CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
- Gặp mặt gia đình quân nhân công tác tại Trường Sa (TTXVN).
- Tân Hoa Xã bình chuyến thăm Việt Nam của Ngoại trưởng Mỹ (GDVN). – Trung Quốc ‘nổi đóa’ vì phát ngôn của Ngoại trưởng Mỹ ở Việt Nam (Infonet).
- Trung Quốc tuyên bố về vụ ‘suýt’ đâm phải tàu chiến Mỹ trên Biển Đông (Infonet). – Trung Quốc “hiểu” Mỹ hơn sau khi hai tàu chiến “gặp gỡ” trên Biển Đông (MTG).
- Tăng giám sát, tham nhũng giảm (ĐĐK).
- Vụ Dương Chí Dũng bỏ trốn: Nguyên Phó giám đốc Công an Hải Phòng đe dọa điều tra viên (TN). – Vụ Dương Chí Dũng: Tại sao Citibank bị kiến nghị điều tra? (GDVN). – Từ đại án Dương Chí Dũng nghĩ về trách nhiệm công chức (Tầm nhìn).
- Quảng Ninh: Phường 475 “cán bộ”: “Không đông không được!” (DT).
- Tỉnh Bình Dương: 18 năm khiếu kiện đòi đất của một thương binh (NCT). – Tỉnh Đồng Nai: Phó Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội “tiếp tay” cho người bị tố cáo: sự thật đắng lòng!.
- “Xét xử hòn đá”: Chính quyền địa phương ưa gì làm nấy (MTG). – Vụ “kiện hòn đá”: Tòa cho tự thỏa thuận (DT).
- Bình đẳng hay tước quyền lao động? (ĐĐK).
- Vụ hành hạ trẻ mầm non ở Thủ Đức: Không kém gì vụ thẩm mỹ Cát Tường (TN). – Cơ sở bạo hành trẻ dã man “bí hiểm” với hàng xóm xung quanh (PL&XH). – Nơi các bé bị hành hạ dã man cách âm 2 lần cửa (TP). – Sao tàn ác với trẻ em thế! (NLĐ). – Chuyên gia phân tích những tổn hại trong tâm lý của trẻ (GDVN). – Có thể cung cấp bằng chứng tổn thương tâm thần (PT). – Bạo hành trẻ mầm non: Hậu quả khôn lường, di chứng kéo dài (TN). – Đừng đánh cắp tuổi thơ của con trẻ! (DT). – Các thiên thần bị bảo mẫu bạo hành đã ngủ ngon hơn (Infonet). – Gia đình bảo mẫu Đông Phương xin tha thứ (VNN).
- Tại sao trẻ em Việt cứ bị bạo hành ở trường mầm non? (PLXH/aFamily). – Thực tế phũ phàng nhìn từ vụ bảo mẫu hành hạ trẻ dã man (DV). – Xin phép lập trường mầm non: Có phong bao là ký? (Infonet). – Vụ “cô giáo” hành hạ trẻ mầm non: “Lỗi từ cha mẹ chứ đâu”!? (GDVN). – Cách phát hiện sớm những ‘cô giáo’ tra tấn trẻ (NĐT). – Sao lại bất an đến thế? (TQ). – Vụ hành hạ trẻ mầm non ở Thủ Đức: Chủ tịch quận nói gì? (TN). – ‘Bảo mẫu’ hành hạ trẻ mầm non phạm tội gì? (VNN). – Xử lưu động công khai bảo mẫu đánh đập trẻ để răn đe (VOV).
- Trung Hoa có nhiều điều khác… (Tia sáng). – Trung Quốc cắt nhiều hoạt động mừng sinh nhật Mao Trạch Đông (TN). – Thủ tướng Trung Quốc kêu gọi xây dựng chính phủ trong sạch (MTG).
- Điểm trùng hợp kỳ lạ giữa Chu Vĩnh Khang và Jang Song-thaek (ĐV). – Vụ xử tử làm đảo lộn đầu tư của Trung Quốc vào Triều Tiên (VOV).
- Những hình ảnh mới công bố: Cuộc sống thực ở Triều Tiên (PT). – Kim Jong-un: lãnh đạo “độc tài” nhất? (MTG). – Hé lộ nhân vật quyền lực số 2 của Triều Tiên (DT). – Hiểm nguy rình rập giới siêu giàu Triều Tiên? (DT).
- Thủ lĩnh biểu tình ‘cố đấm ăn xôi’ trước Thủ tướng Thái (ĐV). – Phe biểu tình Thái Lan lên kế hoạch ép Thủ tướng từ chức vào cuối tuần (GDVN).
KINH TẾ
- “Hệ thống tài chính Việt Nam đã bộc lộ nhiều yếu kém” (TTXVN). – Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Vương Đình Huệ “hiến kế” 9 giải pháp lành mạnh hệ thống tài chính (LĐ). – Trưởng Ban Kinh tế Trung ương: Cần 9 giải pháp để lành mạnh hóa hệ thống tài chính (PT). – Cần thiết thành lập Ủy ban ổn định tài chính (VOV).
- Sở hữu chéo đã làm lệch lạc dòng chảy của đồng tiền trong nền kinh tế (TTT/CafeF). – Cho phép truy soát để “bóc” sở hữu chéo ngân hàng (DT).
- TS Nguyễn Trí Hiếu: Nếu hoãn Thông tư 02, có cảm giác chúng ta đang sống trong ảo ảnh (TTT/CafeF).
- Ngân hàng đang phá giá lãi suất? (ĐTCK).
- Thủ tướng: “Kiên quyết độc quyền xuất nhập vàng” (VnEco). – Thủ tướng: NHNN phải độc quyền thị trường vàng (VOV).
- 14 giờ chiều nay giá xăng tăng thêm gần 600 đồng/lít (TN). – Xăng, dầu lập tức tăng giá khi được phép (SM).
- Quay cuồng với giá gas – Bài cuối: Đâu là nguyên nhân thực sự? (MTG). – Quay cuồng với giá gas – Bài 1: Trở lại thời kỳ than tổ ong.
- Xung quanh Đề án tái cơ cấu VNPT: Sân chơi viễn thông vẫn khó có cạnh tranh công bằng! (PT).
- Giá sữa vẫn ngoài tầm quản lý (ĐĐK).
- Khánh Hòa ra mắt nghiệp đoàn nghề cá đầu tiên (Tin tức). – Phát huy vị thế ngành kinh tế chủ lực (SGGP).
VĂN HÓA-THỂ THAO
- Phát hiện mộ táng hơn 6.000 năm tuổi ở Bắc Kạn (Tin tức/DT).
- Thần thi Vương Bột [3] (VHNA).
- Thưởng thức nghệ thuật giá bèo (MTG). – Chinh phục giới trẻ Sài Gòn bằng kịch nhân văn (SGTT).
- Quang tèo, Giang còi cùng ‘đau đầu’… lo Tết (NĐT). – Mùa cười có bớt nhạt nhẽo? (NNVN).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
- GS Ngô Bảo Châu: Gian dối trong khoa học dễ bị phát giác (DT). – Tôn trọng quy trình, nghiêm khắc, mới làm nên nhà khoa học (GDVN).
- Năm 2020, một số trường đại học, dạy nghề đạt trình độ tiên tiến (CP). – Thêm nhiều trường công bố chỉ tiêu dự kiến (TN).
- Quảng Ngãi: Chủ tịch UBND tỉnh đề nghị làm rõ vụ hiệu trưởng “buộc thôi việc” GV tố cáo (DT).
- Fan cuồng “thần tượng” (GD&TĐ).
- Hai luận văn của Rousseau: Khai minh về khai minh (Người đô thị/Tia sáng).
- Trung tâm Triển khai công nghệ bắt đầu hoạt động theo cơ chế tự chủ tự (Tia sáng). – Đào tạo về năng lượng nguyên tử được nhiều ưu đãi.
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
- Cứu được 11 thuyền viên bị nạn trên biển (TN). – 8 ngư dân mất tích: Tang thương phủ trắng làng chài (KP). – Nỗi đau biển khơi (KP).
- 600 tỷ đồng do cấp trùng thẻ BHYT sẽ được thu hồi, nhưng chưa chắc đã ‘vẹn toàn’ (SM). – Bộ trưởng Y tế: Thương bệnh nhân BHYT hơn dịch vụ (VNN).
- Cẩn thận cá nục “siêu rẻ” (DT).
QUỐC TẾ
- Nhà ngoại giao nữ bị “lột truồng”, Ấn Độ trả đũa (KP). – Ấn Độ sẽ tìm mọi cách đưa nhà ngoại giao bị bắt giữ về nước (VOV).
- Mỹ: Nổ súng tại trung tâm y tế, 2 người chết (DT). – Tìm ra “tác giả” dọa đánh bom giả tại Đại học Harvard (VOV).
- Ukraine trước ‘gậy và cà rốt’ Nga (VNN).
Dương Chí Dũng: và nụ cười đặc trưng “búa liềm”
Hoàng Thanh Trúc (Danlambao)
- “Dưới cái lạnh mùa đông, hàng trăm ngàn gia đình đồng bào, khúc ruột
miền trung phải khốn khổ vì giá rét trong những căn nhà trống trước hở
sau vì bão lũ, thì hắn, Dương chí Dũng kẻ “ăn cắp” mồ hôi nước mắt nhân
dân lấy hàng chục tỷ đồng mua 2 căn hộ cao cấp, sang trọng cho bồ nhí.
Vậy mà trước pháp đình hắn vẫn thản nhiên cười vui hí hửng đọc thơ tặng
quan tòa và những người tham dự vì cho rằng mình “vô tội”, dù trước đó
hắn bị bắt dẫn độ từ nước ngoài về do lén lút chạy trốn sau khi “ăn
cắp”!?
Nụ cười “bệnh hoạn” CS/XHCN khi đối chất với công lý, pháp luật của Dương Chí Dũng.
BỘ LUẬT HÌNH SỰ - CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG: Điều 278. Tội tham ô tài
sản - 1) Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà
mình có trách nhiệm quản lý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì
bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình, tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản.
A) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
B) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.
Tính “rợ” cho đúng, cho đủ, theo cư dân chợ Đồng Xuân Hà Nội thì Dương
Chí Dũng phải bị “cắt bùm” đến 20 lần mới sòng phẳng, bởi ngoài tham ô
10 tỷ đồng từ mồ hôi nước mắt nhân dân đóng thuế để mua căn hộ cao cấp
cho bồ nhí thì nhà nước như mất cả chì lẫn chài khi Ụ nổi 83M mua về
hiện tại giá trị như đống sắt vụn không thể sử dụng, gây hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng, thiệt hại cho tài sản nhân dân hơn 366 tỷ đồng.
Điều gì khiến hắn lạc quan “bệnh hoạn” vô liêm sỉ như kiêu binh mà chúng
ta hiếm thấy với các can phạm thuộc nhóm tội “đại hình” như vậy?
Điểm tựa của hắn cái gọi là “Gia Đình cách mạng” chăng, như hắn tự hào đã khoe trước tòa? hay một thế lực “dấu mặt” nào khác?
“Bị cáo sinh ra trong một gia đình nội ngoại đều có truyền thống cách mạng.” (Dương chí Dũng).
Dương Chí Dũng là con trai của ông Dương Khắc Thụ - nguyên Đại tá cựu
Giám đốc Công an TP/Hải Phòng. Các anh em của Dương Chí Dũng đều công
tác trong ngành Công an TP này. Em trai là Đại tá Dương Tự Trọng (bị Bộ
CA bắt tạm giam ngày 22/2/2013) từng giữ chức vụ PGĐ/CA Hải Phòng sau đó
được thăng cấp lên Cục phó Cục Cảnh sát Quản lý Hành chính về trật tự
xã hội và em rể là Nguyễn Bỉnh Kiên, nguyên Đại tá PGĐ/CA/TP Hải Phòng
(bị mất chức, khai trừ Đảng ngày 29/03/2013), em gái là bà Băng Tâm sĩ
quan Công an PC 25 TP/Hải Phòng. (Cả 2, Trọng và Kiên hổ trợ cho việc
đào tẩu của Dương Chí Dũng, cũng sẽ bị ra tòa nay mai).
Nguyễn Bỉnh Kiên Dương Chí Dũng Dương Tự Trọng
Trước vụ việc hoàn thành âm mưu vừa ăn cắp cho chính mình vừa chia tiền %
biếu không cho thiên hạ nước ngoài trong khi đại bộ phận nhân dân
(những người đóng thuế số tiền ấy) còn quá nghèo, gây ra thiệt hại quá
lớn về tinh thần và vật chất cho xã hội đả rõ như ban ngày, chứng minh
bằng các thành viên cao cấp của gia đình hỗ trợ hắn chạy trốn, nhưng
không thoát - Vậy mà trước tòa án tự tin vào “truyền thống cách mạng”
Hắn - Dương Chí Dũng - rất vô liêm sỉ khi nhân cách còn thua cả trâu
ngựa (một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ) vẫn tỉnh queo vô tư khẳng
định rằng:
“Về tội tham ô tài sản thì bị cáo hoàn toàn không biết đến khoản tiền
1, 666 triệu USD và không chỉ đạo ai làm việc này. Thực tình là không
nhận đồng nào anh Sơn đưa cho. Đây là việc oan cho bị cáo. Mong HĐXX hết
sức xem xét kỹ lưỡng cho bị cáo- Đến chết trong tù bị cáo cũng không
bao giờ nhận, tội này.” (Dương Chí Dũng) - Vậy thì HĐ xét xử và ông
CT/Nước có nên cho hắn “sống” không? Một kẻ lì lợm, khi hắn như trực
tiếp công khai nói với nhân dân cả nước rằng cáo trạng đã vu oan cho
hắn?
Toa rập tẩu tán tài sản mồ hôi nước mắt nhân dân? Đã có vợ và ba
con gái, nhưng Dương Chí Dũng vẫn lao vào cuộc chơi tình ái với cô bồ
nhí tuổi gần bằng con gái, kém mình 25 tuổi tên là Ph.T.T (sinh năm
1982, quê Thanh Hóa). Kết quả cuộc tình này là cô bồ đẻ cho ông Dũng một
đứa con. Ông Dũng lấy tiền tham ô mua hai căn hộ chung cư cao cấp cho
bồ nhí.
Nhưng rất buồn cười, bà Phạm Thị Mai Phương (vợ chính ông Dũng) lại cho báo chí biết: “Tôi biết chồng tôi có con với người phụ nữ trẻ khác và tôi đồng ý việc này!??
(đồng lõa với vi phạm pháp luật hôn nhân?) - và 10 tỉ đồng mà ông Dũng
dùng mua 2 căn hộ chung cư cho “bồ nhí”, bà Phương cho rằng đây là số
tiền của bà. (mua một lúc đến 2 căn hộ trị giá 10 tỷ cho bồ nhí của
chồng đứng tên???) “Ghé tai hỏi nhỏ ông “tà”, vợ nào tốt bụng như bà “Mai Phương”?
Không biết đây có phải tội đồng lõa âm mưu che giấu, tẩu tán tài sản “ăn cắp” của nhà nước, nhân dân??.
Bà Phạm Thị Mai Phương - vợ của bị cáo Dương Chí Dũng tại phiên xét xử.
Đã vậy Dương Chí Dũng còn vênh mặt nói trước tòa: Mong hội đồng xét xử
và nhân dân hiểu rằng tấm lòng của bị cáo không vì động cơ cá nhân mà vì
năng nổ, nhiệt huyết!?? “Điều này không phải thanh minh cho sai lầm,
khuyết điểm, sai phạm. Mà tấm lòng của tôi mong bà con người dân Việt
Nam hiểu được cái tâm của tôi”. Một cái tâm “ăn cắp” trong tấm lòng “bất
lương”? - Rồi như tức cảnh sinh tình trước các quan tòa, Dương Chí Dũng
đọc 4 câu thơ:
"28 năm qua lại trở về,
Những người hàng hải nặng thề năm xưa,
Dưới cờ Đảng nguyện cùng đưa,
Con tàu hàng hải đến bờ vinh quang..".
Thật khôi hài - Chủ sở hữu ụ nổi 83M “quá đát” này của Nga chào bán với
giá dưới 5 triệu đô la Mỹ. Nhiều năm không bán được (AP Singapore đã
thương lượng thỏa thuận mua ụ nổi này từ Nakhoka, Nga, chỉ có 2, 3 triệu
USD), Dương Chí Dũng và đồng bọn lãnh đạo Vinalines toa rập mua lại với
giá 9 triệu USD thông qua Công ty AP. Từ lúc mua về đến nay, tổng số
tiền Vinalines đổ vào ụ nổi này trước sau đã là gần 24 triệu đô la nhưng
giờ vẫn như đống sắt phế thải khổng lồ không thể sử dụng được, đang nằm
phơi nắn mưa bên “bờ vinh quang” trên sông Thị Vải cảng Gò Dầu B.
Ụ Nổi nhưng Đời chìm!?
Không biết hắn ta - Dương Chí Dũng - có còn là một con người hay động
vật 2 chân? Trước tòa không hề ăn năn hối hận mà phủ nhận gần như 100%
các sai phạm tội lỗi cố ý của chính mình, quan trọng hơn hết là không tự
nguyện khắc phục hoàn trả tang vật đã “ăn cắp” mà thông qua gia đình
mưu toan tham lam che giấu tài sản từ mồ hôi nước mắt của nhân dân mà
hắn thông đồng “ăn cắp” được qua sự khai báo đồng mưu của vợ là Phạm Thị
Mai Phương nói trên.
Án đã tuyên - 17h30 - Ngày 16/12 HĐXX sơ thẩm đưa ra phán quyết cuối
cùng, tuyên án Dương Chí Dũng mức án tử hình về tội tham ô tài sản. Dù
luật sư của hắn ra sức thuyết phục hội đồng xét xử và công luận rằng hắn
không “ăn cắp” bằng những lập luận mỏng tanh về giá trị, xa rời chân lý
đạo đức, bởi: Nếu hắn không chủ mưu “ăn cắp” thì 2 Đại Tá ngành công an
(và còn ai nữa?) sao lại liều lĩnh tổ chức mở đường cho hắn đào tẩu như
thế?
Mới là án “sơ thẩm” - phía sau nụ cười bệnh hoạn đầy “bí ẩn” của hắn vẫn
còn 2 cửa ải chung thẩm, giám đốc thẩm, và cuối cùng nếu vạn bất đắc dĩ
Dương Chí Dũng không có được “ai đó” gỡ giùm cái gông “án tử” thì hình
như hắn vẫn còn tự tin thay đổi được định mệnh của mình do xuất thân là
dòng dõi “búa liềm” có quá trình “đóng góp” cho cách mạng?
Tuy nhiên, nói như cư dân chợ Đồng Xuân, sau khi tham ô “ăn cắp” 10 tỷ
rồi đào tẩu thì tội của hắn phải “cắc bùm” tới 20 lần mới sòng phẳng vậy
thì có gia ân cho “cống hiến” của hắn 1 lần và cho gia đình CS nòi của
hắn 1 lần nữa thì vẫn còn hàng chục lần cửa “tử” mà hắn phải bước qua.
Liệu ngài CT/Nước “Tư Sâu” có đủ can đảm dập tắt cái nụ cười “ngạo mạn,
kiêu binh” của Dương Chí Dũng hay cũng cùng một tư duy công thức CS/XHCN
cứ tha hồ tham ô, ăn cắp nhiều vào, càng nhiều càng tốt bởi khi bị phát
hiện, năm trăm triệu hay năm trăm tỷ thì cũng chỉ một án tử, lấy quá
trình công lao phục vụ trung thành với “đảng ta” mà trao đổi!? Cái này
nhân dân phải hỏi ngài “TƯ Sâu” cho rõ.
QUY TRÌNH CỦA ĐẢNG, QUY TRÌNH CỦA DÂN …
Nhật Lệ
Thời gian qua, hàng loạt vụ việc kinh
hoàng, gây bức xúc tột đỉnh trong dư luận vẫn cứ đều đều diễn ra. Thật
khó hình dung, thế kỷ hăm mốt đã tiến những bước dài rồi mà tại Việt
Nam, trước những sự việc kinh thiên động địa như vậy, câu hỏi ai là
người phải chịu trách nhiệm thì rốt cuộc …vẫn loanh quanh và bí ẩn. Cay
đắng hơn, những người có trách nhiệm trong việc làm rõ trách nhiệm dường
như lúc nào cũng thủ sẵn câu nói: Đúng quy trình. Thế là hoà cả làng.
Thế là người dân – Ông Chủ đành lòng vậy, cầm lòng vậy…Lạ thật, Đầy tớ
cứ nói, cứ làm theo cách của Đầy tớ, còn Ông Chủ thì vẫn cứ phải cam
chịu, hết ngày dài lại đêm thâu, hết vụ việc này đến vụ việc khác và mức
độ tàn độc, khủng khiếp thì càng lúc, càng nghiêm trọng.
Có thể liệt kê trên dưới chục vụ gắn
liền với câu nói cửa miệng “Đúng quy trình” của các quan Phụ Mẫu thời
nay. Trước nhất là bổ nhiệm Dương Chí Dũng, rồi NICOTEX Thành Thái, tiêm
vaccine, thẩm mỹ viện Cát tường, Thuỷ điện miền Trung xả lũ đồng loạt;
tham nhũng thì càng phòng chống, càng vui; rồi oan sai thấu tận trời
xanh của Nguyễn Thanh Chấn, bê bối vệ sinh an toàn thực phẩm; rồi mới
đây là rượu độc 29 Hà Nội và hàng tạ ma tuý đi qua cửa khẩu hàng không
như chỗ không người. Đó quả đang là muôn mặt của đời sống xã hội Việt
Nam thời hiện đại. Những thảm hoạ như vậy chắc không ai muốn xẩy ra.
Đảng và Nhà nước lại càng không mong nó xẩy ra, nếu không muốn nói là
đang khẩn trương, kiên quyết, quyết liệt…để phòng tránh. Chúng ta cứ
mong muốn, chúng ta đang rầm rộ triển khai và rồi con tạo vẫn làm cái
việc của nó là cứ xoay vần để đo đếm hiệu quả, hiệu lực từ lời nói đến
hành động của chúng ta. Trong những câu nói “Đúng quy trình” gắn liền
với các thảm hoạ (được liệt kê chưa đầy đủ) nói trên, có câu làm bẽ bàng
cả hệ thống chính trị mà hệ luỵ của nó chắc chắn còn chưa chấm dứt; có
câu tanh nồng máu thịt của đồng bào vô tội và có loại câu nói ngô nghê
hết biết, không xứng đáng (dù chỉ Công bộc!) hưởng lương từ tiền thuế
của dân.
Đúng quy trình nhưng là quy trình nào,
ai xây dựng, vì lợi ích của ai và ai kiểm soát việc thực hiện các quy
trình đó ? Những câu hỏi tưởng chừng rất dễ trả lời, ấy thế mà cứ vòng
vo, không làm rõ được trách nhiệm. Không làm rõ được không phải vì không
muốn mà trong nhiều trường hợp là không thể. Quái ác nhất là ở chỗ đấy.
Bởi, biết đâu, trưa nay, chiều nay, ngày mai, tháng sau…lại xảy ra
những vụ việc y chang, rồi Ông Chủ lại thảng thốt, bàng hoàng (dù đã
được trang bị sự bình tĩnh, nhẫn nại), còn Đầy tớ thì cứ trơ trơ và vênh
mặt lên…
Theo lối tư duy, Vua không nói chơi. Vua
ở đây là Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Cục phó…Thì thấy rõ, lời nói đã thốt
ra, hòn bấc đã ném đi, nhưng nào có thấy hòn chì ném lại, người viết
buộc phải hiểu, các vị đó đã nói lời của hệ thống chính trị. Kết quả của
quy trình mà các vị hay nói như thế nào thì ai cũng đã biết. Sinh mạng
và tài sản của nhân dân bị tàn phá, chà đạp một cách không thương tiếc.
Quy trình đó, xét đến cùng, là của ai mà man rợ như vậy ? Chắc chắn
không thể là quy trình của dân, lý do thật đơn giản là không người dân
nào lại tự mình khai vu vơ để nhận lấy cái án tử hình hoặc chung thân,
không dân nào lại đề ra quy trình có thể giết hại cả làng, cả huyện như
quy trình xả lũ vừa rồi. Dân cũng không có quyền tham gia quy trình đề
bạt quản lý cán bộ cỡ Dương Chí Dũng…Do vậy, quy trình đó càng không
phải là sản phẩm của ý Đảng lòng Dân. Thế thì, nếu xét, Đảng gắn bó mật
thiết với nhân dân, chịu trách nhiệm về mọi quyết định của mình, có thể
kết luận quy trình là của Đảng, do đội ngũ cán bộ Đảng viên viết ra.
Có thể hiểu khác được không khi biết
chính Dương Chí Dũng đang bị Thanh tra quần cho lên bờ xuống ruộng, bỗng
xuất hiện quy trình nhấc về làm Cục trưởng, để “dưới ngọn cờ của
Đảng/đưa ngành hàng hải đến bến bờ vinh quang”?!. Còn nhớ, Bộ trưởng
Đinh La Thăng khi đó nói thẳng, đưa Dương Chí Dũng về cục hàng hải là để
ổn định nội bộ, vốn đang mất đoàn kết của Vinalines, Ông cho rằng mình
đã có công khi làm như vậy. Thì ra, cái “Đại cục” dưới vòm trời này đâu
cũng “rứa” cả. Người viết tin, chỉ cần một phân tử “ý Đảng lòng Dân
thôi”, chỉ cần sự công khai, minh bạch, để nhân dân và công luận giám
sát thôi thì có Thánh Thần ủng hộ Dương Chí Dũng không thể trở thành cục
trưởng được. Vụ án Dương Chí Dũng đang xét xử nhưng những người nặn ra
Dương Chí Dũng thì vẫn cứ như không, ngồi xem xử án trên truyền hình. Vì
sao vậy, tại sao không có vụ án thiếu trách nhiệm gây hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng trong việc đề bạt Dương Chí Dũng. Nếu lắng nghe nhân dân,
nếu nghiêm khắc với cán bộ thì Dương Chí Dũng không thể từ sai ít đến
sai nhiều, từ sai nhiều đến gây thảm hoạ cho đất nước và chính mình đến
mức ấy…Vì sao và do ai?.
Có cách nào giải thích sự vô can của
thuỷ điện trong đợt xã lũ vừa rồi khi mà lượng mưa đo được năm nay chỉ
bằng nửa lượng mưa lịch sử trước đó. Có lẽ nào phủ định lời nói của
những người nông dân miền Trung chất phác, hiền lành rằng trăm năm, lũ
lụt là bình thường nhưng chưa bao giờ thấy lũ (Lưu tốc dòng lũ, NL.)
kinh hoàng như thế. Nên nhớ, khi nói vậy, người nông dân với bộ mặt thất
thần, cam chịu làm lay động hàng triệu tâm can chứ tuyệt nhiên không
phải nói để đòi bồi thường. Tất cả các thuỷ điện miền Trung, mỗi năm làm
ra khoảng 6000 tỷ đồng cho EVN, nhưng chỉ trận lũ vừa rồi đã cuốn phăng
nhà cửa, ruộng vườn, hoa màu và của cải của hàng chục ngàn hộ dân, tính
ra, hàng chục ngàn tỷ. Nghiêm trọng nhất là làm khoảng 50 người lương
thiện đã chết một cách thảm khốc và oan trái. Biết phát triển thủy điện
là cần thiết. Nhưng nếu cái lợi của thuỷ điện thì EVN hưởng, để mua xe
sang gấp 250% quy định, để xây biệt thự, bể bơi, sân tennis, còn cái
hoạ, bắt đồng bào chịu… thì thấy cái giá phải trả sao tàn độc và mắc
khủng khiếp. Phải chi quy trình đưa ra nhắm đến sự an toàn của hạ du,
chủ động xả nước bớt đi trước khi lũ về, ăn bớt đi chút đỉnh thì kiểm
soát thảm hoạ là trong tầm tay. Sao nỡ nói là dân chết phần nhiều là do
giúp nhau, đi kiếm con tôm, con cá, dân thiếu cẩn thận…Làm đến cỡ đó mà
không hiểu lời dạy của Đức Phật trong kinh nhân quả 3 đời: “Muốn biết
Nhân đời trước, xem hưởng Quả đời này/Muốn biết Quả tương lai, xét Nhân
gieo hiện tại”…
Lại bàn về câu nói “luồng xanh” của Hải
quan. Người dân đóng thuế để nuôi ông cục phó và các ông to hơn, nhỏ hơn
của Hải quan, của hàng không, của…nhiều nữa, không phải để hiểu luồng
xanh, luồng xám của các Quí Ông là cái gì. Người dân cần các ông mẫn
cán, học lấy cái hay, cái tiến bộ của thiên hạ để quản lý xã hội, quản
lý cơ quan tốt hơn, hiệu quả hơn. Khi đề ra quy trình các Ông phải lường
hết rủi ro, song hành với nó là cơ chế giảm thiểu rủi ro và quy trách
nhiệm khi có sai sót, thảm hoạ. Người dân hiểu rất rõ, ai cũng có thể
mắc sai lầm khuyết điểm và bất cứ xã hội nào, bất cứ công việc gì luôn
luôn tiềm ẩn rủi ro dẫn đến thảm hoạ. Nhưng người dân đòi hỏi khi nói
đúng quy trình mà thảm hoạ vẫn cứ diễn ra thì chắc chắn quy trình có vấn
đề. Do thế, người dân mong mỏi, khi các Ông mở miệng nói đúng quy trình
thì phải nói thêm vế khác: sẽ khẩn trương xem xét lại quy trình để sửa
đổi, bổ sung nhằm khắc phục thảm hoạ tương tự. Đồng thời giải quyết đền
bù thiệt hại cho nhân dân. Thật ra, đó là mệnh lệnh mới chính xác nhưng,
rất cam chịu, người viết cũng chỉ giám mong mỏi mà thôi. Chỉ có như vậy
thì mới không có Dương Chí Dũng tương lai, người dân vùng hạ du mới an
cư và lạc nghiệp, những NICOTEX Thành thái, thẩm mỹ viện Cát tường, hàng
không dùng để chuyên chở ma tuý, Nguyễn Thanh Chấn…mãi mãi là quá khứ.
Làm được như thế cũng không quá khó.
Kinh nghiệm của nhân loại trong quản trị xã hội, quản trị đất nước, quản
trị doanh nghiệp …sẽ là ánh sáng soi đường. Nhân dân và công luận là bà
đỡ. Vấn đề còn lại là tâm thế của chúng ta: Mãi mê đi tìm lá diêu bông
hay học hỏi, ứng dụng tinh hoa của các nước tiên tiến để nhanh chóng cải
biến xã hội, nhanh chóng tiến kịp thời đại ?.
Official statistics
Mấy tuần trước nhà báo Nguyễn Vạn Phú viết một số bài báo và blog về sự
thay đổi số liệu GDP của VN năm 2012. Vấn đề trở nên nóng hơn khi một
đại biểu HĐND TPHCM chất vấn về sự thay đổi đột ngột của chỉ số GDP đầu
người của địa phương này. Bởi vậy không có gì ngạc nhiên khi ông Tổng
cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm đăng đàn
trần tình về việc TCTK bị phê phán về chất lượng số liệu. Với tựa đề
bài viết "Cần trách nhiệm hơn khi đánh giá số liệu thống kê" có lẽ không
chỉ trần tình mà ông Tổng cục trưởng còn trách cứ những người phê phán
đã không có trách nhiệm.
Công bằng mà nói số liệu thống kê kinh tế bị phê phán không chỉ ở VN.
Ngay cả ở Mỹ, nơi có hệ thống thống kê tốt nhất thế giới, cũng không
tránh khỏi những phê phán/nghi kỵ của người dân và giới nghiên cứu về
chất lượng các chỉ tiêu kinh tế. Nổi tiếng nhất trong số những người
nghi ngờ số liệu thống kê của Mỹ phải kể đến John Williams, hàng chục
năm qua đã không ngừng công kích số liệu CPI và unemployment rate của
nước này. Williams còn lập ra một website
tính lại những chỉ số kinh tế phổ thông để đối trọng lại các con số
chính thức do các cơ quan thống kê công bố. Một ví dụ đình đám khác là
vụ George Welch, cựu CEO của GM, chỉ trích số liệu việc làm
của Mỹ trong mùa tranh cử tổng thống năm ngoái. Ông này ám chỉ chính
phủ Obama đã nâng số liệu việc làm lên để tranh thủ lấy phiếu cử tri.
Giới thống kê và học giả Mỹ đã đăng đàn phản bác những nghi ngờ và cáo
buộc của cả Williams lẫn Welch, tương tự như bài của ông Nguyễn Bích
Lâm.
Nói vậy để thấy việc "phản biện" và "chống phản biện" số liệu thống kê
là khá bình thường. Nhưng hỏi 10 nhà nghiên cứu kinh tế chắc phải có 9
người tỏ ý nghi ngờ về độ chính xác của số liệu thống kê của VN. Tôi nằm
trong số 9 người đó và đã không dưới một lần nêu ra sự nghi ngờ của
mình trên blog này, thậm chí đã từng viết một entry riêng
về chất lượng số liệu thống kê của TCTK. Bởi vậy, là đối tượng mà ông
Nguyễn Bích Lâm phê phán (thiếu trách nhiệm), tôi không thể không có vài
dòng phản-phản biện lại ông Tổng cục trưởng. Nhân tiện tôi sẽ giới
thiệu thêm với các bạn một số qui tắc/thông lệ liên quan đến việc thu
thập và phổ biến số liệu thống kê kinh tế của một số nước mà tôi được
biết. Xin lưu ý trước, những gì tôi viết dưới đây là dưới góc độ của
người sử dụng thống kê kinh tế chứ không phải người thu thập và xử lý số
liệu. Giá mà bác Vũ Quang Việt hoặc Bùi Trinh viết cho một bài về khía
cạnh thu thập số liệu thì tuyệt.
Trước hết cần phải xác định rõ thế nào là chất lượng của số liệu thống
kê (kinh tế), ông Nguyễn Bích Lâm chỉ nói về ba yếu tố ảnh hưởng lên
chất lượng số liệu (sẽ bàn thêm bên dưới) chứ không đưa ra định nghĩa về
chất lượng. Có bạn sẽ nghĩ ngay chất lượng ở đây là độ chính xác chứ có
gì mà phải bàn. Tất nhiên chính xác là tiêu chuẩn quan trọng nhất đối
với số liệu thống kê. Nhưng bên cạnh đó một hệ thống thống kê "có chất
lượng" còn phải bảo đảm các yếu tố coverage, timely, consistency, và
transparency.
Coverage (bao quát?): một hệ thống thống kê có chất lượng phải
đảm bảo cung cấp đủ những chỉ số quan trọng của một nền kinh tế. Tất
nhiên "đủ" là một khái niệm khôn cùng và subjective, vd nếu tôi quan tâm
đến lĩnh vực tài chính tôi sẽ muốn có hàng nghìn chỉ tiêu liên quan đến
hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán..., ngược lại nếu bạn nghiên
cứu về lao động thì bạn muốn có nhiều số liệu về việc làm, lương
bổng... Một vấn đề nữa là chi phí, những nước giàu có ngân sách lớn cho
cơ quan thống kê quốc gia hiển nhiên sẽ có coverage tốt hơn các nước
nghèo, bởi vậy "đủ" còn có nghĩa sử dụng budget cho thống kê một cách
hợp lý. Cách đây 5-6 năm Niên giám thống kê của VN còn thu thập số liệu
số quạt máy, phích nước được sản xuất hàng năm, số máy công nông được
lắp ráp, thậm chí số huy chương Seagames, số lễ hội/festival tổ chức ở
các tỉnh thành, trong khi không có số liệu về thất nghiệp (không biết
bây giờ đã thay đổi chưa). Coverage như vậy là không "đủ" và số liệu
thống kê của VN không thể nói là có chất lượng về mặt này.
Có thể thấy mong muốn coverage "đủ" là khó, nhưng chí ít phải có một mức
tối thiểu nào đó. Ở hầu hết các nước, số liệu thống kê kinh tế phải đảm
bảo coverage cho hệ thống tài khoản quốc gia (theo chuẩn SNA của LHQ),
thống kê tài chính (theo chuẩn của IMF), thống kê về giá cả (CPI/PPI,
house price...), thống kê việc làm, thống kê xuất nhập khẩu, và thống kê
ngân sách/chi tiêu chính phủ. Ngoại trừ thống kê việc làm, coverage của
VN đã đủ cho các lĩnh vực còn lại mặc dù đi vào chi tiết có thể chưa
hoàn chỉnh. Đon cử là thống kê tài chính theo yêu cầu của IMF (cho hệ
thống cảnh báo rủi ro sớm của họ) VN còn thiếu khá nhiều và tần suất
cung cấp số liệu cũng không đạt yêu cầu (nói cho chính xác thì đây là
trách nhiệm của NHNN chứ không phải TCTK, nhưng tôi tạm gộp các cơ quan
có trách nhiệm thu thập số liệu kinh tế vào làm một).
Một điều khá thú vị liên quan đến coverage là hầu hết các nước đều đã
"xã hội hóa" một phần việc thu thập số liệu (kinh tế) để mở rộng
coverage mà không phải tốn thêm ngân sách. Thông tin kinh tế luôn là một
mặt hàng bán chạy nên các công ty tư nhân có động cơ tiến hành thu thập
và bán số liệu này. Trong một số trường hợp số liệu thống kê tư nhân
còn "cạnh tranh" với số liệu chính thức của nhà nước, vd ShadowStats của
John Williams tôi link bên trên hoặc Billion Price Project của MIT (bây
giờ đã bán cho State Street). Vấn đề là các cơ quan thống kê quốc gia
(và cả cơ quan an ninh) nên "thoáng" hơn với các tổ chức tư nhân tham
gia vào hoạt động thu thập số liệu. Nên tạo điều kiện phát triển thị
trường mua bán thông tin để giúp tăng coverage cho nền kinh tế.
Timely (thuật ngữ này có thể dịch là kịp thời nhưng nó còn bao
hàm một số ý rộng hơn): giới tài chính có một thuật ngữ là real-time
data, nghĩa là số liệu có ngay tức thì khi hoạt động kinh tế tương đương
kết thúc hoặc thậm chí đang diễn ra, vd chỉ số chứng khoán được cập
nhật ngay lập tức trên màn hình cá nhân song song với trên sàn giao
dịch. Tất nhiên số liệu kinh tế vĩ mô không thể và không cần phải cập
nhật nhanh như vậy. Không thể vì rất nhiều số liệu thống kê phải khảo
sát và thu thập trên toàn quốc, rồi phải xử lý thô trước khi công bố.
Không cần vì như đã đề cập đến trước đây, nền kinh tế là một cỗ máy khá
nặng nề có quán tính lớn nên hai thời khắc gần nhau quá không đem lại
nhiều thông tin có ích. Vấn đề timely của số liệu thống kê cũng phụ
thuộc vào budget/chi phí thu thập số liệu và độ chính xác, càng nhanh
càng tốn kém và càng ít chính xác.
Thông thường số liệu SNA được thu thập và công bố theo quí, các thể loại
số liệu khác theo tháng. Số liệu thống kê của VN có một điểm rất khác
biệt so với các nước. Số liệu quí (vd GDP) thường được công bố vài ngày
trước khi quí kết thúc, số liệu tháng (vd CPI) cũng được công bố trước
khi tháng kết thúc. Điều này tưởng chừng cho thấy tính timely của số
liệu VN cực cao, nhưng thực tế nó chứng tỏ cơ quan thống kê của VN đã
không sử dụng hết thông tin của chu kỳ thống kê cho mỗi chuỗi số liệu.
Tất nhiên sau đó cơ quan thống kê sẽ tiếp tục hiệu chính các chỉ số
thống kê khi có thêm thông tin như thông lệ quốc tế. Nhưng điều khác
biệt giữa VN và thế giới là thời điểm của các hiệu chỉnh đó không được
công bố rộng rãi và các chuỗi số liệu cũ không được lưu giữ.
Lấy ví dụ số liệu GDP của các nước thường được công bố ít nhất 3 lần:
preliminary release, first revision, và second revision. Preliminary
release thường được công bố 1-2 tháng sau ngày cuối cùng của quí, first
revision thường trước khi quí tiếp theo kết thúc, second revision sau đó
1-2 tháng. Hầu hết những ngày công bố số liệu đều được báo trước rộng
rãi và số liệu chính sửa ra sao sẽ được nêu ra cụ thể. Thường thì cơ
quan thống kê không có nghĩa vụ (theo luật) phải giải thích tại sao số
liệu lại thay đổi như vậy nhưng trên thực tế họ vẫn nêu ra/gợi ý những
lý do khách quan (vd government shutdown, thiên tai, đình công...) để
báo giới và những người sử dụng thông tin có cơ sở phân tích. Một vấn đề
quan trọng nữa là tất cả số liệu của các lần công bố/sửa đổi phải được
lưu trữ để các nhà nghiên cứu có thể phân tích/đánh giá thực trạng kinh
tế chính xác. Giới economists vẫn thường tranh luận với nhau nên sử dụng
số liệu preliminary release hay số liệu final revision.
Ngoài vấn đề tần suất và thời điểm công bố/sửa đổi số liệu, tính chất
timely còn thể hiện qua cách thức công bố số liệu ra công chúng. Rất
nhiều số liệu thống kê kinh tế có ảnh hưởng lớn lên thị trường tài chính
nên các cơ quan thống kê thường có qui định về cách thức công bố rất
chặt chẽ để đảm bảo tính công bằng. Trước đây một số nước "nhốt" phóng
viên của các báo và hãng tin vào một phòng, công bố số liệu cho họ để
học có thời gian nghiên cứu và viết tin rồi đúng giờ mở cửa phòng cho họ
ra chuyển tin về tòa soạn. Hiện nay công nghệ thông tin đã phát triển
hơn nên số liệu thường được công bố vào một thời điểm định trước trên
website hoặc một hệ thống điện tử để bất kỳ ai cũng có thể truy cập và
biết thông tin như nhau. Các hệ hãng tin tài chính lớn như
Bloomberg/Reuters thường sẽ relay số liệu từ các cơ quan thống kê ngay
lập tức cho khách hàng dưới dạng flash news, sau đó họ mới viết bài phân
tích sau. Đảm bảo thông tin được cung cấp công bằng như vậy cũng là một
khía cạnh chất lượng mà cơ quan thống kê phải tính đến.
Một điểm nhỏ nữa liên quan đến vấn đề timely là ngoài việc cung cấp số
liệu cho người sử dụng trong nước, các cơ quan thống kê còn cung cấp
thường ký cho các tổ chức quốc tế như WB, IMF, BIS... Một điều trái
khoáy là trong khi TCTK công bố số liệu rất nhanh vào mỗi cuối quí hoặc
tháng, VN lại rất chậm chạp khi cập nhật số liệu ở các tổ chức quốc tế.
Điều này ít ảnh hưởng đến các nhà hoạch định chính sách trong nước nhưng
gây khó khăn cho những nhà nghiên cứu và đầu tư nước ngoài cần. Về mặt
này chất lượng của thống kê VN không thể nói là timely.
Consistency (nhất quán?): một chuỗi số liệu có tính chất
consistency khi nó phản ánh một khía cạnh/hoạt động kinh tế ổn định theo
thời gian và không gian. Ổn định theo thời gian có nghĩa là giữa 2 thời
điểm khác nhau bản chất của chuỗi số liệu không thay đổi. Điều này
tưởng đơn giản nhưng thực ra rất khó đảm bảo, ngay cả ở những nước phát
triển. Có một số nguyên nhân làm bản chất các chuỗi số liệu thay đổi
theo thời gian. Thứ nhất là khía cạnh/hoạt động kinh tế mà nó phản ánh
thay đổi nên buộc người làm công tác thống kê phải thay đổi cách thu
thập dữ liệu và tính toán thống kê. Lấy ví dụ GDP của Mỹ đã có một thay
đổi lớn trong năm 2013 vì cách tính thay đổi để phản ánh giá trị gia
tăng của các hoạt động liên quan đến intangible assets. Các đây 2 năm
GDP của TQ cũng có một revision lớn vì họ đổi cách tính để đưa một số
hoạt động kinh tế trước đó bị cho là ngoài luồng vào GDP chính thức.
Hiển nhiên chuỗi số GDP trước và sau những thay đổi đó không còn
consistent nữa và các nhà nghiên cứu phải chú ý đến điểm này. Ở đây việc
lưu trữ song song chuỗi dữ liệu theo cả hai cách tính trong một thời
gian đủ dài sẽ giúp những người sử dụng số liệu tránh sai xót khi có
những thay đổi lớn như vậy.
Lý do thứ hai là bản thân cơ quan thống kê thay đổi cách tính vì có
những phương pháp thống kê mới ra đời. Ví dụ chuỗi số NFP của Mỹ khoảng
hơn chục năm trước được thay đổi cách tính áp dụng một mô hình về số
lượng công ty mới thành lập và phá sản (birth-death model) để hiệu chỉnh
số liệu khảo sát thô. Một ví dụ khác là chuỗi số CPI thô được chỉnh lại
theo mô hình imputable quality improvement (vd một cái máy tính có tốc
độ xử lý tăng 20% thì nếu giá tăng lên 20% coi như chỉ số giá của nó
không đổi). Những thay đổi về phương pháp tính như vậy làm các chuỗi số
liệu bị mất tính consistency, nhiều trường hợp gây ra tranh cãi và nghi
ngờ trong dư luận. Trong trường hợp này tính chất transparency (tôi sẽ
nói thêm bên dưới) vô cùng quan trọng.
Lý do thứ ba là mẫu khảo sát thay đổi. Đây cũng có thể coi là sự thay
đổi của phương pháp thống kê nhưng trong một số trường hợp do mẫu khảo
sát tăng lên hay giảm xuống vì thay đổi ngân sách thống kê. Cách đây
khoảng 2 năm Úc giảm bớt số lượng khảo sát việc làm vì budget bị cắt nên
cho dù phương pháp lấy mẫu và cách tính không đổi chuỗi số liệu mới sẽ
không consistent với chuỗi số trước đây, chí ít về mặt sai số và
volatility.
Ổn định về không gian nghĩa là chuối số liệu đại diện cho một khía
cạnh/hoạt động kinh tế ở các địa phương khác nhau, các quốc gia khác
nhau về bản chất phải giống nhau. Đây là lý do các tổ chức quốc tế nhưu
UN, WB, IMF... đưa ra các bộ tiêu chuẩn thống kê như SNA, BoP để thống
kê của các nước có thể so sánh được với nhau. Trong phạm vi từng quốc
gia, thống kê địa phương dễ được thu thập và tính toán theo cùng một
chuẩn, nhưng chất lượng chọn mẫu, thu thập, xử lý có thể vẫn khác nhau.
Ví dụ GDP ở khu vực nông thôn có thể sẽ bị bỏ xót nhiều hoạt động phi
chính thức hơn GDP của thành phố.
Tóm lại số liệu thống kê "có chất lượng" theo khía cạnh consistency sẽ
phải tuân thủ chặt chẽ các tiêu chuẩn quốc tế, phương pháp thu thập và
xử lý ổn định, mẫu khảo sát đủ lớn để sai số không vượt quá ngưỡng cho
phép. Những điều này đòi hỏi cơ quan thống kê phải có budget và resource
đủ mạnh, là điều chưa thể mơ ước ở VN.
(Còn tiếp)
Neil J. Kritz - Luật Pháp Và Hoà Giải Chính Trị - Các Kinh Nghiệm Quốc Tế (2)
Neil J. Kritz
Đỗ Kim Thêm dịch
Dịch giả gửi tới Dân Luận
Tội Ác Chiến Tranh Và Vi Phạm Khác Trong Quá Khứ
Vấn đề chính mà các xã hội trong thời kỳ tái thiết hậu chiến phải đối
đầu là giải quyết các tồn đọng những phạm pháp quy mô gây thương tổn
cho cả hai phiá tranh chấp. Những vi phạm trầm trọng nhất được quy đinh
theo luật quốc tế là tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại và diệt
chủng. Các quốc gia cần tuân theo vấn đề trách nhiệm cho những vi phạm
này, trong khi chưa cấu thành tội phạm theo hình sự quốc tế, vẫn còn gây
cảm tưởng sâu xa thù hận và xung khắc trong thời hậu chiến.
Một số các vi phạm này xãy ra trong khi tranh chấp đang sôi bỏng, một
số các vi phạm khác xãy ra trước kia, thỗi bùng uất hận đưa đến xung
đột. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau cần tìm hiểu để tham khảo vấn đề.
Trách Nhiệm Hình Sự
Có nhiều lập luận cho rằng không những tòa án và trừng phạt các vi
phạm là chù yếu để đạt đến công lý, mà còn thảo luận công khai và kết án
tội phạm là cách tốt nhất làm ngăn cách giữa quá khứ và hiện tại, từ đó
công luận sẽ cảm nhận trật tự mới ít nhất cũng hơn trật tự củ.
Có những người khác cáo giác rằng những phiên toà nặng phần trình
diễn không phù hợp cho tìm kiếm hoà bình và dân chủ. Xét lại công khai
các tội ác thời chiến chỉ khơi động thù hận thay vì xoa dịu. Cách tốt
nhất để tái thiết và hoà giải đất nước là giã từ quá khứ bằng cách quên
đi và tha thứ tội ác của các phe trong tranh chấp.
Trong một vài quốc gia, truy tố các vi phạm trong thời chiến có nhiều
chức năng, đem lại cho nạn nhân về ý nghĩa công lý và phấn khởi - bất
bình có thể được giải toả, một ý nghĩ dễ đặt ra hơn làm âm ỷ cháy cho
ước vọng về một tranh chấp khác. Hơn thế, những truy tố có thể đem lại
năng động mới cho xã hội, một sự hiểu biết là người tấn công và vi phạm
quyền của người khác phải bị quy trách.
Bởi vì toà án được dân chúng địa phương và quan sát viên ngoại quốc
quan tâm, họ thường chú trọng đến việc xây dựng một hệ thống tư pháp và
tư pháp hình sự phù hợp với những nguyên tắc về uy lực pháp quyền. Có lẽ
quan trọng nhất cho mục tiêu của hoà giải lâu dài là cách nhấn mạnh đến
những cá nhân đặc biệt - không phải là toàn thể những nhóm sắc tộc, tôn
giáo hay chính trị.- Làm được như thế thì cách này gạt bỏ được một loại
tinh thần nguy hiểm về tội lỗi tập thể và báo thù thường sinh ra vòng
lẩn quẩn của thù oán và bạo lực.
Khi tiến hành truy tố thì mạng lưới trừng phạt cần được đặt ra như
thế nào cho những người phạm tội chiến tranh và các tội ác tương tự?
Giới lãnh đạo sẽ chịu cách nhiệm về việc sai phạm của thuộc cấp mình như
thế nào? Ngược lại, quân nhân và công chức vi phạm khi tuân lịnh thượng
cấp sẽ bị quy trách như thế nào?
Các chuẩn mực quốc tế được triển khai nhằm giải quyết các vấn đề này.
Người ta ngày càng đồng thuận hơn vì ít nhất là đối với những vi phạm
trầm trọng về nhân quyền và luật nhân đạo quốc tế, ân xá tất cả là
chuyện không được phép. Mặt khác, tội phạm như diệt chủng hay tội ác
chống nhân loại, nói chung, đòi hỏi tham gia đông đảo quần chúng và luật
quốc tế không đòi hỏi phải truy tố từng cá nhân liên quan đến tội ác.
Đưa hàng trăm hoặc đôi khi hàng ngàn người ra toà, dù trước tòa địa
phương hay quốc tế, là một việc bất khả về phương diện tài chính, chính
trị hay tổ chức hậu cần. Một số các truy tố có tính biểu tượng những
phạm nhân này có thể làm thỏa mãn nghĩa vụ quốc tế, đặc biệt nếu chương
trình xét xử trên quy mô quá mức sẽ đe doạ đến ổn định đất nước. Thí dụ
như Argentina, Ethopia và các quốc gia Đông Âu đã chấp nhận phương thức
này khi giải quyết vấn đề tồn đọng trong việc vi phạm nhân quyền của các
chế độ sụp đổ.
Trong một số trường hợp, có nhiều khó khăn có thể giải quyết được
bằng cách phân loại các đặc tính của tội phạm và đề xuất phương cách
giải quyết khác nhau. Nói chung, các phân loại này như sau:
1) những nhà lãnh đạo vi phạm vào tội ác chiến tranh và những nguời
trực tiếp thực sư thi hành (một số lượng nhỏ nhất phạm nhân không thể
tránh được);
2) những người vi phạm tội trầm trọng khác nhưng không thuộc vào nhóm người thứ nhất; và
3) những người vi phạm tối thiểu. Tính cách gia trọng của từng biện pháp được xử lý tùy theo cách tương ứng.
Hoà ước Dayton chung quyết chiến cuộc tại Nam Tư củ đã theo phương cách này.
Trong cách phân loại thứ nhất, các phe lâm chiến tự kết ước hợp tác
với tòa án hình sự quốc tế lập thủ tục truy tố các phe tranh chấp vi
phạm các tội diệt chủng, tội phạm chiến tranh, tội ác chống nhân loại.
Những hiệp ước này cũng cấm đoán cá nhân khi bị toà truy tố sẽ không
được giữ chức vụ công.
Trong loại phạm tội thứ hai, hiệp ước cũng quy định nghĩa vụ phải
khởi tố, miễn tố, chuyển giao phạm nhân thuộc lực lượng quân sự, bán
quân sự, cảnh sát, công chức trách nhiệm khi vi phạm trầm trọng đến
những quyền căn bản của con người. Hiệp ước xem đây như là những biện
pháp xây dựng niềm tin.
Chung qui, tất cả những người tỵ nạn và những người lưu lạc hồi
hương, khi họ bị cáo giác với các tội danh khác hơn là các vi phạm gia
trọng thuộc về luật nhân quyền quốc tế, sẽ được đảm bảo ân xá vì những
vi phạm này. Trong khi việc thi hành các điều khoản này còn thiếu sót
nhưng căn bản pháp lý rất vững chắc.
Trường hợp Rwanda cho thấy cần có nhu cầu thực tế nhằm xoa dịu các
truy tố theo cách cực đoan. Với nhiều thập niên, giới lãnh đạo dùng mọi
thủ đoạn nắm quyền để làm biến chất các tranh chấp sắc tộc giữa Hutu đa
số và Tusti thiểu số cho cứu cánh chính trị mà không lo sợ bị quy trách
về hành động của mình. Hành vi này đạt đến cao điểm vào năm 1994, đây là
một trong những diệt chủng kinh hoàng nhất trong ký ức gần đây khi
500.000 cho đến 1 triệu người Tutsi và nhiều người hiếu hòa Hutus bị
giết chết một cách tàn nhẩn trong vòng 14 tuần.
Để phá vỡ vòng bạo lực lẩn quẩn này, chính phủ mới của Rwanda kiên
quyết một cách đúng đắn là phải thay đổi quyền đặc ân miễn tố với tinh
thần chịu trách nhiệm theo luật, đây là điều tất yếu. Để đạt mục tiêu
này, trong năm nhậm chức đầu tiên, các giới chức cao cấp của chính quyền
mới kiên quyết là các cá nhân tham gia vào việc thảm sát phải bị truy
tố và trừng trị. Kết quả là khoảng 125.000 bị cáo buộc tội diệt chủng bị
giam nhiều năm trong tù trước khi xét xử. Việc giam giữ phân thành
nhiều nhóm nhỏ, làm số lượng này ít hơn tống số phạm nhân, nhưng lại quá
nhiều để xử lý trong một thời gian hợp lý trong bất cứ hệ thống tư pháp
hình sự nào.
Vấn đề càng trầm trọng hơn, khi hệ thống tư pháp hình sự Rwanda đã bị
dẹp bỏ trong thời diệt chủng, các luật sư và chánh án đã bị giết, đi tị
nạn hay vào tù. Trong ba năm vừa qua, toà án Rwanda đã xử hơn ba ngàn
vụ tội diệt chủng - một thành tích kỷ lục chưa từng có trong bất cứ xã
hội nào trong lịch sử - khi người ta còn bị quay cuồng trong đổ vỡ -
Nhìn chung, theo nhận xét của các quan sát viên độc lập, kể cả những
người đại diện cho bị cáo, thì các phiên xử được tiến hành khách quan.
Cuối năm 2001, chính phủ Rwanda dự kiến giao đa số các vụ kiện thụ lý
cho hệ thống tòa án địa phương gọi là gacaca, một mô hình tư pháp cổ
truyền lõng lẽo hơn. Dân làng từng địa phương sẽ tuyển chọn chánh án toà
gacaca cho làng mình. Bị cáo sẽ ra trước toà địa phương để điều trần,
kể cả có sự tham gia tích cực của các thành viên thuộc cộng đồng địa
phương. Chương trình này không hội đủ những tiêu chuẩn quốc tế như được
đề cập trong phần đầu của bài viết này, vì còn nhiều thiếu sót, đặc biệt
là trong điều kiện phù hợp với chuẩn mực quốc tế hiện nay về thủ tục
hình sự và quyền bảo vệ hình sự.
Vài nạn nhân sợ rằng tại một vài địa phương nơi mà tội diệt chủng bị
xoá đến độ không còn nhân chứng, toà gacaca sẽ là phiên toà xoá sạch do
láng giềng của bị cáo, những người đã hỗ trợ cho tội diệt chủng; một vài
bị cáo sợ rằng một hệ thống tư pháp được làm rùm beng trước toà gacaca
tại điạ phương sẽ bị nạn nhân khống chế; các tổ chức quốc tế và điạ
phương hoạt động nhân quyền bày tỏ mối quan tâm này, trong đó kể cả việc
loại trừ luật sư cho bị cáo trong thủ tục trước toà gacaca.
Dù thế, hầu hết người Rwanda cảm thấy là họ không có cách nào khác;
toà không thể xử án theo đúng thời gian quy định vì công việc quá nhiều.
Về phương diện chính trị, không thể chọn cách mở cửa nhà tù và thả hàng
trăm người bị cáo buộc tội diệt chủng; nhưng lại không thể chấp nhận
tiếp tục giam người trong nhiều năm mà không xét xử. Dù chương trình toà
án gacaca gây nhiều tranh luận, các luật sư Rwanda lập luận rằng chương
trình sẽ cam kết các địa phương s ẹ theo tiến trình công lý, đưa các
phạm nhân tái hội nhập vào sinh hoạt địa phương và thả hết tù trong thời
hạn tương đối ngắn trong các vụ không được xét xử.
Trừ một vài ngoại lệ hiếm hoi, có thể lập luận chung là không có
những trừng phạt quy mô trong các phiên toà chuyển tiếp này. Dù đồng ý
là có nhiều cảm xúc và áp lực chính trị nặng nề gắn liền với các vụ kiện
này, án tử hình có thể làm trầm trọng xung đột hơn cho xã hội trong
thời kỳ tái thiết.
Vấn đề quy trách và miễn tố không chỉ liên quan tới việc giải quyết
tranh chấp trong quốc gia bị chiến tranh tàn phá, mà còn có ảnh hưởng
trầm trọng cho tương lai, dường như cho cả những xung đột không liên
quan tại các nơi khác trên thế giới. Khi giải thích về niềm tin tại sao
tham gia diệt chủng mà không sợ bị cộng đồng quốc tế báo thù, Adolf
Hitler đã nhạo báng một cách đáng khinh bỉ: "Ai nhớ người Armenian?" -
khi đề cập tới nạn nhân cũa diệt chủng hai mươi lăm năm trước đó mà
không ai bị quy trách. Bằng chứng gần đây cho thấy giới lãnh đạo Serb ở
Bosnia khi thực hiện chiến xóa sạch sắc tộc và diệt chủng vào thập niên
1990 được thúc đẩy bởi sự kiện là lực lượng Khmer đỏ không hề bị truy tố
hay buộc tội về những vi phạm tại Cambobia vào những thập niên 1970.
Thanh Lọc Cấu Trúc Chính Quyền
Quy trách cá nhân bao hàm đến việc xét xử hình sự. Trong nhiều quốc
gia, nhiều nguời có liên hệ tới quá khứ phạm pháp có thể bị giới hạn,
khi tham gia sinh hoạt công quyền. Một nền hòa bình dài lâu đòi hỏi niềm
tin chung trong thể chế về trật tự mới. Niềm tin chung có thể bị suy
giảm trầm trọng nếu thể chế này được cũng được điều hành bởi các viên
chức đã gây nên nhiều thù oán trước đây hay hiện nay. Những người trước
đây giữ đầu máy cho việc lạm quyền, nhưng nay không còn trong bộ máy
chính quyền, có thể bị coi như không trung thành. Những người hỗ trợ cho
quan điểm phân biệt hay các chiến thuật lạm quyền của các phe nhóm
chống chính quyền trước đây, nay không được coi như những ứng viên khả
tín cho những chức vụ trong bộ máy hành chánh công quyền khách quan.
Một vài xung đột có thể thiếu những phần tử thuộc về những nhóm thủ
phạm và nạn nhân, nhưng hầu hết những xung đột nội chiến sau thời chiến
tranh lạnh bao gồm nhiều khuôn mẩu tội ác hay các vi phạm trầm trọng do
phe này hay nhóm kia gây ra. Ngay cả khi họ không bị quy trách theo luật
hình, những người gây thuận lợi cho những vi phạm trong quá khứ không
được phép gây tác hại hay làm đại biểu trong cơ cấu trong chính phủ mới.
Cùng lúc, người ta có thể lập luận rằng trong thời tái thiết hậu chiến
những nhân tài giàu kinh nghiệm thuộc về giới trẻ thuộc cấp thấp ở cơ
quan hành chánh cho đến các bộ trưởng có thể còn khan hiếm, một vài
người trong số này, đặc biệt thuộc về chính quyền củ, rất quan trọng
trong việc tái thiết đất nước, kiến thức và kinh nghiệm của họ rất cần
thiết cho viêc tạo trật tự mới.
Có nhiều thí dụ cho việc thử nghiệm thanh lọc như thế. Tại El
Salvador, hoà uớc lập ra một Ủy Ban chuyên trách đặc biệt nhằm minh danh
một trăm sĩ quan cao cấp để hồi hưu vì những vi phạm nhân quyền trong
quá khứ. Tại Bosnia, Toán Đặc Nhiệm Cảnh Sát quốc tế được giao chuyên
trách loại trừ tất cả những ứng viên cho ngành cảnh sát tân lập điạ
phương, khi họ phạm tội với sắc tộc thiểu số trước đây. Ngay cả đối với
những ứng viên không bị truy tố vi phạm các tội này, nhưng khi cho phép
họ nắm chức vụ, mà sự hiện diện của họ sẽ tạo nên một cảm tưởng bất công
trong những nạn nhân trước đây, sẽ cản trở nỗ lực xây dựng hoà bình.
Tuy nhiên, thanh trừng bằng luật hành chánh không có mức độ bảo vệ
đúng luật thủ tục giống như thủ tục hình sự. Vì khuynh đảo kiểu này liên
hệ đến nhiều người, nên thường có khuynh hướng thực hiện trong một
phương cách ngắn gọn và bị lạm dụng, nhất là khi trừng phạt theo công lý
của kẻ chiến thắng và phân chia các chức vụ chính quyền.
Trong việc nhấn mạnh tầm quan trọng của trách nhiệm cá nhân và trách
nhiệm luật định, tinh thần thượng tôn pháp luật từ bỏ khái niệm về tội
lỗi tập thể. Nhiều người phải bỏ việc làm chỉ vì họ đã ở điạ phương có
tranh chấp hoặc là đảng viên một đảng chính trị, khi họ không có biểu
hiện sai trái cá nhân, thì họ có thể kêu oan và đòi công lý và dân chủ
của chính quyền mới.
Thay vì đóng góp cho hoà giải và tái thiết, những xáo trộn này chỉ
tạo thêm chống đối làm đe doạ ổn định cho chế độ mới. Trong một số
trường hợp, ảnh hưỏng của những biện pháp này được giảm đi nhờ cấm đoán
chỉ giới hạn trong một vài năm cho các cá nhân có dính liú; họ được tham
gia công vụ, sau khi tình hình lắng dịu, hoặc cho phép họ tham gia sau
thời kỳ tái thiết và sau khi thể chế công quyền đi vào nề nếp và được
tín nhiệm. Vấn đề này cần cân nhấc cẩn trọng về các quyền lợi.
Tạo Tư Liệu Lịch Sử
Trong thời kỳ chuyển tiếp sau khi tranh chấp giữa các quốc gia, lịch
sử luôn là đề tài gây tranh luận. Mỗi phiá vẫn còn có người ủng hộ để
phủ nhận các cáo buộc vi phạm đã xãy ra và cáo giác luôn là mình bị đối
thủ vi phạm hoặc biện luận trường hợp hành động do tình thế đòi hỏi. Dù
không thể kiểm chứng, nhưng những cáo buộc nhau làm suy yếu trật tự mới
và nỗ lực xây dựng hoà bình. Cáo buộc làm tăng thêm thoá mạ về tổn hại
đã gây ra cho nạn nhân, gieo giống oán thù và chỉ gặt thêm bạo lực mới.
Chiến tranh Bosnia phơi bày những vấn đề không giải quyết của lịch sử và
oán thù kể từ bảy thế kỷ truớc.
Hậu quả là ngoài việc theo dõi các cá nhân thủ phạm, việc thu thập
tài liệu chính thức của quá khứ thường là một yếu tố quan trọng cho một
thời kỳ chuyển tiếp thành công, mang lại ý nghĩa cho công lý và phấn
khởi. Một mặt, muốn được toà hình sự xử nghiêm minh phải tìm sự kiện và
bằng chứng về vi phạm trong qúa khứ và thiết lập „uỷ ban chân lý“ là một
mặt khác.
Trong khi hai tiến trình này có thể bổ sung nhau, ủy ban chân lý sẽ
hữu ích hơn cho việc hàn gắn vết thương chiến tranh và hoà giải nếu đất
nước không trang bị để xúc tiến những phiên toà công minh và khả tín.
Hoà giải trong trường kỳ đòi hỏi sự nghiên cứu cẩn trọng cách phối hợp
này. Nó sẽ thích ứng tốt nhất cho xã hội.
Tại El Salvador, cuộc nội chiến kéo dài 12 năm giữa chính phủ và Mặt
Trận Giải Phóng Farabundo Marti National Liberation Front (FMLN), làm
cho khoảng 27.000 người chết. Khi hòa đàm tiến hành, những cáo buộc và
phản biện về các tội các vi phạm của hai bên, đe doạ trở thành những trở
ngại trầm trọng cho việc tìm một giải pháp hoà bình cho xung đột. Tuy
thế, phải công nhận là hận thù và bất tín nhiệm chồng chất qua thời gian
đòi hỏi một số cơ chế cho phép mô tả trung thực về các hành động kinh
hoàng này.
Khi chiến tranh kết liễu vào năm 1992, cơ quan tư pháp được thành
hình, nhưng bị chính trị hoá cao độ và thoả hiệp và không có khả năng và
đủ tín nhiệm để giải quyết những vấn đền khó khăn thuộc về trách nhiệm
tội ác trong chiến tranh hay những vi phạm về nhân quyền một cách khách
quan. Một Ủy Ban ba thành phần của LHQ về Chân Lý được thiết lập do thoả
ước giữa các phe tranh chấp được xem như là bước tiến khởi đầu nhằm đạt
được ý nghĩa của công lý và trách nhiệm.
Mặc dù không phải là Toà án, Ủy Ban - giống như những cơ chế tương tự
được lập ra tại nhiều quốc gia phải giải quyết các tồn động từ những vi
phạm với mức độ quy mô - điều tra và báo cáo về tội ác do hai phiá vi
phạm trong thời chiến, tạo cho nạn nhân và thủ phạm hai phiá có cơ hội
làm chứng tích cho các tài liệu chính thức. Bởi vì thiếu một hệ thống tư
pháp hình sự khả tín, Uỷ ban này cảm thấy bị buộc phãi giải thích vài
phán quyết theo như Baó cáo 1993, nếu không phải giao lại cho cơ quan tư
pháp El Salvador để xử lý.
Một thí dụ chính là quyết định của Ủy ban đã công bố danh tính những
thủ phạm các trường hợp nghiêm trọng, dù là trong tiến trình của Uỷ Ban
không đòi hỏi phải bảo vệ cho các phạm nhân này được hưởng quyền đúng
theo luật thủ tục quy định. Nếu khi hoạt động của hệ thống tư pháp quốc
gia đạt đến mức khả tín, thì Ủy ban sẽ giữ danh tánh này bí mật trong
các báo cáo, thay vì giao cho chính quyền để truy tố. Trong một báo cáo
của mình, Ủy ban phân tích những đường lối mà việc quân sư hoá xã hội El
Salvador đã làm tê liệt hoạt động tam quyền phân lập của chính quyền.
Ủy Ban cũng khuyến cáo nâng cao triển vọng của từng thể chế này vai trò
của quân đội cho phù hợp với tinh thần thuơng tôn pháp luật.
Nhiều Ủy ban chân lý lập ra một diễn đàn cho hàng trăm hay hàng ngàn
nạn nhân mà họ chưa bao giờ đưọc mời ra toà làm chứng. Trong nhiều quốc
gia các Uỷ ban này không chỉ đơn thuần cứu xét đến các trường hợp cá
nhân, mà còn vấn đề hệ thống đã gây ra vi phạm, tùy theo vai trò của
từng lĩnh vực khác nhau, các lực luợng an ninh, lãnh đạo tôn giáo,
truyền thông, hệ thống giáo dục, cơ quan tư pháp, v.v… tạo nên một môi
trường cho vi phạm phát sinh. Dựa trên các phân tích này, Ủy ban được
giao chuyên trách cho việc soạn thảo các khuyến cáo thật chi tiết về
những biện pháp cải cách cho chính phủ và xã hội. Các Uỷ ban chân lý
được lập ra trong thời hậu chiến, lúc gần đây, bị cáo giác là làm việc
trong mức độ rộng lớn hơn dự kiến trong thời chuyển tiếp từ chế độ đàn
áp, khi triển khai phương cách đóng góp cho tiến trình hoà giải.
Tại Guatemala, nội chiến tàn phá đất nước hơn 35 năm với cái giá phải
trả là hơn một trăm ngàn nhân mạng, hoà ước uỷ nhiệm cho Uỷ ban chân lý
tìm ra „một chân lý toàn diện“ về những vi phạm trong quá khứ của các
phe phái, thể hiện việc này như một tiến trình để tạo nền tảng cho sự
sống chung an hoà và sẽ xoá bỏ mọi hình thức báo thù như điều kiện tiên
quyết cho một nền hoà bình vững chắc và dài lâu. Tại Sierra Leone, người
ta hy vọng rằng Uỷ ban chân lý sẽ có khả năng giải quyết những vấn đề
quân nhân vị thành niên vi phạm tội ác. Tại Bosnia, Ủy ban chân lý sẽ
trình bày thành tích cá nhân từ các phe phái trong tranh chấp, những
người dám mạo hiểm để bảo vệ cho đồng bào và các nhóm sắc tộc trước các
vi phạm.
Bồi Thường Thiệt Hại và Phục Hồi Danh Dự
Cuối cùng, theo quan điểm của uy lực pháp quyền, việc đề cập đến vi
phạm trong quá khứ không chỉ dành cho thủ phạm mà còn cho nạn nhân. Dù
thế, những đòi hỏi tranh nhau về những phương tiện giới hạn luôn là một
đặc điểm của nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, bồi thường thiệt hại và
phục hồi danh dự cho nạn nhân phải được đưa vào trong hầu hết các kế
hoạch tái thiết hậu chiến. Bồi thường thiệt hại có ít nhất ba chức năng
trong tiến trình hoà giải quốc gia.
Thứ nhất, giúp cho nạn nhân nắm bắt được các khía cạnh thiệt hại vật
chất đã mất. Thứ hai, tạo nên sự công nhận chính thức về vết thương đất
nước. Cả hai tạo thuận lợi cho việc tái hội nhập xã hội chịu nhiều đau
khỗ trong câm lặng. Thứ ba là làm ngăn trở vi phạm của nhà nước trong
tương lai bằng cách đặt ra những bồi thưòng tài chính cho những hành vi
sai trái. Trong luật quốc tế có sự đồng thuận là nhà nước phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho nạn nhân qua những sai phạm nghiêm
trọng về luật nhân quyền do chính quyền gây ra. Nếu chế độ vi phạm nhân
quyền mà không bồi thường thì chính phủ kế nhiệm phải lãnh trách nhiệm
này.
Trong một vài quốc gia, người ta đặt ra quyền luật đinh mới có liên
hệ đến khía cạnh phức tạp về công lý này trong giai đoạn hậu chiến. Sau
khi chiến tranh chấm dứt tại nước Nam Tư củ, hoà ước quy định thành lập
ủy ban giao lại đất đai cho những người bị lưu lạc trong thời chiến,
giải quyết vô số các tranh chấp tài sản, bồi thường thiệt hại cho những
nạn nhạn lưu lạc trong thời xung đột.
Tại Rwanda có hàng ngàn khiếu nại do nhiều nhóm khác nhau về tài sản:
nhóm ngưòi tỵ nạn Tutsi đã ra khỏi nước từ hơn 35 năm, nhữngnguời lưu
lạc trong thời diệt chủng, những người tỵ nạn thuộc sắc dân Hutu rời
nước vào năm 1994, có những tù nhân hồi hương trước đó rất lâu cũng được
tham gia khiếu nại.
Tại cả hai nước Rwanda và Nam Tư củ, tinh thần thượng tôn pháp luật
đòi hỏi bồi thường thoả đáng thiệt hại, đó là điểm thiết yếu cho việc
xây dựng hoà bình dài lâu. Tùy thuộc vào tình hình, việc bồi thưòng
thiệt hại có thể sắp vào chương trình trả lại tài sản đã mất hoặc là cho
học bổng hoặc trả tiền hưu cho thân nhân còn sống của nạn nhân hoặc
tài trợ cho những Qũy hoạt động văn hoá của nhóm thiểu số.
Nhu Cầu Kết Hợp Các Khảo Hướng
Những tội ác tập thể có hệ thống thường làm bộc phát những vấn đề
phức tạp trong xã hội hoặc là tạo thêm điều kiện cho sự bộc phát này.
Nói chung, những tội ác này không có những giải pháp đơn thuần. Càng thể
hiện rõ hơn là việc xây dựng một nền hoà bình hậu chiến có hiệu năng
đòi hỏi không những những cơ chế như đã khởi thảo mà còn là một khảo
hướng liên kết nhằm tổng hợp và phân định những phương cách dị biệt để
giải quyết các trường hợp đặc thù.
Trong hơn hai năm trong hậu chiến Bosnia, một số người đồng ý rằng Ủy
Ban chân lý và hoà giải phải được thành hình để bổ sung cho công việc
của Tòa Án Hình Sự Quốc Tế tại The Hague, tạo diễn đàn cho hàng ngàn nạn
nhân, triển khai những khuyến cáo cho những cải cách hệ thống và đãm
nhiệm các công tác khác. Nỗ lực bị ngăn trở vì có những người cự tuyệt
cho một cơ chế như thế không nên thành hình, cho đến nào mà khi toà án
đảm nhận công việc. Kết qủa có hàm ngụ một lời tuyên bố: nếu xã hội đang
tái thiết xác định mình không có khả năng tự tổ chức những phiên toà
khả tín để xử tội phạm và nếu cộng đồng quốc tế đãm nhận được khả năng
này, thì xã hội sẽ phải bị kềm hãm rất lâu để theo đuổi bất cứ chương
trình nào khác để giải quyết quá khứ xáo trộn của mình.
Cũng tương tự như vậy, tại Sierra Léone, hoà ước Lomé năm 1999 đề ra
việc thành lập Ủy Ban chân lý và hòa giải. Sau đó, Hội Đồng Bảo An LHQ
ủy nhiệm thành lâp toà án chuyên trách tội ác chiến tranh tại Sierra
Léone - điểm mà vài giới chức quốc tế đề nghị nỗ lực ủy ban có thể được
hủy bỏ. Trong cả hai trường hợp, nhũng cuộc thảo luận sâu rộng giữa các
giới chức địa phương và quốc tế vào cuối năm 2000 đạt được sư đồng thuận
về nhu cầu về toà án và Ủy ban chân lý, cả hai cùng tiến hành để bổ
sung nhau hoàn thành những chức năng khác nhau, đưa các quốc gia xáo
trộn này thăng tiến.
Trong việc giải trình trách nhiệm đối với bạo lực tập thể tại Đông
Timor, LHQ và các chính quyền địa phương cũng đã chấp nhận một phương
cách tương tự nhằm liên kết gồm nhiều đường hướng.
Tiến Trình Lập Hiến
Tại nhiều quốc gia chuyển tiếp từ nội chiến sang chính
quyền mới, một trong những công tác quan trọng nhất là thảo hiến. Dĩ
nhiên, hiến pháp là một tài liệu pháp lý nền tảng cho toàn bộ hệ thống
luật pháp của quốc gia, hiến pháp là viên đá đầu tiên cho tinh thần
trọng pháp. Hơn nữa, hiến pháp bao gồm viễn kiến cho một xã hội mới, đề
ra những nguyên tắc cơ bản để công nhận hệ thống chính trị, cách phân bổ
quyền lực trong một nước, những điều khoản về luật nội dung và thủ tục
mà cả hai có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc cũng cố hoà
bình.
Khi việc thảo hiến và áp dụng do một nhóm ưu tú của phe thắng cuộc đề
ra, kết quả mang lại là nền tảng này không những chỉ thiếu dân chủ mà
còn không ổn định. Nói một cách tương tự, nếu đồng ý với đặc điểm của
hiến pháp, thì lập hiến có thể tạo nên một tiến trình đối thoại quốc
gia, cho phép những viễn kiến đối nghịch và những khiếu nại trong xã hội
hậu chiến được diễn đạt và kết hợp, để tạo điều kiện cho việc hoà giải
giữa các phe nhóm. Đó cũng có thể là một tiến trình cho giáo dục quốc
gia trong các chiều hướng về các khái niệm chính quyền, vấn đề và quan
tâm của các phe nhóm khác nhau trong đất nước, phát triển xã hội dân sự
và trách nhiêm công dân và chuẩn mực quốc tế về nhân quyền, nguyên tắc
không phân biệt và khoan dung, tất cả phải được du nhập trong hiến pháp
mới. Tóm lại, tiến trình lập hiến có thể đóng góp cho hoà bình và ổn
định.
Tại Eritrea, sau ba mươi năm chiến tranh giành độc lập, tiến trình
lập hiến đặt tr ọng tâm vào cấu trúc nhằm tạo thuận lợi cho cũng cố hoà
bình. - trong hai năm nỗ lực và tuyên bố là đạt một tiến trình lịch sử
cho sự đoàn kết của ngưòi dân Eritrea trong một cuộc đối thoại đầy sáng
taọ cho cả nước. Ủy Ban Hiến Pháp bao gồm nhiều thành phần tôn giáo, sắc
tộc, và địa phương khác nhau. Nhiều văn phòng được thành lập tại năm
khu vực trong nước, trong tiến trình này còn có một văn phòng phụ thuộc
khác chuyên trách cho 750.000 người Eritrea sống ở hải ngoại.
Uỷ Ban Hiến Pháp chuẩn nhận một chiến lược liên hệ đến một cuộc tham
khảo ý kiến công luận sâu rộng nhất, một chiến lược tránh đưọc phương
cách từ trên đi xuống. Những cuộc thảo luận được để xuất qua hàng loạt
các hội thảo về công dân giáo dục, thảo luận, hội luận tại các làng và
tỉnh đạt được hàng trăm ngàn người tham dự. Bích chương, báo chí, truyền
hình và truyền thanh được dùng đễ tạo điều kiện dễ dàng cho việc giáo
dục công dân và đối thoại. Trình bày những nguyên tác cơ bản và thảo
hiến là đề tài cho những thảo luận của quần chúng và tiền đề sâu rộng
khác.
Tại Cambodia, dù không có được một cuộc tham khảo ý kiến công luận
sâu rộng tương tự, soạn thảo và chuẩn nhận hiến pháp sau Hòa uớc Paris
cũng bao gồm mức độ đối thoại quốc gia cùng với tranh chấp các phe phái
trong việc phân chia quyển lực và quyền lợi trong xã hội Cambodia. Lập
Hiến tại Nam Phi đem lại một thí dụ rõ hơn về sự hữu ích của cách này.
Thí dụ như trong một khoá họp mùa xuân 1995, Quốc Hội Lập Hiến dành
nhiều thì giờ để thảo luận để thảo luận dự thảo hiến pháp mới liên quan
đến lực lượng an ninh cho Nam Phi, một đề tài quan trọng và gây tranh
luận đối với nhóm đối kháng, những người được hình thành trong thời còn
xung đột.
Nhiều loại vấn đề nhạy cảm khác - thí dụ như sử dụng quyền trong
trường hợp khẩn cấp và những giới hạn, cho phép quân nhân không tuân
lịnh thượng cấp khi vi phạm luật quốc tế, kiểm soát dân sự của các lực
luợng an ninh -, tất cả những vấn đề này cũng được những kẻ cựu thù, nay
ngồi trong Quốc Hội, thảo luận, họ gồm đủ thành phần mọi giới từ đại
biểu thuộc Đảng Quốc hội Liên Phi (Pan-African Congress) thuộc cánh tả
đến Mật Trận Tự Do (Freedom Front) thuộc cánh hữu. Nhiều tham dự viên
công nhận rằng chỉ trong một vài năm trước đó những cuộc tranh luận như
thế không thể nào nghĩ ra. Tuy nhiên, trong bối cảnh của thời kỳ chuyển
tiếp, tiến trình Quốc Hội Lập Hiến dai dẳng đem lại một lộ trình quan
trọng cho những người đối nghịch bằng bạo lực trước đây, nay lại thương
thuyết và hợp tác trong việc xây dựng từng giai đoạn của trật tự mới.
Triển khai hiến pháp thông qua tiến trình đối thoại quốc gia cũng có
những giới hạn nhất định. Một mô hình tương tự về những điều kiện cho
đồng thuận xã hội nếu được một nhóm nhỏ đóng kín cửa quyết định và trao
cho dân chúng ít hiệu năng hơn. Tiến trình thảo hiến có thể gây bất ổn,
thí dụ như trường hợp nếu thời kỳ chyển tiếp quá dài không có luật lệ cơ
bản cai trị hoặc là trong thời kỳ chuyển tiếp mà hiến pháp củ được tiếp
tục sử dụng, thì sẽ làm cho xung đột trầm trọng hơn.
Đó là trường hợp của Nam Phi khi hiến pháp lâm thời được thương thảo
để lập ra một cơ sở chuyển tiếp và một tiến trình dài hơn cho phép thảo
luận những vấn đề khó khăn và triển khai tài liệu chung quyết. Hơn nữa,
điểm chính phải công nhận là không phải tất cả mọi vấn đề xã hội sẽ được
hiến pháp giải quyết. Như đã đề cập trước đây trong vấn đề liên hệ đến
toà án, coi lập hiến như một phương tiện giải quyết các khiếu nại từng
phe nhóm có thể buộc phải giải quyết đủ loại vấn đề không thích hợp cho
tiến trình này. Việc này có thể đem lại kết quả hoặc là các phe nhóm
thất vọng để từ bỏ tiến trình hoặc là chấp nhận kết hợp những điều hứa
hẹn trong hiến pháp mới mà biết là không thực hiện được, cả hai chỉ làm
hại cho sự khả tín của tiến trình và của hiến pháp mới.
Tạo điều kiện căn bản rộng rải cho xã hội tham gia có nghĩa là làm
cho tiến trình này sẽ kéo dài hơn để đúc kết, bao gồm những chi phí hành
chánh nặng nề và thảo luận sâu xa, và kết quả là một số thoả hiệp có
thể tránh được. Cùng lúc, có thể tạo nên một hiến pháp được hiểu biết và
chấp nhận, ổn cố và hỗ trợ cho hoà bình nhiều hơn. Những quyết định
liên hệ đến tiến trình sẽ ảnh hưỏng tất yếu đến tính chất của các tranh
chấp riêng biệt và những trường hợp của giải pháp.
Tầm Quan Trọng Của Ngoại Viện
Như đã đề cập, trong khi minh chứng cho một khai nguyên của xã hội
dựa trên công lý và uy lực pháp quyền trong thời hậu chiến còn là thách
thứ mới, nhưng việc lập thể chế mới, huấn luyện luật sư, chánh án, cảnh
sát và tất cả các loại nhân viên khác cần nhiều thời gian. Đây chính là
khó khăn đang còn xãy đến.
Trong nhiều trường hợp công lý và hoà giải là giải pháp đạt được nhờ
phương tiện của các tổ chức quốc tế. Thí dụ như tại El Salvador là một
nước có dân số tương đối ít nhưng lại cảm thấy bị phân hoá để đạt được
đồng thuận về các vấn đề vi phạm đã xãy ra trong thời xung đột. Do đó,
một Uỷ Ban chân lý LHQ được thành hình hoàn toàn không có người El
Salvador tham gia để đảm bảo tính trung lập khách quan, khả chấp và để
không bị ảnh hưởng bởi bất cứ một cơ chế quốc nội nào trong thời kỳ đầu
tiên của chuyển tiếp.
Để giải quyết vấn đề nội chiến và diệt chủng tại Rwanda và Nam Tư củ,
Hội Đồng Bảo An LHQ thành lập hai toà án hình sự quốc tế - đây là hai
cơ chế đầu tiên thành hình kể từ khi có Toà án Nuremberg từ nữa thế kỳ
trước. Nhiều yếu tố ngăn trở cho việc quốc tế hoá cần đáp ứng trong
những trường hợp này:
- tội ác cực kỳ kinh khiếp là một thách thức to lớn cho những nguyên tác luật quốc tế;
- nhu cầu phục hồi công lý là thành tố thiết yếu trong việc đạt đến
hoà giải và phá vờ vòng lẩn quân của bạo lực là quá hiển nhiên; và
- hệ thống tư pháp quốc nội (đặc biệt là tại Rwanda) hoàn toàn bị hủy diệt.
Hơn nữa, tòa quốc tế có vị thế tốt đẹp hơn toà quốc nội, vì các lý do
- mang một thông điệp rõ ràng là cộng đồng quốc tế không thể khoan
dung các thãm hoạ như thế, hy vọng làm giảm bớt các tội ác này trong
tương lai, không phải chỉ tại Rwanda và Bosnia, mà khắp thế giới;
- được huy động bỡi nhũng chuyên gia có khả năng áp dụng và giải thích các tiêu chuẩn luật quốc tế;
- có nhiều phương tiện về nhân sự và vật chất cần thiết khả dụng;
- có chức năng dựa trên cơ sở độc lập trung dung hơn là báo thù, và chức năng này được cảm nhận là được vận hành;
- thúc đẩy sư phá triển và chấp hành các quy luật hình sự quốc tế; và
- có quyền tài phán đối với những thủ phạm trong những trường hợp gia
trọng nhất khi họ đã trốn ra khỏi nước. Hai toà án này đã đem lại mang
đến nhiều tiến bộ quan trọng trong sự hiểu biết và xử lý về tội phạm
chiến tranh, tội án chống nhân loại và diệt chủng.
Trong những trường hợp khá hiếm hoi như vậy, tạo cơ chế quốc tế nhằm
mang lại ý nghĩa cho công lý là điểm chủ yếu. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp, đây chỉ là giải pháp thứ hai phải chọn lựa. Ngay trong
trường hợp của Rwanda và Bosnia, nơi mà việc thành lập toà án hình sự
quốc tế là phù hợp, nền hoà bình dài lâu đòi hỏi phải thiết lập thể chế
quốc nội vững chắc, trong nội bộ các quốc gia này phải triển khai mọi
khả năng nhằm nỗ lực thực hiện công lý và hòa giải. Dù đây gần như là
chuyện một phương trình bằng không, sung dụng tương đối các phuơng tiện
ưu tiên đem lại một khẳng định về vai trò quốc tế trong lĩnh vực công lý
và uy lực pháp quyền trong thời hậu chiến. Trong khi chi phí đóng góp
cho hai toà này lên đến 1 tỷ, kinh phí sử dụng nhằm phát triển các thể
chế pháp luật quốc nội thấp hơn.
Nếu vấn đề quy trách và công lý đạt được thông qua toà án hay ủy ban
chân lý hay không, nói chung, cả hai vấn đề này sẽ đạt hiệu quả cao nhất
qua một tiến trình quốc nội do chính các quốc gia này điều động. Nếu
công việc tiến hành phù hợp với tinh thần thượng tôn luật pháp, việc
truy tố truớc toà án quốc nội làm gia tăng tính chính thống của chính
quyền thời hậu chiến và cơ quan tư pháp có nhạy bén hơn ngưòi ngoại quốc
với những đặc điểm của cộng đồng địa phương. Đặc biệt là nhấn mạnh đến
vai trò chính quyền trong việc quy trách cá nhân khi vi phạm hình sự và
đem lại một nền tư pháp hoạt động trong cảnh giác.
Ngoài ra, nhà nước và các cơ quan sẽ có điều kiện kết hợp các bài học
về công lý, trách nhiệm và hoà giải sau những tiến trình quốc nội đầy
phấn khởi, khi kết hợp được mọi đại biểu của tất cả các đảng phái. Tiến
trình hướng nội cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng hoà bình. Ngược
lại, nếu nhà nước giải quyết các nhu cầu phải đối phó vấn đề bằng cách
dựa vào người ngoại quốc, thì kinh nghiệm đóng góp cho một nền hoà bình
lâu dài và đảm bảo của pháp luật ít hơn (tuy nhiên, vấn đề chính quyền
có thể từ bỏ dễ dàng, khi lãnh đạo địa phương càng có nhiều kinh nghiệm
chính trị hơn).
Ủy ban chuyên gia của LHQ khi lập toà án Rwanda công nhận điểm này,
họ ghi nhận là tòa án quốc nội nhạy cảm hơn trong những trường hợp cá
nhân, có thể đi đến những quyết định có những tác động gây ấn tượng hơn,
vì phán quyết giải quyết được vấn đề mà tòa đã quen thuộc với cộng đồng
địa phương.
Có hai cách giảỉ thích về sự công nhận ưu tiên tuần tự cho giải pháp
tư pháp quốc nội trong tiến trình này. Thứ nhất, từ năm 1995, cũng đã có
cơ chế không thuần túy quốc tế thành lập song hành với Ủy Ban El
Salvador, hoặc Toà án tại Nam Tư và Rwanda. Khi thấy vai trò quốc tế là
cần thiết, thì sẽ có khuynh hướng chung là lập toà hỗn hợp quốc tế và
quốc gia, mà giới chức địa phương tham gia chiếm đa số. Những thí dụ kể
đến Uỷ Ban chân lý được lập tại Guatemala, hiện cũng đang cứu xét tương
tự tại Bosnia, Toà án đặc biệt được đề nghị tại Cambodia và Sierra
Léone.
Thứ hai, không giống như toà án quốc tế tại Nam Tư củ và Rwanda, đem
đến quyền tài phán ưu tiên trước khả năng toà án quốc nội trong việc
truy tố, Hiệp uớc Rome năm 1998 thành lập Toà án Hình Sự Quốc Tế (ICC)
nhằn điều chỉnh thẩm quyền này. Toà ICC nhằm bổ sung thẩm quyền hệ thống
tư pháp quốc nội và có thể hành sử thẩm quyền tài phán bổ sung qua các
vụ tội diệt chủng, tội phạm chiến tranh, tội ác chống nhân loại, khi hệ
thống tư pháp quốc gia không có khả năng và không muốn làm như thế.
Một khuynh hướng có liên quan đến với sự trợ giúp của hải ngoại mà
người ta nhận ra được là trong vụ kiện chống nhà độc tài Chile Augusto
Pinochet. Dựa trên sư đồng thuận về nguyên tắc tài phán phỗ quát về một
vài tội ác quốc tế, một số quốc gia bắt đầu khẳng định quyền tài phán
của toà án quốc gia trước các tội diệt chủng, tội ác chiến tranh, tội ác
chống nhân loại và tra tấn kể cả khi vi phạm trong nội chiến có vũ
trang tại một quốc gia thứ hai, mà cả hai thủ phạm và nạn nhân là công
dân của quốc gia này. Trong thập niên vừa qua, trường hợp hình sự đã thụ
lý tại ít nhất mười một quốc gia nhằm chống lại các dân ngoại quốc vi
phạm tội ác chống nhân loại và các vi phạm liên quan bị cáo buộc tại quê
hương. Trong một số trường hợp này, các nạn nhân né tránh không muốn
hoặc chính quyền không có khả năng truy tố.
Trong trường hợp Pinochet, chánh án Tây Ban Nha tìm cách dẫn độ
Pinochet từ Luân Đôn, nạn nhân và chánh án có khả năng buộc ba chính
quyền liên quan là Chile, Tây Ban Nha và Anh. Cuối cùng, kết quằ chính
là chánh án Tây Ban Nha đạt được những gì mà xã hội Chile đã không tự
thực hiện được trong hai thập niên qua là làm bung ra hàng loạt các hoạt
động và òa vỡ các cảm xúc tại Chile. Những nỗ lực truy tố Pinochet tại
quê nhà, những cuộc điều tra hình sự công khai chống lại một vài người
khác, buộc quân đội sau nhiều trì hoản phải thoả mãn các luật sư nhân
quyền, bất đầu xác định điều tra và thông tin về định mệnh của các người
mất tích đến mức độ tác đông những vụ án tại hải ngoại, có ảnh hưởng
làm kết thúc thời kỳ chuyển tiếp của Chile sang dân chủ. Sau một vài năm
phát triển việc hành sử quyền tài phán phỗ quát lại tạo nên một tiến
trình khá hỗn độn.
Kết Luận
Những thách thức mới cho hoà bình đòi hỏi những phương tiện mới. Khi
chiến tranh trên khắp mọi nơi trên thế giới thay đổi sự phức tạp, chiến
tranh liên quốc gia ngày càng nổi bật hơn, tạo ra tinh thần thượng tôn
pháp luật đóng một vai trò ngày càng quan trọng, đặc biệt là trong thời
kỳ tái thiết hậu chiến và vãn hồi hoà bình.
Kể cả đến hiện nay có nhiều còn người cho rằng việc đề cao tinh thần
thượng tôn pháp luật là không quan trọng, hoặc tốt nhất chỉ làm thay đổi
gián tiếp lối suy nghĩ cho những công việc thực tế để giải quyết xung
đột và xây dựng hoà bình thời hậu chiến - vì họ có niềm tin là áp đặt
luật lệ và thể chế sẽ tự nó xoá đi những thù hận sâu xa, và đấu tranh
dành quyền lực. Một điều mà không có gì là có thể chính xác.
Uy lực pháp quyền từ trong nền tảng là một vấn đề khó khăn và đặc
biệt không có một lượng giá lạc quan về bản chất của con người và triển
vọng giải quyết cho xung đột. Chúng ta có thể cho rằng hứa hẹn long
trọng hiếu hoà và lập luận hoà giải hiển nhiên là quan trọng cho việc
xây dựng hoà bình, nhưng thực ra rất là mong manh.
Trong trường hợp tệ nhất, uy lực pháp quyền đề ra một mạng lưới của
thể chế, cơ chế và thủ tục kiểm soát những nguồn gốc của mọi sự xung
đột trong thời kỳ khởi thủy, ngăn ngừa khả năng của mọi phe phái gây
những hành vi bạo lực và vi phạm, buộc phải có vụ kiện công khai, và một
phạm vi hành động tương đối phù hợp.
Trong trường hợp tốt nhất, khi tinh thần trọng pháp được vun bồi cẩn
trọng, một hệ thống quy trách, giải quyết xung đột, giới hạn quyền lực,
cơ hội trình bày các quan điểm đối nghịch - nếu tất cả đều được thực
hiện qua phương tiện bất bạo động - sẽ trở thành một tập quán tạo điều
kiện để ngăn ngừa một cuộc nội chiến khác.
(Hết)
FBNhất Nam - TIẾN THOÁI LƯỠNG NAN - MẮC BẪY HAY TỰ CHUI VÀO BẪY? – Đôi lời “bàn loạn”.
- Gặp mặt gia đình quân nhân công tác tại Trường Sa (TTXVN).
- Tân Hoa Xã bình chuyến thăm Việt Nam của Ngoại trưởng Mỹ (GDVN). – Trung Quốc ‘nổi đóa’ vì phát ngôn của Ngoại trưởng Mỹ ở Việt Nam (Infonet).
- Trung Quốc tuyên bố về vụ ‘suýt’ đâm phải tàu chiến Mỹ trên Biển Đông (Infonet). – Trung Quốc “hiểu” Mỹ hơn sau khi hai tàu chiến “gặp gỡ” trên Biển Đông (MTG).
- Tăng giám sát, tham nhũng giảm (ĐĐK).
- Vụ Dương Chí Dũng bỏ trốn: Nguyên Phó giám đốc Công an Hải Phòng đe dọa điều tra viên (TN). – Vụ Dương Chí Dũng: Tại sao Citibank bị kiến nghị điều tra? (GDVN). – Từ đại án Dương Chí Dũng nghĩ về trách nhiệm công chức (Tầm nhìn).
- Quảng Ninh: Phường 475 “cán bộ”: “Không đông không được!” (DT).
- Tỉnh Bình Dương: 18 năm khiếu kiện đòi đất của một thương binh (NCT). – Tỉnh Đồng Nai: Phó Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội “tiếp tay” cho người bị tố cáo: sự thật đắng lòng!.
- “Xét xử hòn đá”: Chính quyền địa phương ưa gì làm nấy (MTG). – Vụ “kiện hòn đá”: Tòa cho tự thỏa thuận (DT).
- Bình đẳng hay tước quyền lao động? (ĐĐK).
- Vụ hành hạ trẻ mầm non ở Thủ Đức: Không kém gì vụ thẩm mỹ Cát Tường (TN). – Cơ sở bạo hành trẻ dã man “bí hiểm” với hàng xóm xung quanh (PL&XH). – Nơi các bé bị hành hạ dã man cách âm 2 lần cửa (TP). – Sao tàn ác với trẻ em thế! (NLĐ). – Chuyên gia phân tích những tổn hại trong tâm lý của trẻ (GDVN). – Có thể cung cấp bằng chứng tổn thương tâm thần (PT). – Bạo hành trẻ mầm non: Hậu quả khôn lường, di chứng kéo dài (TN). – Đừng đánh cắp tuổi thơ của con trẻ! (DT). – Các thiên thần bị bảo mẫu bạo hành đã ngủ ngon hơn (Infonet). – Gia đình bảo mẫu Đông Phương xin tha thứ (VNN).
- Tại sao trẻ em Việt cứ bị bạo hành ở trường mầm non? (PLXH/aFamily). – Thực tế phũ phàng nhìn từ vụ bảo mẫu hành hạ trẻ dã man (DV). – Xin phép lập trường mầm non: Có phong bao là ký? (Infonet). – Vụ “cô giáo” hành hạ trẻ mầm non: “Lỗi từ cha mẹ chứ đâu”!? (GDVN). – Cách phát hiện sớm những ‘cô giáo’ tra tấn trẻ (NĐT). – Sao lại bất an đến thế? (TQ). – Vụ hành hạ trẻ mầm non ở Thủ Đức: Chủ tịch quận nói gì? (TN). – ‘Bảo mẫu’ hành hạ trẻ mầm non phạm tội gì? (VNN). – Xử lưu động công khai bảo mẫu đánh đập trẻ để răn đe (VOV).
- Trung Hoa có nhiều điều khác… (Tia sáng). – Trung Quốc cắt nhiều hoạt động mừng sinh nhật Mao Trạch Đông (TN). – Thủ tướng Trung Quốc kêu gọi xây dựng chính phủ trong sạch (MTG).
- Điểm trùng hợp kỳ lạ giữa Chu Vĩnh Khang và Jang Song-thaek (ĐV). – Vụ xử tử làm đảo lộn đầu tư của Trung Quốc vào Triều Tiên (VOV).
- Những hình ảnh mới công bố: Cuộc sống thực ở Triều Tiên (PT). – Kim Jong-un: lãnh đạo “độc tài” nhất? (MTG). – Hé lộ nhân vật quyền lực số 2 của Triều Tiên (DT). – Hiểm nguy rình rập giới siêu giàu Triều Tiên? (DT).
- Thủ lĩnh biểu tình ‘cố đấm ăn xôi’ trước Thủ tướng Thái (ĐV). – Phe biểu tình Thái Lan lên kế hoạch ép Thủ tướng từ chức vào cuối tuần (GDVN).
- “Hệ thống tài chính Việt Nam đã bộc lộ nhiều yếu kém” (TTXVN). – Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Vương Đình Huệ “hiến kế” 9 giải pháp lành mạnh hệ thống tài chính (LĐ). – Trưởng Ban Kinh tế Trung ương: Cần 9 giải pháp để lành mạnh hóa hệ thống tài chính (PT). – Cần thiết thành lập Ủy ban ổn định tài chính (VOV).
- Sở hữu chéo đã làm lệch lạc dòng chảy của đồng tiền trong nền kinh tế (TTT/CafeF). – Cho phép truy soát để “bóc” sở hữu chéo ngân hàng (DT).
- TS Nguyễn Trí Hiếu: Nếu hoãn Thông tư 02, có cảm giác chúng ta đang sống trong ảo ảnh (TTT/CafeF).
- Ngân hàng đang phá giá lãi suất? (ĐTCK).
- Thủ tướng: “Kiên quyết độc quyền xuất nhập vàng” (VnEco). – Thủ tướng: NHNN phải độc quyền thị trường vàng (VOV).
- 14 giờ chiều nay giá xăng tăng thêm gần 600 đồng/lít (TN). – Xăng, dầu lập tức tăng giá khi được phép (SM).
- Quay cuồng với giá gas – Bài cuối: Đâu là nguyên nhân thực sự? (MTG). – Quay cuồng với giá gas – Bài 1: Trở lại thời kỳ than tổ ong.
- Xung quanh Đề án tái cơ cấu VNPT: Sân chơi viễn thông vẫn khó có cạnh tranh công bằng! (PT).
- Giá sữa vẫn ngoài tầm quản lý (ĐĐK).
- Khánh Hòa ra mắt nghiệp đoàn nghề cá đầu tiên (Tin tức). – Phát huy vị thế ngành kinh tế chủ lực (SGGP).
VĂN HÓA-THỂ THAO
- Phát hiện mộ táng hơn 6.000 năm tuổi ở Bắc Kạn (Tin tức/DT).
- Thần thi Vương Bột [3] (VHNA).
- Thưởng thức nghệ thuật giá bèo (MTG). – Chinh phục giới trẻ Sài Gòn bằng kịch nhân văn (SGTT).
- Quang tèo, Giang còi cùng ‘đau đầu’… lo Tết (NĐT). – Mùa cười có bớt nhạt nhẽo? (NNVN).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
- GS Ngô Bảo Châu: Gian dối trong khoa học dễ bị phát giác (DT). – Tôn trọng quy trình, nghiêm khắc, mới làm nên nhà khoa học (GDVN).
- Năm 2020, một số trường đại học, dạy nghề đạt trình độ tiên tiến (CP). – Thêm nhiều trường công bố chỉ tiêu dự kiến (TN).
- Quảng Ngãi: Chủ tịch UBND tỉnh đề nghị làm rõ vụ hiệu trưởng “buộc thôi việc” GV tố cáo (DT).
- Fan cuồng “thần tượng” (GD&TĐ).
- Hai luận văn của Rousseau: Khai minh về khai minh (Người đô thị/Tia sáng).
- Trung tâm Triển khai công nghệ bắt đầu hoạt động theo cơ chế tự chủ tự (Tia sáng). – Đào tạo về năng lượng nguyên tử được nhiều ưu đãi.
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
- Cứu được 11 thuyền viên bị nạn trên biển (TN). – 8 ngư dân mất tích: Tang thương phủ trắng làng chài (KP). – Nỗi đau biển khơi (KP).
- 600 tỷ đồng do cấp trùng thẻ BHYT sẽ được thu hồi, nhưng chưa chắc đã ‘vẹn toàn’ (SM). – Bộ trưởng Y tế: Thương bệnh nhân BHYT hơn dịch vụ (VNN).
- Cẩn thận cá nục “siêu rẻ” (DT).
QUỐC TẾ
- Nhà ngoại giao nữ bị “lột truồng”, Ấn Độ trả đũa (KP). – Ấn Độ sẽ tìm mọi cách đưa nhà ngoại giao bị bắt giữ về nước (VOV).
- Mỹ: Nổ súng tại trung tâm y tế, 2 người chết (DT). – Tìm ra “tác giả” dọa đánh bom giả tại Đại học Harvard (VOV).
- Ukraine trước ‘gậy và cà rốt’ Nga (VNN).
Dương Chí Dũng: và nụ cười đặc trưng “búa liềm”
Hoàng Thanh Trúc (Danlambao)
- “Dưới cái lạnh mùa đông, hàng trăm ngàn gia đình đồng bào, khúc ruột
miền trung phải khốn khổ vì giá rét trong những căn nhà trống trước hở
sau vì bão lũ, thì hắn, Dương chí Dũng kẻ “ăn cắp” mồ hôi nước mắt nhân
dân lấy hàng chục tỷ đồng mua 2 căn hộ cao cấp, sang trọng cho bồ nhí.
Vậy mà trước pháp đình hắn vẫn thản nhiên cười vui hí hửng đọc thơ tặng
quan tòa và những người tham dự vì cho rằng mình “vô tội”, dù trước đó
hắn bị bắt dẫn độ từ nước ngoài về do lén lút chạy trốn sau khi “ăn
cắp”!?
Nụ cười “bệnh hoạn” CS/XHCN khi đối chất với công lý, pháp luật của Dương Chí Dũng.
BỘ LUẬT HÌNH SỰ - CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG: Điều 278. Tội tham ô tài
sản - 1) Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà
mình có trách nhiệm quản lý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì
bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình, tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản.
A) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
B) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.
Tính “rợ” cho đúng, cho đủ, theo cư dân chợ Đồng Xuân Hà Nội thì Dương
Chí Dũng phải bị “cắt bùm” đến 20 lần mới sòng phẳng, bởi ngoài tham ô
10 tỷ đồng từ mồ hôi nước mắt nhân dân đóng thuế để mua căn hộ cao cấp
cho bồ nhí thì nhà nước như mất cả chì lẫn chài khi Ụ nổi 83M mua về
hiện tại giá trị như đống sắt vụn không thể sử dụng, gây hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng, thiệt hại cho tài sản nhân dân hơn 366 tỷ đồng.
Điều gì khiến hắn lạc quan “bệnh hoạn” vô liêm sỉ như kiêu binh mà chúng
ta hiếm thấy với các can phạm thuộc nhóm tội “đại hình” như vậy?
Điểm tựa của hắn cái gọi là “Gia Đình cách mạng” chăng, như hắn tự hào đã khoe trước tòa? hay một thế lực “dấu mặt” nào khác?
“Bị cáo sinh ra trong một gia đình nội ngoại đều có truyền thống cách mạng.” (Dương chí Dũng).
Dương Chí Dũng là con trai của ông Dương Khắc Thụ - nguyên Đại tá cựu
Giám đốc Công an TP/Hải Phòng. Các anh em của Dương Chí Dũng đều công
tác trong ngành Công an TP này. Em trai là Đại tá Dương Tự Trọng (bị Bộ
CA bắt tạm giam ngày 22/2/2013) từng giữ chức vụ PGĐ/CA Hải Phòng sau đó
được thăng cấp lên Cục phó Cục Cảnh sát Quản lý Hành chính về trật tự
xã hội và em rể là Nguyễn Bỉnh Kiên, nguyên Đại tá PGĐ/CA/TP Hải Phòng
(bị mất chức, khai trừ Đảng ngày 29/03/2013), em gái là bà Băng Tâm sĩ
quan Công an PC 25 TP/Hải Phòng. (Cả 2, Trọng và Kiên hổ trợ cho việc
đào tẩu của Dương Chí Dũng, cũng sẽ bị ra tòa nay mai).
Nguyễn Bỉnh Kiên Dương Chí Dũng Dương Tự Trọng
Trước vụ việc hoàn thành âm mưu vừa ăn cắp cho chính mình vừa chia tiền %
biếu không cho thiên hạ nước ngoài trong khi đại bộ phận nhân dân
(những người đóng thuế số tiền ấy) còn quá nghèo, gây ra thiệt hại quá
lớn về tinh thần và vật chất cho xã hội đả rõ như ban ngày, chứng minh
bằng các thành viên cao cấp của gia đình hỗ trợ hắn chạy trốn, nhưng
không thoát - Vậy mà trước tòa án tự tin vào “truyền thống cách mạng”
Hắn - Dương Chí Dũng - rất vô liêm sỉ khi nhân cách còn thua cả trâu
ngựa (một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ) vẫn tỉnh queo vô tư khẳng
định rằng:
“Về tội tham ô tài sản thì bị cáo hoàn toàn không biết đến khoản tiền
1, 666 triệu USD và không chỉ đạo ai làm việc này. Thực tình là không
nhận đồng nào anh Sơn đưa cho. Đây là việc oan cho bị cáo. Mong HĐXX hết
sức xem xét kỹ lưỡng cho bị cáo- Đến chết trong tù bị cáo cũng không
bao giờ nhận, tội này.” (Dương Chí Dũng) - Vậy thì HĐ xét xử và ông
CT/Nước có nên cho hắn “sống” không? Một kẻ lì lợm, khi hắn như trực
tiếp công khai nói với nhân dân cả nước rằng cáo trạng đã vu oan cho
hắn?
Toa rập tẩu tán tài sản mồ hôi nước mắt nhân dân? Đã có vợ và ba
con gái, nhưng Dương Chí Dũng vẫn lao vào cuộc chơi tình ái với cô bồ
nhí tuổi gần bằng con gái, kém mình 25 tuổi tên là Ph.T.T (sinh năm
1982, quê Thanh Hóa). Kết quả cuộc tình này là cô bồ đẻ cho ông Dũng một
đứa con. Ông Dũng lấy tiền tham ô mua hai căn hộ chung cư cao cấp cho
bồ nhí.
Nhưng rất buồn cười, bà Phạm Thị Mai Phương (vợ chính ông Dũng) lại cho báo chí biết: “Tôi biết chồng tôi có con với người phụ nữ trẻ khác và tôi đồng ý việc này!??
(đồng lõa với vi phạm pháp luật hôn nhân?) - và 10 tỉ đồng mà ông Dũng
dùng mua 2 căn hộ chung cư cho “bồ nhí”, bà Phương cho rằng đây là số
tiền của bà. (mua một lúc đến 2 căn hộ trị giá 10 tỷ cho bồ nhí của
chồng đứng tên???) “Ghé tai hỏi nhỏ ông “tà”, vợ nào tốt bụng như bà “Mai Phương”?
Không biết đây có phải tội đồng lõa âm mưu che giấu, tẩu tán tài sản “ăn cắp” của nhà nước, nhân dân??.
Bà Phạm Thị Mai Phương - vợ của bị cáo Dương Chí Dũng tại phiên xét xử.
Đã vậy Dương Chí Dũng còn vênh mặt nói trước tòa: Mong hội đồng xét xử
và nhân dân hiểu rằng tấm lòng của bị cáo không vì động cơ cá nhân mà vì
năng nổ, nhiệt huyết!?? “Điều này không phải thanh minh cho sai lầm,
khuyết điểm, sai phạm. Mà tấm lòng của tôi mong bà con người dân Việt
Nam hiểu được cái tâm của tôi”. Một cái tâm “ăn cắp” trong tấm lòng “bất
lương”? - Rồi như tức cảnh sinh tình trước các quan tòa, Dương Chí Dũng
đọc 4 câu thơ:
"28 năm qua lại trở về,
Những người hàng hải nặng thề năm xưa,
Dưới cờ Đảng nguyện cùng đưa,
Con tàu hàng hải đến bờ vinh quang..".
Thật khôi hài - Chủ sở hữu ụ nổi 83M “quá đát” này của Nga chào bán với
giá dưới 5 triệu đô la Mỹ. Nhiều năm không bán được (AP Singapore đã
thương lượng thỏa thuận mua ụ nổi này từ Nakhoka, Nga, chỉ có 2, 3 triệu
USD), Dương Chí Dũng và đồng bọn lãnh đạo Vinalines toa rập mua lại với
giá 9 triệu USD thông qua Công ty AP. Từ lúc mua về đến nay, tổng số
tiền Vinalines đổ vào ụ nổi này trước sau đã là gần 24 triệu đô la nhưng
giờ vẫn như đống sắt phế thải khổng lồ không thể sử dụng được, đang nằm
phơi nắn mưa bên “bờ vinh quang” trên sông Thị Vải cảng Gò Dầu B.
Ụ Nổi nhưng Đời chìm!?
Không biết hắn ta - Dương Chí Dũng - có còn là một con người hay động
vật 2 chân? Trước tòa không hề ăn năn hối hận mà phủ nhận gần như 100%
các sai phạm tội lỗi cố ý của chính mình, quan trọng hơn hết là không tự
nguyện khắc phục hoàn trả tang vật đã “ăn cắp” mà thông qua gia đình
mưu toan tham lam che giấu tài sản từ mồ hôi nước mắt của nhân dân mà
hắn thông đồng “ăn cắp” được qua sự khai báo đồng mưu của vợ là Phạm Thị
Mai Phương nói trên.
Án đã tuyên - 17h30 - Ngày 16/12 HĐXX sơ thẩm đưa ra phán quyết cuối
cùng, tuyên án Dương Chí Dũng mức án tử hình về tội tham ô tài sản. Dù
luật sư của hắn ra sức thuyết phục hội đồng xét xử và công luận rằng hắn
không “ăn cắp” bằng những lập luận mỏng tanh về giá trị, xa rời chân lý
đạo đức, bởi: Nếu hắn không chủ mưu “ăn cắp” thì 2 Đại Tá ngành công an
(và còn ai nữa?) sao lại liều lĩnh tổ chức mở đường cho hắn đào tẩu như
thế?
Mới là án “sơ thẩm” - phía sau nụ cười bệnh hoạn đầy “bí ẩn” của hắn vẫn
còn 2 cửa ải chung thẩm, giám đốc thẩm, và cuối cùng nếu vạn bất đắc dĩ
Dương Chí Dũng không có được “ai đó” gỡ giùm cái gông “án tử” thì hình
như hắn vẫn còn tự tin thay đổi được định mệnh của mình do xuất thân là
dòng dõi “búa liềm” có quá trình “đóng góp” cho cách mạng?
Tuy nhiên, nói như cư dân chợ Đồng Xuân, sau khi tham ô “ăn cắp” 10 tỷ
rồi đào tẩu thì tội của hắn phải “cắc bùm” tới 20 lần mới sòng phẳng vậy
thì có gia ân cho “cống hiến” của hắn 1 lần và cho gia đình CS nòi của
hắn 1 lần nữa thì vẫn còn hàng chục lần cửa “tử” mà hắn phải bước qua.
Liệu ngài CT/Nước “Tư Sâu” có đủ can đảm dập tắt cái nụ cười “ngạo mạn,
kiêu binh” của Dương Chí Dũng hay cũng cùng một tư duy công thức CS/XHCN
cứ tha hồ tham ô, ăn cắp nhiều vào, càng nhiều càng tốt bởi khi bị phát
hiện, năm trăm triệu hay năm trăm tỷ thì cũng chỉ một án tử, lấy quá
trình công lao phục vụ trung thành với “đảng ta” mà trao đổi!? Cái này
nhân dân phải hỏi ngài “TƯ Sâu” cho rõ.
QUY TRÌNH CỦA ĐẢNG, QUY TRÌNH CỦA DÂN …
Nhật Lệ
Thời gian qua, hàng loạt vụ việc kinh hoàng, gây bức xúc tột đỉnh trong dư luận vẫn cứ đều đều diễn ra. Thật khó hình dung, thế kỷ hăm mốt đã tiến những bước dài rồi mà tại Việt Nam, trước những sự việc kinh thiên động địa như vậy, câu hỏi ai là người phải chịu trách nhiệm thì rốt cuộc …vẫn loanh quanh và bí ẩn. Cay đắng hơn, những người có trách nhiệm trong việc làm rõ trách nhiệm dường như lúc nào cũng thủ sẵn câu nói: Đúng quy trình. Thế là hoà cả làng. Thế là người dân – Ông Chủ đành lòng vậy, cầm lòng vậy…Lạ thật, Đầy tớ cứ nói, cứ làm theo cách của Đầy tớ, còn Ông Chủ thì vẫn cứ phải cam chịu, hết ngày dài lại đêm thâu, hết vụ việc này đến vụ việc khác và mức độ tàn độc, khủng khiếp thì càng lúc, càng nghiêm trọng.
Có thể liệt kê trên dưới chục vụ gắn liền với câu nói cửa miệng “Đúng quy trình” của các quan Phụ Mẫu thời nay. Trước nhất là bổ nhiệm Dương Chí Dũng, rồi NICOTEX Thành Thái, tiêm vaccine, thẩm mỹ viện Cát tường, Thuỷ điện miền Trung xả lũ đồng loạt; tham nhũng thì càng phòng chống, càng vui; rồi oan sai thấu tận trời xanh của Nguyễn Thanh Chấn, bê bối vệ sinh an toàn thực phẩm; rồi mới đây là rượu độc 29 Hà Nội và hàng tạ ma tuý đi qua cửa khẩu hàng không như chỗ không người. Đó quả đang là muôn mặt của đời sống xã hội Việt Nam thời hiện đại. Những thảm hoạ như vậy chắc không ai muốn xẩy ra. Đảng và Nhà nước lại càng không mong nó xẩy ra, nếu không muốn nói là đang khẩn trương, kiên quyết, quyết liệt…để phòng tránh. Chúng ta cứ mong muốn, chúng ta đang rầm rộ triển khai và rồi con tạo vẫn làm cái việc của nó là cứ xoay vần để đo đếm hiệu quả, hiệu lực từ lời nói đến hành động của chúng ta. Trong những câu nói “Đúng quy trình” gắn liền với các thảm hoạ (được liệt kê chưa đầy đủ) nói trên, có câu làm bẽ bàng cả hệ thống chính trị mà hệ luỵ của nó chắc chắn còn chưa chấm dứt; có câu tanh nồng máu thịt của đồng bào vô tội và có loại câu nói ngô nghê hết biết, không xứng đáng (dù chỉ Công bộc!) hưởng lương từ tiền thuế của dân.
Đúng quy trình nhưng là quy trình nào, ai xây dựng, vì lợi ích của ai và ai kiểm soát việc thực hiện các quy trình đó ? Những câu hỏi tưởng chừng rất dễ trả lời, ấy thế mà cứ vòng vo, không làm rõ được trách nhiệm. Không làm rõ được không phải vì không muốn mà trong nhiều trường hợp là không thể. Quái ác nhất là ở chỗ đấy. Bởi, biết đâu, trưa nay, chiều nay, ngày mai, tháng sau…lại xảy ra những vụ việc y chang, rồi Ông Chủ lại thảng thốt, bàng hoàng (dù đã được trang bị sự bình tĩnh, nhẫn nại), còn Đầy tớ thì cứ trơ trơ và vênh mặt lên…
Theo lối tư duy, Vua không nói chơi. Vua ở đây là Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Cục phó…Thì thấy rõ, lời nói đã thốt ra, hòn bấc đã ném đi, nhưng nào có thấy hòn chì ném lại, người viết buộc phải hiểu, các vị đó đã nói lời của hệ thống chính trị. Kết quả của quy trình mà các vị hay nói như thế nào thì ai cũng đã biết. Sinh mạng và tài sản của nhân dân bị tàn phá, chà đạp một cách không thương tiếc. Quy trình đó, xét đến cùng, là của ai mà man rợ như vậy ? Chắc chắn không thể là quy trình của dân, lý do thật đơn giản là không người dân nào lại tự mình khai vu vơ để nhận lấy cái án tử hình hoặc chung thân, không dân nào lại đề ra quy trình có thể giết hại cả làng, cả huyện như quy trình xả lũ vừa rồi. Dân cũng không có quyền tham gia quy trình đề bạt quản lý cán bộ cỡ Dương Chí Dũng…Do vậy, quy trình đó càng không phải là sản phẩm của ý Đảng lòng Dân. Thế thì, nếu xét, Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu trách nhiệm về mọi quyết định của mình, có thể kết luận quy trình là của Đảng, do đội ngũ cán bộ Đảng viên viết ra.
Có thể hiểu khác được không khi biết chính Dương Chí Dũng đang bị Thanh tra quần cho lên bờ xuống ruộng, bỗng xuất hiện quy trình nhấc về làm Cục trưởng, để “dưới ngọn cờ của Đảng/đưa ngành hàng hải đến bến bờ vinh quang”?!. Còn nhớ, Bộ trưởng Đinh La Thăng khi đó nói thẳng, đưa Dương Chí Dũng về cục hàng hải là để ổn định nội bộ, vốn đang mất đoàn kết của Vinalines, Ông cho rằng mình đã có công khi làm như vậy. Thì ra, cái “Đại cục” dưới vòm trời này đâu cũng “rứa” cả. Người viết tin, chỉ cần một phân tử “ý Đảng lòng Dân thôi”, chỉ cần sự công khai, minh bạch, để nhân dân và công luận giám sát thôi thì có Thánh Thần ủng hộ Dương Chí Dũng không thể trở thành cục trưởng được. Vụ án Dương Chí Dũng đang xét xử nhưng những người nặn ra Dương Chí Dũng thì vẫn cứ như không, ngồi xem xử án trên truyền hình. Vì sao vậy, tại sao không có vụ án thiếu trách nhiệm gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng trong việc đề bạt Dương Chí Dũng. Nếu lắng nghe nhân dân, nếu nghiêm khắc với cán bộ thì Dương Chí Dũng không thể từ sai ít đến sai nhiều, từ sai nhiều đến gây thảm hoạ cho đất nước và chính mình đến mức ấy…Vì sao và do ai?.
Có cách nào giải thích sự vô can của thuỷ điện trong đợt xã lũ vừa rồi khi mà lượng mưa đo được năm nay chỉ bằng nửa lượng mưa lịch sử trước đó. Có lẽ nào phủ định lời nói của những người nông dân miền Trung chất phác, hiền lành rằng trăm năm, lũ lụt là bình thường nhưng chưa bao giờ thấy lũ (Lưu tốc dòng lũ, NL.) kinh hoàng như thế. Nên nhớ, khi nói vậy, người nông dân với bộ mặt thất thần, cam chịu làm lay động hàng triệu tâm can chứ tuyệt nhiên không phải nói để đòi bồi thường. Tất cả các thuỷ điện miền Trung, mỗi năm làm ra khoảng 6000 tỷ đồng cho EVN, nhưng chỉ trận lũ vừa rồi đã cuốn phăng nhà cửa, ruộng vườn, hoa màu và của cải của hàng chục ngàn hộ dân, tính ra, hàng chục ngàn tỷ. Nghiêm trọng nhất là làm khoảng 50 người lương thiện đã chết một cách thảm khốc và oan trái. Biết phát triển thủy điện là cần thiết. Nhưng nếu cái lợi của thuỷ điện thì EVN hưởng, để mua xe sang gấp 250% quy định, để xây biệt thự, bể bơi, sân tennis, còn cái hoạ, bắt đồng bào chịu… thì thấy cái giá phải trả sao tàn độc và mắc khủng khiếp. Phải chi quy trình đưa ra nhắm đến sự an toàn của hạ du, chủ động xả nước bớt đi trước khi lũ về, ăn bớt đi chút đỉnh thì kiểm soát thảm hoạ là trong tầm tay. Sao nỡ nói là dân chết phần nhiều là do giúp nhau, đi kiếm con tôm, con cá, dân thiếu cẩn thận…Làm đến cỡ đó mà không hiểu lời dạy của Đức Phật trong kinh nhân quả 3 đời: “Muốn biết Nhân đời trước, xem hưởng Quả đời này/Muốn biết Quả tương lai, xét Nhân gieo hiện tại”…
Lại bàn về câu nói “luồng xanh” của Hải quan. Người dân đóng thuế để nuôi ông cục phó và các ông to hơn, nhỏ hơn của Hải quan, của hàng không, của…nhiều nữa, không phải để hiểu luồng xanh, luồng xám của các Quí Ông là cái gì. Người dân cần các ông mẫn cán, học lấy cái hay, cái tiến bộ của thiên hạ để quản lý xã hội, quản lý cơ quan tốt hơn, hiệu quả hơn. Khi đề ra quy trình các Ông phải lường hết rủi ro, song hành với nó là cơ chế giảm thiểu rủi ro và quy trách nhiệm khi có sai sót, thảm hoạ. Người dân hiểu rất rõ, ai cũng có thể mắc sai lầm khuyết điểm và bất cứ xã hội nào, bất cứ công việc gì luôn luôn tiềm ẩn rủi ro dẫn đến thảm hoạ. Nhưng người dân đòi hỏi khi nói đúng quy trình mà thảm hoạ vẫn cứ diễn ra thì chắc chắn quy trình có vấn đề. Do thế, người dân mong mỏi, khi các Ông mở miệng nói đúng quy trình thì phải nói thêm vế khác: sẽ khẩn trương xem xét lại quy trình để sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục thảm hoạ tương tự. Đồng thời giải quyết đền bù thiệt hại cho nhân dân. Thật ra, đó là mệnh lệnh mới chính xác nhưng, rất cam chịu, người viết cũng chỉ giám mong mỏi mà thôi. Chỉ có như vậy thì mới không có Dương Chí Dũng tương lai, người dân vùng hạ du mới an cư và lạc nghiệp, những NICOTEX Thành thái, thẩm mỹ viện Cát tường, hàng không dùng để chuyên chở ma tuý, Nguyễn Thanh Chấn…mãi mãi là quá khứ.
Làm được như thế cũng không quá khó. Kinh nghiệm của nhân loại trong quản trị xã hội, quản trị đất nước, quản trị doanh nghiệp …sẽ là ánh sáng soi đường. Nhân dân và công luận là bà đỡ. Vấn đề còn lại là tâm thế của chúng ta: Mãi mê đi tìm lá diêu bông hay học hỏi, ứng dụng tinh hoa của các nước tiên tiến để nhanh chóng cải biến xã hội, nhanh chóng tiến kịp thời đại ?.
Official statistics
Mấy tuần trước nhà báo Nguyễn Vạn Phú viết một số bài báo và blog về sự thay đổi số liệu GDP của VN năm 2012. Vấn đề trở nên nóng hơn khi một đại biểu HĐND TPHCM chất vấn về sự thay đổi đột ngột của chỉ số GDP đầu người của địa phương này. Bởi vậy không có gì ngạc nhiên khi ông Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm đăng đàn trần tình về việc TCTK bị phê phán về chất lượng số liệu. Với tựa đề bài viết "Cần trách nhiệm hơn khi đánh giá số liệu thống kê" có lẽ không chỉ trần tình mà ông Tổng cục trưởng còn trách cứ những người phê phán đã không có trách nhiệm.Công bằng mà nói số liệu thống kê kinh tế bị phê phán không chỉ ở VN. Ngay cả ở Mỹ, nơi có hệ thống thống kê tốt nhất thế giới, cũng không tránh khỏi những phê phán/nghi kỵ của người dân và giới nghiên cứu về chất lượng các chỉ tiêu kinh tế. Nổi tiếng nhất trong số những người nghi ngờ số liệu thống kê của Mỹ phải kể đến John Williams, hàng chục năm qua đã không ngừng công kích số liệu CPI và unemployment rate của nước này. Williams còn lập ra một website tính lại những chỉ số kinh tế phổ thông để đối trọng lại các con số chính thức do các cơ quan thống kê công bố. Một ví dụ đình đám khác là vụ George Welch, cựu CEO của GM, chỉ trích số liệu việc làm của Mỹ trong mùa tranh cử tổng thống năm ngoái. Ông này ám chỉ chính phủ Obama đã nâng số liệu việc làm lên để tranh thủ lấy phiếu cử tri. Giới thống kê và học giả Mỹ đã đăng đàn phản bác những nghi ngờ và cáo buộc của cả Williams lẫn Welch, tương tự như bài của ông Nguyễn Bích Lâm.
Nói vậy để thấy việc "phản biện" và "chống phản biện" số liệu thống kê là khá bình thường. Nhưng hỏi 10 nhà nghiên cứu kinh tế chắc phải có 9 người tỏ ý nghi ngờ về độ chính xác của số liệu thống kê của VN. Tôi nằm trong số 9 người đó và đã không dưới một lần nêu ra sự nghi ngờ của mình trên blog này, thậm chí đã từng viết một entry riêng về chất lượng số liệu thống kê của TCTK. Bởi vậy, là đối tượng mà ông Nguyễn Bích Lâm phê phán (thiếu trách nhiệm), tôi không thể không có vài dòng phản-phản biện lại ông Tổng cục trưởng. Nhân tiện tôi sẽ giới thiệu thêm với các bạn một số qui tắc/thông lệ liên quan đến việc thu thập và phổ biến số liệu thống kê kinh tế của một số nước mà tôi được biết. Xin lưu ý trước, những gì tôi viết dưới đây là dưới góc độ của người sử dụng thống kê kinh tế chứ không phải người thu thập và xử lý số liệu. Giá mà bác Vũ Quang Việt hoặc Bùi Trinh viết cho một bài về khía cạnh thu thập số liệu thì tuyệt.
Trước hết cần phải xác định rõ thế nào là chất lượng của số liệu thống kê (kinh tế), ông Nguyễn Bích Lâm chỉ nói về ba yếu tố ảnh hưởng lên chất lượng số liệu (sẽ bàn thêm bên dưới) chứ không đưa ra định nghĩa về chất lượng. Có bạn sẽ nghĩ ngay chất lượng ở đây là độ chính xác chứ có gì mà phải bàn. Tất nhiên chính xác là tiêu chuẩn quan trọng nhất đối với số liệu thống kê. Nhưng bên cạnh đó một hệ thống thống kê "có chất lượng" còn phải bảo đảm các yếu tố coverage, timely, consistency, và transparency.
Coverage (bao quát?): một hệ thống thống kê có chất lượng phải đảm bảo cung cấp đủ những chỉ số quan trọng của một nền kinh tế. Tất nhiên "đủ" là một khái niệm khôn cùng và subjective, vd nếu tôi quan tâm đến lĩnh vực tài chính tôi sẽ muốn có hàng nghìn chỉ tiêu liên quan đến hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán..., ngược lại nếu bạn nghiên cứu về lao động thì bạn muốn có nhiều số liệu về việc làm, lương bổng... Một vấn đề nữa là chi phí, những nước giàu có ngân sách lớn cho cơ quan thống kê quốc gia hiển nhiên sẽ có coverage tốt hơn các nước nghèo, bởi vậy "đủ" còn có nghĩa sử dụng budget cho thống kê một cách hợp lý. Cách đây 5-6 năm Niên giám thống kê của VN còn thu thập số liệu số quạt máy, phích nước được sản xuất hàng năm, số máy công nông được lắp ráp, thậm chí số huy chương Seagames, số lễ hội/festival tổ chức ở các tỉnh thành, trong khi không có số liệu về thất nghiệp (không biết bây giờ đã thay đổi chưa). Coverage như vậy là không "đủ" và số liệu thống kê của VN không thể nói là có chất lượng về mặt này.
Có thể thấy mong muốn coverage "đủ" là khó, nhưng chí ít phải có một mức tối thiểu nào đó. Ở hầu hết các nước, số liệu thống kê kinh tế phải đảm bảo coverage cho hệ thống tài khoản quốc gia (theo chuẩn SNA của LHQ), thống kê tài chính (theo chuẩn của IMF), thống kê về giá cả (CPI/PPI, house price...), thống kê việc làm, thống kê xuất nhập khẩu, và thống kê ngân sách/chi tiêu chính phủ. Ngoại trừ thống kê việc làm, coverage của VN đã đủ cho các lĩnh vực còn lại mặc dù đi vào chi tiết có thể chưa hoàn chỉnh. Đon cử là thống kê tài chính theo yêu cầu của IMF (cho hệ thống cảnh báo rủi ro sớm của họ) VN còn thiếu khá nhiều và tần suất cung cấp số liệu cũng không đạt yêu cầu (nói cho chính xác thì đây là trách nhiệm của NHNN chứ không phải TCTK, nhưng tôi tạm gộp các cơ quan có trách nhiệm thu thập số liệu kinh tế vào làm một).
Một điều khá thú vị liên quan đến coverage là hầu hết các nước đều đã "xã hội hóa" một phần việc thu thập số liệu (kinh tế) để mở rộng coverage mà không phải tốn thêm ngân sách. Thông tin kinh tế luôn là một mặt hàng bán chạy nên các công ty tư nhân có động cơ tiến hành thu thập và bán số liệu này. Trong một số trường hợp số liệu thống kê tư nhân còn "cạnh tranh" với số liệu chính thức của nhà nước, vd ShadowStats của John Williams tôi link bên trên hoặc Billion Price Project của MIT (bây giờ đã bán cho State Street). Vấn đề là các cơ quan thống kê quốc gia (và cả cơ quan an ninh) nên "thoáng" hơn với các tổ chức tư nhân tham gia vào hoạt động thu thập số liệu. Nên tạo điều kiện phát triển thị trường mua bán thông tin để giúp tăng coverage cho nền kinh tế.
Timely (thuật ngữ này có thể dịch là kịp thời nhưng nó còn bao hàm một số ý rộng hơn): giới tài chính có một thuật ngữ là real-time data, nghĩa là số liệu có ngay tức thì khi hoạt động kinh tế tương đương kết thúc hoặc thậm chí đang diễn ra, vd chỉ số chứng khoán được cập nhật ngay lập tức trên màn hình cá nhân song song với trên sàn giao dịch. Tất nhiên số liệu kinh tế vĩ mô không thể và không cần phải cập nhật nhanh như vậy. Không thể vì rất nhiều số liệu thống kê phải khảo sát và thu thập trên toàn quốc, rồi phải xử lý thô trước khi công bố. Không cần vì như đã đề cập đến trước đây, nền kinh tế là một cỗ máy khá nặng nề có quán tính lớn nên hai thời khắc gần nhau quá không đem lại nhiều thông tin có ích. Vấn đề timely của số liệu thống kê cũng phụ thuộc vào budget/chi phí thu thập số liệu và độ chính xác, càng nhanh càng tốn kém và càng ít chính xác.
Thông thường số liệu SNA được thu thập và công bố theo quí, các thể loại số liệu khác theo tháng. Số liệu thống kê của VN có một điểm rất khác biệt so với các nước. Số liệu quí (vd GDP) thường được công bố vài ngày trước khi quí kết thúc, số liệu tháng (vd CPI) cũng được công bố trước khi tháng kết thúc. Điều này tưởng chừng cho thấy tính timely của số liệu VN cực cao, nhưng thực tế nó chứng tỏ cơ quan thống kê của VN đã không sử dụng hết thông tin của chu kỳ thống kê cho mỗi chuỗi số liệu. Tất nhiên sau đó cơ quan thống kê sẽ tiếp tục hiệu chính các chỉ số thống kê khi có thêm thông tin như thông lệ quốc tế. Nhưng điều khác biệt giữa VN và thế giới là thời điểm của các hiệu chỉnh đó không được công bố rộng rãi và các chuỗi số liệu cũ không được lưu giữ.
Lấy ví dụ số liệu GDP của các nước thường được công bố ít nhất 3 lần: preliminary release, first revision, và second revision. Preliminary release thường được công bố 1-2 tháng sau ngày cuối cùng của quí, first revision thường trước khi quí tiếp theo kết thúc, second revision sau đó 1-2 tháng. Hầu hết những ngày công bố số liệu đều được báo trước rộng rãi và số liệu chính sửa ra sao sẽ được nêu ra cụ thể. Thường thì cơ quan thống kê không có nghĩa vụ (theo luật) phải giải thích tại sao số liệu lại thay đổi như vậy nhưng trên thực tế họ vẫn nêu ra/gợi ý những lý do khách quan (vd government shutdown, thiên tai, đình công...) để báo giới và những người sử dụng thông tin có cơ sở phân tích. Một vấn đề quan trọng nữa là tất cả số liệu của các lần công bố/sửa đổi phải được lưu trữ để các nhà nghiên cứu có thể phân tích/đánh giá thực trạng kinh tế chính xác. Giới economists vẫn thường tranh luận với nhau nên sử dụng số liệu preliminary release hay số liệu final revision.
Ngoài vấn đề tần suất và thời điểm công bố/sửa đổi số liệu, tính chất timely còn thể hiện qua cách thức công bố số liệu ra công chúng. Rất nhiều số liệu thống kê kinh tế có ảnh hưởng lớn lên thị trường tài chính nên các cơ quan thống kê thường có qui định về cách thức công bố rất chặt chẽ để đảm bảo tính công bằng. Trước đây một số nước "nhốt" phóng viên của các báo và hãng tin vào một phòng, công bố số liệu cho họ để học có thời gian nghiên cứu và viết tin rồi đúng giờ mở cửa phòng cho họ ra chuyển tin về tòa soạn. Hiện nay công nghệ thông tin đã phát triển hơn nên số liệu thường được công bố vào một thời điểm định trước trên website hoặc một hệ thống điện tử để bất kỳ ai cũng có thể truy cập và biết thông tin như nhau. Các hệ hãng tin tài chính lớn như Bloomberg/Reuters thường sẽ relay số liệu từ các cơ quan thống kê ngay lập tức cho khách hàng dưới dạng flash news, sau đó họ mới viết bài phân tích sau. Đảm bảo thông tin được cung cấp công bằng như vậy cũng là một khía cạnh chất lượng mà cơ quan thống kê phải tính đến.
Một điểm nhỏ nữa liên quan đến vấn đề timely là ngoài việc cung cấp số liệu cho người sử dụng trong nước, các cơ quan thống kê còn cung cấp thường ký cho các tổ chức quốc tế như WB, IMF, BIS... Một điều trái khoáy là trong khi TCTK công bố số liệu rất nhanh vào mỗi cuối quí hoặc tháng, VN lại rất chậm chạp khi cập nhật số liệu ở các tổ chức quốc tế. Điều này ít ảnh hưởng đến các nhà hoạch định chính sách trong nước nhưng gây khó khăn cho những nhà nghiên cứu và đầu tư nước ngoài cần. Về mặt này chất lượng của thống kê VN không thể nói là timely.
Consistency (nhất quán?): một chuỗi số liệu có tính chất consistency khi nó phản ánh một khía cạnh/hoạt động kinh tế ổn định theo thời gian và không gian. Ổn định theo thời gian có nghĩa là giữa 2 thời điểm khác nhau bản chất của chuỗi số liệu không thay đổi. Điều này tưởng đơn giản nhưng thực ra rất khó đảm bảo, ngay cả ở những nước phát triển. Có một số nguyên nhân làm bản chất các chuỗi số liệu thay đổi theo thời gian. Thứ nhất là khía cạnh/hoạt động kinh tế mà nó phản ánh thay đổi nên buộc người làm công tác thống kê phải thay đổi cách thu thập dữ liệu và tính toán thống kê. Lấy ví dụ GDP của Mỹ đã có một thay đổi lớn trong năm 2013 vì cách tính thay đổi để phản ánh giá trị gia tăng của các hoạt động liên quan đến intangible assets. Các đây 2 năm GDP của TQ cũng có một revision lớn vì họ đổi cách tính để đưa một số hoạt động kinh tế trước đó bị cho là ngoài luồng vào GDP chính thức. Hiển nhiên chuỗi số GDP trước và sau những thay đổi đó không còn consistent nữa và các nhà nghiên cứu phải chú ý đến điểm này. Ở đây việc lưu trữ song song chuỗi dữ liệu theo cả hai cách tính trong một thời gian đủ dài sẽ giúp những người sử dụng số liệu tránh sai xót khi có những thay đổi lớn như vậy.
Lý do thứ hai là bản thân cơ quan thống kê thay đổi cách tính vì có những phương pháp thống kê mới ra đời. Ví dụ chuỗi số NFP của Mỹ khoảng hơn chục năm trước được thay đổi cách tính áp dụng một mô hình về số lượng công ty mới thành lập và phá sản (birth-death model) để hiệu chỉnh số liệu khảo sát thô. Một ví dụ khác là chuỗi số CPI thô được chỉnh lại theo mô hình imputable quality improvement (vd một cái máy tính có tốc độ xử lý tăng 20% thì nếu giá tăng lên 20% coi như chỉ số giá của nó không đổi). Những thay đổi về phương pháp tính như vậy làm các chuỗi số liệu bị mất tính consistency, nhiều trường hợp gây ra tranh cãi và nghi ngờ trong dư luận. Trong trường hợp này tính chất transparency (tôi sẽ nói thêm bên dưới) vô cùng quan trọng.
Lý do thứ ba là mẫu khảo sát thay đổi. Đây cũng có thể coi là sự thay đổi của phương pháp thống kê nhưng trong một số trường hợp do mẫu khảo sát tăng lên hay giảm xuống vì thay đổi ngân sách thống kê. Cách đây khoảng 2 năm Úc giảm bớt số lượng khảo sát việc làm vì budget bị cắt nên cho dù phương pháp lấy mẫu và cách tính không đổi chuỗi số liệu mới sẽ không consistent với chuỗi số trước đây, chí ít về mặt sai số và volatility.
Ổn định về không gian nghĩa là chuối số liệu đại diện cho một khía cạnh/hoạt động kinh tế ở các địa phương khác nhau, các quốc gia khác nhau về bản chất phải giống nhau. Đây là lý do các tổ chức quốc tế nhưu UN, WB, IMF... đưa ra các bộ tiêu chuẩn thống kê như SNA, BoP để thống kê của các nước có thể so sánh được với nhau. Trong phạm vi từng quốc gia, thống kê địa phương dễ được thu thập và tính toán theo cùng một chuẩn, nhưng chất lượng chọn mẫu, thu thập, xử lý có thể vẫn khác nhau. Ví dụ GDP ở khu vực nông thôn có thể sẽ bị bỏ xót nhiều hoạt động phi chính thức hơn GDP của thành phố.
Tóm lại số liệu thống kê "có chất lượng" theo khía cạnh consistency sẽ phải tuân thủ chặt chẽ các tiêu chuẩn quốc tế, phương pháp thu thập và xử lý ổn định, mẫu khảo sát đủ lớn để sai số không vượt quá ngưỡng cho phép. Những điều này đòi hỏi cơ quan thống kê phải có budget và resource đủ mạnh, là điều chưa thể mơ ước ở VN.
(Còn tiếp)
Neil J. Kritz - Luật Pháp Và Hoà Giải Chính Trị - Các Kinh Nghiệm Quốc Tế (2)
Neil J. Kritz
Đỗ Kim Thêm dịch
Đỗ Kim Thêm dịch
Dịch giả gửi tới Dân Luận
Tội Ác Chiến Tranh Và Vi Phạm Khác Trong Quá Khứ
Vấn đề chính mà các xã hội trong thời kỳ tái thiết hậu chiến phải đối đầu là giải quyết các tồn đọng những phạm pháp quy mô gây thương tổn cho cả hai phiá tranh chấp. Những vi phạm trầm trọng nhất được quy đinh theo luật quốc tế là tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại và diệt chủng. Các quốc gia cần tuân theo vấn đề trách nhiệm cho những vi phạm này, trong khi chưa cấu thành tội phạm theo hình sự quốc tế, vẫn còn gây cảm tưởng sâu xa thù hận và xung khắc trong thời hậu chiến.Một số các vi phạm này xãy ra trong khi tranh chấp đang sôi bỏng, một số các vi phạm khác xãy ra trước kia, thỗi bùng uất hận đưa đến xung đột. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau cần tìm hiểu để tham khảo vấn đề.
Trách Nhiệm Hình Sự
Có nhiều lập luận cho rằng không những tòa án và trừng phạt các vi phạm là chù yếu để đạt đến công lý, mà còn thảo luận công khai và kết án tội phạm là cách tốt nhất làm ngăn cách giữa quá khứ và hiện tại, từ đó công luận sẽ cảm nhận trật tự mới ít nhất cũng hơn trật tự củ.Có những người khác cáo giác rằng những phiên toà nặng phần trình diễn không phù hợp cho tìm kiếm hoà bình và dân chủ. Xét lại công khai các tội ác thời chiến chỉ khơi động thù hận thay vì xoa dịu. Cách tốt nhất để tái thiết và hoà giải đất nước là giã từ quá khứ bằng cách quên đi và tha thứ tội ác của các phe trong tranh chấp.
Trong một vài quốc gia, truy tố các vi phạm trong thời chiến có nhiều chức năng, đem lại cho nạn nhân về ý nghĩa công lý và phấn khởi - bất bình có thể được giải toả, một ý nghĩ dễ đặt ra hơn làm âm ỷ cháy cho ước vọng về một tranh chấp khác. Hơn thế, những truy tố có thể đem lại năng động mới cho xã hội, một sự hiểu biết là người tấn công và vi phạm quyền của người khác phải bị quy trách.
Bởi vì toà án được dân chúng địa phương và quan sát viên ngoại quốc quan tâm, họ thường chú trọng đến việc xây dựng một hệ thống tư pháp và tư pháp hình sự phù hợp với những nguyên tắc về uy lực pháp quyền. Có lẽ quan trọng nhất cho mục tiêu của hoà giải lâu dài là cách nhấn mạnh đến những cá nhân đặc biệt - không phải là toàn thể những nhóm sắc tộc, tôn giáo hay chính trị.- Làm được như thế thì cách này gạt bỏ được một loại tinh thần nguy hiểm về tội lỗi tập thể và báo thù thường sinh ra vòng lẩn quẩn của thù oán và bạo lực.
Khi tiến hành truy tố thì mạng lưới trừng phạt cần được đặt ra như thế nào cho những người phạm tội chiến tranh và các tội ác tương tự? Giới lãnh đạo sẽ chịu cách nhiệm về việc sai phạm của thuộc cấp mình như thế nào? Ngược lại, quân nhân và công chức vi phạm khi tuân lịnh thượng cấp sẽ bị quy trách như thế nào?
Các chuẩn mực quốc tế được triển khai nhằm giải quyết các vấn đề này. Người ta ngày càng đồng thuận hơn vì ít nhất là đối với những vi phạm trầm trọng về nhân quyền và luật nhân đạo quốc tế, ân xá tất cả là chuyện không được phép. Mặt khác, tội phạm như diệt chủng hay tội ác chống nhân loại, nói chung, đòi hỏi tham gia đông đảo quần chúng và luật quốc tế không đòi hỏi phải truy tố từng cá nhân liên quan đến tội ác. Đưa hàng trăm hoặc đôi khi hàng ngàn người ra toà, dù trước tòa địa phương hay quốc tế, là một việc bất khả về phương diện tài chính, chính trị hay tổ chức hậu cần. Một số các truy tố có tính biểu tượng những phạm nhân này có thể làm thỏa mãn nghĩa vụ quốc tế, đặc biệt nếu chương trình xét xử trên quy mô quá mức sẽ đe doạ đến ổn định đất nước. Thí dụ như Argentina, Ethopia và các quốc gia Đông Âu đã chấp nhận phương thức này khi giải quyết vấn đề tồn đọng trong việc vi phạm nhân quyền của các chế độ sụp đổ.
Trong một số trường hợp, có nhiều khó khăn có thể giải quyết được bằng cách phân loại các đặc tính của tội phạm và đề xuất phương cách giải quyết khác nhau. Nói chung, các phân loại này như sau:
1) những nhà lãnh đạo vi phạm vào tội ác chiến tranh và những nguời trực tiếp thực sư thi hành (một số lượng nhỏ nhất phạm nhân không thể tránh được);
2) những người vi phạm tội trầm trọng khác nhưng không thuộc vào nhóm người thứ nhất; và
3) những người vi phạm tối thiểu. Tính cách gia trọng của từng biện pháp được xử lý tùy theo cách tương ứng.
Hoà ước Dayton chung quyết chiến cuộc tại Nam Tư củ đã theo phương cách này.
Trong cách phân loại thứ nhất, các phe lâm chiến tự kết ước hợp tác với tòa án hình sự quốc tế lập thủ tục truy tố các phe tranh chấp vi phạm các tội diệt chủng, tội phạm chiến tranh, tội ác chống nhân loại. Những hiệp ước này cũng cấm đoán cá nhân khi bị toà truy tố sẽ không được giữ chức vụ công.
Trong loại phạm tội thứ hai, hiệp ước cũng quy định nghĩa vụ phải khởi tố, miễn tố, chuyển giao phạm nhân thuộc lực lượng quân sự, bán quân sự, cảnh sát, công chức trách nhiệm khi vi phạm trầm trọng đến những quyền căn bản của con người. Hiệp ước xem đây như là những biện pháp xây dựng niềm tin.
Chung qui, tất cả những người tỵ nạn và những người lưu lạc hồi hương, khi họ bị cáo giác với các tội danh khác hơn là các vi phạm gia trọng thuộc về luật nhân quyền quốc tế, sẽ được đảm bảo ân xá vì những vi phạm này. Trong khi việc thi hành các điều khoản này còn thiếu sót nhưng căn bản pháp lý rất vững chắc.
Trường hợp Rwanda cho thấy cần có nhu cầu thực tế nhằm xoa dịu các truy tố theo cách cực đoan. Với nhiều thập niên, giới lãnh đạo dùng mọi thủ đoạn nắm quyền để làm biến chất các tranh chấp sắc tộc giữa Hutu đa số và Tusti thiểu số cho cứu cánh chính trị mà không lo sợ bị quy trách về hành động của mình. Hành vi này đạt đến cao điểm vào năm 1994, đây là một trong những diệt chủng kinh hoàng nhất trong ký ức gần đây khi 500.000 cho đến 1 triệu người Tutsi và nhiều người hiếu hòa Hutus bị giết chết một cách tàn nhẩn trong vòng 14 tuần.
Để phá vỡ vòng bạo lực lẩn quẩn này, chính phủ mới của Rwanda kiên quyết một cách đúng đắn là phải thay đổi quyền đặc ân miễn tố với tinh thần chịu trách nhiệm theo luật, đây là điều tất yếu. Để đạt mục tiêu này, trong năm nhậm chức đầu tiên, các giới chức cao cấp của chính quyền mới kiên quyết là các cá nhân tham gia vào việc thảm sát phải bị truy tố và trừng trị. Kết quả là khoảng 125.000 bị cáo buộc tội diệt chủng bị giam nhiều năm trong tù trước khi xét xử. Việc giam giữ phân thành nhiều nhóm nhỏ, làm số lượng này ít hơn tống số phạm nhân, nhưng lại quá nhiều để xử lý trong một thời gian hợp lý trong bất cứ hệ thống tư pháp hình sự nào.
Vấn đề càng trầm trọng hơn, khi hệ thống tư pháp hình sự Rwanda đã bị dẹp bỏ trong thời diệt chủng, các luật sư và chánh án đã bị giết, đi tị nạn hay vào tù. Trong ba năm vừa qua, toà án Rwanda đã xử hơn ba ngàn vụ tội diệt chủng - một thành tích kỷ lục chưa từng có trong bất cứ xã hội nào trong lịch sử - khi người ta còn bị quay cuồng trong đổ vỡ - Nhìn chung, theo nhận xét của các quan sát viên độc lập, kể cả những người đại diện cho bị cáo, thì các phiên xử được tiến hành khách quan.
Cuối năm 2001, chính phủ Rwanda dự kiến giao đa số các vụ kiện thụ lý cho hệ thống tòa án địa phương gọi là gacaca, một mô hình tư pháp cổ truyền lõng lẽo hơn. Dân làng từng địa phương sẽ tuyển chọn chánh án toà gacaca cho làng mình. Bị cáo sẽ ra trước toà địa phương để điều trần, kể cả có sự tham gia tích cực của các thành viên thuộc cộng đồng địa phương. Chương trình này không hội đủ những tiêu chuẩn quốc tế như được đề cập trong phần đầu của bài viết này, vì còn nhiều thiếu sót, đặc biệt là trong điều kiện phù hợp với chuẩn mực quốc tế hiện nay về thủ tục hình sự và quyền bảo vệ hình sự.
Vài nạn nhân sợ rằng tại một vài địa phương nơi mà tội diệt chủng bị xoá đến độ không còn nhân chứng, toà gacaca sẽ là phiên toà xoá sạch do láng giềng của bị cáo, những người đã hỗ trợ cho tội diệt chủng; một vài bị cáo sợ rằng một hệ thống tư pháp được làm rùm beng trước toà gacaca tại điạ phương sẽ bị nạn nhân khống chế; các tổ chức quốc tế và điạ phương hoạt động nhân quyền bày tỏ mối quan tâm này, trong đó kể cả việc loại trừ luật sư cho bị cáo trong thủ tục trước toà gacaca.
Dù thế, hầu hết người Rwanda cảm thấy là họ không có cách nào khác; toà không thể xử án theo đúng thời gian quy định vì công việc quá nhiều. Về phương diện chính trị, không thể chọn cách mở cửa nhà tù và thả hàng trăm người bị cáo buộc tội diệt chủng; nhưng lại không thể chấp nhận tiếp tục giam người trong nhiều năm mà không xét xử. Dù chương trình toà án gacaca gây nhiều tranh luận, các luật sư Rwanda lập luận rằng chương trình sẽ cam kết các địa phương s ẹ theo tiến trình công lý, đưa các phạm nhân tái hội nhập vào sinh hoạt địa phương và thả hết tù trong thời hạn tương đối ngắn trong các vụ không được xét xử.
Trừ một vài ngoại lệ hiếm hoi, có thể lập luận chung là không có những trừng phạt quy mô trong các phiên toà chuyển tiếp này. Dù đồng ý là có nhiều cảm xúc và áp lực chính trị nặng nề gắn liền với các vụ kiện này, án tử hình có thể làm trầm trọng xung đột hơn cho xã hội trong thời kỳ tái thiết.
Vấn đề quy trách và miễn tố không chỉ liên quan tới việc giải quyết tranh chấp trong quốc gia bị chiến tranh tàn phá, mà còn có ảnh hưởng trầm trọng cho tương lai, dường như cho cả những xung đột không liên quan tại các nơi khác trên thế giới. Khi giải thích về niềm tin tại sao tham gia diệt chủng mà không sợ bị cộng đồng quốc tế báo thù, Adolf Hitler đã nhạo báng một cách đáng khinh bỉ: "Ai nhớ người Armenian?" - khi đề cập tới nạn nhân cũa diệt chủng hai mươi lăm năm trước đó mà không ai bị quy trách. Bằng chứng gần đây cho thấy giới lãnh đạo Serb ở Bosnia khi thực hiện chiến xóa sạch sắc tộc và diệt chủng vào thập niên 1990 được thúc đẩy bởi sự kiện là lực lượng Khmer đỏ không hề bị truy tố hay buộc tội về những vi phạm tại Cambobia vào những thập niên 1970.
Thanh Lọc Cấu Trúc Chính Quyền
Quy trách cá nhân bao hàm đến việc xét xử hình sự. Trong nhiều quốc gia, nhiều nguời có liên hệ tới quá khứ phạm pháp có thể bị giới hạn, khi tham gia sinh hoạt công quyền. Một nền hòa bình dài lâu đòi hỏi niềm tin chung trong thể chế về trật tự mới. Niềm tin chung có thể bị suy giảm trầm trọng nếu thể chế này được cũng được điều hành bởi các viên chức đã gây nên nhiều thù oán trước đây hay hiện nay. Những người trước đây giữ đầu máy cho việc lạm quyền, nhưng nay không còn trong bộ máy chính quyền, có thể bị coi như không trung thành. Những người hỗ trợ cho quan điểm phân biệt hay các chiến thuật lạm quyền của các phe nhóm chống chính quyền trước đây, nay không được coi như những ứng viên khả tín cho những chức vụ trong bộ máy hành chánh công quyền khách quan.Một vài xung đột có thể thiếu những phần tử thuộc về những nhóm thủ phạm và nạn nhân, nhưng hầu hết những xung đột nội chiến sau thời chiến tranh lạnh bao gồm nhiều khuôn mẩu tội ác hay các vi phạm trầm trọng do phe này hay nhóm kia gây ra. Ngay cả khi họ không bị quy trách theo luật hình, những người gây thuận lợi cho những vi phạm trong quá khứ không được phép gây tác hại hay làm đại biểu trong cơ cấu trong chính phủ mới. Cùng lúc, người ta có thể lập luận rằng trong thời tái thiết hậu chiến những nhân tài giàu kinh nghiệm thuộc về giới trẻ thuộc cấp thấp ở cơ quan hành chánh cho đến các bộ trưởng có thể còn khan hiếm, một vài người trong số này, đặc biệt thuộc về chính quyền củ, rất quan trọng trong việc tái thiết đất nước, kiến thức và kinh nghiệm của họ rất cần thiết cho viêc tạo trật tự mới.
Có nhiều thí dụ cho việc thử nghiệm thanh lọc như thế. Tại El Salvador, hoà uớc lập ra một Ủy Ban chuyên trách đặc biệt nhằm minh danh một trăm sĩ quan cao cấp để hồi hưu vì những vi phạm nhân quyền trong quá khứ. Tại Bosnia, Toán Đặc Nhiệm Cảnh Sát quốc tế được giao chuyên trách loại trừ tất cả những ứng viên cho ngành cảnh sát tân lập điạ phương, khi họ phạm tội với sắc tộc thiểu số trước đây. Ngay cả đối với những ứng viên không bị truy tố vi phạm các tội này, nhưng khi cho phép họ nắm chức vụ, mà sự hiện diện của họ sẽ tạo nên một cảm tưởng bất công trong những nạn nhân trước đây, sẽ cản trở nỗ lực xây dựng hoà bình.
Tuy nhiên, thanh trừng bằng luật hành chánh không có mức độ bảo vệ đúng luật thủ tục giống như thủ tục hình sự. Vì khuynh đảo kiểu này liên hệ đến nhiều người, nên thường có khuynh hướng thực hiện trong một phương cách ngắn gọn và bị lạm dụng, nhất là khi trừng phạt theo công lý của kẻ chiến thắng và phân chia các chức vụ chính quyền.
Trong việc nhấn mạnh tầm quan trọng của trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm luật định, tinh thần thượng tôn pháp luật từ bỏ khái niệm về tội lỗi tập thể. Nhiều người phải bỏ việc làm chỉ vì họ đã ở điạ phương có tranh chấp hoặc là đảng viên một đảng chính trị, khi họ không có biểu hiện sai trái cá nhân, thì họ có thể kêu oan và đòi công lý và dân chủ của chính quyền mới.
Thay vì đóng góp cho hoà giải và tái thiết, những xáo trộn này chỉ tạo thêm chống đối làm đe doạ ổn định cho chế độ mới. Trong một số trường hợp, ảnh hưỏng của những biện pháp này được giảm đi nhờ cấm đoán chỉ giới hạn trong một vài năm cho các cá nhân có dính liú; họ được tham gia công vụ, sau khi tình hình lắng dịu, hoặc cho phép họ tham gia sau thời kỳ tái thiết và sau khi thể chế công quyền đi vào nề nếp và được tín nhiệm. Vấn đề này cần cân nhấc cẩn trọng về các quyền lợi.
Tạo Tư Liệu Lịch Sử
Trong thời kỳ chuyển tiếp sau khi tranh chấp giữa các quốc gia, lịch sử luôn là đề tài gây tranh luận. Mỗi phiá vẫn còn có người ủng hộ để phủ nhận các cáo buộc vi phạm đã xãy ra và cáo giác luôn là mình bị đối thủ vi phạm hoặc biện luận trường hợp hành động do tình thế đòi hỏi. Dù không thể kiểm chứng, nhưng những cáo buộc nhau làm suy yếu trật tự mới và nỗ lực xây dựng hoà bình. Cáo buộc làm tăng thêm thoá mạ về tổn hại đã gây ra cho nạn nhân, gieo giống oán thù và chỉ gặt thêm bạo lực mới. Chiến tranh Bosnia phơi bày những vấn đề không giải quyết của lịch sử và oán thù kể từ bảy thế kỷ truớc.Hậu quả là ngoài việc theo dõi các cá nhân thủ phạm, việc thu thập tài liệu chính thức của quá khứ thường là một yếu tố quan trọng cho một thời kỳ chuyển tiếp thành công, mang lại ý nghĩa cho công lý và phấn khởi. Một mặt, muốn được toà hình sự xử nghiêm minh phải tìm sự kiện và bằng chứng về vi phạm trong qúa khứ và thiết lập „uỷ ban chân lý“ là một mặt khác.
Trong khi hai tiến trình này có thể bổ sung nhau, ủy ban chân lý sẽ hữu ích hơn cho việc hàn gắn vết thương chiến tranh và hoà giải nếu đất nước không trang bị để xúc tiến những phiên toà công minh và khả tín. Hoà giải trong trường kỳ đòi hỏi sự nghiên cứu cẩn trọng cách phối hợp này. Nó sẽ thích ứng tốt nhất cho xã hội.
Tại El Salvador, cuộc nội chiến kéo dài 12 năm giữa chính phủ và Mặt Trận Giải Phóng Farabundo Marti National Liberation Front (FMLN), làm cho khoảng 27.000 người chết. Khi hòa đàm tiến hành, những cáo buộc và phản biện về các tội các vi phạm của hai bên, đe doạ trở thành những trở ngại trầm trọng cho việc tìm một giải pháp hoà bình cho xung đột. Tuy thế, phải công nhận là hận thù và bất tín nhiệm chồng chất qua thời gian đòi hỏi một số cơ chế cho phép mô tả trung thực về các hành động kinh hoàng này.
Khi chiến tranh kết liễu vào năm 1992, cơ quan tư pháp được thành hình, nhưng bị chính trị hoá cao độ và thoả hiệp và không có khả năng và đủ tín nhiệm để giải quyết những vấn đền khó khăn thuộc về trách nhiệm tội ác trong chiến tranh hay những vi phạm về nhân quyền một cách khách quan. Một Ủy Ban ba thành phần của LHQ về Chân Lý được thiết lập do thoả ước giữa các phe tranh chấp được xem như là bước tiến khởi đầu nhằm đạt được ý nghĩa của công lý và trách nhiệm.
Mặc dù không phải là Toà án, Ủy Ban - giống như những cơ chế tương tự được lập ra tại nhiều quốc gia phải giải quyết các tồn động từ những vi phạm với mức độ quy mô - điều tra và báo cáo về tội ác do hai phiá vi phạm trong thời chiến, tạo cho nạn nhân và thủ phạm hai phiá có cơ hội làm chứng tích cho các tài liệu chính thức. Bởi vì thiếu một hệ thống tư pháp hình sự khả tín, Uỷ ban này cảm thấy bị buộc phãi giải thích vài phán quyết theo như Baó cáo 1993, nếu không phải giao lại cho cơ quan tư pháp El Salvador để xử lý.
Một thí dụ chính là quyết định của Ủy ban đã công bố danh tính những thủ phạm các trường hợp nghiêm trọng, dù là trong tiến trình của Uỷ Ban không đòi hỏi phải bảo vệ cho các phạm nhân này được hưởng quyền đúng theo luật thủ tục quy định. Nếu khi hoạt động của hệ thống tư pháp quốc gia đạt đến mức khả tín, thì Ủy ban sẽ giữ danh tánh này bí mật trong các báo cáo, thay vì giao cho chính quyền để truy tố. Trong một báo cáo của mình, Ủy ban phân tích những đường lối mà việc quân sư hoá xã hội El Salvador đã làm tê liệt hoạt động tam quyền phân lập của chính quyền. Ủy Ban cũng khuyến cáo nâng cao triển vọng của từng thể chế này vai trò của quân đội cho phù hợp với tinh thần thuơng tôn pháp luật.
Nhiều Ủy ban chân lý lập ra một diễn đàn cho hàng trăm hay hàng ngàn nạn nhân mà họ chưa bao giờ đưọc mời ra toà làm chứng. Trong nhiều quốc gia các Uỷ ban này không chỉ đơn thuần cứu xét đến các trường hợp cá nhân, mà còn vấn đề hệ thống đã gây ra vi phạm, tùy theo vai trò của từng lĩnh vực khác nhau, các lực luợng an ninh, lãnh đạo tôn giáo, truyền thông, hệ thống giáo dục, cơ quan tư pháp, v.v… tạo nên một môi trường cho vi phạm phát sinh. Dựa trên các phân tích này, Ủy ban được giao chuyên trách cho việc soạn thảo các khuyến cáo thật chi tiết về những biện pháp cải cách cho chính phủ và xã hội. Các Uỷ ban chân lý được lập ra trong thời hậu chiến, lúc gần đây, bị cáo giác là làm việc trong mức độ rộng lớn hơn dự kiến trong thời chuyển tiếp từ chế độ đàn áp, khi triển khai phương cách đóng góp cho tiến trình hoà giải.
Tại Guatemala, nội chiến tàn phá đất nước hơn 35 năm với cái giá phải trả là hơn một trăm ngàn nhân mạng, hoà ước uỷ nhiệm cho Uỷ ban chân lý tìm ra „một chân lý toàn diện“ về những vi phạm trong quá khứ của các phe phái, thể hiện việc này như một tiến trình để tạo nền tảng cho sự sống chung an hoà và sẽ xoá bỏ mọi hình thức báo thù như điều kiện tiên quyết cho một nền hoà bình vững chắc và dài lâu. Tại Sierra Leone, người ta hy vọng rằng Uỷ ban chân lý sẽ có khả năng giải quyết những vấn đề quân nhân vị thành niên vi phạm tội ác. Tại Bosnia, Ủy ban chân lý sẽ trình bày thành tích cá nhân từ các phe phái trong tranh chấp, những người dám mạo hiểm để bảo vệ cho đồng bào và các nhóm sắc tộc trước các vi phạm.
Bồi Thường Thiệt Hại và Phục Hồi Danh Dự
Cuối cùng, theo quan điểm của uy lực pháp quyền, việc đề cập đến vi phạm trong quá khứ không chỉ dành cho thủ phạm mà còn cho nạn nhân. Dù thế, những đòi hỏi tranh nhau về những phương tiện giới hạn luôn là một đặc điểm của nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự cho nạn nhân phải được đưa vào trong hầu hết các kế hoạch tái thiết hậu chiến. Bồi thường thiệt hại có ít nhất ba chức năng trong tiến trình hoà giải quốc gia.Thứ nhất, giúp cho nạn nhân nắm bắt được các khía cạnh thiệt hại vật chất đã mất. Thứ hai, tạo nên sự công nhận chính thức về vết thương đất nước. Cả hai tạo thuận lợi cho việc tái hội nhập xã hội chịu nhiều đau khỗ trong câm lặng. Thứ ba là làm ngăn trở vi phạm của nhà nước trong tương lai bằng cách đặt ra những bồi thưòng tài chính cho những hành vi sai trái. Trong luật quốc tế có sự đồng thuận là nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho nạn nhân qua những sai phạm nghiêm trọng về luật nhân quyền do chính quyền gây ra. Nếu chế độ vi phạm nhân quyền mà không bồi thường thì chính phủ kế nhiệm phải lãnh trách nhiệm này.
Trong một vài quốc gia, người ta đặt ra quyền luật đinh mới có liên hệ đến khía cạnh phức tạp về công lý này trong giai đoạn hậu chiến. Sau khi chiến tranh chấm dứt tại nước Nam Tư củ, hoà ước quy định thành lập ủy ban giao lại đất đai cho những người bị lưu lạc trong thời chiến, giải quyết vô số các tranh chấp tài sản, bồi thường thiệt hại cho những nạn nhạn lưu lạc trong thời xung đột.
Tại Rwanda có hàng ngàn khiếu nại do nhiều nhóm khác nhau về tài sản: nhóm ngưòi tỵ nạn Tutsi đã ra khỏi nước từ hơn 35 năm, nhữngnguời lưu lạc trong thời diệt chủng, những người tỵ nạn thuộc sắc dân Hutu rời nước vào năm 1994, có những tù nhân hồi hương trước đó rất lâu cũng được tham gia khiếu nại.
Tại cả hai nước Rwanda và Nam Tư củ, tinh thần thượng tôn pháp luật đòi hỏi bồi thường thoả đáng thiệt hại, đó là điểm thiết yếu cho việc xây dựng hoà bình dài lâu. Tùy thuộc vào tình hình, việc bồi thưòng thiệt hại có thể sắp vào chương trình trả lại tài sản đã mất hoặc là cho học bổng hoặc trả tiền hưu cho thân nhân còn sống của nạn nhân hoặc tài trợ cho những Qũy hoạt động văn hoá của nhóm thiểu số.
Nhu Cầu Kết Hợp Các Khảo Hướng
Những tội ác tập thể có hệ thống thường làm bộc phát những vấn đề phức tạp trong xã hội hoặc là tạo thêm điều kiện cho sự bộc phát này. Nói chung, những tội ác này không có những giải pháp đơn thuần. Càng thể hiện rõ hơn là việc xây dựng một nền hoà bình hậu chiến có hiệu năng đòi hỏi không những những cơ chế như đã khởi thảo mà còn là một khảo hướng liên kết nhằm tổng hợp và phân định những phương cách dị biệt để giải quyết các trường hợp đặc thù.Trong hơn hai năm trong hậu chiến Bosnia, một số người đồng ý rằng Ủy Ban chân lý và hoà giải phải được thành hình để bổ sung cho công việc của Tòa Án Hình Sự Quốc Tế tại The Hague, tạo diễn đàn cho hàng ngàn nạn nhân, triển khai những khuyến cáo cho những cải cách hệ thống và đãm nhiệm các công tác khác. Nỗ lực bị ngăn trở vì có những người cự tuyệt cho một cơ chế như thế không nên thành hình, cho đến nào mà khi toà án đảm nhận công việc. Kết qủa có hàm ngụ một lời tuyên bố: nếu xã hội đang tái thiết xác định mình không có khả năng tự tổ chức những phiên toà khả tín để xử tội phạm và nếu cộng đồng quốc tế đãm nhận được khả năng này, thì xã hội sẽ phải bị kềm hãm rất lâu để theo đuổi bất cứ chương trình nào khác để giải quyết quá khứ xáo trộn của mình.
Cũng tương tự như vậy, tại Sierra Léone, hoà ước Lomé năm 1999 đề ra việc thành lập Ủy Ban chân lý và hòa giải. Sau đó, Hội Đồng Bảo An LHQ ủy nhiệm thành lâp toà án chuyên trách tội ác chiến tranh tại Sierra Léone - điểm mà vài giới chức quốc tế đề nghị nỗ lực ủy ban có thể được hủy bỏ. Trong cả hai trường hợp, nhũng cuộc thảo luận sâu rộng giữa các giới chức địa phương và quốc tế vào cuối năm 2000 đạt được sư đồng thuận về nhu cầu về toà án và Ủy ban chân lý, cả hai cùng tiến hành để bổ sung nhau hoàn thành những chức năng khác nhau, đưa các quốc gia xáo trộn này thăng tiến.
Trong việc giải trình trách nhiệm đối với bạo lực tập thể tại Đông Timor, LHQ và các chính quyền địa phương cũng đã chấp nhận một phương cách tương tự nhằm liên kết gồm nhiều đường hướng.
Tiến Trình Lập Hiến
Tại nhiều quốc gia chuyển tiếp từ nội chiến sang chính quyền mới, một trong những công tác quan trọng nhất là thảo hiến. Dĩ nhiên, hiến pháp là một tài liệu pháp lý nền tảng cho toàn bộ hệ thống luật pháp của quốc gia, hiến pháp là viên đá đầu tiên cho tinh thần trọng pháp. Hơn nữa, hiến pháp bao gồm viễn kiến cho một xã hội mới, đề ra những nguyên tắc cơ bản để công nhận hệ thống chính trị, cách phân bổ quyền lực trong một nước, những điều khoản về luật nội dung và thủ tục mà cả hai có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc cũng cố hoà bình.Khi việc thảo hiến và áp dụng do một nhóm ưu tú của phe thắng cuộc đề ra, kết quả mang lại là nền tảng này không những chỉ thiếu dân chủ mà còn không ổn định. Nói một cách tương tự, nếu đồng ý với đặc điểm của hiến pháp, thì lập hiến có thể tạo nên một tiến trình đối thoại quốc gia, cho phép những viễn kiến đối nghịch và những khiếu nại trong xã hội hậu chiến được diễn đạt và kết hợp, để tạo điều kiện cho việc hoà giải giữa các phe nhóm. Đó cũng có thể là một tiến trình cho giáo dục quốc gia trong các chiều hướng về các khái niệm chính quyền, vấn đề và quan tâm của các phe nhóm khác nhau trong đất nước, phát triển xã hội dân sự và trách nhiêm công dân và chuẩn mực quốc tế về nhân quyền, nguyên tắc không phân biệt và khoan dung, tất cả phải được du nhập trong hiến pháp mới. Tóm lại, tiến trình lập hiến có thể đóng góp cho hoà bình và ổn định.
Tại Eritrea, sau ba mươi năm chiến tranh giành độc lập, tiến trình lập hiến đặt tr ọng tâm vào cấu trúc nhằm tạo thuận lợi cho cũng cố hoà bình. - trong hai năm nỗ lực và tuyên bố là đạt một tiến trình lịch sử cho sự đoàn kết của ngưòi dân Eritrea trong một cuộc đối thoại đầy sáng taọ cho cả nước. Ủy Ban Hiến Pháp bao gồm nhiều thành phần tôn giáo, sắc tộc, và địa phương khác nhau. Nhiều văn phòng được thành lập tại năm khu vực trong nước, trong tiến trình này còn có một văn phòng phụ thuộc khác chuyên trách cho 750.000 người Eritrea sống ở hải ngoại.
Uỷ Ban Hiến Pháp chuẩn nhận một chiến lược liên hệ đến một cuộc tham khảo ý kiến công luận sâu rộng nhất, một chiến lược tránh đưọc phương cách từ trên đi xuống. Những cuộc thảo luận được để xuất qua hàng loạt các hội thảo về công dân giáo dục, thảo luận, hội luận tại các làng và tỉnh đạt được hàng trăm ngàn người tham dự. Bích chương, báo chí, truyền hình và truyền thanh được dùng đễ tạo điều kiện dễ dàng cho việc giáo dục công dân và đối thoại. Trình bày những nguyên tác cơ bản và thảo hiến là đề tài cho những thảo luận của quần chúng và tiền đề sâu rộng khác.
Tại Cambodia, dù không có được một cuộc tham khảo ý kiến công luận sâu rộng tương tự, soạn thảo và chuẩn nhận hiến pháp sau Hòa uớc Paris cũng bao gồm mức độ đối thoại quốc gia cùng với tranh chấp các phe phái trong việc phân chia quyển lực và quyền lợi trong xã hội Cambodia. Lập Hiến tại Nam Phi đem lại một thí dụ rõ hơn về sự hữu ích của cách này. Thí dụ như trong một khoá họp mùa xuân 1995, Quốc Hội Lập Hiến dành nhiều thì giờ để thảo luận để thảo luận dự thảo hiến pháp mới liên quan đến lực lượng an ninh cho Nam Phi, một đề tài quan trọng và gây tranh luận đối với nhóm đối kháng, những người được hình thành trong thời còn xung đột.
Nhiều loại vấn đề nhạy cảm khác - thí dụ như sử dụng quyền trong trường hợp khẩn cấp và những giới hạn, cho phép quân nhân không tuân lịnh thượng cấp khi vi phạm luật quốc tế, kiểm soát dân sự của các lực luợng an ninh -, tất cả những vấn đề này cũng được những kẻ cựu thù, nay ngồi trong Quốc Hội, thảo luận, họ gồm đủ thành phần mọi giới từ đại biểu thuộc Đảng Quốc hội Liên Phi (Pan-African Congress) thuộc cánh tả đến Mật Trận Tự Do (Freedom Front) thuộc cánh hữu. Nhiều tham dự viên công nhận rằng chỉ trong một vài năm trước đó những cuộc tranh luận như thế không thể nào nghĩ ra. Tuy nhiên, trong bối cảnh của thời kỳ chuyển tiếp, tiến trình Quốc Hội Lập Hiến dai dẳng đem lại một lộ trình quan trọng cho những người đối nghịch bằng bạo lực trước đây, nay lại thương thuyết và hợp tác trong việc xây dựng từng giai đoạn của trật tự mới.
Triển khai hiến pháp thông qua tiến trình đối thoại quốc gia cũng có những giới hạn nhất định. Một mô hình tương tự về những điều kiện cho đồng thuận xã hội nếu được một nhóm nhỏ đóng kín cửa quyết định và trao cho dân chúng ít hiệu năng hơn. Tiến trình thảo hiến có thể gây bất ổn, thí dụ như trường hợp nếu thời kỳ chyển tiếp quá dài không có luật lệ cơ bản cai trị hoặc là trong thời kỳ chuyển tiếp mà hiến pháp củ được tiếp tục sử dụng, thì sẽ làm cho xung đột trầm trọng hơn.
Đó là trường hợp của Nam Phi khi hiến pháp lâm thời được thương thảo để lập ra một cơ sở chuyển tiếp và một tiến trình dài hơn cho phép thảo luận những vấn đề khó khăn và triển khai tài liệu chung quyết. Hơn nữa, điểm chính phải công nhận là không phải tất cả mọi vấn đề xã hội sẽ được hiến pháp giải quyết. Như đã đề cập trước đây trong vấn đề liên hệ đến toà án, coi lập hiến như một phương tiện giải quyết các khiếu nại từng phe nhóm có thể buộc phải giải quyết đủ loại vấn đề không thích hợp cho tiến trình này. Việc này có thể đem lại kết quả hoặc là các phe nhóm thất vọng để từ bỏ tiến trình hoặc là chấp nhận kết hợp những điều hứa hẹn trong hiến pháp mới mà biết là không thực hiện được, cả hai chỉ làm hại cho sự khả tín của tiến trình và của hiến pháp mới.
Tạo điều kiện căn bản rộng rải cho xã hội tham gia có nghĩa là làm cho tiến trình này sẽ kéo dài hơn để đúc kết, bao gồm những chi phí hành chánh nặng nề và thảo luận sâu xa, và kết quả là một số thoả hiệp có thể tránh được. Cùng lúc, có thể tạo nên một hiến pháp được hiểu biết và chấp nhận, ổn cố và hỗ trợ cho hoà bình nhiều hơn. Những quyết định liên hệ đến tiến trình sẽ ảnh hưỏng tất yếu đến tính chất của các tranh chấp riêng biệt và những trường hợp của giải pháp.
Tầm Quan Trọng Của Ngoại Viện
Như đã đề cập, trong khi minh chứng cho một khai nguyên của xã hội dựa trên công lý và uy lực pháp quyền trong thời hậu chiến còn là thách thứ mới, nhưng việc lập thể chế mới, huấn luyện luật sư, chánh án, cảnh sát và tất cả các loại nhân viên khác cần nhiều thời gian. Đây chính là khó khăn đang còn xãy đến.Trong nhiều trường hợp công lý và hoà giải là giải pháp đạt được nhờ phương tiện của các tổ chức quốc tế. Thí dụ như tại El Salvador là một nước có dân số tương đối ít nhưng lại cảm thấy bị phân hoá để đạt được đồng thuận về các vấn đề vi phạm đã xãy ra trong thời xung đột. Do đó, một Uỷ Ban chân lý LHQ được thành hình hoàn toàn không có người El Salvador tham gia để đảm bảo tính trung lập khách quan, khả chấp và để không bị ảnh hưởng bởi bất cứ một cơ chế quốc nội nào trong thời kỳ đầu tiên của chuyển tiếp.
Để giải quyết vấn đề nội chiến và diệt chủng tại Rwanda và Nam Tư củ, Hội Đồng Bảo An LHQ thành lập hai toà án hình sự quốc tế - đây là hai cơ chế đầu tiên thành hình kể từ khi có Toà án Nuremberg từ nữa thế kỳ trước. Nhiều yếu tố ngăn trở cho việc quốc tế hoá cần đáp ứng trong những trường hợp này:
- tội ác cực kỳ kinh khiếp là một thách thức to lớn cho những nguyên tác luật quốc tế;
- nhu cầu phục hồi công lý là thành tố thiết yếu trong việc đạt đến hoà giải và phá vờ vòng lẩn quân của bạo lực là quá hiển nhiên; và
- hệ thống tư pháp quốc nội (đặc biệt là tại Rwanda) hoàn toàn bị hủy diệt.
Hơn nữa, tòa quốc tế có vị thế tốt đẹp hơn toà quốc nội, vì các lý do
- mang một thông điệp rõ ràng là cộng đồng quốc tế không thể khoan dung các thãm hoạ như thế, hy vọng làm giảm bớt các tội ác này trong tương lai, không phải chỉ tại Rwanda và Bosnia, mà khắp thế giới;
- được huy động bỡi nhũng chuyên gia có khả năng áp dụng và giải thích các tiêu chuẩn luật quốc tế;
- có nhiều phương tiện về nhân sự và vật chất cần thiết khả dụng;
- có chức năng dựa trên cơ sở độc lập trung dung hơn là báo thù, và chức năng này được cảm nhận là được vận hành;
- thúc đẩy sư phá triển và chấp hành các quy luật hình sự quốc tế; và
- có quyền tài phán đối với những thủ phạm trong những trường hợp gia trọng nhất khi họ đã trốn ra khỏi nước. Hai toà án này đã đem lại mang đến nhiều tiến bộ quan trọng trong sự hiểu biết và xử lý về tội phạm chiến tranh, tội án chống nhân loại và diệt chủng.
Trong những trường hợp khá hiếm hoi như vậy, tạo cơ chế quốc tế nhằm mang lại ý nghĩa cho công lý là điểm chủ yếu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đây chỉ là giải pháp thứ hai phải chọn lựa. Ngay trong trường hợp của Rwanda và Bosnia, nơi mà việc thành lập toà án hình sự quốc tế là phù hợp, nền hoà bình dài lâu đòi hỏi phải thiết lập thể chế quốc nội vững chắc, trong nội bộ các quốc gia này phải triển khai mọi khả năng nhằm nỗ lực thực hiện công lý và hòa giải. Dù đây gần như là chuyện một phương trình bằng không, sung dụng tương đối các phuơng tiện ưu tiên đem lại một khẳng định về vai trò quốc tế trong lĩnh vực công lý và uy lực pháp quyền trong thời hậu chiến. Trong khi chi phí đóng góp cho hai toà này lên đến 1 tỷ, kinh phí sử dụng nhằm phát triển các thể chế pháp luật quốc nội thấp hơn.
Nếu vấn đề quy trách và công lý đạt được thông qua toà án hay ủy ban chân lý hay không, nói chung, cả hai vấn đề này sẽ đạt hiệu quả cao nhất qua một tiến trình quốc nội do chính các quốc gia này điều động. Nếu công việc tiến hành phù hợp với tinh thần thượng tôn luật pháp, việc truy tố truớc toà án quốc nội làm gia tăng tính chính thống của chính quyền thời hậu chiến và cơ quan tư pháp có nhạy bén hơn ngưòi ngoại quốc với những đặc điểm của cộng đồng địa phương. Đặc biệt là nhấn mạnh đến vai trò chính quyền trong việc quy trách cá nhân khi vi phạm hình sự và đem lại một nền tư pháp hoạt động trong cảnh giác.
Ngoài ra, nhà nước và các cơ quan sẽ có điều kiện kết hợp các bài học về công lý, trách nhiệm và hoà giải sau những tiến trình quốc nội đầy phấn khởi, khi kết hợp được mọi đại biểu của tất cả các đảng phái. Tiến trình hướng nội cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng hoà bình. Ngược lại, nếu nhà nước giải quyết các nhu cầu phải đối phó vấn đề bằng cách dựa vào người ngoại quốc, thì kinh nghiệm đóng góp cho một nền hoà bình lâu dài và đảm bảo của pháp luật ít hơn (tuy nhiên, vấn đề chính quyền có thể từ bỏ dễ dàng, khi lãnh đạo địa phương càng có nhiều kinh nghiệm chính trị hơn).
Ủy ban chuyên gia của LHQ khi lập toà án Rwanda công nhận điểm này, họ ghi nhận là tòa án quốc nội nhạy cảm hơn trong những trường hợp cá nhân, có thể đi đến những quyết định có những tác động gây ấn tượng hơn, vì phán quyết giải quyết được vấn đề mà tòa đã quen thuộc với cộng đồng địa phương.
Có hai cách giảỉ thích về sự công nhận ưu tiên tuần tự cho giải pháp tư pháp quốc nội trong tiến trình này. Thứ nhất, từ năm 1995, cũng đã có cơ chế không thuần túy quốc tế thành lập song hành với Ủy Ban El Salvador, hoặc Toà án tại Nam Tư và Rwanda. Khi thấy vai trò quốc tế là cần thiết, thì sẽ có khuynh hướng chung là lập toà hỗn hợp quốc tế và quốc gia, mà giới chức địa phương tham gia chiếm đa số. Những thí dụ kể đến Uỷ Ban chân lý được lập tại Guatemala, hiện cũng đang cứu xét tương tự tại Bosnia, Toà án đặc biệt được đề nghị tại Cambodia và Sierra Léone.
Thứ hai, không giống như toà án quốc tế tại Nam Tư củ và Rwanda, đem đến quyền tài phán ưu tiên trước khả năng toà án quốc nội trong việc truy tố, Hiệp uớc Rome năm 1998 thành lập Toà án Hình Sự Quốc Tế (ICC) nhằn điều chỉnh thẩm quyền này. Toà ICC nhằm bổ sung thẩm quyền hệ thống tư pháp quốc nội và có thể hành sử thẩm quyền tài phán bổ sung qua các vụ tội diệt chủng, tội phạm chiến tranh, tội ác chống nhân loại, khi hệ thống tư pháp quốc gia không có khả năng và không muốn làm như thế.
Một khuynh hướng có liên quan đến với sự trợ giúp của hải ngoại mà người ta nhận ra được là trong vụ kiện chống nhà độc tài Chile Augusto Pinochet. Dựa trên sư đồng thuận về nguyên tắc tài phán phỗ quát về một vài tội ác quốc tế, một số quốc gia bắt đầu khẳng định quyền tài phán của toà án quốc gia trước các tội diệt chủng, tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại và tra tấn kể cả khi vi phạm trong nội chiến có vũ trang tại một quốc gia thứ hai, mà cả hai thủ phạm và nạn nhân là công dân của quốc gia này. Trong thập niên vừa qua, trường hợp hình sự đã thụ lý tại ít nhất mười một quốc gia nhằm chống lại các dân ngoại quốc vi phạm tội ác chống nhân loại và các vi phạm liên quan bị cáo buộc tại quê hương. Trong một số trường hợp này, các nạn nhân né tránh không muốn hoặc chính quyền không có khả năng truy tố.
Trong trường hợp Pinochet, chánh án Tây Ban Nha tìm cách dẫn độ Pinochet từ Luân Đôn, nạn nhân và chánh án có khả năng buộc ba chính quyền liên quan là Chile, Tây Ban Nha và Anh. Cuối cùng, kết quằ chính là chánh án Tây Ban Nha đạt được những gì mà xã hội Chile đã không tự thực hiện được trong hai thập niên qua là làm bung ra hàng loạt các hoạt động và òa vỡ các cảm xúc tại Chile. Những nỗ lực truy tố Pinochet tại quê nhà, những cuộc điều tra hình sự công khai chống lại một vài người khác, buộc quân đội sau nhiều trì hoản phải thoả mãn các luật sư nhân quyền, bất đầu xác định điều tra và thông tin về định mệnh của các người mất tích đến mức độ tác đông những vụ án tại hải ngoại, có ảnh hưởng làm kết thúc thời kỳ chuyển tiếp của Chile sang dân chủ. Sau một vài năm phát triển việc hành sử quyền tài phán phỗ quát lại tạo nên một tiến trình khá hỗn độn.
Kết Luận
Những thách thức mới cho hoà bình đòi hỏi những phương tiện mới. Khi chiến tranh trên khắp mọi nơi trên thế giới thay đổi sự phức tạp, chiến tranh liên quốc gia ngày càng nổi bật hơn, tạo ra tinh thần thượng tôn pháp luật đóng một vai trò ngày càng quan trọng, đặc biệt là trong thời kỳ tái thiết hậu chiến và vãn hồi hoà bình.Kể cả đến hiện nay có nhiều còn người cho rằng việc đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật là không quan trọng, hoặc tốt nhất chỉ làm thay đổi gián tiếp lối suy nghĩ cho những công việc thực tế để giải quyết xung đột và xây dựng hoà bình thời hậu chiến - vì họ có niềm tin là áp đặt luật lệ và thể chế sẽ tự nó xoá đi những thù hận sâu xa, và đấu tranh dành quyền lực. Một điều mà không có gì là có thể chính xác.
Uy lực pháp quyền từ trong nền tảng là một vấn đề khó khăn và đặc biệt không có một lượng giá lạc quan về bản chất của con người và triển vọng giải quyết cho xung đột. Chúng ta có thể cho rằng hứa hẹn long trọng hiếu hoà và lập luận hoà giải hiển nhiên là quan trọng cho việc xây dựng hoà bình, nhưng thực ra rất là mong manh.
Trong trường hợp tệ nhất, uy lực pháp quyền đề ra một mạng lưới của thể chế, cơ chế và thủ tục kiểm soát những nguồn gốc của mọi sự xung đột trong thời kỳ khởi thủy, ngăn ngừa khả năng của mọi phe phái gây những hành vi bạo lực và vi phạm, buộc phải có vụ kiện công khai, và một phạm vi hành động tương đối phù hợp.
Trong trường hợp tốt nhất, khi tinh thần trọng pháp được vun bồi cẩn trọng, một hệ thống quy trách, giải quyết xung đột, giới hạn quyền lực, cơ hội trình bày các quan điểm đối nghịch - nếu tất cả đều được thực hiện qua phương tiện bất bạo động - sẽ trở thành một tập quán tạo điều kiện để ngăn ngừa một cuộc nội chiến khác.
(Hết)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét