Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2014

Ngày 09/2/2014 -Chính trị là phân bố lợi tức - UPR và tâm thế 'đường ai nấy đi' - Vì sao cần bàn về tính quốc gia của VNCH và tính chất pháp lý của việc thống nhất đất nước

  • Liên Hiệp Quốc đưa ra 227 khuyến nghị về nhân quyền cho Việt Nam (RFI) - Tại Genève hôm qua, 07/02/2014, Nhóm làm việc về Kiểm điểm định kỳ phổ quát UPR chu kỳ 2 tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã thông qua Báo cáo quốc gia của Việt Nam ( mà báo chí chính thức ở Việt Nam mô tả là thông qua« với sự nhất trí cao» ). Nhưng Nhóm làm việc gồm đại diện ba nước Costa Rica, Kazakhstan và Kenya cũng đồng thời đưa ra tổng cộng 227 khuyến nghị để Việt Nam cải thiện tình trạng nhân quyền.
  • Đừng 'xui dại' Việt Nam (BBC) - Cựu Trưởng ban Biên giới Chính phủ nói không nên làm 'sai lệch bản chất pháp lý' trong Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
  • LS Lê Quốc Quân lại tuyệt thực trong tù (RFI) - Theo tin từ gia đình luật sư Lê Quốc Quân, nhà hoạt động nhân quyền này đang tuyệt thực một lần nữa để phản đối điều kiện giam giữ trong tù và tuyên bố sẽ tuyệt thựcít ra là cho đến phiên xử phúc thẩm ngày 18/02 tới.
  • Hội nghị UPR thảo luận, thông qua báo cáo của Việt Nam (RFA) - Đa số các khuyến nghị nhắm vào các vấn nạn tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do hội họp, việc sách nhiễu các bloggers và xã hội dân sự, yêu sách sửa đổi bộ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự theo tiêu chuẩn các Công ước LHQ , đặc biệt là sửa đổi những điều luật mơ hồ về “an ninh quốc gia” như các điều 79, 88 và 258.
  • Bình Nhưỡng đưa Kenneth Bae vào trại cải tạo (RFI) - Vụông Kenneth Bae, người Mỹ gốc Hàn Quốc, phụ trách tour du lịch, bị bắt giữ từ hơn một năm nay có thêm diễn biến mới. Hôm qua, 07/02/2014, chính quyền Mỹ thông báo Bắc Triều Tiên đã đưaông Kenneth Bae vào trại cải tạo lao động khổ sai, sau một thời gian điều trị dài tại bệnh viện. Hoa Kỳ rất lo ngại cho tình trạng sức khỏe của người tù đặc biệt và kêu gọi Bình Nhưỡng trả tự do ngay lập tức«vì lý do nhân đạo».
  • Hoa Kỳ nêu quyết tâm bảo vệ Nhật Bản (RFA) - Hoa Kỳ hôm qua lặp lại nhấn mạnh cam kết bảo vệ đồng minh Nhật Bản trong trường hợp nước này bị tấn công, cũng như bảo đảm sự ổn định tại khu vực Châu Á- Thái Bình Dương
  • Trên 200 nước khuyến nghị Việt Nam tại UPR 2014-Liên Hiệp Quốc (RFA) - Đa số các khuyến nghị đưa ra xoáy vào các vấn nạn tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do hội họp, việc sách nhiễu các bloggers và xã hội dân sự, yêu sách sửa đổi bộ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự theo tiêu chuẩn các Công ước LHQ mà Việt Nam tham gia ký kết, đặc biệt là sửa đổi những điều luật mơ hồ về “an ninh quốc gia” như các điều 79, 88 và 258.
  • Công chúa Tây Ban Nha ra tòa vì tội trốn thuế (RFI) - Hôm nay 08/02/2014, trưởng nữ của quốc vương Tây Ban Nha, trình diện tòaán Mallorca. Công chúa Cristina bị nghi ngờ trốn thuế và rửa tiền. Lần đầu tiên từ khi Tây Ban Nha thành lập chế độ quân chủ lập hiến, một thành viên trong hoàng gia bị đưa ra trước vành móng ngựa.
  • Mặt trái của Thế vận hội Sotchi (RFI) - “Ấn tượng”, hoàng tráng” và“lộng lẫy” là những lời bình của giới truyền thông quốc tế về lễ khai mạc Thế vận hội mùa đông Sotchi 2014, diễn ra vào ngày hôm qua thứ sáu 07/02/2014. Bên cạnh những lời tán thưởng, giới báo chí phương Tây cũng chúý đến tầm ảnh hưởng của thông điệp chính trị và tầm quan trọng của thế vận hội trong con mắt của tổng thống Nga Vladimir Putin.
  • Trung Quốc phản bác Ngoại trưởng Hoa Kỳ (RFA) - Phát ngôn nhân Bộ ngoại giao Trung Quốc nói rằng Bắc Kinh yêu cầu Washington chấm dứt đưa ra những tuyên bố vô trách nhiệm để không làm phương hại tình hình an ninh khu vực và tổn hại đến mối quan hệ Trung- Mỹ.
  • Cảnh sát Campuchia truy lùng kẻ giết nhà báo (RFA) - Cảnh sát trưởng tỉnh Kampong Chhnang cho biết nạn nhân là nhà báo Suon Chan. Vụ việc xảy ra hồi cuối tháng giêng vừa qua, khi nạn nhân đang ở nhà và uống rượu cùng với một người bạn. Tranh cãi diễn ra khi những nghi can đi ngang qua nhà của Suon Chan...
  • 60-100 nhà đấu tranh tập trung về Khúc Phụ, Sơn Đông (RFA) - Nhiều nhà đấu tranh khắp Trung Quốc đã tập trung lại để gặp mặt đầu xuân cũng như lên tiếng đòi hỏi cơ quan chức năng phải tiến hành điều tra về cái chết bí ẩn của thân phụ một nhà đấu tranh khác ngay tại cơ quan Nhà nước.
  • Hai Tổng thống Ukraina-Nga gặp kín bên lề Sotchi (RFI) - Tối hôm qua thứ Sáu, 07/02/2014, Tổng thống Ukraina và Tổng thống Nga có cuộc gặp riêng bên lề Thế Vận Hội Sotchi. Đây là cuộc hội kiến đầu tiên giữa hai nguyên thủ Nga-Ukraina, kể từ khi Matxcơva phê chuẩn khoản viện trợ 15 tỷ đô la cho Kiev tháng 12/2013. Nội dung cuộc gặp hoàn toàn được giữ kín.
  • Săn cá voi : Mỹ đe dọa trừng phạt kinh tế Island (RFI) - Hôm 06/02/2014, Bộ trưởng Nội vụ Hoa Kỳ ra thông báo cảnh cáo Washington có thể trừng phạt kinh tế Island, vì quốc gia này vi phạm hiệp định quốc tế về cá voi và các động vật có nguy cơ bị tuyệt chủng. Island là một trong hai quốc gia trên thế giới còn thực hành đánh bắt cá voi thương mại.
  • Syria, thỏa thuận ngưng bắn bị vi phạm (RFI) - Sáng hôm nay, 08/02/2014, pháo cối vẫn tiếp tục rơi xuống Homs, bất chấp thỏa thuận ngừng bắn giữa quân chính phủ và phe nổi dậy, để cho phép cứu trợ nhân đạo tới được trung tâm thành phố. Cho đến nay, chưa có thông tin nào về các thương vong do loạt đạn pháo sáng nay. Hai bên đổ lỗi cho nhau là thủ phạm.
  • Thất nghiệp sinh ra phong trào chống chính phủ Bosnia (RFI) - Từ ba ngày nay, tại các thành phố lớn của nước Cộng hòa Bosnia-Herzegovina , quốc gia NamÂu gần 4 triệu dân, bùng phát nhiều cuộc biểu tình phản đối chính quyền trong bối cảnh kinh tế suy thoái, thất nghiệp chiếm đến hơn 40% dân số.
  • Nga tưng bừng Thế vận hội Sotchi 2014 (RFI) - Thế vận hội mùa đông Sotchi tốn kém nhất thế giới đã mở ra từ tối hôm qua. 40.000 khán giả có mặt tại sân vận động Fisht. Ban tổ chức huy động 3000 nghệ sĩ phục vụ cho chương trình kéo dài hơn ba giờ đồng hồ, 22 tấn pháo hoa được bắn đi để chào mừng hai tuần lễ tranh tài. Ngọn lửa Olympic soi sáng sân vận động bên bờ Hắc Hải.
  • Phi cơ Thổ Nhĩ Kỳ bị buộc đổi hướng sang Sotchi (RFI) - Hôm qua, 07/02/2014, biến cố bất thường xẩy ra trên một chuyến bay dân dụng của hàng không Thổ Nhĩ Kỳ : Một người Ukraina xông vào buồng lái buộc phi công đổi hướng sang Sotchi, Nga, đúng vào lúc đang diễn ra lễ khai mạc Thế Vận Hội mùa đông. Lực lượng đặc biệt Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt giữ kẻ nổi loạn, toàn bộ hành khách được sơ tán an toàn. Ukraina vừa ra quyết định mở cuộc điều tra về hành vi« đe dọa khủng bố».
  • Bão tuyết ở Nhật : 2 người chết, 89 người bị thương (RFI) - Từ đêm hôm qua (07/02/2014) rạng sáng hôm nay(08/02/2014) một trận bão tuyết đã đổ xuống Nhật Bản. Một lớp tuyết dày 20 cm phủ lên thủ đô Tokyo. Từ 13 năm qua, Nhật Bản mới lại phải đối phó với một đợt bão tuyết nghiêm trọng như vậy. Hàng trăm chuyến bay bị hủy bỏ.
  • Philippines cảm ơn thế giới qua twitter, facebook, billboard (RFA) - Đúng vào thời điểm trận siêu bão Hải Yến thổi vào Philippines hồi ngày 8 tháng 11 năm ngoái, hôm nay các bảng điện tử tại Times Square ở New York, thương xá Lafayette ở Paris, giao lộ Shibuya ở Tokyo, quảng trường Piccadilly Circus ở London đồng loạt chạy thông điệp cám ơn thế giới của Philippines.
  • Giao tranh tái diễn quanh Homs, Syria (RFA) - Giao tranh bùng nổ hôm qua quanh các khu vực bị bao vây tại thành phố Homs của Syria vào khi mà các chuyến vận chuyển hàng cứu trợ chuẩn bị được đưa đến đó.
  • Iran mở lại đàm phán với IAEA (RFA) - Thông tấn xã IRNA cho biết như vừa nêu và nói thêm là những cuộc đàm phán mới có thể đề cập đến những vấn đề nhạy cảm liên quan đến quân sự.
  • Ngày tết nói chuyện văn hóa rượu vang (p.2 và hết) (RFA) - ... trong chương trình văn hóa nghệ thuật tuần trước nhà báo Lê Văn đã chia sẻ cách chọn một chai rượu vang để mua và chúng tôi thấy thật thích thú vì khác với suy nghĩ thông thường của chúng tôi là không phải cứ đắt tiền là chúng ta có một chai rượu vừa ý...
  • Mỹ - Nhật Bản tăng cường quan hệ đồng minh (BaoMoi) - Theo Roi-tơ, kết thúc cuộc hội đàm ngày 7-2, tại Oa-sinh-tơn, Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản P.Ki-sa-đa và người đồng cấp nước chủ nhà G.Ke-ri nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ đồng minh giữa hai cường quốc. Tại cuộc họp báo sau hội đàm, Bộ trưởng Ke-ri cho biết, Mỹ và Nhật Bản cam kết tăng cường hợp tác an ninh chặt chẽ hơn, đồng thời nói rằng, Oa-sinh-tơn cam kết bảo vệ Nhật Bản nếu quốc gia đồng minh này bị tiến công. Hai bên bày tỏ cam kết mạnh mẽ sẽ duy trì ổn định và thịnh vượng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ông Ke-ri cũng tái khẳng định quan điểm của Oa-sinh-tơn không thừa nhận Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) mà Trung Quốc thiết lập trên biển Hoa Đông.
  • Mỹ và Nhật Bản đề cao quan hệ đồng minh (BaoMoi) - (VTV Online) - Ngoại trưởng Mỹ John Kerry hôm 7/2 cam kết Mỹ sẽ bảo vệ Nhật Bản trước các cuộc tấn công, kể cả có liên quan tới quần đảo Senkaku/Điếu Ngư đang tranh chấp giữa Nhật Bản và Trung Quốc.
  • Mỹ hứa bảo vệ Nhật Bản chống lại Trung Quốc (BaoMoi) - (NLĐO) – Ngoại trưởng mỹ John Kerry cho biết rằng Mỹ cam kết bảo vệ Nhật Bản trước tất cả nguy cơ tấn công, bao gồm vấn đề tranh chấp đảo với Trung Quốc trên biển Hoa Đông.
  • Trung Quốc nói gì khi được ví với phát xít Đức? (BaoMoi) - (PetroTimes) – Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã lên án Tổng thống Philippines vì những bình luận mà Bắc Kinh cho là “hồ đồ” khi ông này so sánh tranh chấp ở Biển Đông với việc phương Tây xoa dịu Đức Quốc xã trước Thế chiến thứ hai.
  • Mỹ cam kết bảo vệ Nhật trước Trung Quốc (BaoMoi) - TTO - Ngoại trưởng Mỹ John Kerry hôm 7-2 cam kết sẽ bảo vệ Nhật Bản trước sự tấn công của Trung Quốc, trong đó bao gồm cả việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư.
  • Mỹ tái khẳng định cam kết bảo vệ đồng minh Nhật Bản (BaoMoi) - (TNO) Trong cuộc hội đàm cấp bộ trưởng ngày 7.2, Mỹ và Nhật Bản đã thống nhất về việc hợp tác chặt chẽ để đối phó với những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc. Washington tái khẳng định cam kết bảo vệ đồng minh Nhật Bản theo Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ ở biển Hoa Đông.
  • Ngoại trưởng Mỹ quyết tâm bảo vệ Nhật Bản (BaoMoi) - Ngoại trưởng John Kerry hôm qua khẳng định cam kết bảo vệ Nhật Bản trước các nguy cơ bị tấn công, kể cả trong vấn đề quần đảo tranh chấp với Trung Quốc trên biển Hoa Đông.
  • Mỹ sẽ giúp Nhật chống lại bên thứ ba (BaoMoi) - Ngoại trưởng Mỹ John Kerry hôm qua (7/2) đã thề sẽ bảo vệ Nhật Bản trước các cuộc tấn công từ bên thứ ba, trong đó bao gồm cả cuộc tấn công nhằm vào quần đảo đang nằm trong tranh chấp quyết liệt giữa hai cường quốc hàng đầu Châu Á – Trung, Nhật.
  • Mỹ cam kết bảo vệ đồng minh Nhật Bản trước Trung Quốc (BaoMoi) - Ngoại trưởng Mỹ John Kerry ngày 7/2 cam kết rằng Washington sẽ bảo vệ Nhật Bản trước các cuộc tấn công, kể cả có liên quan tới quần đảo Senkaku/Điếu Ngư mà Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền, trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa hai cường quốc châu Á này.
  • Nguy cơ từ yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc (BaoMoi) - ANTĐ - Trong 2 ngày liên tiếp, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách các vấn đề Đông Á-Thái Bình Dương Daniel Russel liên tục lên tiếng hối thúc Trung Quốc làm rõ các yêu sách về chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông. Yêu cầu mới nhất được quan chức cấp cao này đưa ra trong cuộc điều trần chiều 5-2 trước Tiểu ban châu Á-Thái Bình Dương thuộc Ủy ban Đối ngoại của Hạ viện Mỹ.
  • Tiểu bang Mỹ ủng hộ Hàn Quốc về tên biển (BaoMoi) - Hạ viện bang Virginia của Mỹ hôm qua thông qua dự luật yêu cầu bổ sung tên gọi của Hàn Quốc đối với vùng biển nằm giữa bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản vào sách giáo khoa, với 81 phiếu thuận và 15 phiếu chống, theo Reuters.
  • Tổng thống Philippines phản pháo Tân Hoa xã (BaoMoi) - Tổng thống Philippines Benigno Aquino III hôm qua đã phản pháo bài bình luận chỉ trích của hãng thông tấn nhà nước Trung Quốc Tân Hoa xã, khi ông so sánh các hành động của Trung Quốc tại biển Đông với những đòi hỏi của Đức Quốc xã trước Thế chiến thứ hai. 

Vì sao cần bàn về tính quốc gia của VNCH và tính chất pháp lý của việc thống nhất đất nước

Có chủ quyền, vẫn có thể bị mất

Dù cho một nước đã có chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ, nếu sau đó nước này bỏ ngỏ cho nước khác tranh chấp, lại còn không duy trì chủ quyền của mình trong khi nước thứ nhì có động thái để xác lập chủ quyền, thì nước thứ nhất có thể bị mất chủ quyền.

Có thể thấy điều này rất rõ trong phiên Tòa xử tranh chấp cụm đảo Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge giữa Malaysia và Singapore năm 2008[1].

Tòa án Công lý Quốc tế cho rằng ban đầu Malaysia có chủ quyền đối với đảo Pedra Branca. Tòa còn cho rằng công hàm 1953 của Johor, nay là một tiểu bang của Malaysia, trả lời Singapore rằng Johor không đòi chủ quyền trên đảo này, không có tính chất pháp lý cơ bản[2], cũng như không có tính ràng buộc đối với Johor[3]. Nhưng Tòa lại dựa vào việc trước và sau đó Johor và Malaysia không khẳng định chủ quyền, và Tòa đã dùng công hàm 1953 của Johor như một trong những chứng cớ quan trọng cho việc Malaysia không đòi chủ quyền, để kết luận rằng tới năm 1980 chủ quyền đã rơi vào tay Singapore[4].

Bài học cho chúng ta là mặc dù cho tới 1954 Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, vẫn có tiềm năng là công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng (CH PVĐ) đã tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho yêu sách của Trung Quốc, và nếu Việt Nam đã không khẳng định chủ quyền trước yêu sách đó thì Việt Nam vẫn có thể bị mất chủ quyền.

Vì vậy, chúng ta phải nghiên cứu và phân tích thấu đáo về vấn đề duy trì chủ quyền sau 1954.

Những yếu tố còn hạn chế tranh luận, nghiên cứu

Thế nhưng đây lại là một thiếu sót lớn trong truyền thông Việt Nam. Truyền thông Việt Nam đăng tải nhiều về chứng cứ chủ quyền của Việt Nam thời quân chủ, nhưng ít đăng phân tích sâu về việc duy trì chủ quyền sau 1954. Như vậy giống như xem phim tập đầu mà không xem tập cuối: sẽ không thể biết kết quả ra sao. Tệ hơn, nó có thể làm cho chúng ta chủ quan.

Không khó hiểu lý do cho sự thiếu sót trên.

Nếu phân tích về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa trong giai đoạn 1954-1975, sẽ không tránh được sự thật là trong giai đoạn đó VNDCCH đã tiêu cực đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Mặc dù trên diện pháp lý có thể biện luận rằng VNDCCH không có nghĩa vụ hay quyền hạn gì đối với Hoàng Sa, Trường Sa, khó có thể cho rằng VNDCCH không có nghĩa vụ luân lý gì trong việc giúp dân tộc Việt bảo vệ chủ quyền đối với hai quần đảo đó cho đến ngày nào đó đất nước thống nhất. Có người có thể sợ rằng điều này sẽ làm mất đi phần nào hào quang của VNDCCH. Dù sao đi nữa, chúng ta cần lưu ý rằng VNDCCH không phải là CHXHCNVN, và nếu VNDCCH có đã tiêu cực về Hoàng Sa, Trường Sa thì điều đó là độc lập với CHXHCNVN có tiêu cực hay không.

Phân tích về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa trong giai đoạn 1954-1975 còn có những hệ quả lô gíc có thể bị cho là trái lề chính trị. Thí dụ, khi TT Nguyễn Tấn Dũng viện dẫn sự khẳng định chủ quyền của chính quyền VNCH đối với Hoàng Sa, Trường Sa, thì lô gíc dẫn đến những câu hỏi sau.

1. Chính quyền VNCH có thẩm quyền để khẳng định chủ quyền lãnh thổ trên trường quốc tế không?

2. Để có thẩm quyền trên, chính quyền VNCH phải là đại diện của một quốc gia trong luật quốc tế. Vậy khi chính quyền VNCH còn tồn tại, chính thể đó có phải là đại diện của một quốc gia trong luật quốc tế không?

3. Nếu không thì thế nào mà sự khẳng định chủ quyền của chính quyền VNCH đối với Hoàng Sa, Trường Sa có giá trị trong luật quốc tế?

4. Nếu sự khẳng định chủ quyền của chính quyền VNCH đối với Hoàng Sa, Trường Sa không có giá trị pháp lý thì từ 1954 đến 30/4/1975 có đại diện pháp lý nào của quốc gia Việt nào đã khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo này không?

Có thể có người sợ rằng việc đặt vấn đề “có phải đã từng có hai quốc gia” cũng như “có phải chính quyền VNCH đã từng là đại diện pháp lý của một quốc gia” sẽ dẫn đến một số câu hỏi. Thậm chí còn có thể có những chuyện chụp mũ kiểu "Anh nói là có 2 quốc gia, anh nói chính quyền VNCH đã từng là đại diện pháp lý, vậy là anh muốn khôi phục VNCH, vậy là anh là phản động, vậy là anh muốn chia đôi đất nước lần nữa". Nhưng đó chỉ là một sự chụp mũ. Nếu cho rằng trước 1976 và 1975 có hai quốc gia, nếu cho rằng trước 30/4/1975 chính quyền VNCH đã từng là đại diện pháp lý của một quốc gia thì đó chỉ là một nhận định về quá khứ, không có nghĩa muốn chia đôi đất nước đã thống nhất năm 1976, và không có nghĩa muốn khôi phục VNCH hay CHMNVN.

Ở đây chúng ta cần lưu ý rằng câu hỏi thứ nhì là trong phạm trù luật quốc tế, không phải là một câu hỏi về các vấn đề chính trị, chính nghĩa của các chính thể VNCH, VNDCCH.

Khái niệm "quốc gia" ở đây là một thuật ngữ pháp lý, tiếng Anh là State, tiếng Pháp là État, được định nghĩa trong Công ước Montevideo 1933 là một chủ thể có lãnh thổ, dân cư, chính phủ và khả năng có quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác[5]. Nó phải được quán chiếu trong phạm trù luật quốc tế. Khái niệm "quốc gia" trên phương diện pháp lý khác với khái niệm đất nước và tổ quốc, thậm chí khác với cách hiểu bình dân về từ “quốc gia”.

“Quốc gia” khác với “đất nước” hay “nước”, vốn là một khái niệm địa lý, bao gồm một vùng lãnh thổ với dân cư, và cũng khác với “tổ quốc”, vốn là một khái niệm dựa trên lịch sử.

“Quốc gia” cũng khác với “nhà nước”. Nhà nước là tổ chức chính trị để đại diện, lãnh đạo và cai quản quốc gia, chứ không phải là quốc gia. Một nhà nước cộng hòa thường có ba hệ thống: lập pháp (thí dụ như quốc hội), hành pháp (chính phủ) và tư pháp (hệ thống tòa án)[6].

“Quốc gia” cũng khác với “chính phủ”: chính phủ là cơ quan hành pháp của nhà nước. Khi CP VNDCCH không công nhận rằng CP VNCH là đại diện hợp pháp phía nam vĩ tuyến 17 thì điều đó không có nghĩa là CP VNDCCH không công nhận rằng có một quốc gia phía nam vĩ tuyến 17. Hơn nữa, theo Công ước Montevideo 1933, sự hiện hữu của một quốc gia không dựa vào sự công nhận của các quốc gia khác[7].

Tương tự, “đại diện của một quốc gia trong luật quốc tế” là một vấn đề trong phạm trù luật quốc tế độc lập với các vấn đề chính trị, chính nghĩa của các chính quyền VNCH, chính quyền VNDCCH và chính quyền CHMNVN.

Chúng ta nên giữ câu hỏi thứ nhì trong phạm trù luật quốc tế của nó, và tuyệt đối không nên chụp mũ, để có một môi trường tốt hơn cho việc thảo luận và nghiên cứu về về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa trong giai đoạn 1954-1975.

Trên thực tế, quan điểm chính thức của VNDCCH và CHMNCH là trước khi VNDCCH và CHMNVN thống nhất lại thành CHXHCNVN trong quá trình từ 25/4/1976 đến 2/7/1976 thì hai chính thể đó là hai quốc gia[8].

Ngày 30/4/1975 CPCMLT CHMNVN tuyên bố

“Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt-nam hiện nay thực hiện chủ quyền trên toàn vẹn lãnh thổ của mình trên toàn bộ miền Nam Việt Nam, là người đại diện chân chính và hợp pháp duy nhất của nhân dân miền Nam Việt-Nam, có đầy đủ quyền hành giải quyết những vấn đề quốc tế của miền Nam Việt-nam.”[9]

Với một tuyên bố về lãnh thổ, dân cư và quan hệ quốc tế như vậy, rõ ràng là CPCMLT CHMNVN khẳng định rằng miền Nam là một quốc gia như được định nghĩa trong Công Ước Montevideo, và VNDCCH cũng đã không phản đối sự khẳng định đó.

Nhưng nếu từ 30/4/1975 đến 2/7/1976 có hai quốc gia thì dĩ nhiên là đã có hai quốc gia từ trước 30/4/1975, vì sẽ hoàn toàn vô lý nếu cho rằng trước 30/4/1975 chỉ có một quốc gia nhưng sau 30/4/1975 thì thành hai quốc gia. Không lẽ ngày 30/4/1975 lại là ngày đất nước chia đôi từ một quốc gia thành hai quốc gia? Vì vậy, quan điểm cho rằng trước 1976 và 1975 có hai quốc gia không có gì là phản động hay đáng ngạc nhiên - nó là quan điểm chính thức của VNDCCH, CHMNVN và CHXHCNVN mà ngày nay bị nhiều người lãng quên, và có người vì lãng quên cho nên tiêu cực về nó.

Ngoài khó khăn chính trị liên quan đến câu hỏi thứ nhì, còn có khía cạnh con người. Những cựu chiến binh VNDCCH của cuộc chiến 1954-1975 và gia đình của những người đã hy sinh trong cuộc chiến đó sẽ nghĩ gì về câu hỏi “Khi chính quyền VNCH còn tồn tại, nó có phải là đại diện của một quốc gia trong luật quốc tế không?”, và nếu trả lời cho câu hỏi đó là “Có” thì họ sẽ nghĩ gì?

Nhưng nếu chúng ta cho rằng khi chính quyền VNCH còn tồn tại, nó không phải là đại diện cho một quốc gia nào trong luật quốc tế, thì làm sao có thể khẳng định rằng sự khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa của chính quyền đó là có giá trị pháp lý?

Chúng ta có thể đánh giá lịch sử, cụ thể là đánh giá VNDCCH, một cách khoa học, khách quan và tự do hay chưa? Chúng ta có thể nhìn nhận rằng VNDCCH có thể đã làm những điều đúng, những điều sai, những điều phù hợp với luật quốc tế, những điều không phù hợp, hay không? Ở đây cần nhấn mạnh rằng nhìn nhận đó không phủ nhận giá trị của việc thống nhất đất nước. Hay là chúng ta vẫn phải một bên thì bảo vệ hình ảnh thần tượng hóa của VNDCCH, và bên kia thì quỷ sứ hóa chính thể đó?

Một kịch bản trước Tòa

Để minh họa tại sao lại phải phân tích về giai đoạn sau 1954, tại sao cần phải nghiên cứu về có phải VNCH và VNDCCH đã từng là hai quốc gia không, tại sao cần phải nghiên cứu về tính pháp lý của việc thống nhất đất nước, chúng tôi sẽ trình bày kịch bản giả định sau:

● Việt Nam và Trung Quốc ra Tòa về Hoàng Sa.

● Tòa bác bỏ những chứng cứ hoang đường, mơ hồ trong cổ sử của Trung Quốc.

● Tòa công nhận rằng các hành động chủ quyền của Việt Nam trong thời quân chủ đã làm cho chủ quyền đối với Hoàng Sa thuộc về Việt Nam.

● Tòa cho rằng Pháp đã duy trì chủ quyền Việt Nam, và cho tới 1954 thì Hoàng Sa vẫn là của Việt Nam.

● Trung Quốc vin vào CH PVĐ và các hành vi của VNDCCH để tiếp tục tranh cãi về giai đoạn từ năm 1954 trở đi. Trong luật quốc tế, có ba nguyên tắc có thể làm cho Việt Nam mất chủ quyền: recognition (công nhận chủ quyền của nước khác), estoppel (bị ngăn cản không được dùng dẫn chứng cho chủ quyền của mình) và acquiescence (từ bỏ chủ quyền của mình)[10], và Trung Quốc vận dụng những nguyên tắc này.

1. Trung Quốc: Việt Nam đã công nhận chủ quyền Trung Quốc (recognition). Dẫn chứng là CH PVĐ, các phát ngôn và tài liệu của VNDCCH.

2. Việt Nam: Các dẫn chứng đó không có giá trị pháp lý như một sự công nhận (recognition).

[Trên thực tế, báo Nhân Dân, các NXB sách vở, bản đồ, v.v., và ông Ung Văn Khiêm đều không có thẩm quyền để đại diện cho quốc gia về lãnh thổ. Trong những tác giả của các dẫn chứng mà Trung Quốc dùng, theo luật quốc tế thì chỉ có ông Phạm Văn Đồng là có thẩm quyền, nhưng theo luật quốc tế thì CH PVĐ không phải là sự công nhận. GS luật quốc tế Monique Chemiller-Gendreau cũng cho rằng CH PVĐ không phải là sự công nhận[11].]

3. Trung Quốc: CH PVĐ và các tài liệu/phát ngôn của VNDCCH có tính ràng buộc pháp lý và cũng đã tạo ra một estoppel ngăn cản không cho Việt Nam đòi Hoàng Sa.

4. Việt Nam: CH PVĐ và các tài liệu/phát ngôn đó không có tíng ràng buộc pháp lý, và cũng không hội tụ được nhiều điều kiện của estoppel, eg, CH PVĐ không nói cụ thể về Hoàng Sa, Trường Sa, Trung Quốc đã không dựa trên CH PVĐ để có hành động có thiệt hại cho mình (detrimental reliance).

[Theo luật quốc tế, có khi tuyên bố đơn phương có tính ràng buộc cho bên tuyên bố, có tuyên bố đơn phương không có tính ràng buộc[12], có khi gây ra estoppel, có khi không. Chúng tôi cho rằng CH PVĐ không hội tụ đủ các điều kiện để có tính ràng buộc hay gây ra estoppel cho Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa[13].

Thí dụ như trong phiên Tòa xử tranh chấp cụm đảo Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge, Tòa án Công lý Quốc tế đã không công nhận rằng công hàm của Johor nói Johor không đòi chủ quyền đối với đảo Pedra Branca có tính ràng buộc, cũng như không công nhận quan điểm của Singapore cho rằng công hàm đó đã gây ra estoppel.

TS Từ Đặng Minh Thu cũng có phân tích cho rằng CH PVĐ không hội tụ đủ các điều kiện của Estoppel[14].]

5. Trung Quốc: Đó là từ bỏ chủ quyền (acquiescence). Dẫn chứng là Việt Nam đã im lặng, và tới giữa thập niên 70 mới lên tiếng. Bất kể ban đầu Việt Nam có chủ quyền hay không, trong khi chúng tôi đòi chủ quyền và chiếm giữ mà Việt Nam im lặng bấy lâu thì sau đó Việt Nam cũng không có.

[Trong phán quyết năm 2008 về tranh chấp cụm đảo Pedra Branca giữa Malaysia và Singapore, mặc dù Tòa án Công lý Quốc tế cho rằng ban đầu Malaysia có chủ quyền đối với đảo Pedra Branca. Nhưng sau đó chủ quyền này đã mất vào tay Singapore do phía Malaysia đã không làm đủ để duy trì chủ quyền khi Singapore có những động thái nhằm xác lập chủ quyền trong giai đoạn sau này.

Sự im lặng của Thái Lan đối với các động thái ngoại giao của Campuchia nhằm khẳng định chủ quyền đối với đền Preah Vihear trong một thời gian dài cũng là yếu tố để Tòa quyết định rằng chủ quyền của đền thuộc về Campuchia[15].

Việt Nam không chối cãi được rằng VNDCCH đã không hề khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa. CPCMLT CHMNVN thì năm 1969 mới ra đời, và cũng không khẳng định chủ quyền một cách cụ thể, trong khi Trung Quốc đã liên tục có các động thái để khẳng định yêu sách chủ quyền hai quần đảo, ví dụ như chiếm đóng một phần quần đảo Hoàng Sa năm 1956, đưa ra tuyên bố lãnh hải 1958. Khi Trung Quốc chiếm hết quần đảo Hoàng Sa năm 1974 thì CPCMLT CHMNVN cũng chỉ tuyên bố chung chung rằng các nước láng giềng thường có tranh chấp lãnh thổ, và các nước liên quan cần giả quyết một cách bình đẳng, hữu nghị, v.v., bằng thương lượng.

Khó phản biện luận điểm này của Trung Quốc (vận dụng nguyên tắc acquiescence) hơn luận điểm 1 (vận dụng nguyên tắc recognition) và 3 (vận dụng nguyên tắc estoppel).

Việt Nam không có cách nào khác ngoài viện dẫn các lời khẳng định chủ quyền và hành động chủ quyền của VNCH, và đó là điều mà Việt Nam đã làm.]

6. Việt Nam: Việt Nam có đòi chủ quyền. Dẫn chứng là (1) Trước 1956 thì CP Việt Nam Quốc Gia đòi chủ quyền, (2) Từ 1956 đến 1975 thì CP VNCH đòi.

[Trung Quốc sẽ phản biện như sau.]

7. Trung Quốc: Trong luật quốc tế thì việc khẳng định chủ quyền chỉ có giá trị pháp lý nếu việc đó là từ đại diện pháp lý của một quốc gia. Chính quyền Sài Gòn là một ngụy quyền, không phải là đại diện pháp lý của 1 quốc gia.

[VN làm gì đây? Bên “A” thì nói "Thấy chưa? CP VNCH là đại diện pháp lý của VN, chính quyền Hà Nội là bất hợp pháp, là hay nhất"? Bên “B” thì nói "Đồ phản động! CP VNDCCH mới là đại diện pháp lý của Việt Nam"?]

9. Trung Quốc: Mỉm cười nụ cười “thiên triều”.

[Đó là lý do tại sao cần vận dụng quan điểm của một số nhà luật học nổi tiếng nhất thế giới: trước 1976 đất nước Việt Nam là 2 quốc gia[16]. Trong quyển “The creation of States in international law”, luật sư luật quốc tế James Crawford viết như sau.

Trang 474:

what in fact occurred in the period after 1954 is clear - the provisional demarcation line between the two zones became a boundary between two States, north and south Vietnam.

Trang 475:

Each entity was a unit for the purposes of the use of force, self-determination, foreign and internal affairs; and another name for such as unit is a State.

Trang 476:

“But the subsequent establishment of two separate zones in Vietnam must be taken to mark the establishment of two separate States, neither of which, in law or in fact, ever extended over the whole territories of Vietnam.”

Với quan điểm đó, có thể hiểu rằng CP VNDCCH là đại diện pháp lý của quốc gia phía bắc, CP VNCH là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam cho đến 1975, trong thời gian 1975-1976 thì CPCMLT CHMNVN là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam.

Ở đây chúng ta cần lưu ý rằng “đại diện pháp lý của quốc gia” là một vấn đề luật quốc tế, một vấn đề giữa các quốc gia, nó không nói gì về chính nghĩa trong tranh chấp chính trị giữa người Việt với nhau.

Nếu cho rằng trước 1976 và 1975 có 2 quốc gia, Việt Nam có thể nói như sau.]

10. Việt Nam: Theo luật quốc tế thì từ 1956 đến 1975 thì có 2 quốc gia, và CP VNCH là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam vĩ tuyến 17.

[Trên thực tế, trước 30/4/1975 phần lớn các nước trên thế giới công nhận CP VNCH là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam. Trong một số bài viết khác, chúng tôi đã phân tích về khi VNCH còn tồn tại thì chính thể đó có phải là một quốc gia hay không, và quan điểm của chúng tôi là “Có”[17]. Tuy nhiên cần lưu ý rằng thường thì lập luận nào cũng có rủi ro trước Tòa.

Khúc mắc hiện nay là khúc mắc có tính lịch sử và chính trị. Hệ quả lô gíc của quan điểm "trước 1976 và 1975 có 2 quốc gia" là khi quân đội của VNDCCH chiến đấu ở phía nam vĩ tuyến 17 trước khi CP VNCH sụp đổ thì đó là can thiệp quân sự vào xung đột nội bộ (tức là xung đột giữa CP VNCH và MTGPMN/CPLT CHMNCN trong quốc gia phía nam vĩ tuyến 17) của một quốc gia khác (mặc dù cả hai quốc gia đó đều là những phần của tổ quốc Việt Nam), tức là đã làm một điều không phù hợp với luật quốc tế. Chắc chắn là có người khó có thể chấp nhận rằng sự tham chiến của VNDCCH phía nam vĩ tuyến 17 là không phù hợp với luật quốc tế, và do đó họ khó có thể chấp nhận quan điểm "trước 1976 và 1975 có 2 quốc gia".

Nhưng nếu có ai không chấp nhận (có thể là trên phương diện chính trị hay phương diện pháp lý) quan điểm “đã từng hiện hữu 2 quốc gia” thì hãy thử đặt vấn đề ngược lại như sau.

Nếu từ 1956 đến 1975, CP VNCH không phải là đại diện pháp lý của một quốc gia, để cho những tuyên bố và hành động của CP đó về Hoàng Sa có giá trị pháp lý, thì trong thời gian đó có đại diện pháp lý của quốc gia nào đã khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa? Nếu từ 1956 đến 1975 đại diện pháp lý của toàn bộ Việt Nam không khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, còn chính thể khẳng định thì lại là ngụy, không phải là đại diện pháp lý cho một quốc gia, do đó việc khẳng định không có giá trị pháp lý, thì Tòa sẽ kết luận thế nào?

Có vẻ như ở đây có hai điều trên bàn cân: một bên là lập luận dựa trên luật quốc tế để bảo vệ chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, bên kia là quan điểm về chính trị và lịch sử lo ngại rằng nếu công nhận rằng VNDCCH và VNCH đã từng là hai quốc gia thì sẽ là một sự công nhận nào đó về “bên kia”, và có thể cả lo ngại rằng sự công nhận đó sẽ đặt nghi vấn về sự tham chiến của VNDCCH phía nam vĩ tuyến 17.]

11. Trung Quốc:Nếu VNDCCH và VNCH là 2 quốc gia thì VNDCCH đã thôn tính lãnh thổ của một quốc gia khác (VNCH) bằng bạo lực, do đó không thể thừa kế chủ quyền lãnh thổ từ quốc gia đó, bao gồm cả chủ quyền lãnh thổ đối với Hoàng Sa, Trường Sa.

[Vấn đề ở đây là nếu cho rằng CHXHCNVN là quốc gia phía Bắc vĩ tuyến 17 thụ đắc lãnh thổ của quốc gia phía Nam bằng bạo lực thì, với Nghị quyết 2734 (XXV) của LHQ cấm thụ đắc lãnh thổ của quốc gia khác bằng bạo lực, CHXHCNVN sẽ không có chủ quyền pháp lý với bất cứ vùng lãnh thổ nào phía Nam vĩ tuyến 17, bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa.

Phản biện của Việt Nam sẽ dựa trên sự hiện hữu của CPCMLTCHMNVN. Dựa trên hình thức trên, Việt Nam có thể phản biện như sau.]

12. Việt Nam:CHXHCNVN được thành lập từ 2 quốc gia, VNDCCH và CHMNVN, thống nhất lại với nhau một cách hợp pháp ngày 2/7/1976. Chính Trung Quốc đã công nhận CPLT CHMNCN là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam vĩ tuyến 17, và Trung Quốc đã công nhận sự thành lập của CHXHCNVN. Vì vậy, Trung Quốc không thể cho rằng CHXHCNVN là VNDCCH thôn tính VNCH một cách bất hợp pháp. Như vậy, CHXHCNVN đã thừa kế từ VNCH.

[Theo hình thức pháp lý thì:

1. Trước 30/4/1975 có hai quốc gia: VNDCCH và VNCH.

2. Cuộc xung đột trong quốc gia phía nam vĩ tuyến 17 là giữa CP VNCH và CPCMLT CHMNVN.

3. Ngày 30/4 CPCMLT CHMNVN lật đổ CP VNCH, lên cầm quyền, đổi tên quốc gia thành CHMNVN.

4. CHMNVN không phải là một quốc gia mới, mà là quốc gia có từ trước 30/4/1975, nhưng với một tên mới. Vì chỉ là một việc đổi tên và đổi chế độ của một quốc gia, không phải là sự thành lập một quốc gia mới, cho nên vùng lãnh thổ nào là đã thuộc chủ quyền VNCH mặc nhiên vẫn là của CHMNVN[18]. Tức là nếu trên diện pháp lý trước 30/4/1975 Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc chủ quyền VNCH, thì sau 30/4/1975 hai quần đảo này sẽ mặc nhiên thuộc chủ quyền CHMNVN.

5. Sau 30/4/1975, vẫn có hai quốc gia: VNDCCH và CHMNVN.

6. Từ 25/4/1976 đến 2/7/1976, hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN thống nhất lại thành một, CHXHCNVN, và sự thống nhất đó không bị nước nào trên thế giới, kể cả Trung Quốc, phản đối là xâm lăng bằng bạo lực. Với định nghĩa của quốc gia là lãnh thổ, dân cư và nhà nước, định nghĩa của sự thống nhất quốc gia tất nhiên là thống nhất lãnh thổ, dân cư và nhà nước của một số quốc gia thành một. Khi hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN thống nhất thành một, CHXHCNVN, thì dĩ nhiên là chủ quyền lãnh thổ của CHXHCNVN bao gồm chủ quyền lãnh thổ của VNDCCH và CHMNVN trước thống nhất. Như vậy, nếu trên diện pháp lý trước 2/7/1976 Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc chủ quyền CHMNVN, thì sau 2/7/1976 hai quần đảo này sẽ mặc nhiên thuộc chủ quyền CHXHCNVN. Trừ khi CHXHCNVN tuyên bố rằng mình đã không thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa, không có lý do hợp lý để cho rằng khi CHXHCNVN được thành lập năm 1976 trên diện pháp lý chủ quyền của quốc gia đó đã không bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa.

(Có thể có quan điểm sai lầm rằng từ 1976 cho đến nay CHXHCNVN vẫn chưa thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Tệ hơn nữa, có thể cho rằng ngày nay cần làm thủ tục thì mới thừa kế. Quan điểm này là sai lầm vì những lý do sau:

1. Như đã trình bày trên, ngày 30/4/1975, khi CP VNCH bị sụp đổ và CPCMLT CHMNVN lên thay thế thì đó chỉ là một sự thay đổi chế độ và thay đổi tên của một quốc gia. Do đó, lãnh thổ của VNCH mặc nhiên là lãnh thổ của CHMNVN. Kế tiếp, như đã trình bày trên, năm 1976 hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN đã làm thủ tục để thống nhất thành một quốc gia, CHXHCNVN, và thống nhất quốc gia tất nhiên bao gồm cả thống nhất lãnh thổ. Do đó, thủ tục để CHXHCNVN thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa từ CHMNVN (quốc gia trước đó có tên “VNCH”) chính là thủ tục thống nhất mà CHMNVN và VNDCCH đã làm từ 25/4/1976 đến 2/7/1976.

2. Thứ nhì, trên thực tế, không có nước nào trên thế giới cho rằng CHXHCNVN đã không thừa kế chủ quyền lãnh thổ của VNCH, cho nên không có lý do hợp lý để người Việt lại cho rằng CHXHCNVN đã không thừa kế.

3. Thứ ba, sau khi CHXHCNVN ra đời thì hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN/VNCH không còn tồn tại nữa. Nếu khi đó CHXHCNVN đã không thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa thì chủ quyền đó đã rơi vào tay một trong những nước đã đòi chủ quyền từ trước. Nếu từ 1976 cho tới nay CHXHCNVN vẫn chưa thừa kế thì dù bây giờ có làm thủ tục gì đi nữa, có tuyên bố gì đi nữa, cũng sẽ không còn gì để thừa kế, vì chủ quyền đó đã rơi vào tay nước khác rồi. Bất cứ thủ tục, tuyên bố nào ngày nay cũng chỉ có thể xác nhận một sự thừa kế đã diễn ra năm 1976, không thể nào thay đổi từ “chưa thừa kế” thành “thừa kế”.

4. Nếu ngày nào trong tương lai Việt Nam làm gì đó gọi là “làm thủ tục” để thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa thì Trung Quốc sẽ dùng hành động vớ vẩn đó để nói rằng chính Việt Nam đã công nhận rằng từ 1976 cho đến ngày đó đã chưa thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, thì Việt Nam sẽ khó có thể cãi rằng trong khoảng thời gian đó chủ quyền chưa rơi vào tay nước khác.)

Tuy nhiên, luận điểm 12 này cũng không phải không có rủi ro trước Tòa. Trên thực tế, những sư đoàn chủ lực của Quân Giải phóng miền Nam (quân đội của CPCMLT CHMNVN) là những sư đoàn Quân đội Nhân dân của VNDCH. Chiến dịch Hồ Chí Minh được chỉ đạo bởi VNDCCH. Các lữ đoàn xe tăng tiến vào dinh Độc lập này 30/4/75 treo cờ CHMNVN, nhưng là các đơn vị của VNDCCH. Nếu ra Tòa, vấn đề đó có sẽ có ảnh hưởng gì đến tính pháp lý của việc thống nhất và kế thừa không?

Ngoài khía cạnh pháp lý trên, có điều trớ trêu là trong khi Điểm 10 có khúc mắc chính trị-lịch sử cho những người khó chấp nhận rằng khi VNCH còn tồn tại thì nó đã từng là một quốc gia, thì điểm 12 lại có khúc mắc chính trị-lịch sử cho một số người có chính kiến khác với nhóm thứ nhất. Nhóm thứ nhì này khó chấp nhận quan điểm cho rằng hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN đã thống nhất một cách tự nguyện và pháp lý thành CHXHCNVN. Họ cho rằng sự thống nhất đó là VNDCCH xâm lược VNCH, và CPCMLTCHMNVN chỉ là bù nhìn của VNDCCH.

Nhưng nếu cho rằng VNDCCH đã xâm lược VNCH, và cho rằng CPCMLT CHMNVN chỉ là bù nhìn của VNDCCH, thì làm sao để lập luận cho rằng CHXHCNVN đã thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa năm 1976? Nếu cho rằng CHXHCNVN chưa thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa thì như phân tích án lệ ở trên, rất có thể Tòa sẽ cho rằng Việt Nam đã mất chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1976 vào tay Trung Quốc hoặc Philippines, là những quốc gia đã liên tục có yêu sách chủ quyền từ trước 1975.

Dường như Hoàng Sa, Trường Sa lại bị đặt lên bàn cân: một một bên là lập luận pháp lý để bảo vệ chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, bên kia là quan điểm chính trị và lịch sử của những người cho rằng sự thống nhất của Việt Nam lại thành một quốc gia, CHXHCNVN, là không hợp pháp.]

Một số lập luận khác

Trong trường hợp không chứng minh được là đã từng có hai quốc gia, có lẽ Việt Nam có hai lập luận khác.

Thứ nhất, nếu kể ra cho đầy đủ thì Việt Nam có thể tìm cách biện luận rằng trong giai đoạn 1956-1975 CP VNCH là chính phủ pháp lý của quốc gia Việt duy nhất. Trên thực tế, Việt Nam ngày nay sẽ khó chấp nhận quan điểm đó, chưa nói tới Tòa có sẽ chấp nhận hay không. Vì thế, quan điểm này có vẻ có ít tính thực tế.

Thứ nhì, Việt Nam có thể tìm cách biện luận rằng trong giai đoạn 1954-1975 chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa nằm trong tình trạng đóng băng, và không thể thay đổi. Thí dụ, Việt Nam có thể cố gắng dùng một số trong những lập luận sau.

1. Cả chính quyền Hà Nội và chính quyền Sài Gòn đều không có đủ thẩm quyền để thay đổi gì về chủ quyền lãnh thổ. Nhưng có vẻ như có ít cơ sở pháp lý cho lập luận này.

2. Mỗi bên không có thẩm quyền để thay đổi gì về chủ quyền của những vùng lãnh thổ bên kia quản lý. Nhưng không biết trong luật quốc tế có nguyên tắc nào có nghĩa “mỗi bên không có thẩm quyền để thay đổi gì về chủ quyền của những vùng lãnh thổ bên kia quản lý” nếu hai bên đó không phải là hai quốc gia?

3. Cuộc chiến khốc liệt đã tạo ra một hoàn cảnh đặc biệt đòi hỏi chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa, phải được đóng băng để bảo đảm sự công bằng. Trên thực tế, nguyên tắc utis possidetis có được áp dụng trong chiến tranh, khi nước này chiếm đóng lãnh thổ của nước kia trong cuộc chiến, và cũng được áp dụng cho quá trình giành độc lập của các nước thuộc địa. Nhưng không rõ có thể áp dụng nguyên tắc đó cuộc chiến 1954-1975 không?

Tuy nhiên, chúng tôi chưa nghiên cứu đủ để tìm thấy cơ sở pháp lý của những lập luận trên và thật sự đánh giá chúng.

Lời kết

Trên đây chúng tôi đưa ra một kịch bản giả tưởng có thể xảy ra tại Tòa. Nhưng cho dù Tòa chưa thể phân xử tranh chấp, những nguyên tắc trong kịch bản này vẫn áp dụng cho hiện tại. Lý do là trong hiện tại, trong cuộc tranh biện về Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông trên trường quốc tế, Trung Quốc đã luôn viện dẫn CH PVĐ để chứng minh Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa[19]. Một số học giả quốc tế cũng coi đây là điểm yếu trong yêu sách chủ quyền của Việt Nam[20]. Bởi vậy, tuy là một kịch bản tại Tòa, và vẫn còn chưa biết tới ngày nào Trung Quốc sẽ đồng ý ra Tòa, nhưng ngay từ lúc này Việt Nam cần phải nghiên cứu, mổ xẻ vấn đề này để có thể chuẩn bị lý lẽ cho cuộc tranh biện trên truyền thông và trong giới học giả. Việt Nam coi trận hải chiến Hoàng Sa là hành động dùng vũ lực của Trung Quốc để cưỡng chiếm Hoàng Sa, nhưng Trung Quốc có thể nói rằng đây là cuộc chiến chính đáng để thu hồi đất bị chiếm. Cũng có hai quan điểm đối kháng tương tự cho Trường Sa. Dư luận thế giới sẽ tin bên nào, có ủng hộ Việt Nam hay ngó lơ cho Trung Quốc, có lẽ phụ thuộc rất nhiều vào lập luận pháp lý của mỗi bên và phụ thuộc vào sự tích cực của Việt Nam trong việc tranh thủ dư luận quốc tế.

Thế nhưng, vẫn còn những khúc mắc trong các quan điểm khác nhau về chính trị và lịch sử, vẫn còn những vết thương chưa lành từ cuộc chiến, thậm chí có thể có cả những sự chụp mũ, và những điều này vẫn còn gây ra những hạn chế cho môi trường phân tích pháp lý. Hai bàn cân được đề cập đến trong Điểm 10 và 12 trong kịch bản có, hay có sẽ, nghiêng về ưu tiên cho Hoàng Sa và Trường Sa hay không?
Dương Danh Huy và Phạm Thanh Vân  
Quỹ Nghiên cứu Biển Đông
Các tác giả gửi trực tiếp cho BVN
------------------------------
[1] Sovereignty over Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks and South Ledge (Malaysia/Singapore), Judgment, I.C.J. Reports 2008: http://www.icj-cij.org/docket/files/130/14492.pdf
[2] Xem tr. 73, đ. 227:
[2]Regarding the first submission, the Court does not consider the Johor reply as having a constitutive character in the sense that it had a conclusive legal effect on Johor. Rather it is a response to an enquiry seeking information. It will be seen that, in the circumstances, this submission is closely related to the third.
[3] Xem tr. 73, đ. 228:
[3]Regarding the second submission, the Court points out that a party relying on an estoppel must show, among other things, that it has taken distinct acts in reliance on the other party’s statement (North Sea Continental Shelf, Judgment, I.C.J. Reports 1969, p. 26, para. 30). The Court observes that Singapore did not point to any such acts. To the contrary, it acknowledges in its Reply that, after receiving the letter, it had no reason to change its behaviour; the actions after 1953 to which it refers were a continuation and development of the actions it had taken over the previous century. While some of the conduct in the 1970s, which the Court next reviews, has a different character, Singapore does not contend that those actions were taken in reliance on the Johor response given in its letter of 1953. The Court accordingly need not consider whether other requirements of estoppel are met.
[3]Xem tr. 82, đ. 229:
[3]Finally, on the third submission about the Johor reply amounting to a binding unilateral undertaking, the Court recalls that when it is claimed that “States make statements by which their freedom of action is to be limited, a restrictive interpretation is called for” (Nuclear Tests (Australia v. France), Judgment, I.C.J. Reports 1974, p. 267, para. 44; Nuclear Tests (New Zealand v. France), Judgment, I.C.J. Reports 1974, p. 473, para. 47). The Court also observes that the statement was not made in response to a claim made by Singapore or in the context of a dispute between them, as was the case in the authorities on which Singapore relies. To return to the discussion of the first submission, Johor was simply asked for information. Its denial of ownership was made in that context. That denial cannot be interpreted as a binding undertaking.
[4] Xem tr. 96, đ. 275:
[4]Further, the Johor authorities and their successors took no action at all on Pedra Branca/Pulau Batu Puteh from June 1850 for the whole of the following century or more. And, when official visits (in the 1970s for instance) đwere made, they were subject to express Singapore permission. Malaysia’s official maps of the 1960s and 1970s also indicate an appreciation by it that Singapore had sovereignty. Those maps, like the conduct of both Parties which the Court has briefly recalled, are fully consistent with the final matter the Court recalls. It is the clearly stated position of the Acting Secretary of the State of Johor in 1953 that Johor did not claim ownership of Pedra Branca/Pulau Batu Puteh. That statement has major significance.
[4]Xem tr. 96, đ. 276:
[4]The Court is of the opinion that the relevant facts, including the conduct of the Parties, previously reviewed and summarized in the two preceding paragraphs, reflect a convergent evolution of the positions of the Parties regarding title to Pedra Branca/Pulau Batu Puteh. The Court concludes, especially by reference to the conduct of Singapore and its predecessors à titre de souverain, taken together with the conduct of Malaysia and its predecessors including their failure to respond to the conduct of Singapore and its predecessors, that by 1980 sovereignty over Pedra Branca/Pulau Batu Puteh had passed to Singapore.
[5] Công ước Montevideo 1933 về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia: http://www.cfr.org/sovereignty/montevideo-convention-rights-duties-states/p15897
[5]ARTICLE 1
[5]The state as a person of international law should possess the following qualifications: a ) a permanent population; b ) a defined territory; c ) government; and d) capacity to enter into relations with the other states.
[5]
[6] Có “State” và “État” được thành “Nhà nước”, nhưng dịch như thế là không chính xác. Thí dụ như UNCLOS đề cập đến “coastal State” và “user State”, nếu dịch thành “quốc gia ven biển” và “quốc gia sử dụng biển” thì sẽ chính xác hơn dịch thành “Nhà nước ven biển” và “Nhà nước sử dụng biển”.
[7] Công ước Montevideo, Điều 3:
[7]The political existence of the state is independent of recognition by the other states. Even before recognition the state has the right to defend its integrity and independence, to provide for its conservation and prosperity, and consequently to organize itself as it sees fit, to legislate upon its interests, administer its services, and to define the jurisdiction and competence of its courts.
[7]The exercise of these rights has no other limitation than the exercise of the rights of other states according to international law.
[7]
[8] Thí dụ như “Báo cáo của ông Trường Chinh, Trưởng Đoàn đại biểu miền Bắc tại Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc, ngày 15-11-1975”, http://www.na.gov.vn/Sach_QH/VKQHtoantapIV/Vankienkhac/vkk_4.htm, ghi
[8]Về mặt Nhà nước, Việt Nam là một nước, nhưng về danh nghĩa vẫn chia làm hai Nhà nước: miền Bắc có Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, miền Nam có Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Miền Bắc có Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; miền Nam có Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
[8]Quan điểm của CHMNVN cũng là VNDCCH và CHMNVN vẫn còn là hai Nhà nước khác biệt. Thí dụ như “DIỄN VĂN CỦA ÔNG PHẠM HÙNG, TRƯỞNG ĐOÀN ĐẠI BIỂU MIỀN NAM TẠI HỘI NGHỊ HIỆP THƯƠNG CHÍNH TRỊ THỐNG NHẤT TỔ QUỐC, NGÀY 15-11-1975”, http://www.na.gov.vn/Sach_QH/VKQHtoantapIV/Vankienkhac/vkk_5.htm, ghi
[8]Vừa qua, ở miền Nam đã họp Hội nghị liên tịch mở rộng giữa Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Trung ương Liên minh Các lực lượng Dân tộc dân chủ và hòa bình, Chính phủ Cách mạng lâm thời, Hội đồng Cố vấn Chính phủ, nhiều đại biểu trí thức, nhân sĩ yêu nước và dân chủ, để thảo luận việc sớm thực hiện thống nhất Tổ quốc về mặt Nhà nước. Hội nghị đã hoàn toàn nhất trí về sự cần thiết phải sớm thống nhất Nhà nước và thống nhất trên cơ sở chủ nghĩa xã hội.
[9] Hà Nội Mới, Số 2246, 2/5/1975
[10] "Estoppel, Acquiescence and Recognition in Territorial and Boundary Dispute Settlement", Nuno Sergio Marques Antunes, 2000, International Boundaries Research Unit, Durham University.
[11] Monique Chemillier-Gendreau, “Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands”: p. 129
[12] Xem “Legal effects of unilateral declarations”, http://www.iilj.org/courses/documents/AILUnit4oldLegalEffectsUnilateralDeclarations.pdf
[12]
[12]"Guiding Principles applicable to unilateral declarations of States capable of creating legal obligations", The International Law Commission, http://legal.un.org/ilc/texts/instruments/english/draft%20articles/9_9_2006.pdf
[12]
[13] “A legal analysis in support of Viet Nam’s position regarding the Paracel & Spratly Islands”, Nguyen Thai Linh and Duong Danh Huy, 2012, South China Seas Studies, Học viện Ngoại giao, http://southchinaseastudies.org/en/publications/vietnamese-publications/698-a-legal-analysis-in-support-of-viet-nams-position-regarding-the-paracel-a-spratly-islands
[14] “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa”, Từ Đặng Minh Thu, 2007, Thời Đại Mới, http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai11/200711_TuDangMinhThu.htm
[15] Case concerning the temple of Preah Vihear (Cambodia v. Thailand). I.C.J. summary 1962:
[15]http://www.icj-cij.org/docket/files/45/4873.pdf
[16] “The creation of States in international law”, Crawford, 2006, Oxford University Press.
[17] “Tính pháp lý của việc thừa kế hai quần đảo”, Phạm Thanh Vân và Dương Danh Huy, 2012, BBC, http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2012/07/120707_legal_scs_comment.shtml
[17]
[17]“Công nhận VNCH vì biển đảo ngày nay?”, Dương Danh Huy, Phạm Thanh Vân và Nguyễn Thái Linh, 2013, BBC, http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/04/130411_hoangsa_truongsa_vn_vnch.shtml
[17]
[18] Thí dụ như khi phe nổi loạn ở Zaire lật đổ chế độ Mobutu và đổi tên nước thành Democratic Republic of the Congo thì đó chỉ là sự thay đổi chế độ và thay tên của một quốc gia, không phải là sự thành lập một quốc gia mới, cho nên những vùng lãnh thổ nào là của Zaire mặc nhiên vẫn là của Democratic Republic of the Congo. Cũng như khi Lol Nol lật đổ Sihanouk và đổi tên nước thành Cộng Hòa Khmer, Khmer Đỏ lật Lol Nol và đổi tên nước thành Campuchia Dân Chủ, thì những vùng lãnh thổ nào là của Campuchia vẫn là của Campuchia.
[19] Tại Hội thảo quốc tế về tranh chấp Biển Đông do Trung tâm châu Á và toàn cầu hóa phối hợp tổ chức với trường ĐH Lý Quang Diệu tháng 3 năm 2013, với sự tham gia của nhiều học giả và quan chức từ Mỹ, Việt Nam, Trung Quốc và Singapore, khi được chất vấn về hành động "thay đổi hiện trạng" của Trung Quốc vào các năm 1974 và 1988, học giả Trung Quốc đã viện dẫn CH PVĐ để chứng minh rằng Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: http://asiasociety.org//video/policy/us-and-china-south-china-sea-complete?utm_source=asiasociety.org&utm_medium=jwplayer&utm_campaign=video (xem từ phút thứ 59)
[19]
[19]Hay: Trong cuốn sách mới xuất bản năm 2013 với tựa đề "Solving Disputes for Regional Cooperation and Development in the South China Sea: A Chinese Perspective", Wu Shicun, chủ tịch Viện nghiên cứu quốc gia TQ về Biển Đông do chính phủ TQ tài trợ, viết “VNDCCH công khai ủng hộ chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” (Nguyên văn tiếng Anh: “DRV openly supported China's sovereignty over the Xisha and Nansha Islands")
[19]
[20] Stein Tonnesson, "The History of the Dispute," in Timo Kivimaki (ed.): p. 16
[20]Clarence J. Bouchat, “Dangerous Ground: The Spratly islands and U.S. interests and approaches”, United States Army War College Press (2013): p. 25
[20]Trefor Moss, “History Wars: A Long View of Asia's Territorial Disputes”, The Diplomat (2013): http://thediplomat.com/2013/09/history-wars-a-long-view-of-asias-territorial-disputes/

Ngô Nhân Dụng - Chính trị là phân bố lợi tức


Bình luận gia Ngô Nhân Dụng (Hình: Uyên Nguyên)

Về cuộc khủng hoảng chính trị tại Thái Lan bàn trong bài trước, mục này nhận xét rằng động cơ chính yếu đằng sau cuộc tranh chấp giữa chính phủ Yungluck Shinawatra và đảng đối lập là những quyền lợi xung đột giữa nông dân miền Bắc và Ðông Bắc với giới trung lưu ở các thành phố và ở phía Nam Thái Lan.
Ðảng Dân Chủ tổ chức biểu tình và tẩy chay bầu cử, họ nhấn mạnh vào lý do chống một băng đảng từng lạm dụng quyền hành để tham nhũng. Ðảng cầm quyền Pheu Thai tố cáo phe đối lập không tôn trọng kết quả cuộc bỏ phiếu của dân chúng. Cả hai đảng không nói ra một sự thật là họ được hai khối cử tri khác nhau ủng hộ.

Chính sách nâng cao đời sống nông dân của cựu Thủ Tướng Thaksin Shinawatra mà bà em, đương kim Thủ Tướng Yungluck, vẫn theo đuổi, là một chính sách “tái phân bố lợi tức,” dùng tiền đóng thuế của những người dân thành phố chuyển về dùng cho các cử tri ở nông thôn.

Nông dân ở Thái Lan đi chậm hơn dân thành thị trên tiến trình hiện đại hóa quốc gia, và nói riêng trong quá trình phát triển kinh tế, trong hai thế kỷ qua. Công nghiệp tập trung ở các khu đô thị. Guồng máy hành chánh cũng vậy. Tự nhiên, lợi tức của người dân ở các vùng này cao hơn người sống ở nông thôn. Từ năm 2001, ông Thaksin thi hành nhiều chương trình cải thiện đời sống nông dân, tức là dùng công quỹ chi cho nền y tế, giáo dục, cho nhà nông vay tiền đầu tư, vân vân, cho nên nông dân ở một số vùng trở nên những “đệ tử trung thành” của đảng chính trị do ông lập ra là Thai Rat Thai, hoặc đứng đằng sau cho người khác lập, là Pheu Thai.

Những người ủng hộ ông Thaksin tạo thành lực lượng “áo đỏ” bảo vệ các đảng này. Những người đối lập nhắm vào những vụ lạm dụng quyền hành để làm giàu của vợ chồng con cái ông Thaksin Shinawatra và các vụ tham nhũng trong chính quyền. Nhưng họ không chống các chương trình xã hội, kinh tế ở nông thôn mà ông Thaksin đề xướng. Người dân trung lưu ở đô thị có thể đồng ý với các chương trình chuyển tài sản, tiền bạc về cho nông dân hưởng, nhưng không chấp nhận có người vừa làm công việc đó vừa nhân cơ hội tích lũy tài sản cho riêng mình và cho chân tay bộ hạ của mình. Nhưng đa số nông dân chất phác không am hiểu mấy về các mánh khóe lợi dụng luật pháp để tránh đóng thuế, các vụ mua bán đất công dành ưu đãi cho một số người, cũng như các vụ chuyển tài sản ngoắt ngoéo của giới thượng lưu ở thủ đô. Họ chỉ biết rằng dưới quyền ông Thaksin tiền bạc đã được chuyển từ Bangkok xuống các làng xóm. Mà đó là một điều mà những chính quyền trước đó chưa thực hiện. Bởi vì các nhà chính trị không nhìn thấy một nhiệm vụ của chính quyền là phân bố tài sản, lợi tức chung của quốc gia, làm sao cho nhiều người được hưởng đồng đều hơn.

Ở đâu cũng thế, cơ cấu chính trị bao hàm những phương cách để chia của cải, lợi tức quốc gia cho các thành phần dân chúng. Chính sách của người cầm quyền thường tạo ra hậu quả “phân bố lợi tức quốc gia” dù người ta chính thức nói ra hay không. Các chính quyền độc tài quyết định phân bố lợi tức của quốc dân theo chương trình riêng của họ, một số dân được hưởng nhiều hơn, một số khác phải nhịn bớt. Ở các nước tự do dân chủ, người dân được góp ý kiến và lựa chọn. Nhưng sau các cuộc bầu cử thì những người lên cầm quyền cũng thực hiện những chương trình “tái phân bố lợi tức,” mặc dù họ biện minh rằng các chương trình đó tạo ích lợi chung cho tất cả mọi người dân. Các cuộc nội chiến và cách mạng thường cũng nhắm “tái phân bố lợi tức.”

Hiện tượng này thực ra không đáng ngạc nhiên. Công việc bình thường nhất của một guồng máy nhà nước là đánh thuế, rồi dùng tiền thuế chi cho các công việc chung. Hệ thống thuế khóa thế nào cũng khiến một số người phải đóng góp cho công quỹ nhiều hơn người khác. Ngân sách chính phủ thế nào cũng giúp một số người được hưởng lợi ích hơn những người khác. Hai công việc thu và chi đó tự nhiên chuyển tài nguyên và lợi tức từ nhóm người này sang nhóm người khác; nói chung gọi là “phân bố lợi tức.”

Có thể quan sát đời sống chính trị bình thường ở một nước dân chủ là Hoa Kỳ để thấy hiện tượng“phân bố lợi tức.” Ðạo luật Nông Thôn (Farm Bill) mới được Quốc Hội Mỹ thông qua rõ ràng nhằm “phân bố lợi tức.” Những đạo luật Nông Thôn Farm Bill bắt đầu xuất hiện từ thời kinh tế khủng hoảng, thập niên 1930. Ðạo luật đầu tiên, năm 1936 nhằm giúp nhà nông đang gặp cảnh giá nông phẩm xuống thấp quá, chính phủ đứng ra mua các nông phẩm thặng dư, bồi hoàn tiền cho các nông trại ngưng không trồng trọt, và kèm theo một chương trình trợ cấp tiền mua thức ăn cho những người quá nghèo.

Chính sách này hiển nhiên dùng công quỹ, tức là tiền thuế do toàn dân đóng góp, cho một số người được hưởng. Dân chúng đồng ý với chính sách đó vì nó giúp giảm bớt cơn khủng hoảng kinh tế, ích lợi chung cho cả quốc gia. Chương trình trợ cấp thực phẩm trong đó sau mở rộng thành chương trình “phiếu thực phẩm” (food stamps). Nói đến các “nhà nông” ở Mỹ, chúng ta biết trong đó có cả những trại chủ lớn và các công ty nông nghiệp. Năm 1996, đạo luật Farm Bill mới đã bãi bỏ chính sách trợ cấp tiền cho nhà nông, thay bằng một chương trình bảo hiểm lợi tức nông sản, và chính phủ trợ cấp tiền đóng bảo hiểm cho giới nông dân. Từ năm 1938, đạo luật Nông Thôn cứ năm năm phải được quốc hội thảo luận lại và triển hạn. Vì thế, các nhóm cử tri được hưởng lợi nhờ Farm Bill luôn luôn vận động các đại biểu quốc hội để bảo vệ quyền lợi của họ.

Vì đạo luật Farm Bill có hai phần, vừa giúp nhà nông bảo đảm lợi tức, vừa trợ cấp thực phẩm cho người quá nghèo, các đạo luật này được hai nhóm cử tri theo dõi. Do đó, mỗi lần đến kỳ đạo luật cần gia hạn thì hai nhóm vận động và tạo áp lực trên các đại biểu quốc hội. Ðảng Cộng Hòa thường bênh vực quyền lợi của các nhà nông, đảng Dân Chủ bảo vệ lợi ích của những người hưởng phiếu thực phẩm. Mỗi cuộc thảo luận trong quốc hội phản ảnh các lợi ích của hai nhóm cử tri này, nhưng cả hai đảng đều công nhận số tiền chi tiêu ngày càng lớn, gần đây đã lên từ 70 tới 80 tỷ mỹ kim một năm. Năm 2008, đạo luật được Quốc Hội thông qua đã bị cựu Tổng Thống George W. Bush phủ quyết vì chi tiêu tốn quá, với 80% số tiền chi cho chương food stamps, nhưng Quốc Hội đã đủ phiếu bác bỏ quyết định của ông. Năm ngoái, 2013, hai viện Quốc Hội Mỹ biểu quyết hai dự luật Farm Bill khác nhau. Dự luật tại Thượng Viện cắt 15% trợ cấp cho các nhà nông có lợi tức hàng năm trên 750,000 đô la. Dự luật của Hạ Viện bỏ không nói gì đến chương trình food stamps. Cuối cùng, không thể thỏa hiệp được với nhau, cũng vì hai viện do hai đảng kiểm soát. Ðạo luật mới năm nay đã được Quốc Hội thông qua sau khi tìm cách thỏa hiệp, sẽ chi trung bình 100 tỷ đô la mỗi năm trong 10 năm tới, trợ cấp cho các nhà nông được bảo vệ, trong khi chương trình food stamps bị cắt 8 tỷ đô la trong 10 năm tới. Việc cắt giảm tiền food stamps chỉ ảnh hưởng đến 4% số người đang thụ hưởng.

Không cần phải nói, ai cũng biết các đạo luật Farm Bill ở Mỹ đều tái phân bố lợi tức quốc gia. Nhiều đại biểu Quốc Hội tìm cách giành thêm quyền lợi cho các cử tri đã bầu họ. Trong đạo luật Farm Bill mới thành hình, một nhóm cử tri được hưởng lợi là những nhà nuôi catfish, phần lớn ở các tiểu bang phía Nam nước Mỹ. Chỉ cần một số đại biểu Quốc Hội vận động đặc biệt cho họ, thuyết phục được đa số đồng viện. Ðạo luật mới chỉ thay đổi một điều, là chuyển công việc thử nghiệm loại cá tương tự như catfish sang cho Bộ Nông Nghiệp, thay vì xưa nay vẫn do Cơ quan Kiểm soát Thức phẩm và Dược phẩm (F.D.A.) phụ trách. Nhưng Nghị Sĩ John McCain, tiểu bang Arizona cho rằng mục tiêu của việc sửa đổi này là ngăn cản việc nhập cảng loại cá tương tự như catfish nhập cảng từ nhiều nước Á Châu, như Việt Nam. Vì Bộ Nông Nghiệp xưa nay vẫn chú ý bảo vệ quyền lợi các nhà nông, nhà nuôi tôm, cá nhiều hơn nhân viên của cơ quan F.D.A..

Qua hai câu chuyện ở Thái Lan và ở Mỹ, phải công nhận rằng sinh hoạt chính trị trong một quốc gia bao giờ cũng ảnh hưởng trên việc phân bố tài sản và lợi tức. Ở các nước dân chủ, các nhóm dân chúng giành phần hơn kém trong cuộc chạy đua này, qua lá phiếu cử những người đại diện cho họ. Mỗi nhóm đều cố giành phần lợi lớn nhất cho mình. Nhờ các định chế dân chủ có tính chất cân bằng và kiểm soát, và nhờ người dân được tự do phát biểu, tự do lập đảng và bầu cử tự do, cho nên các quyền lợi dễ được cân bằng. Ở các nước độc tài, chỉ có một nhóm người chiếm quyền phân chia của cải. Tất nhiên, chỉ một nhóm người được chia phần lớn hơn tất cả những người khác.
(Diễn đàn Thế kỷ)

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng - UPR và tâm thế 'đường ai nấy đi'

Không khí buổi điều trần nhân quyền Việt Nam tại Geneva ngày 5/2/2014 thật kỳ lạ: phái đoàn Hà Nội đã ghi dấu như một trong những tưởng niệm đáng hổ thẹn nhất trong lịch sử Hội đồng nhân quyền LHQ khi bị giới quan sát độc lập nhún vai lắc đầu: “Nói như vẹt!”.

Tác giả thất vọng về trình bày của đoàn Việt Nam
Nhưng chính xác hơn, diễn ngôn của nhóm “luôn tôn trọng và bảo vệ quyền con người” đã được diễn đạt bằng hình thức đọc báo cáo thuần túy, với thời lượng chiếm đến gần 1/6 tổng quỹ thời gian cuộc điều trần.

Não trạng được thể hiện qua cung cách, và bản lĩnh cũng bộc lộ qua hình thức phát ngôn. Rất thường là giới quan chức lãnh đạo Việt Nam đã không có nổi một bài diễn từ ứng khẩu trước công chúng quốc tế. Rất thường là trong tay họ luôn và phải là một tờ giấy với những nội dung bằng tiếng Việt đã được dàn thư ký soạn thảo theo một trình tự không thể lẫn lộn về bố cục và giữa các đoạn văn đọc với nhau.

Đó cũng là cung cách và bản lĩnh của phái đoàn Việt Nam tại UPR Geneva.

'Thủ lợi khôn lỏi'

Tương lai của Hệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) càng trở nên xa vời trước tư thế cúi đầu đọc báo cáo không thể kiên định hơn của phái đoàn Việt Nam trong phòng điều trần Geneva. Chưa bao giờ số câu hỏi của các quốc gia thành viên lại chất đầy đến thế, nhưng cũng hiếm khi nào quốc gia trả bài lại trở thành thí sinh học thuộc lòng một cách trái khoáy đến như vậy.

Ai hỏi cứ hỏi, nhưng người trả lời luôn tuân thủ quy định “Cương lĩnh đảng quan trọng hơn hiến pháp”. Những cái đầu bóng mượt trồi lên trên bộ complê đắt tiền như tô điểm đáng mặt đồng tiền cho một bộ phận không nhỏ thuộc giới tinh hoa cầm quyền đang bị xác quyết là “thụt lùi sâu sắc về nhân quyền”.

Nhưng nếu quan sát sâu lắng hơn, thái độ bất chấp kỳ lạ đến mức bất chấp sỉ nhục như thế lại như toát lên phần nào quang cảnh nội tình trong nội bộ. Khái niệm nội bộ như vậy lại luôn trở thành tiêu điểm quốc gia kể từ hội nghị trung ương 6 vào tháng 9 năm 2012 kéo dài đến nay, và rất có triển vọng trở nên điểm nóng vào năm 2014 này và tiếp nối cho cả hai năm sau nữa.

Có thể nhận ra những điểm chói nội bộ nếu so sánh cuộc UPR lần này với UPR năm 2009. Vào cuộc kiểm điểm định kỳ phổ quát đầu tiên cách đây 4 năm, Nhà nước Việt Nam đã không nề hà thực thi một loạt “kỹ thuật vận động”, hoặc thủ pháp được coi là “quốc tế vận”. Những quốc gia thân cận về ý thức hệ như Cu Ba, Bắc Triều Tiên luôn chiếm diễn đàn trong một thời gian đủ dài để lớp câu hỏi còn lại của khối quốc gia phản biện là đủ ngắn.

Nhưng vào lần này, cho dù đã có dư luận định hướng về việc “hai trong ba quốc gia chủ trì phiên điều trần là “thân với Việt Nam””, nhóm “troika” gồm ba nước chủ tọa vẫn làm việc một cách công minh và công bằng. Không có bất kỳ thủ đoạn vận động nào qua mắt được ban tổ chức, và những người điều hành ở Hội đồng nhân quyền LHQ cũng không cho phép bất cứ một sự xâm phạm quyền con người nào ở chính nơi đây.




Dường như tại cuộc UPR vừa qua, Hà Nội đã phải chịu thúc thủ bởi các ràng buộc nhân quyền chặt chẽ mà không còn “linh hoạt và uyển chuyển” theo tính toán của họ được nữa."
Hiện hữu nghiêm khắc trên cho thấy dường như tại cuộc UPR vừa qua, Hà Nội đã phải chịu thúc thủ bởi các ràng buộc nhân quyền chặt chẽ mà không còn “linh hoạt và uyển chuyển” theo tính toán của họ được nữa.

Tuy nhiên, dấu hỏi nghi vấn cũng nên được đặt ra trong bối cảnh trước hàng trăm câu hỏi dồn dập và không thiếu câu hỏi nặng ký của các phái bộ quốc tế, hình thức “đọc bài” của phái đoàn Việt Nam vẫn bảo lưu từ đầu đến cuối buổi điều trần. Lẽ nào năng lực của phái đoàn này đúng nghĩa là “con vẹt” như giới quan sát mô phỏng? Hoặc còn hơn cả thế, phải chăng giới cầm quyền Việt Nam, sau khi lọt vào được Hội đồng nhân quyền, đã tố lên thái độ xem thường của họ trước mọi lời tố cáo về nhân quyền của phần lớn trong cộng đồng quốc tế? Hoặc còn nguyên do tiềm ẩn nào khác?

Trùng thời gian với buổi UPR Việt Nam tại Geneva, đã chính thức xuất hiện tin tức Tổng thống Hoa Kỳ Barak Obama sẽ có chuyến công du châu Á vào tháng 4/2014 tới. Cùng lúc, Thứ trưởng phụ trách khu vực Đông Á Thái Bình Dương của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, ông Daniel Russel, đã họp báo với thông tin “Hoa Kỳ khẳng định cam kết tham gia và chiến lược tái cân bằng về khu vực châu Á - Thái Bình Dương”.

Sau một thời gian dài kín tiếng, đại sứ Việt Nam tại Mỹ cũng cùng lúc không giấu được thái độ sốt ruột “Việt Nam mong thông báo quan trọng về TPP khi ông Obama đến châu Á”.

Một lần nữa trong bài viết này, chúng ta quay trở lại chủ đề TPP với toàn bộ tâm trạng thèm khát của “quốc gia sẽ được hưởng lợi nhiều nhất”, cùng quan điểm “vô cảm” từ quốc gia phải chấp nhận nhập siêu gần 2 tỷ USD từ Việt Nam trong năm 2013.

Tại Phòng bầu dục cuối tháng Bảy năm ngoái, Obama đã hứa hẹn với Chủ tịch Trương Tấn Sang về khả năng “sớm nhất có thể” hoàn tất ký kết TPP vào thời điểm cuối năm đó. Ngay lập tức, hệ thống báo đảng ở Việt Nam đã “tự diễn biến”: người ta khẳng định với dân chúng và giới doanh nghiệp là chắc chắn cuối năm 2013 hiệp định TPP “sẽ được hoàn tất” đối với Việt Nam. Hàng loạt bài viết tô hồng theo dạng “dưới ánh sáng TPP…” cũng theo đó tràn ngập trên mặt báo chí.

Tuy thế, lòng can đảm và tinh thần kiên định không phải là tất cả. Quy trình thoát lầy luôn là một quy luật có độ trễ, và đáng buồn là độ trễ ấy lại không còn tùy thuộc vào chủ quan duy ý chí của kẻ đang sa lầy gần lút đầu.

“Vẫn còn nhiều việc phải làm” là thành ngữ ngày càng thường trực trên môi giới ngoại giao và thương mại Hoa Kỳ trong các cuộc tiếp xúc với những cặp mắt mang hình TPP của giới chức Việt. Dường như người Mỹ đã thấm thía và ngày càng vận dụng nhuần nhuyễn cách chơi vẫn bị miệt thị là “thủ lợi khôn lỏi” của giới lãnh đạo Việt Nam.

'Đường ai nấy đi'

Không một lời “càm ràm” bổ sung, Hội nghị UPR 2014 đã kết thúc mà không cần đến những lời chỉ trích quá gai góc về nhân quyền Hà Nội.

Tất nhiên với căn bệnh không cần thuốc chữa của mình, Hà Nội có thể xem UPR chỉ là một thủ tục không hơn không kém. Nhưng khác hẳn với kỳ UPR năm 2009 và khác nhiều hơn nữa với giai đooạn 2006 khi Việt Nam được tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới, giới quan sát quốc tế dường như cảm nhận rõ rệt về tình thế “bất động” cùng những khó khăn bi kịch của đoàn điều trần Việt Nam vào lần này.




Không còn phong phú tiếng vỗ tay “nhất trí cao” trong đảng như cách đây 7 năm, giới chức lãnh đạo Việt Nam có thể bước vào kỳ UPR năm 2014 với tâm thế “đường ai nấy đi”...Cách hành văn theo lối đọc bài của phái đoàn Việt Nam tại Geneva chính là một bằng chứng sống động phản ánh tình trạng ngõ cụt ấy."
Không còn phong phú tiếng vỗ tay “nhất trí cao” trong đảng như cách đây 7 năm, giới chức lãnh đạo Việt Nam có thể bước vào kỳ UPR năm 2014 với tâm thế “đường ai nấy đi”. Từ đầu năm mới, hàng loạt sự kiện và biến cố gay cấn xen thú vị đã diễn ra. Thông điệp “Nắm chắc ngọn cờ dân chủ” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, lời khai chết người của bị cáo nhận án tử hình Dương Chí Dũng mà có thể làm thiệt hại nặng cho “phe lợi ích”, cuộc tưởng niệm bất thành về sự kiện Hoàng Sa, một cái Tết nguyên đán thảm hại chưa từng thấy trong đời sống dân chúng và doanh nghiệp… Tất cả đều dồn nén dưới đáy thùng như chực chờ bùng nổ.

Ở dưới đáy thùng ấy, làm sao các nhóm “đường ai nấy đi” ở Hà Nội còn đủ thời gian, minh mẫn và chuyên chính để chỉ đạo giữ thể diện tối thiểu trong cuộc đối chất tại UPR Geneva? Làm thế nào để những bộ complê nhân quyền ứng khẩu thay cho lối trình bày diễn văn cực kỳ phản cảm trên gương mặt ngoại giao?

Cách hành văn theo lối đọc bài của phái đoàn Việt Nam tại Geneva chính là một bằng chứng sống động phản ánh tình trạng ngõ cụt ấy.

Chưa kể đến những đòi hỏi từ Hoa Kỳ - quốc gia chiếm đến phân nửa thị trường xuất khẩu da giày, dệt may và hải sản của Việt Nam. UPR có thể không quá quan trọng và có thể bị coi thường, nhưng không phải ngẫu nhiên mà người Mỹ lại đặc tả đích danh bốn nhân vật Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày, Lê Quốc Quân và Trần Huỳnh Duy Thức “phải được trả tự do ngay lập tức”.

Cũng bởi thế, phiên xử phúc thẩm luật sư công giáo Lê Quốc Quân vào ngày 18/2/2014 sẽ là phép thử đầu tiên và đầy thách đố về một cuộc “kiểm điểm nhân quyền bất thường” tiếp nối.

Ai trong chính giới cao cấp sẽ lấy điểm nếu xử lý được tình huống thách đố đó?

Bài viết phản ánh quan điểm riêng và lối hành văn của tác giả, một nhà báo tự do đang sống ở TP. Hồ Chí Minh.

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng
Theo BBC

TIN LÃNH THỔ


TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét