t)/g(t) ≥ β(t) nếu g(t) không bằng 0. Sau đó, ta mặc
nhiên loại ra khỏi J những điểm t mà g(t) = 0 – điều này không tác động
tới bài toán nếu tập hợp các zéro này của g là một tập hợp mà « độ đo »
bằng không. Bởi vì β'(t)/β(t) = C'(t)/C(t) – R'(t)/R(t), sự đồng biến
của β(t) có nghĩa là γ(t) ≥ g(t), trong đó γ(t) là tỉ suất tăng trưởng
C'(t)/C(t) của tư bản, nói khác đi, tư bản tăng nhanh hơn thu nhập quốc
gia. Như thế ta đã chứng minh được những bất đẳng thức nói trong bài,
phần I.1. Các bậc thang hay các điểm uốn diễn ra tại những thời điểm τ
tại đó đạo hàm triệt tiêu, tức là s(τ) – β(τ)g(τ) = 0.
Nếu giả thiết thêm là β(t) bị chặn
trong đoạn J, thì nhất thiết nó có một đường tiệm cận, nghĩa là nó ắt
phải hội tụ tới một giới hạn mà ta kí hiệu là β ; đường tiệm cận là một
đường thẳng mà độ dốc bằng 0, nên đạo hàm β'(t) ắt phải tiến về zéro,
do đó, theo phương trình (*), tỉ số s(t)/g(t) cũng tiến tới giới
hạn β. Sự hội tụ này của tỉ số, tiên thiên, không cho phép ta nói gì về
sự hội tụ riêng rẽ của s(t) và g(t), nhưng nếu ta giả sử là một trong
hai hàm số ổn định (nghĩa là tiến tới một giới hạn) thì hàm số kia cũng
ổn định, và chúng ta tìm lại được công thức HDS.
Nhưng động lực thực thụ của β(t), kể cả
ở bên ngoài các bậc thang, được mô tả bởi phương trình (*), độc lập với
mọi giả thiết về β(t). Lấy tích phân của phương trình (*) bằng những
phương pháp thông dụng, và để ý rằng log R(t) là một nguyên hàm của
g(t), và lấy 0 là thời điểm đầu, ta có biểu thức « động lực » –
cũng không dễ khai thác – của tỉ suất tư bản / thu nhập :
β(t) = (1/R(t)).{β(0)R(0) + ∫0t((s(τ)/g(τ)dR}
(**)
Lưu ý : ta có thể tìm ra phương trình
này một cách trực tiếp (và nhanh hơn) nếu đi từ định nghĩa :
R(t)β(t) = C(t) = C(0) + ∫0t
C'(τ)dτ = C(0) + ∫0t ((s(τ)/g(τ))R'(τ)dτ
Khi lấy tích phân từng phần, ta còn
thấy là phương trình động lực (**) có liên quan tới d(s/g), tức là tới
các đạo hàm cấp hai của R và C, hai đại lượng này cho đến nay không
thấy xuất hiện trong những đo đạc thống kê (xem nhận xét ở phần đầu của
I.3).
Tuy nhiên, ta có thể loại bỏ mọi giả
thiết về ổn định bằng cách thay thế các giá trị tiệm cận (không phải
lúc nào cũng tồn tại) bằng giá trị trung bình của các hàm số liên quan.
Thật vậy, hãy quay trở lại giả thiết một hàm số β(τ) bị chặn trên trong
quãng thời gian J = [0, t[. Theo phương trình (*), giá trị trung bình
trong quãng J của hàm số s(τ) – β(τ)g(τ) là bằng (1/t).(β(t) – β(0)),
vậy giả thiết về β(τ) có hệ quả là giá trị trung bình này tiến tới zéro
khi t tăng tới vô cực, nói khác đi, các giá trị trung bình của β(τ) và
của s(τ)g(τ) là bằng nhau về dài hạn. Nếu ta giả thiết thêm là tỉ suất
tăng trưởng g(τ) bị chặn dưới (tức là trường hợp đề cập trong sách
trong suốt thời kỳ dài), thì các giá trị trung bình của s(τ)/g(τ) bằng
nhau, nói khác đi, công thức HDS có giá trị về mặt dài hạn và tính theo
trung bình, mà không cần có thêm một giả thiết ổn định nào cả.
Sách báo
tham khảo :
[AE]
«Alternatives Economiques» : Inégalités,
la révolution
Piketty, numéro 336, juin 2014
[B]
R. Boyer : Le Capital au 21ème
siècle - De l’analyse
historique comparative à une théorie du capitalisme ? ,
Exposé
EHESS, Paris, 21/05/2014
[H]
M. Husson : Le Capital au 21ème
siècle – Richesse des
données, pauvreté de la théorie, Contretemps, 10/02/2014
[J]
P. Jorion : Marx et la baisse
tendancielle du taux de profit,
Press Lib’, 25/11/2010
[K]
A. Koestler : Les
Somnambules, Livre de Poche, 1967
[P]
T. Pech : Le
Temps des Riches – Anatomie d’une Sécession, Seuil,
2011
[PZ]
T. Piketty, Zucman : Capital is
back – Wealth-income ratios
in rich countries, 1700-2010, Paris School of Economics, 2013
[So]
R. Solow : Thomas Piketty is
right, New Republic, 22/04/2014
[St]
J. Stiglitz : Inequality is not
inevitable, NY Times, 07/07/2014
* Trung bình (moyenne) và trung vị (médiane) : thí dụ thu nhập trung
bình là 2 500 € và thu nhập trung vị 2 000 €. Để tính ra thu nhập trung bình : người ta tổng cộng thu nhập của mọi
người trong nước, rồi chia tổng số đó cho số dân. Thu nhập trung vị 2 000€ có nghĩa là : số người
có thu nhập từ 2 000 €/tháng trở lên là một nửa dân số và 50% số dân còn lại, có thu nhập hàng tháng thấp hơn 2 000 €.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét