Khi nào một ngân hàng Việt Nam sụp đổ?
Sài Gòn đang bước vào thời tiết đẹp nhất trong năm, nhưng
hàng chục ngàn nhân viên ngân hàng lại đang tiếp nhận cơ hội bước ra
đường.
Kế hoạch sa thải hàng loạt của nhiều ngân hàng, trong đó có cả những
ngân hàng lớn như Eximbank, Vietinbank, ACB, Techcombank… đã giáng một
đòn khó hiểu đối với tầng lớp “cổ cồn trắng” trong khi chỉ còn hai tháng
nữa sẽ đến cái Tết nguyên đán.
10-15% là tỷ lệ cắt giảm nhân sự của nhiều ngân hàng như thế. Một số
ngân hàng khác, tuy không công bố, nhưng vẫn âm thầm kiên định chiến
lược giảm thiểu các phòng ban. Gần Tết năm ngoái, một đợt sa thải cũng
đã bộc phát, cho dù khi đó các ngân hàng còn đang cố giấu đi sự trả giá
của họ.
Những vết khoét thấu xương
Mặt thật của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phơi bày với những vết
khoét mưng mủ đang thấm vào xương – giá trị còn lại của một thị trường
đầu cơ tín dụng không giới hạn và bất chấp đạo lý trong quá khứ.
Trừ một ít ngân hàng như SHB, BIDV… có lãi thật sự nhưng còn xa mới
được xem là khả quan so với thời gian trước năm 2011, ít nhất 50% số
ngân hàng ở Việt Nam chỉ lãi rất ít hoặc âm lợi nhuận. Nợ và nợ xấu vẫn
đeo đẳng không khoan nhượng tại những ngân hàng đang phải ôm đống tài
sản thế chấp không biết làm sao rũ bỏ của các đại gia bất động sản.
“Cứ gần hết mỗi quý, lãi vay ngắn hạn lại là thuốc độc
đối với những con nợ đến hạn phải trả, trong khi hàng tồn kho bất động
sản trung cấp và cao cấp vẫn không làm cách nào khiến túi tiền người
tiêu dùng xúc động.”
Tuy thế, những báo cáo chính thức trước Quốc hội của Ngân hàng nhà
nước – cơ quan vừa được nâng cấp thành Ngân hàng trung ương – vẫn không
thừa nhận một mảng đen tối nào khác hơn tỷ lệ chỉ 5-6% nợ xấu.
Thống đốc Nguyễn Văn Bình mới đây còn phô diễn một lời đánh đố đối
với giới nghị sĩ: nếu Ngân hàng nhà nước không hỗ trợ và sắp xếp lại nợ
cho các ngân hàng thương mại, hẳn là tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân
hàng đã phải lên đến 12%.
Nhưng cũng tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII vào tháng 11/2013, ông
Bình đã lần đầu tiên phải nêu ra con số 300.000 tỷ đồng đã được Ngân
hàng nhà nước chuyển từ nhóm nợ xấu lên nhóm nợ “chưa xấu”, theo một văn
bản “đảo nợ” của cơ quan này vào tháng 6/2013. Trước đó vào tháng
4/2012, Ngân hàng nhà nước đã thực hiện một động tác tương tự và giúp
cho các ngân hàng thương mại cùng khối con nợ bất động sản tránh thoát
một bàn thua trông thấy. Con số “tái cơ cấu nợ” khi đó là khoảng 250.000
tỷ đồng.
Nợ xấu đang làm nhiều ngân hàng ở Việt Nam lao đao, theo TS Phạm Chí Dũng
Một năm rưỡi sau, bất chấp những báo cáo tô hồng về “nợ xấu đã được
giải quyết một phần”, hoặc Công ty quản lý tài sản (VAMC) đã mua đến
30.000 -35.000 tỷ đồng nợ xấu của các ngân hàng, số nợ quá khó hoặc hầu
như không thể thu hồi vẫn tiếp tục tạo thế xung kích, trong khi vẫn chưa
có bất cứ một dấu hiệu nào cho thấy tình hình đỡ thê thiết hơn.
Cứ gần hết mỗi quý, lãi vay ngắn hạn lại là thuốc độc đối với những
con nợ đến hạn phải trả, trong khi hàng tồn kho bất động sản trung cấp
và cao cấp vẫn không làm cách nào khiến túi tiền người tiêu dùng xúc
động. Không bán được hàng và cũng chẳng có tiền trả lãi, một doanh
nghiệp bất động sản hàng đầu như Quốc Cường Gia Lai thậm chí chỉ còn
chưa đầy 2 tỷ đồng trong ngân quỹ.
Cái chết của nợ xấu
Cho dù có phải cắm mặt với sự thật, tỷ lệ nợ xấu 12% mà Thống đốc
Nguyễn Văn Bình buộc phải thừa nhận là có thể xảy ra vẫn chỉ bằng 1/3
con số mà Ủy ban giám sát tài chính quốc gia lần đầu tiên buộc phải công
bố vào giữa năm nay. Con số đó mang tính thực chất hơn nhiều: 35-37%.
Đây cũng là con số khiến người ta phải liên hệ với hình ảnh tương phản
đến mười lần về số liệu nợ xấu ở Thái Lan trước và trong cuộc khủng
hoảng tài chính năm 1997: 5% và 50%.
Tại Diễn đàn kinh tế mùa xuân vào tháng 4/2013, một nhóm chuyên gia
độc lập và cả vài vị quan chức nhà nước đã lần đầu tiên tung ra con số
nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam lên đến 540.000 tỷ đồng.
“Cơn bội thực nhà đất ở Việt Nam lại hầu như chưa có điểm
kết thúc. Cho đến nay và sau hai năm ruỡi quay quắt trong mớ bùng nhùng
thắt nút, vẫn không có bất cứ số liệu tổng hợp nào về tình hình tiêu
thụ của các phân khúc căn hộ cao cấp và trung cấp được công bố bởi Bộ
Xây dựng”
Ít nhất 70% nợ xấu đó thuộc về hàng trăm dự án bất động sản đang hoàn toàn bất động ở Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẵng.
Cơn bội thực nhà đất ở Việt Nam lại hầu như chưa có điểm kết thúc.
Cho đến nay và sau hai năm ruỡi quay quắt trong mớ bùng nhùng thắt nút,
vẫn không có bất cứ số liệu tổng hợp nào về tình hình tiêu thụ của các
phân khúc căn hộ cao cấp và trung cấp được công bố bởi Bộ Xây dựng.
Bất kể rất nhiều chiến dịch tuyên truyền có định hướng về “nền kinh
tế đang thoát đáy” và “thị trường nhà đất đang dần phục hồi”, tâm lý
người mua nhà đã thuộc về một độ trơ chưa từng thấy kể từ con sóng nhà
đất đầu tiên vào năm 1995. Và dù không có bất cứ chỉ số niềm tin nào
được Bộ Xây dựng thực hiện, tất cả đều phải thừa nhận là thị trường đã
làm sụp đổ lòng tin.
Nói cách khác, cuộc khủng hoảng bất động sản chỉ mới bắt đầu.
Giờ đây, câu hỏi đặt ra là sau hai cú đảo nợ vào tháng 4/2012 và
tháng 6/2013, liệu đến giữa năm 2014 những kẻ “ngồi mát ăn bát vàng” có
chấp nhận cho các những người “mong một buổi sáng không nợ nần” của nó
được gia hạn thêm thời gian khất nợ?
Nhưng giả định đó lại là điều rất khó hình dung, bởi bản thân nhiều
ngân hàng Việt Nam hiện nay đang rơi vào tình trạng “ăn vào thịt của
mình”. Tăng trưởng tín dụng cho vay là quá tồi tệ so với mong ước 15% từ
đầu năm 2013. Cho đến nay, phần lớn ngân hàng chỉ có thể đạt 4-5% cho
tiêu chí tăng trưởng này, so với “quyết tâm” của Ngân hàng nhà nước là
12%.
Thậm chí trong một văn bản mới đây, thống đốc ngân hàng đã tháo khoán
cho các ngân hàng được quyền cho vay với cả những doanh nghiệp đang
chìm ngập trong nợ xấu – một hành động chưa từng có tiền lệ mà cũng diễn
tả tâm trạng cực kỳ bế tắc của nhóm lợi ích từng là tác nhân gây ra nợ
xấu khủng khiếp ở Việt Nam.
Sụp đổ dây chuyền
Song đảo nợ không thể là một phạm trù vĩnh viễn, khi thời điểm Minsky
về đáo hạn các món nợ xương máu đã biến thành vết hằn trong tận xương
tủy của thế giới tư bản dã man đến khó tả ở Việt Nam.
Đơn giản là đến tháng 6/2014, nếu không thể thanh toán được các món
nợ đáo hạn, không chỉ các con nợ bất động sản “chết” mà cả những ngân
hàng đang ôm nợ và tài sản thế chấp cũng sẽ “băng hà” – như một câu châm
ngôn trong lịch sử và văn hóa Việt Nam.
“Cứu doanh nghiệp cũng là cứu ngân hàng” – không ít doanh nghiệp kinh
doanh bất động sản hoặc có liên quan đến bất động sản đã nói tuột ra
với báo giới.
Hầu như chắc chắn, cuộc khủng hoảng ngân hàng đang lộ ra gót chân đen
sì của nó, trước khi hiện hình tấm thân phì nộn trong cơn lên máu đầy
cảm hứng tai biến cùng tứ chi tê liệt.
Từ đầu năm nay, một số biểu hiện hỗn loạn không thể chối cãi đã hiện
hình. Một trong những biểu hiện hết sức bất đắc dĩ như vậy là Agribank –
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Luôn giữ vững ngôi vị
quán quân về thu hút tín dụng tiền gửi cùng số lãnh đạo ngân hàng bị bắt
giam vì tham nhũng, Agribank là địa chỉ mà nợ xấu bất động sản có thể
tạo ra một cơn địa chấn đủ lớn khiến dắt dây sang nhiều ngân hàng mang
đặc thù về “sở hữu chéo”.
“Màu sắc của nền kinh tế ấy cũng vì thế đã luôn “hồng”
như báo cáo của Chính phủ, nhưng lại “xám” trong con mắt Quốc hội và quá
“tối” trong sâu thẳm tâm khảm của dân nghèo.”
Với tất cả những gì đã tích tụ, Agribank lại khá gần gũi với chân
dung ngân hàng Lehman Brothers của Mỹ vào tháng 10/2007. Người ta đang
tự hỏi liệu có diễn ra một kịch bản sụp đổ tương tự như thế ở Việt Nam
vào thời gian này của năm sau – cuối 2014?
Thậm chí có thể sớm hơn, tức vào giữa năm 2014, khi một ngân hàng
hạng trung hoặc nằm trong nhóm “G12” buộc phải tuyên bố phá sản do không
thể thu hồi nợ xấu và cũng không đủ tiền để trả cho khách hàng. Và nếu
sau đó có tiếp 3-4 ngân hàng không thể cầm cự, cơn động kinh nào sẽ xảy
ra?
Những gì mà VAMC đang làm hiện nay chỉ có ý nghĩa như một chiến dịch
“đánh bùn sang ao”. Nhà nước chỉ mua lại nợ xấu bằng trái phiếu, tức
bằng giấy chứ không hề biểu trưng cho “tiền tươi thóc thật”. Nhà nước
cũng không có đủ can đảm để in thêm tiền rót cho chính hệ thống ngân
hàng, vì ngay lập tức lạm phát và vô số hậu quả xã hội của nó sẽ tràn
ngập.
Một cái chết song trùng là hoàn toàn có thể xảy ra giữa khối con nợ
và các chủ nợ, để đến lượt mình, các chủ nợ ngân hàng lại có thể kiến
tạo một cuộc sụp đổ dây chuyền trong không bao lâu nữa. Khi đó, sẽ có ít
nhất một phần ba số ngân hàng phải phá sản.
Khác rất nhiều với đánh giá “kinh tế Việt Nam đang có dấu hiệu phục
hồi” của những tổ chức tài chính quốc tế danh giá như ngân hàng HSBC và
thậm chí của cả IMF hay ADB, chưa có gì đáng gọi là “thoát đáy” dành cho
nền kinh tế được mặc định bởi thuốc nhuộm “định hướng xã hội chủ nghĩa”
cùng vô số nhóm lợi ích tung hoành.
Màu sắc của nền kinh tế ấy cũng vì thế đã luôn “hồng” như báo cáo của
Chính phủ, nhưng lại “xám” trong con mắt Quốc hội và quá “tối” trong
sâu thẳm tâm khảm của dân nghèo.
Tương lai khủng hoảng cũng vì thế lại trở nên sáng lạn hơn bao giờ hết.
THEO BBC
Chưa chịu kỷ luật thị trường, DNNN luôn thắng
Việc áp đặt đầy đủ nguyên tắc và kỷ luật thị trường đối với các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước sẽ đưa khu vực doanh nghiệp này vào đúng quỹ
đạo trong mối quan hệ Nhà nước – thị trường và doanh nghiệp.
DNNN đang áp đặt luật chơi
Trước hết, phải nhấn mạnh rằng, yêu cầu áp đặt đầy đủ nguyên tắc và
kỷ luật thị trường đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã được
Thủ tướng Chính phủ đưa ra từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, mọi chuyển biến
đều rất chậm, cả trong tư duy và hành động.
Thứ nhất, quan niệm về vai trò và chức năng của doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) nói chung và tập đoàn, tổng công ty nhà nước nói riêng vẫn chưa
thay đổi.
DNNN vẫn được sử dụng làm công cụ, là lực lượng vật chất để Nhà nước
điều tiết thị trường, điều tiết nền kinh tế. Quan niệm và cách làm này
không phù hợp với vai trò của Nhà nước nói chung và DNNN nói riêng trong
nền kinh tế.
Nhà nước, thị trường và doanh nghiệp là ba lực lượng chính trong thể
chế kinh tế thị trường. Về quan hệ ba bên nói trên, Nhà nước điều tiết
doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua thị trường. Nhà nước tác
động đến thị trường, thay đổi đòn bẩy khuyến khích để qua đó, tác động
đến doanh nghiệp theo cơ chế thị trường thông qua giá cả và cạnh tranh
thị trường.
Đối với các trường hợp mà thị trường không phát huy tác dụng, thì Nhà
nước trực tiếp áp đặt các điều kiện vì lợi ích cộng đồng và trực tiếp
thực hiện các biện pháp để thực thi các điều kiện đó. Bảo vệ môi trường,
an toàn vệ sinh thực phẩm… là những trường hợp điển hình của quan hệ
giữa Nhà nước và doanh nghiệp thuộc loại này.
Trong quan hệ giữa doanh nghiệp và thị trường, Nhà nước có trách
nhiệm giám sát các doanh nghiệp độc quyền, thống lĩnh thị trường để các
doanh nghiệp này không lạm dụng vị thế của mình để trục lợi, làm hại môi
trường cạnh tranh.
Nói cách khác, Nhà nước không sử dụng doanh nghiệp để điều tiết thị
trường, mà ngược lại, phải quản lý, giám sát và ngăn ngừa doanh nghiệp
lạm dụng vị thế của mình để tác động, làm méo mó, sai lệch tín hiệu thị
trường.
Như vậy, việc Nhà nước sử dụng DNNN để điều tiết thị trường là không phù hợp với nguyên tắc thị trường.
Chính vì vậy, hàng loạt nguyên tắc khác của thị trường vẫn chưa thực sự được áp dụng đối với DNNN.
Trước hết là không tuân thủ nguyên tắc “lời ăn, lỗ chịu”. Hiện nay,
DNNN kinh doanh thua lỗ, không thanh toán được các khoán nợ đến hạn,
nhưng không bị phá sản, tức là chưa chịu sự trừng phạt khắc nghiệt của
cạnh tranh thị trường. Nhà nước, về cơ bản, vẫn đứng ra gánh chịu các
khoản nợ cho doanh nghiệp dưới hình thức giãn nợ, giảm nợ, chuyển nợ cho
đơn vị khác hoặc bảo lãnh nợ… Từ đó, những người có liên quan, như đại
diện chủ sở hữu, người quản lý…, cũng không chịu ảnh hưởng bởi sự khắt
khe và công bằng của thị trường.
Trong khi đó, Nhà nước, với tư cách là nhà đầu tư, lại không nhận
phần còn lại cuối cùng (lợi nhuận) về mình, bởi lợi tức của DNNN không
thành nguồn thu của ngân sách nhà nước.
Như vậy, trong hoạt động của DNNN, “lời” thì Nhà nước không lấy, lỗ
thì dân chịu và những người có liên quan trực tiếp lại không phải gánh
chịu trách nhiệm.
Sau nữa, DNNN không áp dụng đầy đủ giá thị trường của vốn. Cụ thể,
DNNN vẫn được hưởng một số tín dụng ưu đãi, lợi tức/vốn chủ sở hữu chỉ
cần một số dương tối thiểu là đủ, không buộc phải tạo ra khoản lợi
tức/vốn chủ sở hữu ít nhất bằng giá vốn trên thị trường.
Nguyên do từ thể chế
Phải thẳng thắn rằng, việc DNNN chưa áp dụng đầy đủ nguyên tắc và kỷ luật thị trường một phần do những rào cản thể chế.
Về chủ trương phát triển kinh tế nhà nước, DNNN phải giữ vai trò chi
phối trong các ngành, nghề quan trọng của nền kinh tế. Các tập đoàn,
tổng công ty được thành lập là để hiện thực hóa chủ trương đó.
Chính vì vậy, các tập đoàn, tổng công ty ngành được tạo điều kiện để
giữ độc quyền hoặc giữ vị trí thống lĩnh thị trường của ngành đó. Từ đó,
phần lớn cơ hội đầu tư, kinh doanh của trong ngành bị tổng công ty, tập
đoàn có liên quan chi phối. Các tập đoàn, tổng công ty loại này luôn
được chọn là người “thắng cuộc”, không phải đối mặt với cạnh tranh trên
thị trường.
Về cơ chế quản lý hiện hành của Nhà nước đối với khu vực doanh nghiệp
này, các cơ quan nhà nước vẫn can thiệp theo phương thức hành chính,
phi thị trường vào hoạt động kinh doanh và quản lý doanh nghiệp, từ
quyết định đầu tư, tổ chức kinh doanh, đến lựa chọn cán bộ quản lý và
tuyển dụng nhân công, tiền lương – tiền thưởng…
Ngoài ra, DNNN còn được giao thực hiện nhiệm vụ chính trị – xã hội mà
không được hạch toán riêng, hạch toán đầy đủ chi phí theo giá thị
trường. Các quyết định loại này cũng đang thực sự cản trở DNNN hoạt động
theo cơ chế thị trường; đang là lực cản lớn đối với việc phát huy tính
tự chủ, năng động, sáng tạo của DNNN. Đây là một bất lợi của DNNN so với
các doanh nghiệp khác.
Đặc biệt, chưa có cơ chế áp dụng đầy đủ nguyên tắc và thực tiễn quản
trị tốt đối với DNNN, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, cho dù yêu cầu
này đã được đặt ra. Một số bộ quy tắc về quản trị công ty hiện đại được
áp dụng, như bộ quy tắc của OECD, WB hay ADB…, nhưng trên thực tế, chỉ
một số tập đoàn, tổng công ty áp dụng một vài quy định của các bộ quy
tắc đó.
Cần phải khẳng định, hệ thống động lực khuyến khích đối với DNNN,
những người quản lý doanh nghiệp và các bên liên quan đến DNNN chỉ thay
đổi, phù hợp với cơ chế thị trường khi các DNNN áp dụng đầy đủ nguyên
tắc, kỷ luật thị trường và khung khổ quản trị công ty hiện đại.
Đặt đúng vị trí của DNNN
Việc áp đặt được đầy đủ các nguyên tắc và kỷ luật thị trường với khu
vực DNNN cần một thời gian nữa để hoàn tất, song không thể vì thế mà các
kế hoạch tái cơ cấu DNNN bị chậm lại.
Trong gian đoạn này, chúng ta vẫn có thể buộc các DNNN phải tuân thủ ngay một số trong các yêu cầu đó.
Thứ nhất, có thể yêu cầu đầy đủ ràng buộc về chi phí vốn trong đầu tư
và kinh doanh của DNNN. Nhà nước phải lấy lợi nhuận với mức ít nhất
bằng giá thị trường của vốn.
Thứ hai, cho phép DNNN tự chủ hơn trong cơ cấu lại vốn và tài sản trong khuôn khổ mục tiêu và các chỉ tiêu đã định…
Thứ ba, người đại diện chủ sở hữu, cán bộ quản lý phải trực tiếp chịu
trách nhiệm giải trình đối với kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Khi doanh nghiệp gặp khó khăn, không bảo toàn và phát triển vốn,
thua lỗ không thanh toán được nợ đến hạn, không trả đủ thuế cho Nhà
nước…, thì người đại diện chủ sở hữu, người quản lý phải bị thay thế.
Cùng với đó, phải áp dụng một số nguyên tắc quản trị hiện đại đối với
tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Đồng thời, áp dụng đầy đủ hoặc ít nhất
là cải thiện đáng kể nguyên tắc công khai, minh bạch hóa thông tin và
thiết lập cơ chế giám sát hữu hiệu đối với tập đoàn, tổng công ty nhà
nước.
Quản lý theo sứ mệnh
Trong khi chưa thiết lập được cơ quan chuyên trách, độc lập thực hiện
quyền chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp, thì tại từng bộ, UBND cấp
tỉnh phải thành lập bộ phân chuyên trách theo dõi, giám sát và đánh giá
kết quả hoạt động của DNNN trực thuộc.
Các bộ chuyên ngành, đại diện trực tiếp thực hiện các quyền chủ sở
hữu nhà nước phải xác định được sứ mệnh, vai trò và chức năng cụ thể của
từng tập đoàn, tổng công ty; trên cơ sở đó, xác định cụ thể các mục
tiêu, kèm theo đó là các chỉ tiêu thể hiện mục tiêu (làm thước đo để
đánh giá mức độ hoàn thành mục tiêu).
Mục tiêu và các chỉ tiêu đó phải thể hiện đầy đủ trong chiến lược, kế
hoạch trung hạn và kế hoạch hàng năm, hàng quý của tập đoàn, tổng công
ty. Kế hoạch luôn bao gồm 2 phần: kế hoạch sản xuất – kinh doanh và kế
hoạch ngân sách (hay tài chính).
Cơ quan chủ sở hữu phải thiết lập hệ thống thu thập thông tin, phân
tích, theo dõi, so sánh và đánh giá mức độ hoàn thành mục tiêu phát
triển, mục tiêu kinh doanh của tập đoàn, tổng công ty có liên quan.
Trường hợp có sự khác biệt giữa mục tiêu và thực tế, thì phải phân
tích, xác định nguyên nhân và có giải pháp can thiệp cần thiết, kể cả
việc thay đổi nhân sự quản lý, nếu xét thấy cần thiết.
Nếu có cơ chế theo dõi, giám sát như trên, sẽ không có những vụ việc
lớn như Vinashin và Vinalines gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế nói
chung và khu vực kinh tế nhà nước nói riêng.
Đẩy nhanh việc cổ phần hóa và thoái vốn đầu tư ngoài ngành cũng là
giải pháp có thể thực hiện được ở mức độ nhất định. Tuy vậy, ngoài các
giải pháp cụ thể đã được kiến nghị, thì việc thay đổi quan niệm về vai
trò và chức năng của cổ phần hóa, thoái vốn cũng không kém phần quan
trọng.
Cổ phần hóa không phải là để Nhà nước huy động vốn, mà là giải pháp
thay đổi căn bản hệ thống động lực nội sinh và tạo áp lực thị trường đầy
đủ đối với DNNN, qua đó, tài sản quốc gia được quản lý và sử dụng có
hiệu quả hơn, tạo thêm nhiều giá trị gia tăng hơn cho nền kinh tế.
Tương tự, việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành không phải chỉ là để cắt
lỗ, giảm lỗ, mà là giải pháp sử dụng cơ chế thị trường để phân bố lại
nguồn lực, làm sống lại một bộ phần nguồn lực đang “chết” trong sự quản
lý của các tập đoàn, tổng công ty. Đó mới chính là thoái vốn ngoài ngành
theo đúng tinh thần và nội dung của tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng.
Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
TS NGUYỄN ĐÌNH CUNG
THEO BÁO ĐẦU TƯ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét