Trần Văn Tùng - Học để thất nghiệp
Sự
khác biệt căn bản nhất trong cạnh tranh kinh tế trước đây và thời đại
ngày nay ở chỗ con người đang tạo ra lợi thế cạnh tranh. Nhiều quốc gia
không có tài nguyên thiên nhiên lại có cơ hội tốt cho việc phát triển
các ngành công nghiệp nhờ vào sức mạnh trí tuệ. Thành công tại Đông Á là
một thí dụ được nhắc tới nhiều lần trong các công trình nghiên cứu của
các tổ chức quốc tế. Lester Thurow(2003), một trong những nhà kinh tế
học hàng đầu của Hoa Kỳ cho rằng: Vũ khí cạnh tranh quyết định trong thế
kỷ XXI là giáo dục và kỹ năng của người lao động.
Tuy nhiên, ở Việt Nam “học để thất nghiệp” là một hiện tượng đáng quan tâm.
Theo tôi có mấy nguyên nhân.
1. Mất cân đối cơ cấu giáo dục đại học.
Chúng ta có thể thấy cơ cấu giáo dục đại học của Việt Nam đang mất cân đối nghiêm trọng. Theo số liệu năm 2005 của Bộ Giáo dục và đào tạo thì ngành kinh tế, luật chiếm tới 43% số sinh viên, trong khi đó khoa học cơ bản và khoa học công nghệ mỗi ngành chỉ chiếm tỷ lệ 15%. Nông lâm, ngư nghiệp, một ngành được coi là chủ lực của kinh tế Việt Nam chỉ chiếm 3,1% số sinh viên. Hiện tượng thừa cử nhân luật, kinh tế đang là phổ biến. Nếu cứ kéo dài tình trạng này sẽ không có lợi, bởi vì thiếu lực lượng lao động khoa học công nghệ sẽ là vật cản lớn cho quá trình tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chất lượng cao, không thúc đẩy hoạt động sáng tạo. Hậu quả, người Việt Nam trở thành lực lượng lao động làm thuê, bị lệ thuộc lâu dài.
Trong các thập kỷ 1970, 1980 tại sao các quốc gia Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, và một số vùng lãnh thổ khác như Đài Loan, Hồng Kông lại tập trung nhiều hơn cho giáo dục khoa học công nghệ? Bởi vì, thứ nhất khoa học công nghệ biến đổi rất nhanh. Thứ hai, khoa học công nghệ là động lực cho quá trình đổi mới các công ty, tạo ra các sản phẩm trí tuệ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Thứ ba, xuất khẩu công nghệ và chuyển giao công nghệ trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài thu được nguồn lợi lớn. Khi lực lượng lao động có kỹ năng dồi dào, Nhật Bản, Hàn Quốc đã mau chóng tiếp thu, cải tiến công nghệ nhập khẩu từ các nước phương Tây và mau chóng chuyển đổi từ những ngành gia công như dệt may, giày dép sang các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao, leo lên nấc thang mới trong quá trình toàn cầu hoá, tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu nhờ việc sản xuất ra các hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao . Công nghiệp điện tử, ô tô, đóng tàu, có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Trái với Nhật Bản, Hàn Quốc thì Malayxia và Thái Lan do trình độ nhân lực thấp, trong các thập kỷ 1970, 1980 dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các nước này chậm chạp. Do đó các nước này phải nhập khẩu lao động có kỹ năng, Malayxia là thí dụ điển hình, hàng năm phải nhập khẩu gần 1 triệu kỹ sư điện tử, chế tạo máy, năng lượng điện, dệt may… từ Ấn Độ,Trung Quốc và Philippines để thu hút đầu tư nước ngoài.
Các nghiên cứu trước đây về kinh tế Đông Á đều cho rằng, lợi ích thu được từ hệ thống giáo dục là do đầu tư ngân sách quốc gia ở mức cao. Điều đó không hoàn toàn đúng, bởi vì theo Báo cáo phát triển con người của Liên Hợp quốc năm 2001, thì định hướng phát triển giáo dục khoa học công nghệ mang lại lợi ích không kém so với ngân sách đầu tư cho giáo dục. Nhiều quốc gia đang xem xét lại chính sách đầu tư phát triển giáo dục theo cơ cấu ngành nghề và bậc học.
2. Lực lượng lao động khoa học và công nghệ thiếu hụt.
Nhiều quốc gia đang đặc biệt chú ý tới công nghệ thông tin. Ấn Độ là một thí dụ điển hình. Sự cất cánh của công nghệ Ấn Độ là một hiện tượng thần kỳ và đang đe doạ tới nhiều quốc gia, kể cả Hoa Kỳ trong lĩnh vực dịch vụ và công nghệ thông tin. Năm 2000 Ấn Độ mới xuất khẩu được hơn 4 tỷ USD sản phẩm phần mềm máy tính, thì đến năm 2010, con số đó là hơn 70 tỷ USD, chiếm tới 33% tổng giá trị xuất khẩu của quốc gia. Hiện tại đã có hơn 300 công ty xuyên quốc gia trong số 500 công ty lớn nhất trên thế giới có hợp đồng mua sản phẩm phần mềm của Ấn Độ. Trí tuệ Ấn Độ đang có giá, làm cho tỷ lệ kỹ sư phần mềm của Hoa Kỳ thất nghiệp tăng gấp đôi, hiện là 4,6%, kỹ sư quản trị mạng thất nghiệp lên tới 7,7% vào năm 2011. Số lượng kỹ sư công nghệ thông tin của Ấn Độ làm việc tại Bangalore là 150.000 người, nhiều hơn cả thung lũng Silicon của Hoa Kỳ hiện là 120.000 người vào năm 2011, ít nhất 1/3 sản lượng của ngành công nghệ thông tin của Hoa Kỳ được thực hiện tại nước ngoài mà chủ yếu từ Ấn Độ. Ấn Độ đang tiếp quản nhiều việc làm từ các quốc gia khác, bởi vì lương kỹ sư công nghệ của Ấn Độ hàng năm là 10.000 USD, bằng 1/8 mức lương của đồng nghiệp Hoa Kỳ. Chính nguồn chất xám, chỉ số IQ cao, chi phí thấp, nói tiếng Anh thành thạo giúp cho Ấn Độ vượt qua Trung Quốc trong việc gây ảnh hưởng với Hoa Kỳ, ít nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Chưa bao giờ Hoa Kỳ chịu áp lực cạnh tranh gay gắt như bây giờ trước đối thủ nước ngoài. Ấn Độ đang nỗ lực đảm bảo đáp ứng nhu cầu lao động trí thức trong nước và cả nước ngoài trong tương lai. Ngoài công nghệ thông tin, lĩnh vực phân tích tài chính cũng là thế mạnh của các chuyên gia Ấn Độ. Các công ty chứng khoán phố Wall đã chuyển giao nhiều hợp đồng phân tích tài chính cho các trung tâm thuộc miền Nam Ấn Độ. Bởi vì nguồn nhân lực Ấn Độ được hưởng dịch vụ giáo dục chất lượng cao về toán, khoa học cơ bản và công nghệ. Những năm gần đây, nhân lực công nghệ thông tin qua đào tạo của Việt Nam tăng đáng kể. Tuy nhiên giá trị xuất khẩu phần mềm của Việt Nam chủ yếu từ FPT chỉ khoảng hơn 80 triệu USD, chủ yếu là gia công cho Nhật Bản. Không biết bao giờ có sản phẩm”Made in Việt Nam”. Nhân lưc khoa học, công nghệ trong các ngành cơ khí, luyện kim, vật liệu, hóa dầu, điện tử…đều thiếu hụt. Dẫn đến công nghiệp phụ trợ không thể phát triển được. FDI vào Việt Nam phải chịu giá mua công nghệ quá cao từ các nhà đầu tư, trong số đó hầu hết là công nghệ lạc hậu trung gian. Mục tiêu đặt ra đến năm 2020 Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhưng có tới nay hơn 65% giá trị xuất khẩu của ngành công nghiệp là hàng gia công lắp ráp. Công nghiệp Việt Nam vẫn chỉ là gia công lắp ráp sử dụng nhiều lao động, sản phẩm chế tạo chiếm tỷ lệ thấp.
Ở Việt Nam, giáo dục từ xưa đến nay được thừa nhận là cơ chế để lựa chọn nhân tài. Nhiều năm trôi qua, tình hình đổi khác, đáng buồn là không ít sinh viên học giỏi thực sự lại không tìm được việc làm theo đúng chuyên môn đào tạo. Đó là nguyên nhân thôi thúc dòng người có trình độ chuyên môn cao ở Việt Nam tiếp tục tới Hoa Kỳ và một số quốc gia công nghiệp khác. Bởi vì lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao chỉ có thể phát huy được trong môi trường công nghệ luôn thay đổi, nói khác đi là tại các quốc gia thực hiện chính sách mở cửa thị trường. Các nghiên cứu gần đây của Ngân hàng thế giới cho rằng kinh tế Đông Á tiếp tục tăng trưởng cao trong các thập kỷ 1970 - 1980 là do đóng góp của công nghệ nhập khẩu. Nguồn nhân lực khoa học công nghệ làm chủ được công nghệ nhập khẩu.
3. Không nhận thức đúng vai trò và chính sách sử dụng trí thức bất hợp lý.
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế chứng minh rằng khoa học công nghệ góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an ninh quốc gia, thì đội ngũ trí thức phải được coi trọng hơn. Lịch sử hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm cho thấy trí thức Việt Nam rất yêu nước. Tuy nhiên chính sách sử dụng dường như đang đi trái với quy luật phát triển. Bởi vì ai muốn được bổ nhiệm chức vụ cao trong cơ quan Nhà nước thì người đó phải là đảng viên, phải qua các lớp học chính trị tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Chúng ta thiếu cán bộ có năng lực là do không bổ nhiệm những người ngoài đảng. Chế độ lương bổng, điều kiện làm việc và phân biệt đối xử đã hạn chế khả năng đóng góp của đội ngũ trí thức cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Tuyển dụng công chức không công khai, nếu công khai thì lộ đề,chạy tiền. Quê tôi ở Nghệ An đất học,về quê mấy đứa cháu tốt nghiệp đại học loại khá không xin được việc. Chúng nó bảo phải đút lót hàng trăm triệu may ra mới có một chỗ làm việc. Dân nghèo thì lấy tiền đâu, do đó cơ quan nhà nước lại chỉ là con cháu quan chức hoặc con cháu người có tiền toàn một lũ dốt nát. Ai hiểu cho nỗi khổ của các gia đình nông dân vay nợ cho con học đại học, học xong lại về quê cày ruộng? Tệ hại hơn, những trí thức có tên tuổi nêu nhiều ý kiến đổi mới theo xu thế phát triển muốn phá bỏ hệ thống giáo dục nô dịch khác với nghị quyết của đảng CSVN luôn bị gây khó khăn, bị buộc tội có âm mưu lật đổ chính quyền.
4. Chương trình đào lạc hậu, không phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao các loại bằng cấp của Việt Nam chỉ có giá trị nội địa và không được các nước khác công nhận? Có thể trả lời ngay đó là do chất lượng đào tạo thấp và không theo các chuẩn mực quốc tế.
Tôi nhận thấy sinh viên Việt Nam yếu hơn sinh viên các nước khác không phải hoàn toàn do phương pháp giảng dạy mà là do giáo trình được dùng để giảng dạy ở bậc đại học và sau đại học lạc hậu.
Thời kỳ 1960-1970, Khoa Toán - Cơ Đại học Tổng hợp Hà Nội nơi tôi từng học là khoa đào tạo có chất lượng tốt. Có thể hồi đó Khoa Toán Đại học Tổng hợp Hà Nội áp dụng chương trình và giáo trình của Khoa Toán - Cơ Đại học quốc gia Maxcơva mang tên Lomonoxov. Giáo trình là công cụ rất quan trọng ở các trường đại học phương Tây để giúp cho sinh viên tự nghiên cứu. Thời kỳ Việt Nam chưa mở cửa, các sinh viên khoa kinh tế của các trường đại học Việt Nam muốn hiểu sâu lý thuyết kinh tế thì không có cách nào khác là phải đào sâu học thuyết Mác. Học thuyết Mac với giá trị cốt lõi của nó là thặng dư lao động, đấu tranh giai cấp, công hữu hóa làm việc theo năng lực hưởng theo nhu cầu không còn đúng. Paul Samuelson người được giải thưởng Nobel kinh tế cho rằng Mác sai lầm khi cho rằng công nhân bị các nhà tư bản bóc lột thậm tệ, không nhận thấy đóng góp của công nghệ, tri thức quản lý trong giá trị thặng dư lao động nên Mác đề xướng luận điểm đấu tranh giai cấp, công hữu hóa (Todd R.Buchholz, New Ideas from dead Economics, 1989). Tuy nhiên, cho tới ngày nay nó vẫn còn đất sống, ngăn chặn quá trình phát triển những quốc gia theo con đường xã hội chủ nghĩa. Hệ thống trường đảng mở ra khắp các thành phố, các tỉnh tiêu tốn không biết bao nhiêu tiền thuế của dân, nhưng không có đóng góp đáng kể cho phát triển nguồn nhân lực khoa hoc công nghệ, trong khi nhiều lý thuyết của Adam Smith, Ricardo, Keynns, Lucas, Romer nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ, vốn nhân lực đối với tăng trưởng và cạnh tranh kinh tế lại ít được truyền bá ở Việt Nam.. Phương pháp giáo dục của Việt Nam vừa giáo điều lại vừa bị đóng khung trong khuôn khổ ý thức hệ chính trị Mác-Lênin, đã hạn chế khả năng sáng tạo của sinh viên, không giúp họ nhận biết được xu thế phát triển của thời đại. Tệ hại hơn chỉ biết nói theo, làm theo.
Như vậy để đánh giá chất lượng và so sánh quốc tế về chất lượng giáo dục đại học cần phải có chuẩn mực quốc tế. Chuẩn mực đó là dựa vào chương trình đào tạo, giáo trình, phương pháp đào tạo đã được nhiều trường đại học trên thế giới sử dụng.
Những năm chiến tranh, lúc đó ông Tạ Quang Bửu làm Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, giáo dục đại học Việt Nam được UNESCO đánh giá cao. Sau nhiều năm, qua bao đời bộ trưởng họ đã đưa ra các quyết định cải cách giáo dục. Có người triển khai việc thay đổi chữ viết, có người sao chép mô hình đại học hai giai đoạn, có người hô hào xã hội hoá giáo dục cho mở trường dân lập, có người yêu cầu tăng đầu tư, có người phát động một số phong trào, đề ra chiến lược mới trong khi chiến lược cũ chưa được thực hiện và chưa tổng kết. Bộ giáo dục đào tạo không có biện pháp điều chỉnh cơ cấu giáo dục đại học, sinh viên về khoa học công nghệ chiếm tỷ lệ thấp, nhưng các trường đại học công và tư vẫn đua nhau thu hút sinh viên các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh… những ngành dễ học, học những kiến thức chung chung không được thực hành. Hậu quả là hàng trăm nghìn cử nhân, thạc sỹ ra trường không có việc làm. So với GS Tạ Quang Bửu thì các vị bộ trưởng đời sau kém xa ông về tầm nhìn và động cơ trong sáng khi đưa ra các quyết định phát triển giáo dục. Do dó, người dân không an tâm khi cho con em đến trường, khi mà đủ thứ gian dối không được ngăn chặn, khi phải tiếp tục đón nhận các thông tin cải cách giáo dục nửa vời và nhận thấy chất luợng giáo dục không tương xứng với mức đầu tư.
T.V.T
Tác giả gửi BVN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Tùng: Đông Á đổi mới công nghệ để tham gia vào mạng lưới
Sản xuất toàn cầu. Nxb. Thế giới, H,2007.
2. Trần Văn Tùng: Đào tạo bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng. Nxb. Thế giới, H,2005.
3. Trần Văn Tùng: Cạnh tranh kinh tế, lợi thế cạnh tranh quốc gia và chiến lược cạnh tranh của công ty. Nxb. Thế giới, H, 2004.
4. Lester, Thurow: Làm giầu trong nền kinh tế tri thức, Nxb trẻ Thành Phố Hồ Chí Minh 2003.
5.Bộ Khoa học và Công nghệ: Công nghệ và phát triển thị trường công nghệ tại Việt Nam. Nxb. Khoa học kỹ thuật, 2003.
6. UNDP. Human Development Report, 2001.
7. Havard Business School: http://www.hbs.edu/about/statistics-print.html.
8. Willis M. Watt: "Effective leadership education: Developing a core curriculum for leadership studies", Journal of leadership education, Summer 2003, Vol 2, No. 1
9. BEST: A bridge for all: Higher education design principle to broaden participation in Science, technology, engineering and mathematics, www.bestworkforce.org.
10. Kellogg Foundation: Leadership in Making: Impact and Insights from leadership development programs in US colleges and Universities (executive summary),2000.
11. John Kennedy School of Government: http://www.ksg.havard.edu/apply
12.R.Florida: The rise of the creative clas Basic Books NY Press, 2004.
13.Todd R,Buchholz: New Ideas from dead Economis Publishing
HouseDutton, 1989.
Tuy nhiên, ở Việt Nam “học để thất nghiệp” là một hiện tượng đáng quan tâm.
Theo tôi có mấy nguyên nhân.
1. Mất cân đối cơ cấu giáo dục đại học.
Chúng ta có thể thấy cơ cấu giáo dục đại học của Việt Nam đang mất cân đối nghiêm trọng. Theo số liệu năm 2005 của Bộ Giáo dục và đào tạo thì ngành kinh tế, luật chiếm tới 43% số sinh viên, trong khi đó khoa học cơ bản và khoa học công nghệ mỗi ngành chỉ chiếm tỷ lệ 15%. Nông lâm, ngư nghiệp, một ngành được coi là chủ lực của kinh tế Việt Nam chỉ chiếm 3,1% số sinh viên. Hiện tượng thừa cử nhân luật, kinh tế đang là phổ biến. Nếu cứ kéo dài tình trạng này sẽ không có lợi, bởi vì thiếu lực lượng lao động khoa học công nghệ sẽ là vật cản lớn cho quá trình tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chất lượng cao, không thúc đẩy hoạt động sáng tạo. Hậu quả, người Việt Nam trở thành lực lượng lao động làm thuê, bị lệ thuộc lâu dài.
Trong các thập kỷ 1970, 1980 tại sao các quốc gia Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, và một số vùng lãnh thổ khác như Đài Loan, Hồng Kông lại tập trung nhiều hơn cho giáo dục khoa học công nghệ? Bởi vì, thứ nhất khoa học công nghệ biến đổi rất nhanh. Thứ hai, khoa học công nghệ là động lực cho quá trình đổi mới các công ty, tạo ra các sản phẩm trí tuệ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Thứ ba, xuất khẩu công nghệ và chuyển giao công nghệ trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài thu được nguồn lợi lớn. Khi lực lượng lao động có kỹ năng dồi dào, Nhật Bản, Hàn Quốc đã mau chóng tiếp thu, cải tiến công nghệ nhập khẩu từ các nước phương Tây và mau chóng chuyển đổi từ những ngành gia công như dệt may, giày dép sang các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao, leo lên nấc thang mới trong quá trình toàn cầu hoá, tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu nhờ việc sản xuất ra các hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao . Công nghiệp điện tử, ô tô, đóng tàu, có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Trái với Nhật Bản, Hàn Quốc thì Malayxia và Thái Lan do trình độ nhân lực thấp, trong các thập kỷ 1970, 1980 dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các nước này chậm chạp. Do đó các nước này phải nhập khẩu lao động có kỹ năng, Malayxia là thí dụ điển hình, hàng năm phải nhập khẩu gần 1 triệu kỹ sư điện tử, chế tạo máy, năng lượng điện, dệt may… từ Ấn Độ,Trung Quốc và Philippines để thu hút đầu tư nước ngoài.
Các nghiên cứu trước đây về kinh tế Đông Á đều cho rằng, lợi ích thu được từ hệ thống giáo dục là do đầu tư ngân sách quốc gia ở mức cao. Điều đó không hoàn toàn đúng, bởi vì theo Báo cáo phát triển con người của Liên Hợp quốc năm 2001, thì định hướng phát triển giáo dục khoa học công nghệ mang lại lợi ích không kém so với ngân sách đầu tư cho giáo dục. Nhiều quốc gia đang xem xét lại chính sách đầu tư phát triển giáo dục theo cơ cấu ngành nghề và bậc học.
2. Lực lượng lao động khoa học và công nghệ thiếu hụt.
Nhiều quốc gia đang đặc biệt chú ý tới công nghệ thông tin. Ấn Độ là một thí dụ điển hình. Sự cất cánh của công nghệ Ấn Độ là một hiện tượng thần kỳ và đang đe doạ tới nhiều quốc gia, kể cả Hoa Kỳ trong lĩnh vực dịch vụ và công nghệ thông tin. Năm 2000 Ấn Độ mới xuất khẩu được hơn 4 tỷ USD sản phẩm phần mềm máy tính, thì đến năm 2010, con số đó là hơn 70 tỷ USD, chiếm tới 33% tổng giá trị xuất khẩu của quốc gia. Hiện tại đã có hơn 300 công ty xuyên quốc gia trong số 500 công ty lớn nhất trên thế giới có hợp đồng mua sản phẩm phần mềm của Ấn Độ. Trí tuệ Ấn Độ đang có giá, làm cho tỷ lệ kỹ sư phần mềm của Hoa Kỳ thất nghiệp tăng gấp đôi, hiện là 4,6%, kỹ sư quản trị mạng thất nghiệp lên tới 7,7% vào năm 2011. Số lượng kỹ sư công nghệ thông tin của Ấn Độ làm việc tại Bangalore là 150.000 người, nhiều hơn cả thung lũng Silicon của Hoa Kỳ hiện là 120.000 người vào năm 2011, ít nhất 1/3 sản lượng của ngành công nghệ thông tin của Hoa Kỳ được thực hiện tại nước ngoài mà chủ yếu từ Ấn Độ. Ấn Độ đang tiếp quản nhiều việc làm từ các quốc gia khác, bởi vì lương kỹ sư công nghệ của Ấn Độ hàng năm là 10.000 USD, bằng 1/8 mức lương của đồng nghiệp Hoa Kỳ. Chính nguồn chất xám, chỉ số IQ cao, chi phí thấp, nói tiếng Anh thành thạo giúp cho Ấn Độ vượt qua Trung Quốc trong việc gây ảnh hưởng với Hoa Kỳ, ít nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Chưa bao giờ Hoa Kỳ chịu áp lực cạnh tranh gay gắt như bây giờ trước đối thủ nước ngoài. Ấn Độ đang nỗ lực đảm bảo đáp ứng nhu cầu lao động trí thức trong nước và cả nước ngoài trong tương lai. Ngoài công nghệ thông tin, lĩnh vực phân tích tài chính cũng là thế mạnh của các chuyên gia Ấn Độ. Các công ty chứng khoán phố Wall đã chuyển giao nhiều hợp đồng phân tích tài chính cho các trung tâm thuộc miền Nam Ấn Độ. Bởi vì nguồn nhân lực Ấn Độ được hưởng dịch vụ giáo dục chất lượng cao về toán, khoa học cơ bản và công nghệ. Những năm gần đây, nhân lực công nghệ thông tin qua đào tạo của Việt Nam tăng đáng kể. Tuy nhiên giá trị xuất khẩu phần mềm của Việt Nam chủ yếu từ FPT chỉ khoảng hơn 80 triệu USD, chủ yếu là gia công cho Nhật Bản. Không biết bao giờ có sản phẩm”Made in Việt Nam”. Nhân lưc khoa học, công nghệ trong các ngành cơ khí, luyện kim, vật liệu, hóa dầu, điện tử…đều thiếu hụt. Dẫn đến công nghiệp phụ trợ không thể phát triển được. FDI vào Việt Nam phải chịu giá mua công nghệ quá cao từ các nhà đầu tư, trong số đó hầu hết là công nghệ lạc hậu trung gian. Mục tiêu đặt ra đến năm 2020 Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhưng có tới nay hơn 65% giá trị xuất khẩu của ngành công nghiệp là hàng gia công lắp ráp. Công nghiệp Việt Nam vẫn chỉ là gia công lắp ráp sử dụng nhiều lao động, sản phẩm chế tạo chiếm tỷ lệ thấp.
Ở Việt Nam, giáo dục từ xưa đến nay được thừa nhận là cơ chế để lựa chọn nhân tài. Nhiều năm trôi qua, tình hình đổi khác, đáng buồn là không ít sinh viên học giỏi thực sự lại không tìm được việc làm theo đúng chuyên môn đào tạo. Đó là nguyên nhân thôi thúc dòng người có trình độ chuyên môn cao ở Việt Nam tiếp tục tới Hoa Kỳ và một số quốc gia công nghiệp khác. Bởi vì lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao chỉ có thể phát huy được trong môi trường công nghệ luôn thay đổi, nói khác đi là tại các quốc gia thực hiện chính sách mở cửa thị trường. Các nghiên cứu gần đây của Ngân hàng thế giới cho rằng kinh tế Đông Á tiếp tục tăng trưởng cao trong các thập kỷ 1970 - 1980 là do đóng góp của công nghệ nhập khẩu. Nguồn nhân lực khoa học công nghệ làm chủ được công nghệ nhập khẩu.
3. Không nhận thức đúng vai trò và chính sách sử dụng trí thức bất hợp lý.
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế chứng minh rằng khoa học công nghệ góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an ninh quốc gia, thì đội ngũ trí thức phải được coi trọng hơn. Lịch sử hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm cho thấy trí thức Việt Nam rất yêu nước. Tuy nhiên chính sách sử dụng dường như đang đi trái với quy luật phát triển. Bởi vì ai muốn được bổ nhiệm chức vụ cao trong cơ quan Nhà nước thì người đó phải là đảng viên, phải qua các lớp học chính trị tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Chúng ta thiếu cán bộ có năng lực là do không bổ nhiệm những người ngoài đảng. Chế độ lương bổng, điều kiện làm việc và phân biệt đối xử đã hạn chế khả năng đóng góp của đội ngũ trí thức cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Tuyển dụng công chức không công khai, nếu công khai thì lộ đề,chạy tiền. Quê tôi ở Nghệ An đất học,về quê mấy đứa cháu tốt nghiệp đại học loại khá không xin được việc. Chúng nó bảo phải đút lót hàng trăm triệu may ra mới có một chỗ làm việc. Dân nghèo thì lấy tiền đâu, do đó cơ quan nhà nước lại chỉ là con cháu quan chức hoặc con cháu người có tiền toàn một lũ dốt nát. Ai hiểu cho nỗi khổ của các gia đình nông dân vay nợ cho con học đại học, học xong lại về quê cày ruộng? Tệ hại hơn, những trí thức có tên tuổi nêu nhiều ý kiến đổi mới theo xu thế phát triển muốn phá bỏ hệ thống giáo dục nô dịch khác với nghị quyết của đảng CSVN luôn bị gây khó khăn, bị buộc tội có âm mưu lật đổ chính quyền.
4. Chương trình đào lạc hậu, không phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao các loại bằng cấp của Việt Nam chỉ có giá trị nội địa và không được các nước khác công nhận? Có thể trả lời ngay đó là do chất lượng đào tạo thấp và không theo các chuẩn mực quốc tế.
Tôi nhận thấy sinh viên Việt Nam yếu hơn sinh viên các nước khác không phải hoàn toàn do phương pháp giảng dạy mà là do giáo trình được dùng để giảng dạy ở bậc đại học và sau đại học lạc hậu.
Thời kỳ 1960-1970, Khoa Toán - Cơ Đại học Tổng hợp Hà Nội nơi tôi từng học là khoa đào tạo có chất lượng tốt. Có thể hồi đó Khoa Toán Đại học Tổng hợp Hà Nội áp dụng chương trình và giáo trình của Khoa Toán - Cơ Đại học quốc gia Maxcơva mang tên Lomonoxov. Giáo trình là công cụ rất quan trọng ở các trường đại học phương Tây để giúp cho sinh viên tự nghiên cứu. Thời kỳ Việt Nam chưa mở cửa, các sinh viên khoa kinh tế của các trường đại học Việt Nam muốn hiểu sâu lý thuyết kinh tế thì không có cách nào khác là phải đào sâu học thuyết Mác. Học thuyết Mac với giá trị cốt lõi của nó là thặng dư lao động, đấu tranh giai cấp, công hữu hóa làm việc theo năng lực hưởng theo nhu cầu không còn đúng. Paul Samuelson người được giải thưởng Nobel kinh tế cho rằng Mác sai lầm khi cho rằng công nhân bị các nhà tư bản bóc lột thậm tệ, không nhận thấy đóng góp của công nghệ, tri thức quản lý trong giá trị thặng dư lao động nên Mác đề xướng luận điểm đấu tranh giai cấp, công hữu hóa (Todd R.Buchholz, New Ideas from dead Economics, 1989). Tuy nhiên, cho tới ngày nay nó vẫn còn đất sống, ngăn chặn quá trình phát triển những quốc gia theo con đường xã hội chủ nghĩa. Hệ thống trường đảng mở ra khắp các thành phố, các tỉnh tiêu tốn không biết bao nhiêu tiền thuế của dân, nhưng không có đóng góp đáng kể cho phát triển nguồn nhân lực khoa hoc công nghệ, trong khi nhiều lý thuyết của Adam Smith, Ricardo, Keynns, Lucas, Romer nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ, vốn nhân lực đối với tăng trưởng và cạnh tranh kinh tế lại ít được truyền bá ở Việt Nam.. Phương pháp giáo dục của Việt Nam vừa giáo điều lại vừa bị đóng khung trong khuôn khổ ý thức hệ chính trị Mác-Lênin, đã hạn chế khả năng sáng tạo của sinh viên, không giúp họ nhận biết được xu thế phát triển của thời đại. Tệ hại hơn chỉ biết nói theo, làm theo.
Như vậy để đánh giá chất lượng và so sánh quốc tế về chất lượng giáo dục đại học cần phải có chuẩn mực quốc tế. Chuẩn mực đó là dựa vào chương trình đào tạo, giáo trình, phương pháp đào tạo đã được nhiều trường đại học trên thế giới sử dụng.
Những năm chiến tranh, lúc đó ông Tạ Quang Bửu làm Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, giáo dục đại học Việt Nam được UNESCO đánh giá cao. Sau nhiều năm, qua bao đời bộ trưởng họ đã đưa ra các quyết định cải cách giáo dục. Có người triển khai việc thay đổi chữ viết, có người sao chép mô hình đại học hai giai đoạn, có người hô hào xã hội hoá giáo dục cho mở trường dân lập, có người yêu cầu tăng đầu tư, có người phát động một số phong trào, đề ra chiến lược mới trong khi chiến lược cũ chưa được thực hiện và chưa tổng kết. Bộ giáo dục đào tạo không có biện pháp điều chỉnh cơ cấu giáo dục đại học, sinh viên về khoa học công nghệ chiếm tỷ lệ thấp, nhưng các trường đại học công và tư vẫn đua nhau thu hút sinh viên các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh… những ngành dễ học, học những kiến thức chung chung không được thực hành. Hậu quả là hàng trăm nghìn cử nhân, thạc sỹ ra trường không có việc làm. So với GS Tạ Quang Bửu thì các vị bộ trưởng đời sau kém xa ông về tầm nhìn và động cơ trong sáng khi đưa ra các quyết định phát triển giáo dục. Do dó, người dân không an tâm khi cho con em đến trường, khi mà đủ thứ gian dối không được ngăn chặn, khi phải tiếp tục đón nhận các thông tin cải cách giáo dục nửa vời và nhận thấy chất luợng giáo dục không tương xứng với mức đầu tư.
T.V.T
Tác giả gửi BVN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Tùng: Đông Á đổi mới công nghệ để tham gia vào mạng lưới
Sản xuất toàn cầu. Nxb. Thế giới, H,2007.
2. Trần Văn Tùng: Đào tạo bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng. Nxb. Thế giới, H,2005.
3. Trần Văn Tùng: Cạnh tranh kinh tế, lợi thế cạnh tranh quốc gia và chiến lược cạnh tranh của công ty. Nxb. Thế giới, H, 2004.
4. Lester, Thurow: Làm giầu trong nền kinh tế tri thức, Nxb trẻ Thành Phố Hồ Chí Minh 2003.
5.Bộ Khoa học và Công nghệ: Công nghệ và phát triển thị trường công nghệ tại Việt Nam. Nxb. Khoa học kỹ thuật, 2003.
6. UNDP. Human Development Report, 2001.
7. Havard Business School: http://www.hbs.edu/about/statistics-print.html.
8. Willis M. Watt: "Effective leadership education: Developing a core curriculum for leadership studies", Journal of leadership education, Summer 2003, Vol 2, No. 1
9. BEST: A bridge for all: Higher education design principle to broaden participation in Science, technology, engineering and mathematics, www.bestworkforce.org.
10. Kellogg Foundation: Leadership in Making: Impact and Insights from leadership development programs in US colleges and Universities (executive summary),2000.
11. John Kennedy School of Government: http://www.ksg.havard.edu/apply
12.R.Florida: The rise of the creative clas Basic Books NY Press, 2004.
13.Todd R,Buchholz: New Ideas from dead Economis Publishing
HouseDutton, 1989.
(Bauxitevn)
Thời kỳ 1960-1970, Khoa Toán - Cơ Đại học Tổng hợp Hà Nội nơi tôi từng học là khoa đào tạo có chất lượng tốt. Có thể hồi đó Khoa Toán Đại học Tổng hợp Hà Nội áp dụng chương trình và giáo trình của Khoa Toán - Cơ Đại học quốc gia Maxcơva mang tên Lomonoxov. Giáo trình là công cụ rất quan trọng ở các trường đại học phương Tây để giúp cho sinh viên tự nghiên cứu. Thời kỳ Việt Nam chưa mở cửa, các sinh viên khoa kinh tế của các trường đại học Việt Nam muốn hiểu sâu lý thuyết kinh tế thì không có cách nào khác là phải đào sâu học thuyết Mác. Học thuyết Mac với giá trị cốt lõi của nó là thặng dư lao động, đấu tranh giai cấp, công hữu hóa làm việc theo năng lực hưởng theo nhu cầu không còn đúng. Paul Samuelson người được giải thưởng Nobel kinh tế cho rằng Mác sai lầm khi cho rằng công nhân bị các nhà tư bản bóc lột thậm tệ, không nhận thấy đóng góp của công nghệ, tri thức quản lý trong giá trị thặng dư lao động nên Mác đề xướng luận điểm đấu tranh giai cấp, công hữu hóa (Todd R.Buchholz, New Ideas from dead Economics, 1989). Tuy nhiên, cho tới ngày nay nó vẫn còn đất sống, ngăn chặn quá trình phát triển những quốc gia theo con đường xã hội chủ nghĩa. Hệ thống trường đảng mở ra khắp các thành phố, các tỉnh tiêu tốn không biết bao nhiêu tiền thuế của dân, nhưng không có đóng góp đáng kể cho phát triển nguồn nhân lực khoa hoc công nghệ, trong khi nhiều lý thuyết của Adam Smith, Ricardo, Keynns, Lucas, Romer nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ, vốn nhân lực đối với tăng trưởng và cạnh tranh kinh tế lại ít được truyền bá ở Việt Nam.. Phương pháp giáo dục của Việt Nam vừa giáo điều lại vừa bị đóng khung trong khuôn khổ ý thức hệ chính trị Mác-Lênin, đã hạn chế khả năng sáng tạo của sinh viên, không giúp họ nhận biết được xu thế phát triển của thời đại. Tệ hại hơn chỉ biết nói theo, làm theo.
Như vậy để đánh giá chất lượng và so sánh quốc tế về chất lượng giáo dục đại học cần phải có chuẩn mực quốc tế. Chuẩn mực đó là dựa vào chương trình đào tạo, giáo trình, phương pháp đào tạo đã được nhiều trường đại học trên thế giới sử dụng.
Những năm chiến tranh, lúc đó ông Tạ Quang Bửu làm Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, giáo dục đại học Việt Nam được UNESCO đánh giá cao. Sau nhiều năm, qua bao đời bộ trưởng họ đã đưa ra các quyết định cải cách giáo dục. Có người triển khai việc thay đổi chữ viết, có người sao chép mô hình đại học hai giai đoạn, có người hô hào xã hội hoá giáo dục cho mở trường dân lập, có người yêu cầu tăng đầu tư, có người phát động một số phong trào, đề ra chiến lược mới trong khi chiến lược cũ chưa được thực hiện và chưa tổng kết. Bộ giáo dục đào tạo không có biện pháp điều chỉnh cơ cấu giáo dục đại học, sinh viên về khoa học công nghệ chiếm tỷ lệ thấp, nhưng các trường đại học công và tư vẫn đua nhau thu hút sinh viên các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh… những ngành dễ học, học những kiến thức chung chung không được thực hành. Hậu quả là hàng trăm nghìn cử nhân, thạc sỹ ra trường không có việc làm. So với GS Tạ Quang Bửu thì các vị bộ trưởng đời sau kém xa ông về tầm nhìn và động cơ trong sáng khi đưa ra các quyết định phát triển giáo dục. Do dó, người dân không an tâm khi cho con em đến trường, khi mà đủ thứ gian dối không được ngăn chặn, khi phải tiếp tục đón nhận các thông tin cải cách giáo dục nửa vời và nhận thấy chất luợng giáo dục không tương xứng với mức đầu tư.
T.V.T
Tác giả gửi BVN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Tùng: Đông Á đổi mới công nghệ để tham gia vào mạng lưới
Sản xuất toàn cầu. Nxb. Thế giới, H,2007.
2. Trần Văn Tùng: Đào tạo bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng. Nxb. Thế giới, H,2005.
3. Trần Văn Tùng: Cạnh tranh kinh tế, lợi thế cạnh tranh quốc gia và chiến lược cạnh tranh của công ty. Nxb. Thế giới, H, 2004.
4. Lester, Thurow: Làm giầu trong nền kinh tế tri thức, Nxb trẻ Thành Phố Hồ Chí Minh 2003.
5.Bộ Khoa học và Công nghệ: Công nghệ và phát triển thị trường công nghệ tại Việt Nam. Nxb. Khoa học kỹ thuật, 2003.
6. UNDP. Human Development Report, 2001.
7. Havard Business School: http://www.hbs.edu/about/statistics-print.html.
8. Willis M. Watt: "Effective leadership education: Developing a core curriculum for leadership studies", Journal of leadership education, Summer 2003, Vol 2, No. 1
9. BEST: A bridge for all: Higher education design principle to broaden participation in Science, technology, engineering and mathematics, www.bestworkforce.org.
10. Kellogg Foundation: Leadership in Making: Impact and Insights from leadership development programs in US colleges and Universities (executive summary),2000.
11. John Kennedy School of Government: http://www.ksg.havard.edu/apply
12.R.Florida: The rise of the creative clas Basic Books NY Press, 2004.
13.Todd R,Buchholz: New Ideas from dead Economis Publishing
HouseDutton, 1989.
(Bauxitevn)
Ty Du - Nghĩ về Di Chúc của Cụ Hồ
Tôi đọc bài “Nhìn lại 45 năm để soi chính mình”. Đây là bài
tường thuật của Mai Hương trên báo Tuổi trẻ (TPHCM) về hai ý
kiến của hai Phó Trưởng Ban Tuyên giáo TW trong Hội nghị toàn
quốc hướng dẫn kỷ niệm 45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh (đúng ra nên nói là cố chủ tịch).
Ông Vũ Ngọc Hoàng, Ủy viên TW, Phó Trưởng ban Thường trực, đã nêu mấy vắn đề sau:
- Trong di chúc bác dặn, Đảng phải có kế hoạch thật tốt, để không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân Thế mà đời sống có khá lên, mà nhân dân lại giảm lòng tin. Điều này chắc là không phải là tại nhân dân.
- Phân hóa giàu nghèo… làm giảm sút lòng tin của nhân dân. Người dân hỏi: Mấy ông cán bộ đó làm sao mà giàu nhanh như vậy?
- Cách đây bốn, năm mươi năm, Việt Nam và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm, hiện có khoảng 9 vạn người Hàn sống ở Việt Nam và hầu hết họ đang làm ông chủ, làm quản lý. Còn cũng có 9 vạn người Việt Nam sống ở Hàn Quốc thì chủ yếu làm ô sin. Ông ngậm ngùi: “Nghe mà xót lòng”.
- Trong di chúc bác nói phải bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Thế mà bây giờ “lòng tin của thanh niên (vào Đảng) có giảm sút. Phải nghiêm túc nhìn xem cán bộ, đảng viên đã như thế nào mà thanh niên không muốn vào đảng”
- Bác dặn phải đoàn kết, phải thương yêu đồng chi. Về chữ đòng chí thì nay chỉ dùng khi tức giận lên thì gọi nhau bằng đồng chí. Cần xem xem lai từ trung ương đến địa phương có mất đoàn kết không có tranh giành đấu đá nhau, hay quy chụp lẫn nhau khi người khác trái ý mình không.
Ông Bùi Thế Đức chỉ căn dặn các tổ chức Đảng, chính quyên đoàn thể trung ương và địa phương phải ôn lại di chúc, phải kiểm điểm việc học tập làm theo gương đạo đức Hồ Chí Minh
Tôi chỉ gặp anh Hoàng mỗi một lần ở nhà một người quen biết. Lúc đầu tôi không biết anh là ai, sau khi anh ra về, người quen bảo, ủy viên trung ương, phó ban thừơng trực ban Tuyên giáo đấy. Tôi biết anh ấy đến thăm dò ý kiến của “người quen”. Nhiều người khen anh ấy kín đáo, chín chắn, dễ gần, chịu lắng nghe… Mấy anh em ở Liên Hiệp Hội thì bảo: ”Hoàng phó ban Tuyên Giáo, ủy viên Trung Ương, về tham gia Phó chủ tịch Liên Hiệp Hội đấy." Chỉ biết thế, không hơn.
Những ý kiến của anh Hoàng như trên, tôi nghe quá nhiều, còn nặng nề hơn nữa. Nhưng với anh Hoàng, tôi đánh giá là cóc đã mở miệng. Thật ra trong dân gian người ta bảo cóc phải nghiến răng kia thì trời mới mưa được. Dẫu sao khi cóc mở miệng thì cũng là báo hiệu gì đó, thời tiết đang thay đổi, trời đang ấp ủ chuyển động… Bởi vì ban Tuyên Giáo đã nêu một số ví dụ để kiểm điểm 45 năm thực hiện di chúc của Hồ Chí Minh.
Nhân đây, tôi xin nêu vài ý kiến về bản Di chúc và việc thực hiện nó.
Di chúc là một bản văn hoặc được chính người muốn để lại di chúc viết ra, hoặc nói lại cho những người tin cậy, thường có người làm chứng. (Linh mục Nguyễn Đình Thi trước khi mất đã để lại “Tờ lối”. Khi những người thân đem đi công chứng, người ta bảo không biết tờ lối nghĩa là gì. Một thầy sáu thư ký của linh mục gọi điện hỏi tôi. Sau khi nghe qua nội dung, tôi biết cụ linh mục đã dùng một từ rất cổ, lối tức là giối giăng, còn ở miền nam gọi là trăn trối, từ thuần Việt nói về di chúc. Công chứng đã hiểu ra).
Bản Di chúc của cụ Hồ không phải như một bản của người bình thường. Cụ muốn làm theo một phong cách văn hóa Á đông, để lại di chúc cho Toàn Đảng, Toàn Dân. Cụ coi Đảng và Dân như con cháu trong nhà nên trước khi chết dặn dò lại, trăn trối lại những cắt đặt công việc, những ý tình muốn gởi gắm lại. Tư tưởng và tình cảm của Cụ giống hệt một người cha trong gia đình, Đảng và Dân tộc là gia đình của cụ. Không biết có đúng không. Nhưng tuồng như cụ bắt chước các vua, chúa thời xưa, trước khi băng hà thì để lại di chiếu. Điều không giống người thường, là cụ không có của nã gì để lại mà phải dặn dò phân chia. Cung cách vua chúa thì đã lỗi thời. Đảng không còn coi cụ là cha để răm rắp tuân theo, nên ngay tắp lự họ đã không làm theo, kể cả ý nguyện hỏa táng. Nhưng cụ cũng muốn có một cái mộ to ở đó phải có ngôi nhà khách cho người dân đến viếng có chổ ngồi nghỉ. Tâm tư này đã khác xa cái thời cụ mói bước lên “đài vinh quang”, chỉ muốn khi về hưu thì làm một ngôi nhà nhỏ để có thể bầu bạn với người làm ruộng, kiếm củi, trẻ chăn trâu cắt cỏ.
Để lại Di chúc theo phong cách Á đông này cụ đã làm khó cho “toàn đảng”, “toàn dân”. Để lại di chúc cho toàn đảng thì được, còn cho toàn dân thì quả là sái. Vì không ai thời dân chủ cộng hòa lại coi dân như con cái trong nhà. Vì thế đảng phải mang tiếng bất hiếu khi không làm theo di chúc, như không hỏa táng lại xây lăng rất tốn kém. Không chỉ tốn kếm lúc ma chay, mà còn phải nuôi cả sư đoàn để canh giữ. Hơn nữa, còn làm trái phong tục tập quán của người Việt, chỉ mong mồ yên mã đẹp, không động đến di hài tiền nhân. Hãy làm theo di chúc của cụ. Đưa cụ đi chôn, hoặc hỏa táng, rắc tro tren đồi rồi trồng cây gây rừng. Giữ lại cái lăng làm kỷ niệm, tôn tạo khu nhà sàn để mọi người đến viếng thăm là được.
Vì sao sau di chúc 45 năm mà dân lại giảm niềm tin vào đảng (thật sự là mất chứ không phải giảm, nhà tuyên huấn muốn né tránh sự thật), thanh niên không muốn vào đảng. Đặc biệt là vấn đề mà anh Hoàng đề cập một cách tế nhị nhưng lại là nỗi đau lớn. Không chỉ là xót xa ngậm ngùi như Hoàng nói. Đó là vấn đề tụt hậu, suy đồi toàn diện của đất nước, của đảng cầm quyền, của chế độ xã hội chủ nghĩa, mà ai cũng thấy, ngay cả số người vẫn tìm cách lấp liếm để lừa mình và lừa ngươi!
Hoàng rất khôn khéo, muốn làm cho mọi người liên tưởng để so sánh Việt Nam với Hàn Quốc. Từ những năm 60 của thế kỷ trước, họ cùng ta một trình độ. Ở bên ấy có một bất hạnh là không có đảng cộng sản lãnh đạo. Nhưng chỉ sau ba, bốn thập niên họ bứt phá lên trở thành một cường quốc kinh tế có văn hóa khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhân văn. Họ trở thành liền anh liền chị của chúng ta. Còn chúng ta sau 45 năm thực hiện di chúc, dân vẫn nghèo, nước vẫn yếu,thân phận nông dân, công nhân vãn là kẻ làm thuê, làm mướn, Hoàng bảo là làm ô sin. Còn dân họ đều trở thành ông chủ, nhà quản lý.
Như vậy là vì Dân không biết đàng làm theo di chúc, hay vì Đảng đã trở nên suy đồi, lạc hậu cả về đường lối, cả về hệ thống tổ chức, cả về nhân cách của con người, hay vì cụ để lại di chúc chưa thât đến nơi đên chốn? Vì thế mà có cái gợi ý khá tế nhị của ban Tuyên Giáo Trung Ương. Chẳng hạn như cụ bảo Đảng phải có kế hoạch thật tốt. Nhưng cứ kế hoạch hóa thật tốt, cải tạo công thương thật tốt, hợp tác hóa nông nghiệp thật tốt, chuyên chính thật tốt, tiến nhanh tiến mạnh thật tốt lên chủ nghĩa xã hội, thì kết quả như hiên nay là đương nhiên. Ngay cả phong trào cộng sản quốc tế phải đoàn kết có lý có tình, nên mấy ông Linh, Mười, Anh, Đồng trước bước ngoặc lịch sử lại cứ nhắm mắt đi theo vết xe đã đổ, ôm chầm lấy bá quyền đại Hán coi đó là quốc tế vô sản, nên đã trả giá đắt cho đến hôm nay!
Giá như hồi ấy cụ đừng bắt chước vua chúa để lại di chiếu, mà học cách làm của nhiều nhà chính trị, nhà văn hóa, nghiền ngẫm tổng kết cuộc đời của mình, cái gì được, cái gì chưa được, để lại một áng văn có lý luận, có thực tiễn, có cả dự báo tương lai. (Cái dự báo tương lai của cụ về quốc tế vô sản rõ ràng là rất sai). Có thể cụ không phải nhà lý luận, nhà tư tưởng, nhưng như hồi 45, 46 quy tụ được những trí tuệ của đất nước cụ đã có nhiều tư duy có giá trị. Giá như cụ nói được thế nào là “hư hỏng cũ kỹ”. Hư hỏng về nhân cách về quyền uy, về tổ chức…, cũ kỹ về lý luận, về đường lối, về mô hình phát triển. Giá như đã có một nhóm trí tuệ mới xung quanh cụ, và chính cụ cũng vượt lên, siêu việt lên vượt qua tâm thức “xô viết”, mao ít, vượt qua cả cái bóng đè Lê Duẫn, vượt qua được cả âm mưu biến cụ thành cha già thần tượng.
Ôi! Chữ Nếu. Với mi ta có thể nhét cả châu thành Ba lê vào một chiếc lọ nhỏ./.
Đầu Ô Hà nội, vào Thu,nhân đọc bài báo trên tờ Tuổi Trẻ (TPHCM).
Ty Du
Ông Vũ Ngọc Hoàng, Ủy viên TW, Phó Trưởng ban Thường trực, đã nêu mấy vắn đề sau:
- Trong di chúc bác dặn, Đảng phải có kế hoạch thật tốt, để không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân Thế mà đời sống có khá lên, mà nhân dân lại giảm lòng tin. Điều này chắc là không phải là tại nhân dân.
- Phân hóa giàu nghèo… làm giảm sút lòng tin của nhân dân. Người dân hỏi: Mấy ông cán bộ đó làm sao mà giàu nhanh như vậy?
- Cách đây bốn, năm mươi năm, Việt Nam và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm, hiện có khoảng 9 vạn người Hàn sống ở Việt Nam và hầu hết họ đang làm ông chủ, làm quản lý. Còn cũng có 9 vạn người Việt Nam sống ở Hàn Quốc thì chủ yếu làm ô sin. Ông ngậm ngùi: “Nghe mà xót lòng”.
- Trong di chúc bác nói phải bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Thế mà bây giờ “lòng tin của thanh niên (vào Đảng) có giảm sút. Phải nghiêm túc nhìn xem cán bộ, đảng viên đã như thế nào mà thanh niên không muốn vào đảng”
- Bác dặn phải đoàn kết, phải thương yêu đồng chi. Về chữ đòng chí thì nay chỉ dùng khi tức giận lên thì gọi nhau bằng đồng chí. Cần xem xem lai từ trung ương đến địa phương có mất đoàn kết không có tranh giành đấu đá nhau, hay quy chụp lẫn nhau khi người khác trái ý mình không.
Ông Bùi Thế Đức chỉ căn dặn các tổ chức Đảng, chính quyên đoàn thể trung ương và địa phương phải ôn lại di chúc, phải kiểm điểm việc học tập làm theo gương đạo đức Hồ Chí Minh
Tôi chỉ gặp anh Hoàng mỗi một lần ở nhà một người quen biết. Lúc đầu tôi không biết anh là ai, sau khi anh ra về, người quen bảo, ủy viên trung ương, phó ban thừơng trực ban Tuyên giáo đấy. Tôi biết anh ấy đến thăm dò ý kiến của “người quen”. Nhiều người khen anh ấy kín đáo, chín chắn, dễ gần, chịu lắng nghe… Mấy anh em ở Liên Hiệp Hội thì bảo: ”Hoàng phó ban Tuyên Giáo, ủy viên Trung Ương, về tham gia Phó chủ tịch Liên Hiệp Hội đấy." Chỉ biết thế, không hơn.
Những ý kiến của anh Hoàng như trên, tôi nghe quá nhiều, còn nặng nề hơn nữa. Nhưng với anh Hoàng, tôi đánh giá là cóc đã mở miệng. Thật ra trong dân gian người ta bảo cóc phải nghiến răng kia thì trời mới mưa được. Dẫu sao khi cóc mở miệng thì cũng là báo hiệu gì đó, thời tiết đang thay đổi, trời đang ấp ủ chuyển động… Bởi vì ban Tuyên Giáo đã nêu một số ví dụ để kiểm điểm 45 năm thực hiện di chúc của Hồ Chí Minh.
Nhân đây, tôi xin nêu vài ý kiến về bản Di chúc và việc thực hiện nó.
Di chúc là một bản văn hoặc được chính người muốn để lại di chúc viết ra, hoặc nói lại cho những người tin cậy, thường có người làm chứng. (Linh mục Nguyễn Đình Thi trước khi mất đã để lại “Tờ lối”. Khi những người thân đem đi công chứng, người ta bảo không biết tờ lối nghĩa là gì. Một thầy sáu thư ký của linh mục gọi điện hỏi tôi. Sau khi nghe qua nội dung, tôi biết cụ linh mục đã dùng một từ rất cổ, lối tức là giối giăng, còn ở miền nam gọi là trăn trối, từ thuần Việt nói về di chúc. Công chứng đã hiểu ra).
Bản Di chúc của cụ Hồ không phải như một bản của người bình thường. Cụ muốn làm theo một phong cách văn hóa Á đông, để lại di chúc cho Toàn Đảng, Toàn Dân. Cụ coi Đảng và Dân như con cháu trong nhà nên trước khi chết dặn dò lại, trăn trối lại những cắt đặt công việc, những ý tình muốn gởi gắm lại. Tư tưởng và tình cảm của Cụ giống hệt một người cha trong gia đình, Đảng và Dân tộc là gia đình của cụ. Không biết có đúng không. Nhưng tuồng như cụ bắt chước các vua, chúa thời xưa, trước khi băng hà thì để lại di chiếu. Điều không giống người thường, là cụ không có của nã gì để lại mà phải dặn dò phân chia. Cung cách vua chúa thì đã lỗi thời. Đảng không còn coi cụ là cha để răm rắp tuân theo, nên ngay tắp lự họ đã không làm theo, kể cả ý nguyện hỏa táng. Nhưng cụ cũng muốn có một cái mộ to ở đó phải có ngôi nhà khách cho người dân đến viếng có chổ ngồi nghỉ. Tâm tư này đã khác xa cái thời cụ mói bước lên “đài vinh quang”, chỉ muốn khi về hưu thì làm một ngôi nhà nhỏ để có thể bầu bạn với người làm ruộng, kiếm củi, trẻ chăn trâu cắt cỏ.
Để lại Di chúc theo phong cách Á đông này cụ đã làm khó cho “toàn đảng”, “toàn dân”. Để lại di chúc cho toàn đảng thì được, còn cho toàn dân thì quả là sái. Vì không ai thời dân chủ cộng hòa lại coi dân như con cái trong nhà. Vì thế đảng phải mang tiếng bất hiếu khi không làm theo di chúc, như không hỏa táng lại xây lăng rất tốn kém. Không chỉ tốn kếm lúc ma chay, mà còn phải nuôi cả sư đoàn để canh giữ. Hơn nữa, còn làm trái phong tục tập quán của người Việt, chỉ mong mồ yên mã đẹp, không động đến di hài tiền nhân. Hãy làm theo di chúc của cụ. Đưa cụ đi chôn, hoặc hỏa táng, rắc tro tren đồi rồi trồng cây gây rừng. Giữ lại cái lăng làm kỷ niệm, tôn tạo khu nhà sàn để mọi người đến viếng thăm là được.
Vì sao sau di chúc 45 năm mà dân lại giảm niềm tin vào đảng (thật sự là mất chứ không phải giảm, nhà tuyên huấn muốn né tránh sự thật), thanh niên không muốn vào đảng. Đặc biệt là vấn đề mà anh Hoàng đề cập một cách tế nhị nhưng lại là nỗi đau lớn. Không chỉ là xót xa ngậm ngùi như Hoàng nói. Đó là vấn đề tụt hậu, suy đồi toàn diện của đất nước, của đảng cầm quyền, của chế độ xã hội chủ nghĩa, mà ai cũng thấy, ngay cả số người vẫn tìm cách lấp liếm để lừa mình và lừa ngươi!
Hoàng rất khôn khéo, muốn làm cho mọi người liên tưởng để so sánh Việt Nam với Hàn Quốc. Từ những năm 60 của thế kỷ trước, họ cùng ta một trình độ. Ở bên ấy có một bất hạnh là không có đảng cộng sản lãnh đạo. Nhưng chỉ sau ba, bốn thập niên họ bứt phá lên trở thành một cường quốc kinh tế có văn hóa khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhân văn. Họ trở thành liền anh liền chị của chúng ta. Còn chúng ta sau 45 năm thực hiện di chúc, dân vẫn nghèo, nước vẫn yếu,thân phận nông dân, công nhân vãn là kẻ làm thuê, làm mướn, Hoàng bảo là làm ô sin. Còn dân họ đều trở thành ông chủ, nhà quản lý.
Như vậy là vì Dân không biết đàng làm theo di chúc, hay vì Đảng đã trở nên suy đồi, lạc hậu cả về đường lối, cả về hệ thống tổ chức, cả về nhân cách của con người, hay vì cụ để lại di chúc chưa thât đến nơi đên chốn? Vì thế mà có cái gợi ý khá tế nhị của ban Tuyên Giáo Trung Ương. Chẳng hạn như cụ bảo Đảng phải có kế hoạch thật tốt. Nhưng cứ kế hoạch hóa thật tốt, cải tạo công thương thật tốt, hợp tác hóa nông nghiệp thật tốt, chuyên chính thật tốt, tiến nhanh tiến mạnh thật tốt lên chủ nghĩa xã hội, thì kết quả như hiên nay là đương nhiên. Ngay cả phong trào cộng sản quốc tế phải đoàn kết có lý có tình, nên mấy ông Linh, Mười, Anh, Đồng trước bước ngoặc lịch sử lại cứ nhắm mắt đi theo vết xe đã đổ, ôm chầm lấy bá quyền đại Hán coi đó là quốc tế vô sản, nên đã trả giá đắt cho đến hôm nay!
Giá như hồi ấy cụ đừng bắt chước vua chúa để lại di chiếu, mà học cách làm của nhiều nhà chính trị, nhà văn hóa, nghiền ngẫm tổng kết cuộc đời của mình, cái gì được, cái gì chưa được, để lại một áng văn có lý luận, có thực tiễn, có cả dự báo tương lai. (Cái dự báo tương lai của cụ về quốc tế vô sản rõ ràng là rất sai). Có thể cụ không phải nhà lý luận, nhà tư tưởng, nhưng như hồi 45, 46 quy tụ được những trí tuệ của đất nước cụ đã có nhiều tư duy có giá trị. Giá như cụ nói được thế nào là “hư hỏng cũ kỹ”. Hư hỏng về nhân cách về quyền uy, về tổ chức…, cũ kỹ về lý luận, về đường lối, về mô hình phát triển. Giá như đã có một nhóm trí tuệ mới xung quanh cụ, và chính cụ cũng vượt lên, siêu việt lên vượt qua tâm thức “xô viết”, mao ít, vượt qua cả cái bóng đè Lê Duẫn, vượt qua được cả âm mưu biến cụ thành cha già thần tượng.
Ôi! Chữ Nếu. Với mi ta có thể nhét cả châu thành Ba lê vào một chiếc lọ nhỏ./.
Đầu Ô Hà nội, vào Thu,nhân đọc bài báo trên tờ Tuổi Trẻ (TPHCM).
Ty Du
Tác giả gửi viet-studies ngày 24-8-14
(Viet-sudies)
Tương Lai - Một vấn đề cần kiểm chứng
Gs Tương Lai |
Trong bài viết của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trên tạp chí Cộng sản
và được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng có một
chi tiết cần kiểm chứng.
Đó là câu trích dẫn được cho là lời của Trần Hưng Đạo:
“Những bài học giữ nước của cha ông ta để lại là hết sức quý giá với chúng ta ngày nay. Những cảnh báo của nhà bác học Lê Quý Đôn về những nguy cơ làm mất nước: “Một, trẻ không kính già; hai, trò không trọng thầy; ba, binh kiêu tướng thoái; bốn, tham nhũng tràn lan; năm, sỹ phu ngoảnh mặt” là điều chúng ta cần phải suy ngẫm; hay những lời nói của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn: phải biết chủ động “rút củi đáy nồi”, “phải kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” trong xử lý quan hệ với kẻ thù; “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt”, xây dựng “quân đội một lòng như cha con thì mới dùng được”, “phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”... vẫn còn nguyên giá trị với chúng ta hôm nay”.
Câu “rút củi đáy nồi” trích từ văn bản sử liệu nào?
Liệu có phải trích từ Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo không vì đi liền với câu sau cho phép suy ra như thế:“phải kiềng canh nóng mà thổi rau nguội”?
Nếu đúng là trích trong Hịch tướng sĩ thì trích không chuẩn xác.
Nguyên văn của câu đó như sau:“Nay ta bảo thật các ngươi: Nên cẩn thận như nơi củi lửa, nên giữ gìn như kẻ húp canh, dạy bảo quân sĩ, luyện tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông và Hậu Nghệ, thì mới có thể dẹp tan được quân giặc[...]”(theo bản dịch của Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược ấn hành năm 1921, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh in lại năm 2000).
Cùng với bản dịch của Trần Trọng Kim, còn có nhiều bản dịch khác của những học giả đáng kính như Phan Kế Bính, Ngô Tất Tố..., nhưng có lẽ bản của Trần Trọng Kim là trọn nghĩa và súc tích hơn cả (Phan Kế Bính: “Nay ta bảo thật các ngươi: Nên lấy việc đặt mồi lửa dưới làm nguy; nên lấy điều kiềng canh nóng mà thổi rau làm nguội làm sợ”. Ngô Tất Tố: “Nay ta bảo các ngươi: “Cái chuyện dấm đống củi phải lo, mà câu sợ canh thổi rau nên nhớ”).
Nếu lùi trở lại, trong Đại Việt sử ký toàn thư, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam dịch theo bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 1998, thì nguyên văn câu trên như sau:“Nay ta bảo thật các ngươi: Nên nhớ chuyện đặt mồi lửa vào dưới đống củi* làm nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội”** làm răn sợ. Hãy huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, để có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, phơi xác Vân Nam Vương ở Cảo Nhai”. (Chú thích *:Câu trong Hán thư:“Ôm mồi lửa đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên”.Chú thích **:Câu trong Sở Từ:“Kẻ sợ canh nóng thường thổi cả rau nguội”).
Dựa vào những văn bản đáng tin cậy trên, có hai điều cần nói rõ:
1.Câu trích trong bài viết của ông Chủ tịch Nước là không đúng, càng không thích hợp khi cho rằng câu trích trên là để hướng đến hành động trong xử lý quan hệ với kẻ thù. Hoàn toàn không phải vậy, đây là những điều Trần Hưng Đạo căn dặn các tướng lĩnh phải quan tâm dạy bảo quân sĩ.
Người chuẩn bị văn bản đưa ra câu trích này đã lẫn lộn, nếu chưa muốn nói là đánh tráo đối tượng của câu trích, có thể chỉ do nhầm lẫn. Nhưng sẽ nguy hiểm hơn là có thể dẫn đến chỗ làm người đọc hiểu rằng ai đó đã cố tình mượn lời của tiền nhân để minh họa và bào chữa một cách thô thiển cho những chủ trương, đường lối và hành động hèn nhát đối với Trung Quốc khi mà kẻ xâm lược đã hiện nguyên hình.
2. Câu trích được gán cho Trần Hưng Đạo“rút củi đáy nồi” để vận dụng “trong xử lý quan hệ với kẻ thù”, nếu nghĩ kỹ chính là một sự xúc phạm đến truyền thống của ông cha trong cuộc đấu tranh đánh giặc giữ nước. Trong chiến thuật quân sự cũng như trong sách lược ngoại giao, ông cha ta quả đã biết cách “rút củi đáy nồi” khi đã xác định một khí phách quả cảm không khuất phục trước kẻ thù cho dù chúng mạnh đến đâu.
“Rút củi đáy nồi”, nếu đúng nghĩa của nó thì cũng tuyệt đối không thể và không phải là đường lối “đu dây”.
22.8.2014
Tương Lai
Đó là câu trích dẫn được cho là lời của Trần Hưng Đạo:
“Những bài học giữ nước của cha ông ta để lại là hết sức quý giá với chúng ta ngày nay. Những cảnh báo của nhà bác học Lê Quý Đôn về những nguy cơ làm mất nước: “Một, trẻ không kính già; hai, trò không trọng thầy; ba, binh kiêu tướng thoái; bốn, tham nhũng tràn lan; năm, sỹ phu ngoảnh mặt” là điều chúng ta cần phải suy ngẫm; hay những lời nói của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn: phải biết chủ động “rút củi đáy nồi”, “phải kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” trong xử lý quan hệ với kẻ thù; “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt”, xây dựng “quân đội một lòng như cha con thì mới dùng được”, “phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”... vẫn còn nguyên giá trị với chúng ta hôm nay”.
Câu “rút củi đáy nồi” trích từ văn bản sử liệu nào?
Liệu có phải trích từ Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo không vì đi liền với câu sau cho phép suy ra như thế:“phải kiềng canh nóng mà thổi rau nguội”?
Nếu đúng là trích trong Hịch tướng sĩ thì trích không chuẩn xác.
Nguyên văn của câu đó như sau:“Nay ta bảo thật các ngươi: Nên cẩn thận như nơi củi lửa, nên giữ gìn như kẻ húp canh, dạy bảo quân sĩ, luyện tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông và Hậu Nghệ, thì mới có thể dẹp tan được quân giặc[...]”(theo bản dịch của Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược ấn hành năm 1921, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh in lại năm 2000).
Cùng với bản dịch của Trần Trọng Kim, còn có nhiều bản dịch khác của những học giả đáng kính như Phan Kế Bính, Ngô Tất Tố..., nhưng có lẽ bản của Trần Trọng Kim là trọn nghĩa và súc tích hơn cả (Phan Kế Bính: “Nay ta bảo thật các ngươi: Nên lấy việc đặt mồi lửa dưới làm nguy; nên lấy điều kiềng canh nóng mà thổi rau làm nguội làm sợ”. Ngô Tất Tố: “Nay ta bảo các ngươi: “Cái chuyện dấm đống củi phải lo, mà câu sợ canh thổi rau nên nhớ”).
Nếu lùi trở lại, trong Đại Việt sử ký toàn thư, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam dịch theo bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 1998, thì nguyên văn câu trên như sau:“Nay ta bảo thật các ngươi: Nên nhớ chuyện đặt mồi lửa vào dưới đống củi* làm nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội”** làm răn sợ. Hãy huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, để có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, phơi xác Vân Nam Vương ở Cảo Nhai”. (Chú thích *:Câu trong Hán thư:“Ôm mồi lửa đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên”.Chú thích **:Câu trong Sở Từ:“Kẻ sợ canh nóng thường thổi cả rau nguội”).
Dựa vào những văn bản đáng tin cậy trên, có hai điều cần nói rõ:
1.Câu trích trong bài viết của ông Chủ tịch Nước là không đúng, càng không thích hợp khi cho rằng câu trích trên là để hướng đến hành động trong xử lý quan hệ với kẻ thù. Hoàn toàn không phải vậy, đây là những điều Trần Hưng Đạo căn dặn các tướng lĩnh phải quan tâm dạy bảo quân sĩ.
Người chuẩn bị văn bản đưa ra câu trích này đã lẫn lộn, nếu chưa muốn nói là đánh tráo đối tượng của câu trích, có thể chỉ do nhầm lẫn. Nhưng sẽ nguy hiểm hơn là có thể dẫn đến chỗ làm người đọc hiểu rằng ai đó đã cố tình mượn lời của tiền nhân để minh họa và bào chữa một cách thô thiển cho những chủ trương, đường lối và hành động hèn nhát đối với Trung Quốc khi mà kẻ xâm lược đã hiện nguyên hình.
2. Câu trích được gán cho Trần Hưng Đạo“rút củi đáy nồi” để vận dụng “trong xử lý quan hệ với kẻ thù”, nếu nghĩ kỹ chính là một sự xúc phạm đến truyền thống của ông cha trong cuộc đấu tranh đánh giặc giữ nước. Trong chiến thuật quân sự cũng như trong sách lược ngoại giao, ông cha ta quả đã biết cách “rút củi đáy nồi” khi đã xác định một khí phách quả cảm không khuất phục trước kẻ thù cho dù chúng mạnh đến đâu.
“Rút củi đáy nồi”, nếu đúng nghĩa của nó thì cũng tuyệt đối không thể và không phải là đường lối “đu dây”.
22.8.2014
Tương Lai
(Bauxitevn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét