Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2013

Ngày 09/12/2013 - Khi nào một ngân hàng Việt Nam sụp đổ?

TIN LÃNH THỔ

TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI

Khi nào một ngân hàng Việt Nam sụp đổ?

Sài Gòn đang bước vào thời tiết đẹp nhất trong năm, nhưng hàng chục ngàn nhân viên ngân hàng lại đang tiếp nhận cơ hội bước ra đường.
Kế hoạch sa thải hàng loạt của nhiều ngân hàng, trong đó có cả những ngân hàng lớn như Eximbank, Vietinbank, ACB, Techcombank… đã giáng một đòn khó hiểu đối với tầng lớp “cổ cồn trắng” trong khi chỉ còn hai tháng nữa sẽ đến cái Tết nguyên đán.
10-15% là tỷ lệ cắt giảm nhân sự của nhiều ngân hàng như thế. Một số ngân hàng khác, tuy không công bố, nhưng vẫn âm thầm kiên định chiến lược giảm thiểu các phòng ban. Gần Tết năm ngoái, một đợt sa thải cũng đã bộc phát, cho dù khi đó các ngân hàng còn đang cố giấu đi sự trả giá của họ.

Những vết khoét thấu xương

Mặt thật của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phơi bày với những vết khoét mưng mủ đang thấm vào xương – giá trị còn lại của một thị trường đầu cơ tín dụng không giới hạn và bất chấp đạo lý trong quá khứ.
Trừ một ít ngân hàng như SHB, BIDV… có lãi thật sự nhưng còn xa mới được xem là khả quan so với thời gian trước năm 2011, ít nhất 50% số ngân hàng ở Việt Nam chỉ lãi rất ít hoặc âm lợi nhuận. Nợ và nợ xấu vẫn đeo đẳng không khoan nhượng tại những ngân hàng đang phải ôm đống tài sản thế chấp không biết làm sao rũ bỏ của các đại gia bất động sản.
“Cứ gần hết mỗi quý, lãi vay ngắn hạn lại là thuốc độc đối với những con nợ đến hạn phải trả, trong khi hàng tồn kho bất động sản trung cấp và cao cấp vẫn không làm cách nào khiến túi tiền người tiêu dùng xúc động.”
Tuy thế, những báo cáo chính thức trước Quốc hội của Ngân hàng nhà nước – cơ quan vừa được nâng cấp thành Ngân hàng trung ương – vẫn không thừa nhận một mảng đen tối nào khác hơn tỷ lệ chỉ 5-6% nợ xấu.
Thống đốc Nguyễn Văn Bình mới đây còn phô diễn một lời đánh đố đối với giới nghị sĩ: nếu Ngân hàng nhà nước không hỗ trợ và sắp xếp lại nợ cho các ngân hàng thương mại, hẳn là tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đã phải lên đến 12%.
Nhưng cũng tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII vào tháng 11/2013, ông Bình đã lần đầu tiên phải nêu ra con số 300.000 tỷ đồng đã được Ngân hàng nhà nước chuyển từ nhóm nợ xấu lên nhóm nợ “chưa xấu”, theo một văn bản “đảo nợ” của cơ quan này vào tháng 6/2013. Trước đó vào tháng 4/2012, Ngân hàng nhà nước đã thực hiện một động tác tương tự và giúp cho các ngân hàng thương mại cùng khối con nợ bất động sản tránh thoát một bàn thua trông thấy. Con số “tái cơ cấu nợ” khi đó là khoảng 250.000 tỷ đồng.
Kinh tế Việt NamNợ xấu đang làm nhiều ngân hàng ở Việt Nam lao đao, theo TS Phạm Chí Dũng
Một năm rưỡi sau, bất chấp những báo cáo tô hồng về “nợ xấu đã được giải quyết một phần”, hoặc Công ty quản lý tài sản (VAMC) đã mua đến 30.000 -35.000 tỷ đồng nợ xấu của các ngân hàng, số nợ quá khó hoặc hầu như không thể thu hồi vẫn tiếp tục tạo thế xung kích, trong khi vẫn chưa có bất cứ một dấu hiệu nào cho thấy tình hình đỡ thê thiết hơn.
Cứ gần hết mỗi quý, lãi vay ngắn hạn lại là thuốc độc đối với những con nợ đến hạn phải trả, trong khi hàng tồn kho bất động sản trung cấp và cao cấp vẫn không làm cách nào khiến túi tiền người tiêu dùng xúc động. Không bán được hàng và cũng chẳng có tiền trả lãi, một doanh nghiệp bất động sản hàng đầu như Quốc Cường Gia Lai thậm chí chỉ còn chưa đầy 2 tỷ đồng trong ngân quỹ.

Cái chết của nợ xấu

Cho dù có phải cắm mặt với sự thật, tỷ lệ nợ xấu 12% mà Thống đốc Nguyễn Văn Bình buộc phải thừa nhận là có thể xảy ra vẫn chỉ bằng 1/3 con số mà Ủy ban giám sát tài chính quốc gia lần đầu tiên buộc phải công bố vào giữa năm nay. Con số đó mang tính thực chất hơn nhiều: 35-37%. Đây cũng là con số khiến người ta phải liên hệ với hình ảnh tương phản đến mười lần về số liệu nợ xấu ở Thái Lan trước và trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997: 5% và 50%.
Tại Diễn đàn kinh tế mùa xuân vào tháng 4/2013, một nhóm chuyên gia độc lập và cả vài vị quan chức nhà nước đã lần đầu tiên tung ra con số nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam lên đến 540.000 tỷ đồng.
“Cơn bội thực nhà đất ở Việt Nam lại hầu như chưa có điểm kết thúc. Cho đến nay và sau hai năm ruỡi quay quắt trong mớ bùng nhùng thắt nút, vẫn không có bất cứ số liệu tổng hợp nào về tình hình tiêu thụ của các phân khúc căn hộ cao cấp và trung cấp được công bố bởi Bộ Xây dựng”
Ít nhất 70% nợ xấu đó thuộc về hàng trăm dự án bất động sản đang hoàn toàn bất động ở Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẵng.
Cơn bội thực nhà đất ở Việt Nam lại hầu như chưa có điểm kết thúc. Cho đến nay và sau hai năm ruỡi quay quắt trong mớ bùng nhùng thắt nút, vẫn không có bất cứ số liệu tổng hợp nào về tình hình tiêu thụ của các phân khúc căn hộ cao cấp và trung cấp được công bố bởi Bộ Xây dựng.
Bất kể rất nhiều chiến dịch tuyên truyền có định hướng về “nền kinh tế đang thoát đáy” và “thị trường nhà đất đang dần phục hồi”, tâm lý người mua nhà đã thuộc về một độ trơ chưa từng thấy kể từ con sóng nhà đất đầu tiên vào năm 1995. Và dù không có bất cứ chỉ số niềm tin nào được Bộ Xây dựng thực hiện, tất cả đều phải thừa nhận là thị trường đã làm sụp đổ lòng tin.
Nói cách khác, cuộc khủng hoảng bất động sản chỉ mới bắt đầu.
Giờ đây, câu hỏi đặt ra là sau hai cú đảo nợ vào tháng 4/2012 và tháng 6/2013, liệu đến giữa năm 2014 những kẻ “ngồi mát ăn bát vàng” có chấp nhận cho các những người “mong một buổi sáng không nợ nần” của nó được gia hạn thêm thời gian khất nợ?
Nhưng giả định đó lại là điều rất khó hình dung, bởi bản thân nhiều ngân hàng Việt Nam hiện nay đang rơi vào tình trạng “ăn vào thịt của mình”. Tăng trưởng tín dụng cho vay là quá tồi tệ so với mong ước 15% từ đầu năm 2013. Cho đến nay, phần lớn ngân hàng chỉ có thể đạt 4-5% cho tiêu chí tăng trưởng này, so với “quyết tâm” của Ngân hàng nhà nước là 12%.
Thậm chí trong một văn bản mới đây, thống đốc ngân hàng đã tháo khoán cho các ngân hàng được quyền cho vay với cả những doanh nghiệp đang chìm ngập trong nợ xấu – một hành động chưa từng có tiền lệ mà cũng diễn tả tâm trạng cực kỳ bế tắc của nhóm lợi ích từng là tác nhân gây ra nợ xấu khủng khiếp ở Việt Nam.

Sụp đổ dây chuyền

Song đảo nợ không thể là một phạm trù vĩnh viễn, khi thời điểm Minsky về đáo hạn các món nợ xương máu đã biến thành vết hằn trong tận xương tủy của thế giới tư bản dã man đến khó tả ở Việt Nam.
Đơn giản là đến tháng 6/2014, nếu không thể thanh toán được các món nợ đáo hạn, không chỉ các con nợ bất động sản “chết” mà cả những ngân hàng đang ôm nợ và tài sản thế chấp cũng sẽ “băng hà” – như một câu châm ngôn trong lịch sử và văn hóa Việt Nam.
“Cứu doanh nghiệp cũng là cứu ngân hàng” – không ít doanh nghiệp kinh doanh bất động sản hoặc có liên quan đến bất động sản đã nói tuột ra với báo giới.
Hầu như chắc chắn, cuộc khủng hoảng ngân hàng đang lộ ra gót chân đen sì của nó, trước khi hiện hình tấm thân phì nộn trong cơn lên máu đầy cảm hứng tai biến cùng tứ chi tê liệt.
Từ đầu năm nay, một số biểu hiện hỗn loạn không thể chối cãi đã hiện hình. Một trong những biểu hiện hết sức bất đắc dĩ như vậy là Agribank – Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Luôn giữ vững ngôi vị quán quân về thu hút tín dụng tiền gửi cùng số lãnh đạo ngân hàng bị bắt giam vì tham nhũng, Agribank là địa chỉ mà nợ xấu bất động sản có thể tạo ra một cơn địa chấn đủ lớn khiến dắt dây sang nhiều ngân hàng mang đặc thù về “sở hữu chéo”.
“Màu sắc của nền kinh tế ấy cũng vì thế đã luôn “hồng” như báo cáo của Chính phủ, nhưng lại “xám” trong con mắt Quốc hội và quá “tối” trong sâu thẳm tâm khảm của dân nghèo.”
Với tất cả những gì đã tích tụ, Agribank lại khá gần gũi với chân dung ngân hàng Lehman Brothers của Mỹ vào tháng 10/2007. Người ta đang tự hỏi liệu có diễn ra một kịch bản sụp đổ tương tự như thế ở Việt Nam vào thời gian này của năm sau – cuối 2014?
Thậm chí có thể sớm hơn, tức vào giữa năm 2014, khi một ngân hàng hạng trung hoặc nằm trong nhóm “G12” buộc phải tuyên bố phá sản do không thể thu hồi nợ xấu và cũng không đủ tiền để trả cho khách hàng. Và nếu sau đó có tiếp 3-4 ngân hàng không thể cầm cự, cơn động kinh nào sẽ xảy ra?
Những gì mà VAMC đang làm hiện nay chỉ có ý nghĩa như một chiến dịch “đánh bùn sang ao”. Nhà nước chỉ mua lại nợ xấu bằng trái phiếu, tức bằng giấy chứ không hề biểu trưng cho “tiền tươi thóc thật”. Nhà nước cũng không có đủ can đảm để in thêm tiền rót cho chính hệ thống ngân hàng, vì ngay lập tức lạm phát và vô số hậu quả xã hội của nó sẽ tràn ngập.
Một cái chết song trùng là hoàn toàn có thể xảy ra giữa khối con nợ và các chủ nợ, để đến lượt mình, các chủ nợ ngân hàng lại có thể kiến tạo một cuộc sụp đổ dây chuyền trong không bao lâu nữa. Khi đó, sẽ có ít nhất một phần ba số ngân hàng phải phá sản.
Khác rất nhiều với đánh giá “kinh tế Việt Nam đang có dấu hiệu phục hồi” của những tổ chức tài chính quốc tế danh giá như ngân hàng HSBC và thậm chí của cả IMF hay ADB, chưa có gì đáng gọi là “thoát đáy” dành cho nền kinh tế được mặc định bởi thuốc nhuộm “định hướng xã hội chủ nghĩa” cùng vô số nhóm lợi ích tung hoành.
Màu sắc của nền kinh tế ấy cũng vì thế đã luôn “hồng” như báo cáo của Chính phủ, nhưng lại “xám” trong con mắt Quốc hội và quá “tối” trong sâu thẳm tâm khảm của dân nghèo.
Tương lai khủng hoảng cũng vì thế lại trở nên sáng lạn hơn bao giờ hết.
THEO BBC

Chưa chịu kỷ luật thị trường, DNNN luôn thắng

Việc áp đặt đầy đủ nguyên tắc và kỷ luật thị trường đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước sẽ đưa khu vực doanh nghiệp này vào đúng quỹ đạo trong mối quan hệ Nhà nước – thị trường và doanh nghiệp.
DNNN đang áp đặt luật chơi
Trước hết, phải nhấn mạnh rằng, yêu cầu áp đặt đầy đủ nguyên tắc và kỷ luật thị trường đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ đưa ra từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, mọi chuyển biến đều rất chậm, cả trong tư duy và hành động.
Thứ nhất, quan niệm về vai trò và chức năng của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nói chung và tập đoàn, tổng công ty nhà nước nói riêng vẫn chưa thay đổi.
DNNN vẫn được sử dụng làm công cụ, là lực lượng vật chất để Nhà nước điều tiết thị trường, điều tiết nền kinh tế. Quan niệm và cách làm này không phù hợp với vai trò của Nhà nước nói chung và DNNN nói riêng trong nền kinh tế.
Nhà nước, thị trường và doanh nghiệp là ba lực lượng chính trong thể chế kinh tế thị trường. Về quan hệ ba bên nói trên, Nhà nước điều tiết doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua thị trường. Nhà nước tác động đến thị trường, thay đổi đòn bẩy khuyến khích để qua đó, tác động đến doanh nghiệp theo cơ chế thị trường thông qua giá cả và cạnh tranh thị trường.
Đối với các trường hợp mà thị trường không phát huy tác dụng, thì Nhà nước trực tiếp áp đặt các điều kiện vì lợi ích cộng đồng và trực tiếp thực hiện các biện pháp để thực thi các điều kiện đó. Bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm… là những trường hợp điển hình của quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp thuộc loại này.
Trong quan hệ giữa doanh nghiệp và thị trường, Nhà nước có trách nhiệm giám sát các doanh nghiệp độc quyền, thống lĩnh thị trường để các doanh nghiệp này không lạm dụng vị thế của mình để trục lợi, làm hại môi trường cạnh tranh.
Nói cách khác, Nhà nước không sử dụng doanh nghiệp để điều tiết thị trường, mà ngược lại, phải quản lý, giám sát và ngăn ngừa doanh nghiệp lạm dụng vị thế của mình để tác động, làm méo mó, sai lệch tín hiệu thị trường.
Như vậy, việc Nhà nước sử dụng DNNN để điều tiết thị trường là không phù hợp với nguyên tắc thị trường.
Chính vì vậy, hàng loạt nguyên tắc khác của thị trường vẫn chưa thực sự được áp dụng đối với DNNN.
Trước hết là không tuân thủ nguyên tắc “lời ăn, lỗ chịu”. Hiện nay, DNNN kinh doanh thua lỗ, không thanh toán được các khoán nợ đến hạn, nhưng không bị phá sản, tức là chưa chịu sự trừng phạt khắc nghiệt của cạnh tranh thị trường. Nhà nước, về cơ bản, vẫn đứng ra gánh chịu các khoản nợ cho doanh nghiệp dưới hình thức giãn nợ, giảm nợ, chuyển nợ cho đơn vị khác hoặc bảo lãnh nợ… Từ đó, những người có liên quan, như đại diện chủ sở hữu, người quản lý…, cũng không chịu ảnh hưởng bởi sự khắt khe và công bằng của thị trường.
Trong khi đó, Nhà nước, với tư cách là nhà đầu tư, lại không nhận phần còn lại cuối cùng (lợi nhuận) về mình, bởi lợi tức của DNNN không thành nguồn thu của ngân sách nhà nước.
Như vậy, trong hoạt động của DNNN, “lời” thì Nhà nước không lấy, lỗ thì dân chịu và những người có liên quan trực tiếp lại không phải gánh chịu trách nhiệm.
Sau nữa, DNNN không áp dụng đầy đủ giá thị trường của vốn. Cụ thể, DNNN vẫn được hưởng một số tín dụng ưu đãi, lợi tức/vốn chủ sở hữu chỉ cần một số dương tối thiểu là đủ, không buộc phải tạo ra khoản lợi tức/vốn chủ sở hữu ít nhất bằng giá vốn trên thị trường.
Nguyên do từ thể chế
Phải thẳng thắn rằng, việc DNNN chưa áp dụng đầy đủ nguyên tắc và kỷ luật thị trường một phần do những rào cản thể chế.
Về chủ trương phát triển kinh tế nhà nước, DNNN phải giữ vai trò chi phối trong các ngành, nghề quan trọng của nền kinh tế. Các tập đoàn, tổng công ty được thành lập là để hiện thực hóa chủ trương đó.
Chính vì vậy, các tập đoàn, tổng công ty ngành được tạo điều kiện để giữ độc quyền hoặc giữ vị trí thống lĩnh thị trường của ngành đó. Từ đó, phần lớn cơ hội đầu tư, kinh doanh của trong ngành bị tổng công ty, tập đoàn có liên quan chi phối. Các tập đoàn, tổng công ty loại này luôn được chọn là người “thắng cuộc”, không phải đối mặt với cạnh tranh trên thị trường.
Về cơ chế quản lý hiện hành của Nhà nước đối với khu vực doanh nghiệp này, các cơ quan nhà nước vẫn can thiệp theo phương thức hành chính, phi thị trường vào hoạt động kinh doanh và quản lý doanh nghiệp, từ quyết định đầu tư, tổ chức kinh doanh, đến lựa chọn cán bộ quản lý và tuyển dụng nhân công, tiền lương – tiền thưởng…
Ngoài ra, DNNN còn được giao thực hiện nhiệm vụ chính trị – xã hội mà không được hạch toán riêng, hạch toán đầy đủ chi phí theo giá thị trường. Các quyết định loại này cũng đang thực sự cản trở DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường; đang là lực cản lớn đối với việc phát huy tính tự chủ, năng động, sáng tạo của DNNN. Đây là một bất lợi của DNNN so với các doanh nghiệp khác.
Đặc biệt, chưa có cơ chế áp dụng đầy đủ nguyên tắc và thực tiễn quản trị tốt đối với DNNN, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, cho dù yêu cầu này đã được đặt ra. Một số bộ quy tắc về quản trị công ty hiện đại được áp dụng, như bộ quy tắc của OECD, WB hay ADB…, nhưng trên thực tế, chỉ một số tập đoàn, tổng công ty áp dụng một vài quy định của các bộ quy tắc đó.
Cần phải khẳng định, hệ thống động lực khuyến khích đối với DNNN, những người quản lý doanh nghiệp và các bên liên quan đến DNNN chỉ thay đổi, phù hợp với cơ chế thị trường khi các DNNN áp dụng đầy đủ nguyên tắc, kỷ luật thị trường và khung khổ quản trị công ty hiện đại.
Đặt đúng vị trí của DNNN
Việc áp đặt được đầy đủ các nguyên tắc và kỷ luật thị trường với khu vực DNNN cần một thời gian nữa để hoàn tất, song không thể vì thế mà các kế hoạch tái cơ cấu DNNN bị chậm lại.
Trong gian đoạn này, chúng ta vẫn có thể buộc các DNNN phải tuân thủ ngay một số trong các yêu cầu đó.
Thứ nhất, có thể yêu cầu đầy đủ ràng buộc về chi phí vốn trong đầu tư và kinh doanh của DNNN. Nhà nước phải lấy lợi nhuận với mức ít nhất bằng giá thị trường của vốn.
Thứ hai, cho phép DNNN tự chủ hơn trong cơ cấu lại vốn và tài sản trong khuôn khổ mục tiêu và các chỉ tiêu đã định…
Thứ ba, người đại diện chủ sở hữu, cán bộ quản lý phải trực tiếp chịu trách nhiệm giải trình đối với kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp gặp khó khăn, không bảo toàn và phát triển vốn, thua lỗ không thanh toán được nợ đến hạn, không trả đủ thuế cho Nhà nước…, thì người đại diện chủ sở hữu, người quản lý phải bị thay thế.
Cùng với đó, phải áp dụng một số nguyên tắc quản trị hiện đại đối với tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Đồng thời, áp dụng đầy đủ hoặc ít nhất là cải thiện đáng kể nguyên tắc công khai, minh bạch hóa thông tin và thiết lập cơ chế giám sát hữu hiệu đối với tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Quản lý theo sứ mệnh
Trong khi chưa thiết lập được cơ quan chuyên trách, độc lập thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp, thì tại từng bộ, UBND cấp tỉnh phải thành lập bộ phân chuyên trách theo dõi, giám sát và đánh giá kết quả hoạt động của DNNN trực thuộc.
Các bộ chuyên ngành, đại diện trực tiếp thực hiện các quyền chủ sở hữu nhà nước phải xác định được sứ mệnh, vai trò và chức năng cụ thể của từng tập đoàn, tổng công ty; trên cơ sở đó, xác định cụ thể các mục tiêu, kèm theo đó là các chỉ tiêu thể hiện mục tiêu (làm thước đo để đánh giá mức độ hoàn thành mục tiêu).
Mục tiêu và các chỉ tiêu đó phải thể hiện đầy đủ trong chiến lược, kế hoạch trung hạn và kế hoạch hàng năm, hàng quý của tập đoàn, tổng công ty. Kế hoạch luôn bao gồm 2 phần: kế hoạch sản xuất – kinh doanh và kế hoạch ngân sách (hay tài chính).
Cơ quan chủ sở hữu phải thiết lập hệ thống thu thập thông tin, phân tích, theo dõi, so sánh và đánh giá mức độ hoàn thành mục tiêu phát triển, mục tiêu kinh doanh của tập đoàn, tổng công ty có liên quan.
Trường hợp có sự khác biệt giữa mục tiêu và thực tế, thì phải phân tích, xác định nguyên nhân và có giải pháp can thiệp cần thiết, kể cả việc thay đổi nhân sự quản lý, nếu xét thấy cần thiết.
Nếu có cơ chế theo dõi, giám sát như trên, sẽ không có những vụ việc lớn như Vinashin và Vinalines gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế nói chung và khu vực kinh tế nhà nước nói riêng.
Đẩy nhanh việc cổ phần hóa và thoái vốn đầu tư ngoài ngành cũng là giải pháp có thể thực hiện được ở mức độ nhất định. Tuy vậy, ngoài các giải pháp cụ thể đã được kiến nghị, thì việc thay đổi quan niệm về vai trò và chức năng của cổ phần hóa, thoái vốn cũng không kém phần quan trọng.
Cổ phần hóa không phải là để Nhà nước huy động vốn, mà là giải pháp thay đổi căn bản hệ thống động lực nội sinh và tạo áp lực thị trường đầy đủ đối với DNNN, qua đó, tài sản quốc gia được quản lý và sử dụng có hiệu quả hơn, tạo thêm nhiều giá trị gia tăng hơn cho nền kinh tế.
Tương tự, việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành không phải chỉ là để cắt lỗ, giảm lỗ, mà là giải pháp sử dụng cơ chế thị trường để phân bố lại nguồn lực, làm sống lại một bộ phần nguồn lực đang “chết” trong sự quản lý của các tập đoàn, tổng công ty. Đó mới chính là thoái vốn ngoài ngành theo đúng tinh thần và nội dung của tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
TS NGUYỄN ĐÌNH CUNG
THEO BÁO ĐẦU TƯ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét