Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2014

Lá thư người lính biên giới phía Bắc đến tay bạn gái sau 34 năm - Hoàng Sa, Trường Sa: pháp lý và chính trị - Việt Nam năm 2014: Dự báo những diễn biến chủ lưu

Việt Nam năm 2014: Dự báo những diễn biến chủ lưu


Những động thái nội bộ

Ngược lại năm 2013, Việt Nam năm 2014 sẽ mang đặc trưng biểu hiện đối nội nổi bật hơn so với hoạt động đối ngoại. Hoạt động đối nội như vậy có thể khá đặc sắc và có tính tranh đấu. Nếu vào năm 2013, hoạt động đối ngoại diễn ra rộng khắp với Trung Quốc, Nga, Pháp và Mỹ, thì năm 2014 có thể được xem là năm khởi động cho “chiến dịch hai năm” sắp xếp các vị trí của đại hội đảng lần thứ 12 vào năm 2016. Tuy nhiên, thời gian chuẩn bị nhân sự không còn nhiều, có thể đến giữa năm 2015 phải cơ bản hoàn thành phương án bố trí các chức vụ chủ chốt trong Bộ Chính trị. Do vậy có thể xem đây là cuộc chạy đua mang tính nước rút. Một trong những tín hiệu rõ rệt cho cuộc vận động này là thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với hàm ý “đổi mới thể chế”. Một tín hiệu khác còn rõ rệt hơn về không khí tranh đấu nội tình sẽ khá đậm đặc trong năm 2014 là lời khai đặc biệt “bất ngờ” của cựu quan chức Vinalines Dương Chí Dũng về một thứ trưởng Bộ Công an đã “làm lộ bí mật công tác”. Và hai tín hiệu này chỉ cách nhau đúng một tuần.

Những nhân sự cao cấp trong Bộ Chính trị trong đại hội 12 sẽ phụ thuộc cơ bản vào ba tiêu chí: mức độ ảnh hưởng mà họ tạo ra trong nội bộ đảng, ảnh hưởng của họ đối với khối trí thức và dân chúng, và cuối cùng là dấn ấn của họ trong quan hệ đối ngoại. Trong đó, ảnh hưởng trong nội bộ đảng là yếu tố quyết định, kế đến là ảnh hưởng trong dân chúng.

Một đặc thù khác ngày càng lộ diện rõ hơn và đáng được quan tâm là sẽ gia tăng khuynh hướng tản quyền và tự trị tại một số chính quyền địa phương, đồng thời “tự chuyển hóa” hơn nữa bằng quá trình tiết giảm vai trò lãnh đạo và chỉ đạo của đảng. Khuynh hướng này sẽ càng rõ nét theo quy luật ly tâm chính trị vào những năm tới, khi bối cảnh và tình thế chính trường trở nên phức tạp hơn hẳn hiện thời.

Năm 2014 cũng sẽ xác nhận những tác động theo chiều sâu của vấn đề Campuchia đối với chính trường và xã hội Việt Nam. Sau sự kiện năm 1979, có thể xem đây là lần thứ hai mối nguy cơ Campuchia phát lộ, do khả năng đất nước này có thể rơi vào tình trạng hỗn loạn về chính trị và xã hội bởi cuộc tranh giành được đẩy lên thế tương đối cân bằng và khó dung hòa giữa đảng cầm quyền của Thủ tướng Hun Sen với đảng đối lập của ông Sam Rainsy. Tình hình này có thể dẫn tới khả năng đảng cầm quyền không còn trụ vững và có thể bị thay đổi hoặc bị thay thế vai trò trong 3-4 năm tới, thậm chí sớm hơn, dẫn đến khả năng sức ép chính trị và cả quân sự sẽ gia tăng lên khu vực biên giới Tây Nam của Việt Nam, đồng thời gây nên hiệu ứng phân hóa hơn nữa đối với nền chính trị Việt Nam.

Những đối sách về nhân quyền

Liên quan đến việc tạo dựng hình ảnh đối với dân chúng, những câu chuyện bề nổi mà giới lãnh đạo nhắm tới vẫn chủ yếu là những nội dung then chốt thuộc điều 69 của Hiến pháp năm 1992 hay điều 25 của Hiến pháp năm 2013 về các quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin, quyền tự do biểu tình và có thể cả quyền được trưng cầu dân ý.

Vì thế trong năm 2014, có khả năng Quốc hội sẽ được tác động ở mức độ nhất định để ban hành Luật tiếp cận thông tin, Luật lập hội và có thể cả Luật biểu tình. Cả ba đạo luật này đều mặc nhiên xuất phát từ nhu cầu và cũng là xu thế đương nhiên của xã hội công dân, đồng thời là một trong những điều kiện của khối phương Tây trong mối quan hệ thương mại đa phương với Việt Nam. Một chi tiết đáng chú ý là thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đề cập “người dân có quyền làm những gì mà pháp luật không cấm”.

Cũng nhằm thỏa mãn nhiều hơn yêu cầu của người dân và đòi hỏi của cộng đồng quốc tế, giới chính khách trong nước nhiều khả năng sẽ thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia trong năm 2014. Cơ quan này có thể tồn tại dưới hình thức Hội đồng nhân quyền quốc gia hoặc như một ủy ban nhân quyền quốc gia trực thuộc chính phủ, thay thế cho ban chỉ đạo nhân quyền quốc gia trước đây. Tuy nhiên, vẫn chưa có nhiều dấu hiệu hứa hẹn cho việc cơ quan nhân quyền quốc gia này sẽ nhận thức và hành động cân bằng giữa nhiệm vụ “phòng, chống các thế lực lợi dụng nhân quyền” với việc quan tâm thực chất đến quyền con người của dân chúng.

Một thỏa hiệp khác của Nhà nước Việt Nam với phương Tây là sẽ dần thừa nhận vai trò và dần chấp nhận sự tồn tại và vận động của xã hội dân sự ở Việt Nam, và thái độ này sẽ thể hiện rõ nét hơn trong năm 2014. Tình hình này dẫn đến việc năm 2014 sẽ xuất hiện nhiều tổ chức dân sự hơn năm 2013. Nếu chỉ xét đến các tổ chức dân sự theo đường hướng xã hội - chính trị, số tổ chức hình thành trong năm 2014 có thể gấp đôi năm 2013. Tuy nhiên, điều đáng quan ngại là một số trong đó hoạt động thiếu tính thực chất.

Trong bối cảnh xã hội dân sự bắt đầu được thừa nhận, hoạt động truyền thông xã hội (còn gọi là “lề trái”) sẽ được “hợp thức hóa” và sẽ gia tăng về số lượng, trong khi cơ chế cản trở bằng bức tường lửa trên mạng Internet sẽ giảm bớt.

Năm 2014 cũng có thể chứng kiến một số biểu hiện giao lưu, kết nối kín đáo giữa báo chí “lề phải” với truyền thông “lề trái” về quan điểm và mối tương tác trong một số vụ việc nhạy cảm của xã hội, kinh tế. Theo đó, hiện tượng nhà báo, phóng viên “lề phải” trực tiếp hoặc gián tiếp gia nhập hoạt động truyền thông “lề trái” sẽ gia tăng về số lượng cung cấp thêm cho “lề trái” một lực lượng nhỏ cây viết chuyên nghiệp. Hiện tượng này sẽ diễn ra bất chấp sự ngăn cản và cấm đoán của hệ thống tuyên giáo.

Trong xu thế hé dần cửa đối ngoại, chủ đề hòa hợp hòa giải dân tộc sẽ một lần nữa được nêu lại, sau hai lần chỉ mang tính hình thức sau Hiệp định song phương Việt - Mỹ (2001) - thể hiện bằng nghị quyết 36 của Bộ Chính trị, và sau thời điểm năm 2006 khi Việt Nam được chấp nhận tham gia vào WTO. Năm 2014 có thể là giai đoạn khởi đầu cho việc Nhà nước Việt Nam xem xét lại chế độ xuất cảnh đối với một số nhân vật bất đồng chính kiến theo đường lối ôn hòa, cũng như cơ chế nhập cảnh cho một số nhân vật người Việt hải ngoại không đến mức bị coi là “chống phá nhà nước”.

Cùng với khả năng tăng tiến lộ trình tham gia vào TPP, chính quyền có thể tiến hành trả tự do có điều kiện cho một ít nhân vật bất đồng chính kiến, trong đó có Lê Quốc Quân, Phạm Viết Đào.

Tình hình trên cũng có thể dẫn đến chủ trương chính quyền tạm thời không thi hành biện pháp bắt bớ giới bất đồng chính kiến, nhưng thay vào đó sẽ tiếp tục tăng cường hành động gây khó khăn cản trở, sách nhiễu đối với giới này. Đặc biệt tại một số địa phương, những nhóm dân chủ hoạt động công khai ngoài đường phố sẽ có thể hứng chịu hình ảnh “đấm đá nhân quyền” hoặc những hành vi dưới tầm mức văn hóa của nhân viên công lực.

Xu thế chính trị đối ngoại lẫn đối nội cũng tạo điều kiện cho sự xuất hiện đảng chính trị độc lập và còn có thể xuất hiện đảng chính trị đối lập trong dân chúng, tuy chỉ với quy mô nhỏ.

Đồng thời, hiện tượng thoái - bỏ đảng sẽ lan tỏa rộng hơn và công khai hơn, đặc biệt vào quý cuối của năm 2014 khi nền kinh tế tiếp tục xuống dốc. Cùng với sự xuất hiện của ngày càng nhiều các tổ chức hội đoàn độc lập với nhà nước, hiện tượng thoái - bỏ đảng sẽ chính thức trở thành một trào lưu mang tính xu thế vào cuối năm 2014, làm đề dẫn cho một xu thế mạnh mẽ hơn vào những năm sau đó.

Ứng với bối cảnh như thế, Dự luật nhân quyền Việt Nam (HR 1897) và Dự luật chế tài nhân quyền Việt Nam nhiều khả năng vẫn chưa được thông qua tại Thượng nghị viện Hoa Kỳ, sau khi HR 1897 đã được thông qua tại Hạ nghị viện vào tháng 8/2013 với số phiếu thuận gần như tuyệt đối.

Động thái ngả về phương Tây

Xu hướng và xu thế thoái - bỏ đảng đương nhiên sẽ tạo thêm một tác động không nhỏ đối với nhận thức, hành vi ứng xử cách biệt và phân hóa trong nội bộ đảng. Với những dấu hiệu manh nha từ năm 2013, xu hướng nhóm chính khách mang quan điểm gần gũi hơn với phương Tây sẽ nổi lên rõ hơn vào năm 2014, dần trở nên cân bằng và có thể còn có phần lấn ảnh hưởng của nhóm chính khách “thân Trung Quốc” ở Hà Nội và tại một số tỉnh thành. Biểu hiện sớm nhất và rõ nhất của sự đối chọi giữa hai xu hướng này là mối giao kết về hợp tác hải quân Việt - Mỹ sẽ gia tăng, trong khi Trung Quốc sẽ lại xúc tiến gây hấn tại biển Đông vào một số thời điểm, trùng với thời gian mà mối quan hệ Việt Nam - phương Tây trở nên “nồng ấm” hơn.

Xu hướng ly khai dần khỏi tâm điểm Bắc Kinh cũng liên quan mật thiết đến chính sách nhập khẩu nguyên, phụ liệu của Việt Nam từ Trung Quốc. Để có thể tham gia đầy đủ vào TPP và được miễn thuế xuất khẩu hàng hóa, Việt Nam phải đáp ứng yêu cầu là hàng hóa đó phải có xuất xứ từ các nước nội khối TPP, trong khi Trung quốc vẫn chưa phải là thành viên TPP. Do đó, Chính phủ Việt Nam có thể phải tìm nhiều cách để giảm bớt cơ cấu nhập khẩu nguyên, phụ liệu từ Trung Quốc và chuyển đổi vùng nhập khẩu sang các quốc gia khác. Tuy nhiên, đây là một nhiệm vụ đầy thách thức vì trước đó có đến 80-90% nguyên phụ liệu phụ thuộc vào Trung Quốc, và bởi sức ép về chính trị và kinh tế của Trung Quốc đối với Việt Nam là liên tục và sẵn sàng căng thẳng.

Tuy nhiên, với “quyết tâm” tìm phao cứu sinh từ ngoại viện phương Tây, Việt Nam sẽ được chấp thuận tham gia vào TPP trong năm 2014, thậm chí khả năng này có thể xảy ra ngay trong nửa đầu năm 2014. Tuy nhiên, tính hiệu quả của TPP là không thể tức thời, khi thời hiệu áp dụng sớm nhất của hiệp định này là giữa năm 2015 hoặc đầu năm 2016.

Để được chính thức chấp thuận tham gia vào TPP, Nhà nước Việt Nam sẽ chấp nhận một số điều kiện của phương Tây về cho phép hình thành nghiệp đoàn lao động, lập hội và cải cách doanh nghiệp nhà nước (liên quan đến cơ chế giảm dần và tiến đến xóa độc quyền của một số doanh nghiệp như điện lực, xăng dầu…).

Cuối 2014: khởi đầu khủng hoảng kinh tế

Một sự thật không thể chối bỏ là cho dù được chấp thuận bởi TPP, nền kinh tế Việt Nam vẫn quá khó trong năm 2014. Rất nhiều khả năng nền kinh tế này sẽ vận động ngang trong năm 2014 chứ không thể tăng tốc được, và cũng chưa có dấu hiệu rõ ràng nào cho thấy sẽ “thoát đáy”.

Gần như toàn bộ mấu chốt của nan giải kinh tế Việt Nam nằm ở nợ xấu, trong đó ít nhất 70% thuộc về nợ xấu bất động sản. Với những dấu hiệu rõ ràng của nửa cuối năm 2013, gói kích thích 30.000 tỷ đồng dành cho bất động sản coi như đã hoàn thành vai trò lịch sử đậm nghĩa thất bại của nó. Những chính sách hỗ trợ khác như chính sách cho người nước ngoài mua nhà và cho phân lô bán nền cũng sẽ chỉ có tác dụng rất nhỏ. Hệ số tiêu thụ của phân khúc căn hộ cao cấp rất thấp. Hệ số tiêu thụ của căn hộ trung cấp nhỉnh hơn nhưng cũng không hề khả quan. Tồn kho bất động sản, đặc biệt là bất động sản cao cấp sẽ giữ gần như nguyên trạng, trong khi số căn hộ cao cấp và trung cấp cung ứng cho thị trường sẽ càng tăng, tạo nên hiện tượng bội cung ngày càng lớn. Trong khi đó, các thị trường đầu cơ như vàng, chứng khoán đều rất thiếu triển vọng.

Nhìn chung, Ngân hàng nhà nước và các ngành liên quan sẽ không thể xử lý được nợ xấu nói chung và nợ xấu bất động sản nói riêng. Vào giữa năm 2014, công cuộc xử lý này nhiều khả năng sẽ bế tắc hoàn toàn.

Với những dấu hiệu khá rõ ràng về nợ xấu, thực trạng khan hiếm tiền mặt, tình trạng bi đát của hệ thống ngân hàng thương mại vào cuối năm 2013, nhiều khả năng hệ thống ngân hàng bắt đầu bước chân và giai đoạn đổ vỡ vào nửa cuối năm 2014. Khi đó nền kinh tế cũng bắt đầu thời kỳ đầu tiên lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế, khi trước đó đã có 7 năm suy thoái.

Trong bối cảnh đó, lưu thông tiền tệ càng suy thoái, một số kênh kinh doanh trở nên bất động. Tâm lý người dân găm giữ tiền và vàng mà không đưa vào lưu thông trở nên rất phổ biến.

Vào năm 2014, Nhà nước sẽ phải tìm mọi cách huy động vàng trong dân để cứu nguy nền kinh tế, nhưng sứ mệnh này sẽ thất bại do niềm tin tiêu dùng và cả niềm tin chính thể của người dân xuống đến mức thấp chưa từng có. Ngân hàng nhà nước có khả năng sẽ phải bán ngoại tệ dự trữ để thu tiền mặt phục vụ cho ngân sách chi tiêu, nhưng hệ quả không tránh khỏi của sứ mệnh này lại càng làm tăng lạm phát. Theo đó, chỉ số lạm phát năm 2014 có thể “ngoài dự kiến”.

Để giải quyết vấn nạn thiếu tiền mặt, nhiều ngân hàng thương mại sẽ đẩy cao lãi suất tiền gửi như tình trạng tương tự vào nửa cuối năm 2011. Chính sách cho vay giá rẻ cũng vì thế sẽ hầu như phá sản. Một phần lớn doanh nghiệp thiếu vốn sẽ càng khó khăn và tỷ lệ doanh nghiệp phá sản sẽ càng tăng. Trong đó, “cái chết” của doanh nghiệp bất động sản là một hệ quả đặc trưng nhất.

Không thể giải quyết cơ bản hàng tồn kho và cũng không thể thanh toán được nợ vay, năm 2014 sẽ chứng kiến khoảng 30% doanh nghiệp bất động sản phải phá sản. Những năm sau đó sẽ có khoảng 30-40% doanh nghiệp bất động sản tiếp tục phá sản, khiến cho toàn bộ hoạt động kinh doanh nhà đất ở Việt Nam tê liệt và chính thức rơi vào “thập kỷ mất mát”.

Bất ổn và phản kháng: giai đoạn đầu của khủng hoảng xã hội

Kinh tế tiếp tục suy thoái và bắt đầu bước chân vào khủng hoảng là mảnh đất phì nhiêu cho các mầm mống bất ổn xã hội. Nếu trong năm 2013, bất ổn đã sinh ra từ nhiều phản ứng và phản kháng của dân chúng đối với chính quyền, thì đến năm 2014, số lượng và quy mô phản kháng chắc chắn sẽ tăng cao hơn.

Bản hiến pháp năm 2013 được thông qua với nhiều nội dung không được cải cách cũng là nguồn gốc dẫn đến tâm thế trục lợi không thay đổi và bất chấp dân sinh của các nhóm lợi ích và nhóm thân hữu. đặc biệt là những nhóm lợi ích về chính sách và đất đai.

Hơn ai hết, các nhóm lợi ích là người điều khiển thị trường và hiểu rằng nền kinh tế đang đi đến hồi kết bi kịch. Do vậy, những năm tới sẽ là giai đoạn trục lợi và vơ vét cuối cùng trước khi nền kinh tế sụp đổ hoàn toàn. Đó là lý do khiến mức độ và tính chất vơ vét sẽ tăng tốc, tàn nhẫn và hung bạo hơn, dẫn đến thái độ và hành vi khản kháng của dân chúng càng phẫn uất và quyết liệt không kém.

Phản kháng dân chúng sẽ tập trung vào lĩnh vực đất đai, môi trường, điều kiện lao động, giá cả. Số cuộc và số người dân tuần hành, biểu tình sẽ gia tăng so với năm 2013.

Hiện tượng chống nhân viên công lực và hiện tượng “tự xử” của người dân cũng sẽ gia tăng nhanh chóng tại nhiều địa phương và ngay tại Hà Nội. Hầu hết hiện tượng như vậy đều diễn biến theo chiều hướng tự phát và thiếu kiểm soát. Trong một số trường hợp gặp phải tác động tiêu cực từ phía cơ quan công quyền, phản ứng tự phát của người dân có thể biến thành bạo động cục bộ và quy mô nhỏ.

Vào cuối năm 2014, trong khung cảnh có thể khởi đầu khủng hoảng kinh tế, quỹ bảo hiểm xã hội và quỹ lương hưu cũng có thể bắt đầu lâm vào tình trạng nguy hiểm. Cùng với làn sóng thoái - bỏ đảng phát sinh vào thời điểm này, có thể phát sinh những phản ứng mạnh mẽ đầu tiên của tầng lớp hưu trí, làm tiền đề cho xu thế bỏ đảng trong giới hưu trí và cả một bộ phận thuộc giới đảng viên đương chức trong những năm sau.

Trước sự bất ổn của tình hình xã hội và chính trị, xu hướng di cư và chuyển tài sản ra nước ngoài sẽ gia tăng, không chỉ tập trung vào tầng lớp nhóm lợi ích và một bộ phận quan chức đặc quyền đặc lợi mà với cả tầng lớp trung lưu.

Trước áp lực và các mâu thuẫn xã hội tăng vọt, bị ràng buộc bởi quyền lợi và mối quan hệ với các nhóm lợi ích, chương trình chống tham nhũng của Đảng và Chính phủ sẽ chỉ còn tính tượng trưng và càng làm cho niềm tin chế độ của người dân bị “suy thoái” hơn bao giờ hết.

Kết

Dự báo tổng quan, năm 2014 sẽ chứng kiến 5 diễn biến chủ lưu ở Việt Nam:

(1) 2014 là năm đầu tiên của một chu kỳ khủng hoảng ngân hàng, bắt đầu từ sự đổ vỡ của vài ngân hàng hạng trung và có thể dẫn đến sụp đổ dây chuyền trong ít nhất 50% số ngân hàng hiện hữu, dẫn đến khủng hoảng gần như toàn bộ nền kinh tế. Chu kỳ khủng hoảng kinh tế có thể lên đến cao điểm vào năm 2016-2017 và trở thành sóng nhấn cuối cùng đối với con thuyền chính trị. Đây là diễn biến quan yếu nhất.

(2) Bất ổn xã hội và phản kháng dân chúng sẽ tăng cao về số lượng, quy mô, tạo nên áp lực lớn đối với chính thể và nằm trong giai đoạn đầu của một cuộc khủng hoảng xã hội trong những năm sau. Xu hướng này sẽ mau chóng biến thành xu thế ở rất nhiều địa phương, liên quan đến đất đai, môi trường, quan hệ giữa người dân và nhân viên công lực, nạn tham nhũng… Sẽ xuất hiện nhiều hội nhóm độc lập của người dân như những tiền đề của xã hội dân sự.

(3) Bước khởi động cho cuộc tranh đua chính trị chuẩn bị cho đại hội đảng thứ 12, đặc biệt là vị trí tổng bí thư đảng và vai trò thủ tướng, kể cả vấn đề “hậu chuyển tiếp” cho một mô hình chính trị mới.

(4) Xu hướng và lực lượng gần gũi với phương Tây sẽ rõ nét và chiếm ưu thế hơn trong nội bộ đảng. Nếu thành công trong hai năm 2014 - 2015, xu hướng này sẽ chuyển thành xu thế vào các năm 2016 – 2017 và có thể tạo nên một sự thay đổi lớn về bản chất chế độ chính trị.

(5) Hoạt động dân chủ gia tăng đáng kể về số lượng hội nhóm, nhưng bị hạn chế về nguồn nhân lực và thiếu tính trực tiếp với nhu cầu dân sinh nên không thu hút được số đông quần chúng. Chỉ một bộ phận nhỏ trong số các nhóm dân chủ hoạt động có tính thực chất và đạt được thành công ở mức độ khiêm tốn.

Nhà báo, TS. Phạm Chí Dũng
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

Hoàng Sa, Trường Sa: pháp lý và chính trị

VN vẫn chưa đưa các vấn đề tranh chấp chủ quyền với TQ trên Biển Đông ra tòa án quốc tế.

Trong một bài trên BBC, TS Trần Công Trục phản biện ý kiến Việt Nam cần “[c]hính thức tuyên bố hủy bỏ công hàm do cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký năm 1958”. Mặc dù trong một bài khác trên BBC tôi có cùng kết luận với TS Trần Công Trục, tôi cho rằng một số lập luận khác của TS Trần Công Trục là chưa đủ để biện luận cho chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trước Tòa hay dư luận luật học.

Thủ tướng VNDCCH có thẩm quyền không?


Các bài liên quan

Lập luận “Các Hiệp ước, Hiệp định này phải được Cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất phê chuẩn theo thủ tục pháp lý rất chặt chẽ mới có hiệu lực thi hành ... các tuyên bố, các văn bản của một nhân vật nào đó, dù là những quan chức nhà nước cao nhất, có nội dung về biên giới lãnh thổ đều không có giá trị pháp lý tuyệt đối trong quan hệ quốc tế” dường như có ý cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng (CH PVĐ) chưa được Quốc hội phê chuẩn cho nên không có đủ giá trị pháp lý.

Trong phiên tòa xử tranh chấp Đông Greenland, Na Uy cho rằng Ngoại trưởng Na Uy Nils Claus Ihlen đã không có thẩm quyền khi nói với Bộ trưởng Đan Mạch rằng kế hoạch của Đan Mạch về chủ quyền Đan Mạch trên toàn bộ Greenland sẽ không gặp khó khăn gì từ Na Uy, và theo luật Na Uy thì Quốc hội mới có thẩm quyền. Nhưng Tòa đã bác bỏ lập luận này, với lý do trong luật quốc tế Ngoại trưởng có thẩm quyền để đại diện cho quốc gia trong vấn đề lãnh thổ.

Như vậy, lập luận “Quốc hội chưa phê chuẩn” chắc chắn sẽ bị bác bỏ, vì trong luật quốc tế Thủ tướng cũng là người có thẩm quyền để đại diện cho quốc gia trong vấn đề lãnh thổ.

Hướng lập luận “TT Phạm Văn Đồng không có thẩm quyền” là đúng, nhưng có lẽ sẽ phải dựa trên lập luận lúc đó Hoàng Sa, Trường Sa không nằm dưới thẩm quyền lãnh thổ của VNDCCH, mà dưới thẩm quyền của một quốc gia Việt khác. “Quốc gia” ở đây là khái niệm pháp lý được định nghĩa trong Công ước Montevideo 1933 là một chủ thể có lãnh thổ, dân cư, chính phủ và khả năng có quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác. Quốc gia là khác với Tổ quốc, đất nước, nhà nước hay chính phủ.

Không công nhận, nhưng lại không bảo lưu




Vấn đề còn nghiêm trọng hơn vì từ 1954 đến 1976 VNDCCH đã không khẳng định chủ quyền Việt trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Theo luật quốc tế, nổi bật nhất là theo phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế về tranh chấp đảo Pedra Branca, nếu trong một thời gian dài mình không khẳng định chủ quyền trong khi nước khác đòi chủ quyền thì mình có thể mất"
Lập luận “[CH PVĐ] chỉ ủng hộ và thừa nhận phạm vi lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc vừa tuyên bố, không có chữ nào nhắc đến 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ...” khó có thể biện luận đầy đủ cho chủ quyền Việt Nam.

Đúng là tuyên bố 5/9/1958 của Trung Quốc có đưa ra ba nguyên tắc chính: (1) lãnh hải 12 hải lý, (2) đường cơ sở thẳng và nội thủy cho Hoa Lục và các đảo gần bờ, (3) tàu thuyền nước ngoài đi lại trong lãnh hải phải tuân thủ luật Trung Quốc, tàu thuyền máy bay quân sự nước ngoài vào lãnh hải phải xin phép. Nhưng tuyên bố đó cũng ghi rằng nguyên tắc thứ nhất được áp dụng cho “tất cả lãnh thổ Trung Quốc, bao gồm ... Hoàng Sa, ... Trường Sa và các đảo khác của Trung Quốc”, và nguyên tắc thứ nhì và ba được áp dụng cho “...Hoàng Sa, ...Trường Sa và các đảo khác của Trung Quốc.” 

Công Hàm Phạm Văn Đồng ghi “Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.” CH PVĐ tuy không nhắc đến Hoàng Sa, Trường Sa nhưng đã ghi rằng CP VNDCCH ghi nhận và tán thành như trên mà không bảo lưu gì về hai quần đảo đó.

Có thể dựa vào “không nhắc đến” để biện luận “không công nhận”, và như vậy là cần thiết, nhưng không đủ. Lý do là sự không bảo lưu trên có nghĩa VNDCCH đã không khẳng định chủ quyền Việt trước sự khẳng định chủ quyền của Trung Quốc. Vấn đề còn nghiêm trọng hơn vì từ 1954 đến 1976 VNDCCH đã không khẳng định chủ quyền Việt trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Theo luật quốc tế, nổi bật nhất là theo phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế về tranh chấp đảo Pedra Branca, nếu trong một thời gian dài mình không khẳng định chủ quyền trong khi nước khác đòi chủ quyền thì mình có thể mất.

Trong kịch bản giả tưởng chính phủ VNDCCH đã là đại diện pháp lý cho toàn Việt Nam, với hành vi của VNDCCH, Việt Nam sẽ khó thắng cuộc tranh biện pháp lý. Điều làm cho Việt Nam thua trong kịch bản này sẽ không ở việc công nhận hay không công nhận, mà ở việc không khẳng định chủ quyền của mình trong khi nước khác đòi chủ quyền.

Một trong những phương hướng lập luận cho Việt Nam là chứng minh rằng trong giai đoạn 1954-1975 đã có một quốc gia Việt khác với VNDCCH duy trì chủ quyền Việt trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Chủ quyền Việt đã được một quốc gia duy trì? 

Công hàm 1958 do Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng ký tiếp tục là chủ đề cần xử lý khi VN đòi chủ quyền HS-TS.
Lập luận chính thức của Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa viện dẫn các tuyên bố và hành động chủ quyền lãnh thổ của VNCH. Nhưng trong luật quốc tế các tuyên bố và hành động chủ quyền lãnh thổ phải là do đại diện cho một quốc gia thì mới có giá trị pháp lý. Vì vậy, để cho các tuyên bố và hành động chủ quyền lãnh thổ của chính quyền VNCH có giá trị pháp lý, lúc đó chính quyền đó phải là đại diện pháp lý cho một quốc gia.

Do đó, và lưu ý đến thực tế, để cho các tuyên bố và hành động chủ quyền lãnh thổ của VNCH có giá trị pháp lý, cần vận dụng quan điểm cho rằng từ 1956 đến 1976 có hai quốc gia Việt trên một đất nước Việt Nam, mỗi quốc gia một bên vĩ tuyến 17. Thêm vào đó, cần vận dụng quan điểm cho rằng từ 1956 đến 30/4/1975 chính phủ VNCH là đại diện pháp lý của quốc gia phía Nam, và sau 30/4/1975 CP CMLT CHMNVN là đại diện pháp lý của quốc gia đó cho đến khi Việt Nam thống nhất năm 1976.

Lập luận “... theo Hiệp định quốc tế Geneva 1954 bàn về vấn đề Đông Dương ... Việt Nam Cộng Hòa là một thực thể chính trị, một chủ thể trong quan hệ quốc tế được quốc tế công nhận. Vì vậy, Việt Nam Cộng Hòa là đại diện cho nhà nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam để quản lý và thực thi chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ...” đi theo hướng cần thiết: “VNDCCH không có thẩm quyền lãnh thổ đối với Hoàng Sa, Trường Sa; VNCH có”, nhưng nó có đi xa đủ và và nó có mạnh đủ chưa?

Theo Hiệp định Geneva, chính quyền VNDCCH quản lý miền Bắc, và Liên Hiệp Pháp quản lý miền Nam. Vấn đề là “quản lý” có nghĩa gì? Nó chỉ có nghĩa quản lý dân sự nội địa bên trong duy nhất một quốc gia Việt, hay nó bao hàm cả thẩm quyền lãnh thổ trong quan hệ quốc tế?

Nếu chỉ là trường hợp thứ nhất thì khó thể cho rằng theo Hiệp định Geneva chính quyền VNDCCH không có thẩm quyền lãnh thổ trong quan hệ quốc tế đối với Hoàng Sa, Trường Sa, và chính quyền VNCH có. Trường hợp này sẽ có nhiều rủi ro cho Việt Nam trước Tòa và dư luận luật học.

Nếu là trường hợp thứ nhì, thí dụ như sau 1954 hay 1956 sự quản lý được quy định trong Hiệp định Geneva đã tiến hóa để bao hàm cả thẩm quyền lãnh thổ trong quan hệ quốc tế, thì chính quyền VNDCCH không có thẩm quyền lãnh thổ trong quan hệ quốc tế đối với Hoàng Sa, Trường Sa, và chính quyền VNCH có. Đó là điều cần thiết cho lập luận về Hoàng Sa và Trường Sa.

Nhưng trong luật quốc tế thì “có thẩm quyền lãnh thổ trong quan hệ quốc tế”“là một quốc gia” đi đôi với nhau. Như vậy, lập luận cần thiết để bảo vệ chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa, Trường Sa đi đôi với quan điểm khi VNCH còn tồn tại thì chính thể đó đã từng là một quốc gia, và với quan điểm trước 30/4/1975 chính quyền VNCH là đại diện của quốc gia đó trong luật quốc tế.

Lãnh vực nhạy cảm?




Nếu không phi nhạy cảm hóa việc thảo luận giữa người Việt và việc trình bày với quốc tế về những vấn đề quốc gia, đại diện pháp lý của quốc gia, thống nhất đất nước, thì sẽ bất lợi cho Việt Nam trong tranh chấp chủ quyền"
Dễ thấy vì sao hai quan điểm trên dễ bị cho là “nhạy cảm”, thậm chí là “phản động”. Thậm chí còn có thể có những chuyện chụp mũ kiểu "Anh nói có 2 quốc gia và chính quyền VNCH đã từng là đại diện pháp lý. Vậy là anh muốn khôi phục VNCH, anh là phản động, anh muốn chia đôi đất nước lần nữa." Nhưng nếu cho rằng trước 1976 và 1975 có hai quốc gia, hay cho rằng trước 30/4/1975 chính quyền VNCH đã từng là đại diện pháp lý của một quốc gia thì đó chỉ là một nhận định về quá khứ, không có nghĩa muốn chia đôi đất nước đã thống nhất năm 1976, và không có nghĩa muốn khôi phục VNCH.

Mặt khác, nếu cho rằng VNDCCH và CHMNVN đã thống nhất một cách hợp pháp thành CHXHCNVN năm 1976, và do đó CHXHCNVN đã thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa, thì dễ bị cho là “thân Cộng”, thậm chí là “biện minh cho CS xâm chiếm miền Nam”, nhưng đó cũng là chụp mũ.
Thật ra khi VNDCCH và CHMNVN còn tồn tại thì quan điểm chính thức của hai chính thể đó là có hai quốc gia trên đất nước Việt Nam, mỗi quốc gia một bên vĩ tuyến 17. Quan điểm đó cũng bao hàm quan điểm trước 30/4/1975 có hai quốc gia. Nhưng ngày nay quan điểm đó bị lãng quên nhiều và truyền thông Việt Nam ít dám đụng đến nó.

Về quan điểm cho rằng từ 1956 đến 30/4/1975 chính phủ VNCH là đại diện pháp lý của quốc gia phía Nam, có thể phi nhạy cảm hóa nó phần nào bằng cách lưu ý rằng đại diện của một quốc gia trong luật quốc tế là một vấn đề trong phạm trù luật quốc tế tương đối độc lập với các vấn đề chính trị, chính nghĩa của các chính quyền VNCH, chính quyền VNDCCH và chính quyền CHMNVN.
Nếu không phi nhạy cảm hóa việc thảo luận giữa người Việt và việc trình bày với quốc tế về những vấn đề quốc gia, đại diện pháp lý của quốc gia, thống nhất đất nước, thì sẽ bất lợi cho Việt Nam trong tranh chấp chủ quyền.

Từ trước đến nay, người Việt thường nhận định về cuộc chiến 1954-1975 từ những góc độ ý thức hệ, chính trị và chính nghĩa của bên mình. Phải chăng nhu cầu tranh biện pháp lý về Hoàng Sa, Trường Sa đang đòi hỏi người Việt phải đi đến một nhận định về lịch sử có thêm tính chất luật quốc tế và bớt bị kẹt trong các lề ý thức hệ, chính trị và chính nghĩa?

Bài viết phản ánh quan điểm riêng và lối hành văn của tác giả, một thành viên sáng lập của nhóm Nghiên cứu Biển Đông.
Dương Danh Huy
Theo BBC

Lá thư người lính biên giới phía Bắc đến tay bạn gái sau 34 năm

"Ngày mai anh sẽ hành quân, anh sẽ không ngủ để nhớ em, không ngủ để diệt thù, không ngủ để nhìn em suốt canh thâu, không ngủ để gần em và luôn thấy em".



Lá thư của một người lính gửi người yêu đề ngày 19/2/1979 đã được trao tận tay cho người bạn gái năm xưa ở Hải Hậu, Nam Định. Người lính ấy đã hy sinh chỉ hơn 2 tuần sau khi viết bức thư.

"Ngày mai anh sẽ hành quân, anh sẽ không ngủ để nhớ em, không ngủ để diệt thù, không ngủ để nhìn em suốt canh thâu, không ngủ để gần em và luôn thấy em!" - Đó là lời nhắn gửi của Liệt sĩ Nguyễn Thái Hòa (khi đó là Chuẩn úy, Chính trị viên phó) trong lá thư cuối cùng gửi cho người yêu.

Tháng 2/1979, đơn vị của Chuẩn úy Nguyễn Thái Hòa được lệnh hành quân cấp tốc từ Nghệ An ra Bắc và lên biên giới Lạng Sơn giữ đất quê hương, chiến đấu chống quân xâm lược.

Lá thư của Chuẩn úy Hòa viết vội cho người yêu trong hoàn cảnh đó (19/2/1979) và cũng là lá thư cuối cùng bởi hơn 2 tuần sau đó, Chuẩn úy Nguyễn Thái Hòa đã anh dũng ngã xuống, trong mịt mù khói lửa Lạng Sơn.

Hơn 34 năm sau, lá thư đó mới được tiếp nhận bởi Trung tâm tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý cho gia đình Liệt sĩ (MARIN) và việc tìm kiếm người viết - người nhận đã được xúc tiến nhanh chóng để cho ra kết quả: Liệt sĩ Nguyễn Thái Hòa sinh năm 1952, hy sinh ngày 2/3/1979 khi mới 27 tuổi, phần mộ Liệt sĩ đang nằm tại Nghĩa trang Liệt sĩ của địa phương (xã Hải Hùng, huyện Hải Hậu, Nam Định).

Người con gái trong thư mà Chuẩn úy Hòa nhắc tới, tên là Thúy, hiện là giáo viên dạy Toán đã nghỉ hưu tại quê hương ở xã Hải Hòa, huyện Hải Hậu, Nam Định.

Ngày 23/9, đại diện Trung tâm MARIN đã về Hải Hậu, trao lại bức thư của Liệt sĩ Nguyễn Thái Hòa gửi cho bạn gái và viếng phần mộ của Liệt sĩ nằm ở quê nhà.

Chị Ngô Thị Thúy Hằng, người sáng lập và điều hành Trung tâm MARIN đã viết trên Facebook cá nhân: "Người Liệt sĩ ấy mất đi, đã để lại cho cuộc đời một tình yêu đẹp. Tình yêu đất nước biên cương cao hơn tình yêu lứa đôi. Trong tình yêu lứa đôi ấy có hình ảnh, lý tưởng của đất nước".

Xin được trân trọng giới thiệu lá thư của Liệt sĩ - Chuẩn úy Nguyễn Thái Hòa:

Lá thư người lính biên giới phía Bắc đến tay bạn gái sau 34 năm

19/2/1979

Em thân yêu của anh!.

Thư em đến với anh giữa lúc anh cùng đơn vị chuẩn bị lên đường chiến đấu.

Lẽ ra anh không báo tin này cho em và gia đình biết, phần vì thời gian rất gấp và khẩn trương, phần vì anh không muốn em phải lo lắng nhiều vì anh.

Em thân yêu! Ở xa em có thể hiểu được tâm trạng của anh lúc này không em – bâng khuâng, buồn và nhớ da diết, anh bâng khuâng vì đêm nay là đêm cuối cùng ở vùng đất khu 4 này.

Ngày mai anh sẽ ra phương bắc để bước vào cuộc chiến mới.

Nơi đó cuộc ác chiến đã và đang diễn ra, nơi đó quân thù đang giày xéo biên cương của Tổ quốc.

Nơi đó đồng đội đang chờ anh.

Anh buồn vì những lúc này anh thấy mình cô đơn và buồn tẻ.

Anh nhớ em da diết bởi vì anh sẽ phải xa em nhiều năm nữa, chưa biết khi nào anh mới quay trở lại gặp em. Ôm em và hôn em thắm thiết.

Tình yêu của em và anh trong những ngày tháng qua đã để lại cho anh tình thương em, yêu em vô bờ bến. Có thể nói rằng mỗi bước đi, mỗi ngày sống anh đều có em…

Em ơi, ngày mai anh đi về phương bắc, anh không được gặp em để có đôi lời biệt ly!.

Ra đi mang nhiều nỗi nhớ thương, ai có thể thấu hiểu được lòng anh trong lúc này em nhỉ?.

Chỉ có anh thôi, anh đang sống trong giờ phút chia ly.

Bao lời anh nói em nhờ thư, nhờ gió mây gửi đến cho em.

Anh ra đi mang theo tình em, anh ra đi để được hiểu, được sống trong giờ phút có cảm nghĩ sâu sắc và tất nhiên sẽ hiểu hết các giá trị của Tình yêu.

Một tình yêu của anh với em không giới hạn. Một tình yêu vô cùng đẹp đẽ. Dù có nói vạn lần yêu em anh cảm thấy vẫn chưa đủ. Anh không biết nói gì hơn nữa để diễn tả nỗi nhớ tình thương và yêu em như lúc này.

Em yêu thương và nhớ mãi của anh! Chỉ còn 3 giờ đồng hồ nữa là anh tạm biệt nơi đây.

Có lẽ chiến thắng của quân dân ta ngày mai có thể có cả công anh. Nhớ theo dõi tin thắng trận và mừng cho anh em nhé.

Anh đã và đang chuẩn bị hành quân như em đã biết thư cho anh. Và đêm nay anh không ngủ để ghi mối trung thư trên mảnh đất này.

Ngày mai anh sẽ hành quân, anh sẽ không ngủ để nhớ em, không ngủ để diệt thù, không ngủ để nhìn em suốt canh thâu, không ngủ để gần em và luôn thấy em.

Nhận được thư này đừng nên lo lắng nhiều và buồn em nhé – tan giặc anh về, chờ đợi anh em nhé, chờ đợi anh.

Đêm 19/2.

Anh yêu của em

Tái bút: Anh chỉ nhận được thư em ngày 6/2. Vì chuyển nên đừng ghi theo địa chỉ cũ nữa, khi nào có địa chỉ mới anh sẽ báo tin sau. Anh đã ghi thư cho chị Nhuần + Huệ và em 2 lá. Nhưng mới chỉ nhận được thư em lúc 20h ngày 19/2. (Thông cảm cho anh vì thời gian rất gấp. Ngồi ghi thư cho em ngay trong lúc tất cả đang chuẩn bị lên đường – lính mà em).

(Soha)

Truy tố đường dây buôn lậu xăng dầu cực lớn ở miền Trung

Viện KSND tối cao vừa tống đạt cáo trạng truy tố 13 bị can trong vụ án lợi dụng chính sách tạm nhập tái xuất để buôn lậu xăng dầu với số lượng lớn.
Truy tố đường dây buôn lậu xăng dầu cực lớn ở miền Trung
Cơ quan An ninh điều tra khám xét nhà riêng vợ chồng Sơn “sắt” vào cuối năm 2013 - Ảnh: Ngọc Minh
Trong số này, các bị can Chen Xieng Chun và Long Guang Kun (cùng quốc tịch Trung Quốc) là thuyền trưởng và máy trưởng tàu Jiang Zhou 01 bị truy tố về tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; Nguyễn Thanh Phương (53 tuổi), nguyên Giám đốc Công ty Hoàng Sơn, có trụ sở ở Thanh Hóa cùng 3 thuyền trưởng, máy trưởng tàu thuộc Công ty Hoàng Sơn và Công ty Tiến Nhật (có trụ sở ở Nghệ An) về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và 7 bị can khác về tội buôn lậu.

Theo cáo trạng, ngày 28.7.2012, tại vùng biển Thanh Hóa, Cục Điều tra chống buôn lậu, Tổng cục Hải quan bắt quả tang tàu Jiang Zhou 01 treo cờ Campuchia đang bơm xăng A92 sang các tàu của VN là tàu Minh Châu 08 (thuộc Công ty Tiến Nhật) và tàu Hoàng Sơn 09, Hoàng Sơn 02 (thuộc Công ty Hoàng Sơn). Thời điểm bắt quả tang, cơ quan chức năng xác định số xăng mà tàu Minh Châu 08 đã tiếp nhận là 248,5 tấn, trị giá hơn 7,4 tỉ đồng, các tàu của Công ty Hoàng Sơn đã tiếp nhận hơn 171 tấn, trị giá hơn 5,1 tỉ đồng. Qua kiểm tra nguồn gốc cho thấy số xăng trên theo thủ tục giấy tờ là của Công ty xăng dầu hàng không Vinapco mở tờ khai tái xuất 1.350 tấn xăng A92, trị giá hơn 1,3 triệu USD cho Công ty TNHH Hồng Phát ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, nhưng trên thực tế chủ hàng số xăng dầu này là của A Minh, trú tại cảng Kỳ Xá, Phòng Thành, Trung Quốc và Nguyễn Văn Thành, chủ khách sạn Hạ Long Star (tỉnh Quảng Ninh). Sau khi nhận hàng ở cảng Vũng Áng, Hà Tĩnh, thay vì vận chuyển đi cảng Phòng Thành, Trung Quốc, tàu Jiang Zhou 01 đã “bẻ ghi” vào vùng biển Thanh Hóa để bán lại số xăng nói trên cho tàu VN. Bị can Chen Xieng Chun và bị can Long Guang Kun khai nhận đã được A Minh và Thành thuê, chỉ đạo vận chuyển và bán lại cho các tàu VN.

Quá trình điều tra, cơ quan chức năng còn phát hiện và có đủ cơ sở chứng minh trước đó Chen Xieng Chun đã nhận một lô hàng dầu DO trị giá hơn 1,4 triệu USD theo diện tạm nhập tái xuất của Công ty xăng dầu B12 tái xuất cho Công ty nhiên liệu và chất đốt Hồng Phát Uy Giang, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Theo chỉ đạo của Thành và A Minh, Chen Xieng Chun đã vận chuyển số dầu trên đến vùng biển Thanh Hóa giao bán cho Công ty Hoàng Sơn 400 m3, trị giá hơn 8,2 tỉ đồng, Công ty Tiến Nhật 350 m3 trị giá hơn 7,1 tỉ đồng. Hiện bị can Thành bỏ trốn, cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã.

Được biết, Công ty Hoàng Sơn do vợ chồng Phương và Sơn “sắt” làm chủ được coi là doanh nghiệp vận tải biển lớn ở miền Trung, cuối năm 2011 công ty này từng phải trả 2,6 triệu USD cho hải tặc Somalia để chuộc tàu và 24 thủy thủ bị bắt cóc.

Án chồng án
Đáng chú ý, bị can Nguyễn Thanh Phương ngoài vụ án này còn liên quan đến một vụ án buôn lậu xăng dầu khác. Theo đó, cuối năm 2013, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã khởi tố, bắt tạm giam Phương cùng chồng là Nguyễn Trường Sơn (hay còn gọi là Sơn “sắt”) về hành vi buôn lậu. Cặp vợ chồng này bị cáo buộc đã câu kết với một số đối tượng khác buôn lậu khoảng 2.600 tấn dầu DO qua đường biển.
Thái Uyên
(Thanh niên)

Liên Hiệp Quốc đưa ra 227 khuyến nghị về nhân quyền cho Việt Nam

Tại Genève hôm qua, 07/02/2014, Nhóm làm việc về Kiểm điểm định kỳ phổ quát UPR chu kỳ 2 tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã thông qua Báo cáo quốc gia của Việt Nam ( mà báo chí chính thức ở Việt Nam mô tả là thông qua « với sự nhất trí cao » ). Nhưng Nhóm làm việc gồm đại diện ba nước Costa Rica, Kazakhstan và Kenya cũng đồng thời đưa ra tổng cộng 227 khuyến nghị để Việt Nam cải thiện tình trạng nhân quyền.
Trong phiên kiểm điểm UPR tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc ngày 05/02 vừa qua, đã có tổng cộng 107 quốc gia tham gia phát biểu, chất vấn phái đoàn Việt Nam ( do thứ trưởng Hà Kim Ngọc dẫn đầu).
Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát - Universal Periodic Review (DR)

Nhóm làm việc đã tổng hợp những khuyến nghị từ những nước tham gia đối thoại với Việt Nam trong khuôn khổ UPR ngày 05/02, đặc biệt là các biện pháp để bảo đảm việc thực hiện các quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và tự do lập hội, bảo đảm tự do ngôn luận cả trên Internet, bảo đảm cho các tổ chức xã hội dân sự và các tổ chức phi chính phủ NGO hoạt động tự do, chấm dứt việc truy tố những người biểu tình ôn hòa, trả tự do cho các tù nhân bị giam vì lý do chính trị và tôn giáo.
Những khuyến nghị của Nhóm làm việc cũng bao gồm đề nghị Việt Nam sửa đổi những điều luật về an ninh quốc gia vẫn được sử dụng để đàn áp các quyền phổ quát và bảo đảm cho Luật Hình sự và Luật Tố tụng Hình sự của Việt Nam theo đúng những tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế.
Các nước cũng khuyến nghị Việt Nam tạm ngưng thi hành án tử hình và giảm bớt các tội danh có thể lãnh án tử hình, nỗ lực chống phân biệt đối xử với phụ nữ và bảo đảm bình đẳng giới, nỗ lực chống nạn mãi dâm trẻ em.
Trong số các khuyến nghị của Nhóm làm việc, có đề nghị Việt Nam mời thêm các Thủ tục đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc và tăng cường hợp tác với các cơ chế nhân quyền quốc t ế, đồng thời nghiên cứu việc thành lập một định chế nhân quyền quốc gia ở Việt Nam. Họ cũng khuyến nghị Việt Nam phê chuẩn nhiều công ước quốc tế về nhân quyền, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc chống tra tấn mà Hà Nội vừa ký kết.
Theo Thông tấn xã Việt Nam, Báo cáo quốc gia của Việt Nam còn sẽ được trình lên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc xem xét thông qua tại phiên họp toàn thể của Hội đồng sau phiên kiểm điêm UPR khoảng 5 tháng. Từ đây đến đó, Việt Nam phải phúc đáp những khuyến nghị nói trên.
Trong phiên kiểm điểm UPR lần đầu vào năm 2009, chỉ có 60 nước tham gia phát biểu và các nước này đưa ra 123 khuyến nghị, trong đó chỉ có 96 khuyến nghị được Việt Nam chấp nhận thi hành.
Chưa biết là Việt Nam sẽ chấp nhận thi hành những khuyến nghị nào và sẽ thi hành những khuyến nghị đó ra sao, nhưng trong phiên kiểm điểm UPR vừa qua, Việt Nam, với tư cách thành viên Hội đồng Nhân quyền, đã bị chỉ trích nặng nề do tình trạng nhân quyền bị các tổ chức quốc tế đánh giá là đang xấu đi, đặc biệt thể hiện qua việc sách nhiễu, bắt bớ và kết án tù nhiều nhà báo, blogger, công dân mạng chỉ vì họ hành xử quyền tự do ngôn luận.
Trong bản thông cáo đưa ra hôm qua, tổ chức Phóng viên không biên giới, trụ sở tại Paris, đã kêu gọi các nước thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc phải có phản ứng về những vi phạm liên tục quyền tự do thông tin và những hành động trấn áp những người làm thông tin độc lập ở Việt Nam.
Phóng viên không biên giới đề nghị các nước thành viên của Hội đồng Nhân quyền nhắc nhở Hà Nội về những cam kết của Việt Nam khi ứng cử vào Hội đồng này, đặc biệt kêu gọi các nước này có hành động khẩn cấp can thiệp cho luật sư Lê Quốc Quân, hiện đang tuyệt thực đến ngày thứ 8 trong tù để phản đối điều kiện giam giữ.
Thanh Phương
(RFI)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét