Trung Quốc NỔI ĐÓA vì phát ngôn của Ngoại trưởng Mỹ ở Việt Nam
Hôm 17/12, hãng thông tấn Tân Hoa Xã đã đăng tải một bài xã
luận cho rằng, trong những tháng vừa qua Trung Quốc đã nỗ lực giải quyết
vấn đề tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng Đông Nam Á, trong đó
có Việt Nam và rằng các nước Đông Nam Á nên tránh một trò chơi có tổng
bằng không trong các mối quan hệ với Trung Quốc.
Vì vậy, theo Tân Hoa Xã, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry không cần thiết
phải chỉ trích các chính sách hàng hải của Trung Quốc ở Biển Đông khi
đến Hà Nội hôm 16/12.
Trong cuộc họp báo chung với Phó Thủ tướng – Bộ trưởng Ngoại giao
Việt Nam Phạm Bình Minh hôm 16/12, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tuyên bố:
“Hòa bình và ổn định tại Biển Đông là ưu tiên hàng đầu của chúng tôi và
của các nước trong khu vực.
Chúng tôi rất quan ngại và phản đối mạnh mẽ các âm mưu gây hấn và
cưỡng ép nhằm thúc đẩy các đòi hỏi chủ quyền. Các bên liên quan phải có
trách nhiệm làm rõ các lời tuyên bố về chủ quyền và điều chỉnh các lời
tuyên bố đó cho khớp với luật pháp quốc tế, đồng thời theo đuổi các
tuyên bố đó với các định chế hòa bình quốc tế…
Khi thảo luận về các tranh chấp chủ quyền, tôi cũng đã nêu các quan
ngại sâu sắc về tuyên bố của Trung Quốc về vùng nhận dạng phòng không
(ADIZ). Hành động này rõ ràng làm tăng nguy cơ của những tính toán sai
lầm rất nguy hiểm hay các sự cố, và nó làm gia tăng hơn nữa căng thẳng.
Tôi đã nói với ngài Phó Thủ tướng (Phạm Bình Minh) rằng Hoa Kỳ không
công nhận vùng nhận dạng phòng không đó và không chấp nhận nó.
Tuyên bố của Trung Quốc không làm thay đổi việc Hoa Kỳ thực hiện các
hoạt động quân sự trong khu vực. Đây là quan ngại mà chúng tôi đã nêu
rất thẳng thắn và trực tiếp với Trung Quốc.
Vùng nhận dạng đó không nên được lập ra và Trung Quốc không nên có
những hành động đơn phương tương tự ở những nơi khác trong khu vực, đặc
biệt tại Biển Đông”.
Tân Hoa Xã cho rằng, Ngoại trưởng John Kerry chắc chắn sẽ thúc đẩy
một thỏa thuận tăng cường sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Philippines nhằm
thể hiện sự ủng hộ đối với các nước Đông Nam Á về những tranh chấp lãnh
thổ với Trung Quốc.
Nhiều người Trung Quốc lo ngại rằng Mỹ có thể sẽ truyền đạt những tín
hiệu sai, khiến một số nước trong khu vực đưa ra những chính sách thiếu
thận trong về những tranh chấp hàng hải với Trung Quốc.
Trong vài năm qua, Biển Đông đã trở thành một chủ đề mới trong chiến
lược của Washington ở châu Á. Tân Hoa Xã cáo buộc rằng ‘giới diều hâu’
Mỹ đã biến Bắc Kinh thành một mối đe dọa để một số nước Đông Nam Á tin
vào một kịch bản trò chơi có tổng bằng không trong các mối quan hệ với
Trung Quốc.
Tân Hoa Xã bình luận rằng, tuy nhiên, như thường thấy trong lịch sử,
những nước có mối quan hệ với Trung Quốc đều thu được nhiều lợi ích. Tốc
độ tăng trưởng của Trung Quốc trong 3 thập kỉ qua đều đem lại những lợi
ích lớn lao cho các nước láng giềng. Thương mại nở rộ, đầu tư tăng vọt
nhờ những chính sách cải cách và mở cửa của Trung Quốc.
Tân Hoa Xã cho rằng, nền kinh tế Trung Quốc có mối liên hệ rất chặt chẽ
với phần còn lại của thế giới bằng một con đường phát triển hòa bình.
Khi Trung Quốc phát triển hơn thì mọi người càng có lợi. Một khu vực
Đông Á thịnh vượng sẽ đem lại lợi ích cho tất cả các nước có quyền lợi
trong khu vực, trong đó có Mỹ.
Theo Tân Hoa Xã, theo kế hoạch tăng cường các mối quan hệ với các
nước Đông Nam Á, Trung Quốc cũng đã cung cấp nhiều hàng hóa, dịch vụ hơn
cho những nước này, bao gồm việc thiết lập ngân hàng đầu tư cơ sở hạ
tầng và tăng cường hợp tác an ninh hàng hải, nhằm thúc đẩy hòa bình và
phát triển trong khu vực.
Những dự án hợp tác đầy sáng tạo này rất phù hợp với mục tiêu chiến lược của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Để đảm bảo hòa bình, môi trường hợp tác trong khu vực, Mỹ cần phải có
một phải có một thái độ tích cực để thực hiện một trò chơi có tổng bằng
một số dương.
Tân Hoa Xã còn cảnh bảo rằng Washington đã thiếu thận trọng khi tiếp
tục thúc đẩy sự hiện diện quân sự tại khu vực, làm mất cân bằng cán cân
quyền lực và khiến một số nước trong khu vực lựa chọn đối đầu thay vì
tham gia và các cuộc đàm phán hiệu quả.
Hãng thông tấn này còn cho rằng, Mỹ, siêu cường quốc duy nhất trên
thế giới, nên tìm cách để làm tiêu tan sự ngờ vực, thúc đẩy hợp tác trên
Biển Đông, nơi mà tất cả mọi người đều có thể là người chiến thắng.
Theo Infonet
Đàm phán TPP: Vấn đề người lao động Việt Nam bỏ trốn tại nước ngoài
Điều khoản quy định tiền phạt nặng nề của chính quyền Việt
Nam đối với những người lao động của họ tại nước ngoài bỏ trốn là một
nan đề sẽ được đưa ra xem xét tại đàm phán TPP.
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry trong chuyến dừng chân hiện tại ở Viễn
Đông chắc chắn sẽ đặt sự quan tâm về vấn đề nhân quyền đối với nước chủ
nhà Việt Nam, vốn đang có những hoạt động rất sôi nổi tích cực nhằm được
gia nhập và hưởng lợi từ việc gia nhập Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Xuyên
Thái Bình Dương.
Tuy vậy, vẫn có một số điều nghi ngại ở đây, đó là nghị định số No.
95/2013/ND-CP được ban hành bởi chính phủ Việt Nam sẽ được đặt vấn đề
trong chương trình nghị sự của ông Kerry. Nghị định này có hiệu lực từ
tháng 10 và được thi hành sau khoảng thời gian 3 tháng nới lỏng, những
điều khoản bắt buộc những lao động Việt Nam tại nước ngoài phải đối mặt
với khoản phạt từ 80 tới 100 triệu VNĐ (tương đương 3,800 tới 4,700 USD)
nếu họ từ bỏ hợp đồng lao động, và một số lượng lớn lao động bỏ trốn
khỏi sự bóc lột của môi giới lao động khi hợp đồng lao động của họ tới
hạn.
Theo Uỷ ban chuyên trách những vấn đề liên quan tới lao động của Đài
Loan, số lượng những người lao động Việt Nam bỏ trốn, cư trú trái phép
chưa bị bắt giữ lên tới 19,878 vào cuối tháng 10, phản ánh một tỷ lệ gia
tăng rất nhanh là 31.2% hàng năm, dường như là để trốn khỏi án phạt
tiền quá lớn.
Chỉ cần thực hiện một phép toán đơn giản để nhìn nhận vấn đề về nhân
quyền ở đây, liên quan tới nghị định No.95: vì mức thu nhập trung bình
của người Việt Nam là vào quãng 3,2 triệu đồng (tương đương 150$) hàng
tháng nên rất nhiều người đang làm việc ở trong nước sẽ phải vật lộn rất
vất vả với những công việc cực nhọc, thiếu thốn trong hơn 2 năm để trả
nợ.
“Vì xuất khẩu lao động đóng một vai trò rất quan trọng trong chiến
lược và chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam, hình phạt nặng nề áp
dụng đối với những người công nhân bỏ trốn dường như là chịu tác động
và áp lực từ nước ngoài” Zheng Y, một nhà khoa học chính trị tại Đại học
Connecticut quan tâm tới Việt Nam bày tỏ với Asia Sentinel.
Vào tháng 8 năm 2012, Hàn Quốc tạm dừng những thỏa thuận song phương
về vấn đề tuyển dụng lao động nhập cư Việt Nam vì một số lượng lớn người
bỏ trốn và cư trú quá hạn bất hợp pháp. Mặc dù sự đình chỉ này gần đây
đã được nới bỏ, nhưng nó cũng làm cắt giảm tới công việc của 10,000 lao
động từ Việt Nam, là một sự thiệt hại lớn đối với mảng xuất khẩu lao
động
Theo số liệu chính thức từ Việt Nam, hơn 500 ngàn lao động Việt Nam đang
làm việc ở nước ngoài, tại hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Mỗi năm,
có tới 80 ngàn công nhân lao động Việt Nam được gửi ra nước ngoài và
những điểm đến chính là Đài Loan, Mã Lai, Hàn Quốc và Nhật Bàn. Tại Đài
Loan, nơi những tổ chức phi chính phủ vào giữa tháng 12 đã tổ chức một
cuộc biểu tình phản đối nghị đình 95 trước cửa văn phòng ngoại giao của
nhà nước Việt Nam tại Đài Loan, hiện tại có tới 122 ngàn lao động Việt
Nam trên tổng số 480 ngàn lao động nước ngoài ở hòn đảo này, với hơn 20 %
trong số họ đang làm việc trong những xưởng sản xuất kim loại và giúp
việc gia đình (đi ở) hay chăm lo ăn uống, vệ sinh cho người già.
Các tổ chức phi chính phủ này không quá ngạc nhiên rằng có tới 20,000
lao động Việt Nam đang bỏ trốn. “Luật do nhà nước Việt Nam hiện nay ban
hành áp đặt một khoản phí môi giới tối đa là 4500 USD và người lao động
phải kí hợp đồng với môi giới trước sự chứng kiến của cảnh sát Việt
Nam”, linh mục Peter Nguyễn Văn Hùng, giám đốc Văn phòng trợ giúp cô dâu
và lao động nhập cư Việt Nam tại Đài Loan cho biết. “Tuy nhiên, gần tới
ngày khởi hành đi lao động, môi giới thường bắt người lao động phải kí
một bản thỏa thuận khác đã được sửa đổi với tổng số tiền phí lên tới
6500 hay 7500 USD” Những người lao động hầu như không có sự lựa chọn rút
bỏ hợp đồng, cha Nguyễn Văn Hùng cho biết, bởi vì thông thường từ trước
đó họ đã phải cầm cố giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu đất đai, nhà cửa,
ruộng vườn để nhận được những khoản vay từ ngân hàng rồi đem nộp cho môi
giới, hộ chiếu, vé máy bay, khám sức khỏe và nhiều khoản khác nữa.
“Họ gần như không có sự lựa chọn bởi vì nếu không họ sẽ mất hết tất
cả tiền” cha Hùng cho biết. Theo cha Hùng, những gì tiếp sau đó thật tồi
tệ. Sau khi người lao động tới xứ bạn (Đài Loan), chủ thuê bản xứ có
thể sẽ không sẵn lòng trả lương theo như môi giới đã hứa hẹn, và có rất
nhiều trường hợp lao động bị chủ thuê bóc lột sức lao động. Theo đó, có
một thị trường khác, đen và mờ ám cho những người lao động bỏ trốn được
dẫn dắt bởi nhu cầu lớn trong ngành xây dựng, nông trại và chế tạo, và
hợp đồng miệng nhấn mạnh với những người lao động đang ở vào tình cảnh
tuyệt vọng cho một con đường khả thi duy nhất.
Cách duy nhất để đối phó với tình trạng này là bỏ trốn. Quyết định
này thường sẽ khiến những người lao động trở thành chủ thể cho việc lạm
dụng lao động thêm một lần nữa. Cha Hùng nói. Cha ước tình rằng số lượng
người lao động Việt Nam bỏ trốn sẽ bắt đầu giảm chút ít liên quan tới
nghị định 95 nhưng sau đó sẽ quay ngược trở lại tăng nhanh hơn bởi vì
vấn đề cốt lõi ở đây chỉ được giải quyết trên bề nổi. Theo cha hùng, có
nhiều ý kiến chỉ ra rằng nếu điều đó xảy ra, công an Việt Nam sẵn sàng
bắt giữ họ hàng của những người bỏ trốn ở Việt Nam và giữ họ ở cửa khẩu
cho tới khi tiền phạt được đóng.
Cha Hùng đồng ý rằng động cơ chính của Hà Nội là tạo dựng ấn tượng
tốt đối với các đối tác quốc tế và chính quyền các nước bạn, trong hoàn
cảnh hiện tại Đài Loan đang phải tiến tới việc giỡ bỏ việc hạn chế nhập
khẩu người giúp việc từ Việt Nam sau một thập kỷ.
Nhưng nếu chính quyền Việt Nam biết rằng nghị định 95 sẽ không giúp
được gì nhiều cả, mà nó còn đồng lõa với việc bọc lột con người và ép
buộc sự quy phục một cách không tự nguyện. Án phạt nặng nề này cũng sẽ
khiến cho những người không tự nguyện, quay sang gây ra những vấn đề đối
với xã hội Đài Loan. Cha Hùng nhận định.
Cha Hùng và nhiều người quan tâm khác nhận định rằng phía Đài Loan đã
tiến một bước dài trong vài năm gần đây. Thông thường, cách lựa chọn
tiếp cận theo truyền thống vẫn là truy tìm người, như một vụ án vào mùa
thu năm 2004 khi cảnh sát Đài Loan hợp tác với chính những người làm môi
giới, là nguyên nhân chính dẫn tới cảnh đời cực khổ của những người lao
động, tập hợp lại vào quãng 500 mỗi tháng. Thêm 100 nhân viên môi giới
khác rỗi việc từ Việt Nam bay qua, chỉ làm một nhiệm vụ là truy tìm
đường dây chuyển kiều hối từ những người bỏ trốn và đe dọa gây áp lực
với họ hàng của họ ở Việt Nam để họ khai ra thông tin của những người bỏ
trốn đâu đó quanh Đài Loan.
Trả lời câu hỏi của Asia Sentinel, Ủy ban hữu trách những vấn đề liên
quan tới lao động của Đài Loan cho biết rằng chính quyền Việt Nam vẫn
chưa thông báo cho Đài Loan về nghị định 95. Cơ quan này ngay lập tức
còn phủ nhận nghi vấn rằng Đài Loan, với vị thế là thị trường cho lao
động nhập cư nước ngoài đã gây áp lực lên Hà Nội để áp đặt khoản phạt
nặng nề này, và cho biết rằng thay vào đó họ từ lâu còn khuyến nghị nên
cắt giảm phí môi giới một lần quá cao như vậy.
Cơ quan này còn cho biết thêm rằng họ vẫn đang chủ động hỗ trợ những
người bỏ trốn, những người tự nguyện tham gia vào chương trình gia hạn 3
tháng, và hơn thế nữa còn chỉ ra rằng họ đang xây dựng một hệ thống và
cơ sở hoàn chỉnh để bảo vệ cho lao động nước ngoài và sẽ được áp dụng từ
trước khi đến và sau khi rời khỏi hòn đảo. Và mục tiêu là hướng những
người làm công việc môi giới và những thứ không cần thiết khác tập trung
lại cùng nhau và tham gia vào một “Trung tâm liên danh dịch vụ thuê
mướn trực tiếp” sẽ được thành lập là một trong những phương án.
Vấn đề người lao động nhập cư nước ngoài cực kì phức tạp mà ngay cả
những người cảnh sát đã được huấn luyện nghiệp vụ rất kĩ cũng dễ dàng
trở nên không hữu dụng, không đương đầu hết nổi. Tuy nhiên cha Hùng cho
biết rằng, giải pháp tốt hơn là những người chủ thuê nước ngoài nên trả
cho môi giới lao động tiền để họ giúp thuê mướn những người lao động phù
hợp.
Nhưng nỗ lực để hạn chế hoạt động của đường dây môi giới lại tạo ra
một tình huống khá dè dặt: “Tôi nghe nói rằng những người môi giới hiện
nay đã trả cho chủ thuê số tiền mà họ đã giữ của người lao động.” Cha
Hùng cho biết.
Trong lúc đó, Hàn Quốc chỉ mở cửa lại thị trường nhập khẩu lao động
Việt Nam sau một chương trình đảm bảo thí điểm rằng rằng một khoản tiền
đặt cọc bắt buộc vào quãng 4800 USD phải được trả lại cho người lao động
bởi chính quyền Hà Nội. Không cần phải nói, cùng với nghị định No. 95,
chương trình thí điểm này sẽ khiến cho tổn thất lớn nhất về tài chính
thực sự là đối với những người bỏ trốn.
Tốt nhất, Hà Nội cần đảm bảo với Kerry trong chuyến viếng thăm của
ông rằng chính phủ sẽ đạt được sự cam kết về vấn đề người lao động trong
những điều khoản của TPP, đó luôn là một trong những vấn đề cốt lỗi
trong đàm phán kí kết hiệp định thương mại song phương với Hòa Kỳ.
Theo giáo sư Zheng, Việt Nam có thể sẽ đàm phán một khoảng thời gian
để dần dần cải thiện luật lao động của họ và chứng tỏ sự tôn trọng của
họ đối với quyền lợi của người lao động, đặt biệt là đối với những ngành
công nghiệp phục vụ xuất khẩu.
Vấn đề ở đây là án phạt nặng nề đối với những người lao động bỏ trốn
sẽ là một bước đường dẫn tới việc cải thiện quyền lợi cơ bản của người
lao động khi họ đặt một tiêu chuẩn cao hơn cho người lao động đi xuất
khẩu. Ông Zheng nói. “Nhưng mặt khác nó sẽ làm gia tăng những mối quan
ngại về vấn đề vi phạm nhân quyền đối với người lao động phi pháp” Đó là
một nan đề đối với nhà nước Việt Nam”
Jens Kastner/Asian Sentinel
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét