Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2013

Tiến Bộ kiểu Việt Nam & Bí mật của cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch

Hiến pháp sửa đổi là đảm bảo chính trị - pháp lý vững chắc

Trong không khí trang trọng, vinh dự và đầy trọng trách, 9 giờ 50 phút ngày 28-11-2013, Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi). Ðây là một sự kiện chính trị - pháp lý có tính lịch sử, mở ra một thời kỳ mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta. Bản Hiến pháp sửa đổi lần này là kết quả của một quá trình làm việc hết sức công phu, nghiêm túc, khoa học và thật sự dân chủ. Có lẽ trong lịch sử lập hiến của nước ta hiếm có một cuộc sinh hoạt chính trị - pháp lý nào được nhân dân trong và ngoài nước tham gia đóng góp một cách đông đảo, dân chủ, sâu rộng và thực chất như lần này. Với tinh thần lắng nghe, thấu hiểu, tiếp thu, chắt lọc tinh hoa trí tuệ từ ý kiến đóng góp của nhân dân; các cơ quan có trách nhiệm và các vị đại biểu Quốc hội đã làm việc tận tụy, tâm huyết để cuối cùng có được một bản Hiến pháp sửa đổi thông qua với sự đồng thuận rất cao. Ðiều đó chứng tỏ Hiến pháp đã phản ảnh được ý chí và nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân. Ý Ðảng lòng dân đã được thể hiện hòa quyện sâu sắc trong bản Hiến pháp. Ðó là đảm bảo chính trị - pháp lý vững chắc cho dân tộc ta, nhân dân ta và nhà nước ta vững bước tiến lên trước những thách thức mới của thời đại; là nhân tố để cho toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta đồng lòng đưa Hiến pháp vào cuộc sống; là nhân tố để nước ta vững bước vào thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển về mọi mặt và chủ động hội nhập quốc tế.

Trước hết, Hiến pháp sửa đổi đã thể chế hóa đầy đủ hơn, sâu sắc hơn quan điểm của Ðảng và nhà nước ta về đề cao chủ quyền nhân dân, phát huy dân chủ XHCN và đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Ðây là quan điểm nền tảng xuyên suốt nội dung của Hiến pháp sửa đổi, chỉ rõ nguồn gốc, bản chất, mục đích, sức mạnh của quyền lực nhà nước ta là ở nhân dân, thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Theo đó, Hiến pháp sửa đổi đã khẳng định mạnh mẽ "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân". Ngay từ lời nói đầu đã long trọng tuyên bố nhân dân Việt Nam là chủ thể "xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này", đến bổ sung đầy đủ các hình thức nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước, không chỉ bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân như trước đây mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, bằng quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp. Hiến pháp tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò đó do lịch sử giao phó, nhân dân thừa nhận và được Hiến pháp xác nhận. Ðồng thời Hiến pháp làm rõ hơn và sâu sắc hơn bản chất tiên phong, bản chất nhân dân của Ðảng và bổ sung một yêu cầu rất quan trọng của nhân dân đó là "Ðảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình". Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bao gồm tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, được Hiến pháp lần này bổ sung vai trò giám sát và phản biện xã hội đối với tổ chức và hoạt động của nhà nước. Những tư duy chính trị pháp lý mới này, xuất phát từ nhận thức sâu sắc nguyên lý tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Sức mạnh của nhà nước dựa trên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Ðó là quy luật, là giá trị quý báu để tiếp tục đưa đất nước ta phát triển cùng với thời đại.
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được đề cao, đưa lên vị trí trang trọng hàng đầu trong Hiến pháp (chương II). Ðó vừa là sự kế thừa Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh - Trưởng ban soạn thảo; vừa thể hiện nhận thức mới đầy đủ, sâu sắc hơn trong việc thể chế hóa quan điểm của Ðảng và nhà nước ta về đề cao nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Theo đó, Hiến pháp đã khẳng định nguyên tắc nhà nước "công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội"; "Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của Luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng". Ðây là những nguyên tắc căn bản nhằm đề cao trách nhiệm của nhà nước trong mối quan hệ với quyền con người, quyền công dân; phòng ngừa sự tùy tiện cắt xén, hạn chế, cho chỗ này, lấy lại ở chỗ khác từ phía các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước. Ðồng thời cũng là cơ sở pháp lý cao nhất để mọi người và công dân bảo vệ và thực hiện quyền con người và quyền công dân của mình. Trên cơ sở của các nguyên tắc căn bản này, Hiến pháp đã quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó có bổ sung một số quyền mới một cách chặt chẽ, chính xác, khả thi, phù hợp với các công ước quốc tế về nhân quyền mà nhà nước ta là thành viên.
Với quan điểm phát triển kinh tế phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa với phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, được Hiến pháp lần này thể chế hóa ở trong cùng một chương (chương III). Các quy định trong chương này mang tính khái quát, ổn định về mục tiêu, định hướng và các chính sách cơ bản ở tầm Hiến pháp làm căn cứ pháp lý cao nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ và môi trường.
Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN từ trước đây cũng như trong tình hình quốc tế mới hiện nay là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. Hiến pháp đã khẳng định bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân, là nghĩa vụ thiêng liêng, là quyền cao quý của công dân. Nhà nước có trách nhiệm củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân. Phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh để không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc, góp phần gìn giữ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.
Về đối ngoại, Hiến pháp sửa đổi long trọng tuyên bố nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Ðể tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta, Hiến pháp sửa đổi khẳng định nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức; đồng thời bổ sung thêm một nguyên tắc mới về tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Ðó là quyền lực nhà nước là thống nhất không chỉ được phân công, phối hợp mà còn có sự kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ðây là một nguyên tắc mới được bổ sung trong Cương lĩnh của Ðảng ta và Hiến pháp sửa đổi lần này đã thể chế hóa. Nguyên tắc này là cơ sở Hiến định để các cơ quan nhà nước về lập pháp, hành pháp và tư pháp phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm và thực hiện có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được nhân dân giao cho mỗi quyền; hạn chế và ngăn ngừa tình trạng lạm dụng quyền lực nhà nước, phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Ðồng thời đây còn là cơ sở pháp lý vững chắc để xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước, đảm bảo cho quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân.
Dựa trên nền tảng đó, bộ máy nhà nước trong Hiến pháp đã có những điều chỉnh để làm rõ hơn, minh bạch hơn, chức năng nhiệm vụ quyền hạn của từng cơ quan, bảo đảm sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp có hiệu lực và hiệu quả. Theo đó, Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước.
Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh.
Chính phủ được Hiến pháp chỉ rõ không chỉ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội mà còn là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Việc bổ sung vị trí và vai trò mới này của Chính phủ trong tổ chức bộ máy nhà nước vừa phản ảnh nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước, vừa chỉ rõ Chính phủ không chỉ là cơ quan chấp hành của Quốc hội nhằm tạo cho Chính phủ có đầy đủ vị thế và thẩm quyền độc lập, chịu trách nhiệm độc lập trước đất nước và nhân dân, chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội và cơ chế giám sát, phản biện của nhân dân.
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Quy định như vậy, là để thể hiện sự phân công quyền lực nhà nước một cách mạch lạc, để đề cao trách nhiệm của Tòa án trong việc thực hiện quyền tư pháp; công bằng và công lý của một quốc gia được thể hiện tập trung ở việc thực hiện quyền tư pháp bằng hoạt động xét xử của Tòa án. Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Ðồng thời theo định hướng cải cách tư pháp để đảm bảo tính độc lập trong việc thực hiện quyền tư pháp, tăng cường tranh tụng trong hoạt động xét xử; Hiến pháp đã bổ sung một số nguyên tắc nền tảng mang tính Hiến định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Ðể đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, Hiến pháp đã quy định một cách khái quát về mô hình chính quyền địa phương làm cơ sở Hiến định để Luật Tổ chức chính quyền địa phương sau này cụ thể hóa. Theo đó "Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt do Luật định". Hiến pháp quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về phân công, phân cấp giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của trung ương, đồng thời phát huy tính năng động, sáng tạo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.
Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước lần đầu tiên được thể chế hóa trong Hiến pháp nước ta với tư cách là các thiết chế Hiến định và được quy định trong một chương riêng của Hiến pháp. Ðây là xu hướng lập hiến, pháp quyền hiện đại. Việc ra đời hai thiết chế này trong Hiến pháp nước ta là tiếp tục phát huy dân chủ, thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhà nước ta do nhân dân làm chủ, tạo điều kiện và cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình trong bầu cử và trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo đó, Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công của đất nước.
Mặc dầu Hiến pháp sửa đổi lần này chưa hình thành thiết chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách để kiểm soát về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp như văn kiện của Ðảng đã đề ra, nhưng Hiến pháp đã nhấn mạnh và có những quy định rõ ràng giao cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của nhà nước và toàn thể nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp; mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý. Trên cơ sở đó, các Luật về tổ chức bộ máy nhà nước ban hành sau này sẽ có những quy định cụ thể để hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp, nhằm đảm bảo cho Hiến pháp thực sự trở thành "thần linh pháp quyền" được mọi người, mọi tổ chức, mọi cơ quan tôn trọng và bảo vệ.
So với các Hiến pháp trước đây, Hiến pháp sửa đổi lần này đã có các quy định cụ thể về hiệu lực và quy trình thủ tục làm và sửa đổi Hiến pháp; thể hiện tính chất dân chủ và pháp quyền của nhà nước ta ngày càng hoàn thiện và phát triển. Theo đó, Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất, mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Quốc hội được nhân dân giao cho thực hiện một số quyền lập hiến như thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp, thảo luận và thông qua Hiến pháp khi có 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội tán thành; quyết định việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp.
Hiến pháp sửa đổi gồm 11 chương 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992) với kỹ thuật lập hiến khoa học và có nhiều đổi mới, vừa kế thừa những nhân tố hợp lý của kỹ thuật lập hiến nước ta, nhất là của Hiến pháp năm 1946, vừa kế thừa kỹ thuật lập hiến của nhân loại. Theo đó, các quy định của Hiến pháp có phạm vi điều chỉnh và cách thức thể hiện vừa bao quát vừa đủ cụ thể, vừa khái quát lại vừa đủ chi tiết, vừa nguyên tắc lại vừa đủ độ mềm dẻo để đảm bảo xứng tầm là Hiến pháp, đủ sức chỉ đạo và giữ vị trí cao nhất làm cơ sở, làm nền tảng cho sự ra đời của toàn bộ các quy định pháp luật khác của nhà nước.
Ngày 01-01-2014, ngày có hiệu lực của Hiến pháp sắp tới, Quốc hội đã có Nghị quyết về việc thi hành Hiến pháp, trong đó đã quy định Quốc hội, Chính phủ, các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị có trách nhiệm tổ chức thi hành Hiến pháp; kịp thời triển khai các biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo Hiến pháp nhanh chóng đi vào cuộc sống. Các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các cơ quan tổ chức hữu quan khác có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong nhân dân nội dung của Hiến pháp, nâng cao tình cảm và lòng tin về Hiến pháp để hình thành ý thức tự giác tôn trọng và chấp hành Hiến pháp; bảo đảm cho Hiến pháp được tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành trong mọi tầng lớp nhân dân và trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tôi tin tưởng sâu sắc rằng, Hiến pháp sửa đổi là đảm bảo chính trị - pháp lý vững chắc để toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta đồng lòng vững bước tiến lên trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước.
NGUYỄN SINH HÙNG 
(Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban sửa đổi Hiến pháp) 

Bí mật của cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch

Nguyễn Cơ Thạch đã nói với tôi rằng Việt Nam sẽ chắc chắn gia nhập ASEAN. Tôi đã viết điều đó, nhưng năm 1986 không ai tin tôi. Tôi đã viết sớm hơn sự kiện xảy ra 9 năm.
LTS: Nhân Hội nghị Ngoại giao Việt Nam sắp diễn ra, Tuần Việt Nam xin được giới thiệu cuộc trò chuyện với nhà báo Thái Lan Kavi Chongkittavorn, người đã đưa tin về Việt Nam trong những năm tháng khó khăn của bao vây cấm vận. Kavi là người có mối quan hệ mật thiết với các lãnh đạo ngoại giao Việt Nam thời đó như Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quang Cơ, Lê Mai, hay Vũ Khoan. 
Tôi từng gặp rắc rối khi ở Việt Nam về
Hôm nay, tôi muốn bắt đầu câu chuyện bằng lời của nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ trong phần 2 hồi ký của mình với tựa đề "Ngược dòng thời gian". 
Trong đó, ông viết rằng năm 1996, 10 năm sau kết thúc nhiệm kỳ đại sứ ở Thái Lan, ông có việc quay lại Bangkok, và được anh bạn nhà báo Kavi Chongkittavorn hỏi về cảm tưởng sau những năm làm đại sứ ở Thái Lan.
Nghe giọng điệu của Trần Quang Cơ, có vẻ ông có quan hệ khá thân mật với ông Cơ, đúng không?
Đúng. Trần Quang Cơ rất hiểu biết về Thái Lan, nước trong thời gian ông làm đại sứ (1982-1986) quan hệ với Việt Nam còn đầy nghi kỵ. Ông rất muốn phóng viên trẻ như tôi hiểu rõ về Việt Nam để làm cầu nối về thông tin giữa hai nước.
Hồi đó, ông là phóng viên chuyên về Việt Nam?
Đúng vậy. Nhưng ngoài Việt Nam, tôi còn theo dõi là Lào và Căm-pu-chia. Và đó là lý do tôi là phóng viên Thái Lan đầu tiên đến thăm Việt Nam, và, sau đó, đã lập văn phòng thường trú tại Hà Nội vào 1988, sau khi tôi gặp Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch.
Thú vị đấy nhỉ. Ông gặp ông Nguyễn Cơ Thạch ở đâu?
Ở Thành phố HCM cuối năm 1986. Ông Thạch nói với tôi rằng The Nation có thể mở văn phòng tại Hà Nội. Thế là năm 1988, tôi đã vào Hà Nội làm phóng viên thường trú. Cùng với tôi, còn có các hãng Tạp chí Kinh tế Viễn Đông, Reuter và Kyodo - những hãng đầu tiên được mở văn phòng tại Hà Nội sau năm 1975. Và chúng tôi đều đóng tại số 8 Trần Hưng Đạo.

Nguyễn Cơ Thạch, ngoại giao, Thái Lan, Bangkok, Sài Gòn
Nhà báo Kavi Chongkittavorn Ảnh Hoàng Ngọc

Vậy Trần Quang Cơ là người giới thiệu ông sang Sài Gòn?
Không. Trần Quang Cơ lúc đó đã về nước (tháng 10.1986), và Lê Mai sang thay.
Lê Mai rất thích những bài viết của tôi, và ông ta đã mời tôi đến Thành Phố Hồ Chí Minh, vào cuối 1986.
Lê Mai nói: "Việc tôi mời ông, trong bối cảnh của Việt Nam bây giờ, là khá mạo hiểm, bởi ông không phải là đảng viên cộng sản, hay, ít ra, là người có tư tưởng mác xít. Nhưng tôi vẫn cứ mời ông, vì tôi muốn ông hiểu rõ hơn về Việt Nam."
Ông ta nói đúng. Bởi ở Thái Lan, lúc đó, chỉ có những người có tư tưởng mác xít và được phía Việt Nam ủng hộ, cung cấp tư liệu, mới viết bài về Việt Nam. Còn tôi là phóng viên trung lập, như số đông, nhưng lại được giao mảng Việt Nam, vì, trước đó, tôi đã viết về Hồ Chí Minh thời ở Thái Lan (1928-1929), về cái cây do ông trồng, và cả cộng đồng Việt Kiều ở đó.
Lê Mai biết ông qua Trần Quang Cơ?
Tôi không biết. Nhưng tất cả các đại sứ Việt Nam ở Bangkok đều biết tôi.
Ở Thành phố HCM ông gặp những ai?
Nhiều người lắm. Trong đó có hai nhân vật quan trọng là Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch và Tổng Thư ký Hội Nhà báo Việt Nam Phan Quang. Với Phan Quang chúng tôi đã xây dựng được mối quan hệ nghề nghiệp tốt.
Còn Nguyễn Cơ Thạch đã nói với tôi rằng Việt Nam sẽ chắc chắn gia nhập ASEAN. Tôi đã viết điều đó, nhưng năm 1986 không ai tin tôi. Tôi đã viết sớm hơn sự kiện xảy ra 9 năm.
Khi tôi trở lại Bangkok, tôi gặp rắc rối với mật vụ Thái Lan, vì họ nghi tôi là cộng sản mới được mời sang Việt Nam. Họ đã gọi tôi lên thẩm vấn.
Sau đó, khi sang Việt Nam thường trú, tôi viết rất nhiều về Việt Nam, bởi vì tôi là phóng viên đầu tiên của ASEAN ở Hà Nội, và thông tin về Việt Nam rất cần cho ASEAN để hiểu Hà Nội hơn.
Thời đó, báo Quân Đội Nhân Dân thường cho dịch những bài viết của tôi về Việt Nam.
Nguyễn Cơ Thạch, ngoại giao, Thái Lan, Bangkok, Sài Gòn
Cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch trở về từ Bangkok với mái tóc khá đen (nh Internet)
Ông ở Việt Nam đến năm nào?

Từ 1988 đến 1991. Ngoài Việt Nam, tôi hay đi công tác sang Căm-pu-chia. Thời ấy, không đi máy bay mà đi tàu hỏa vào Thành phố HCM, rồi từ đó đi xe buýt sang Phnompenh qua cửa khẩu Mộc Bài.
Tôi nhớ lúc tôi sang báo Nikkei làm năm 1994 thì không còn The Nation ở Việt Nam nữa.
Đúng rồi, khi tôi về thì The Nation đóng cửa luôn văn phòng. Bởi vì, lúc đó mối quan tâm ở Thái Lan về Việt Nam giảm xuống, và những báo ở Thái Lan đã vào Việt Nam như Bangkok Post, chẳng hạn.
"Kavi, tôi nói với anh nhiều chuyện cơ mật" 
Sau đó, ông vẫn tiếp tục theo dõi Việt Nam?
Vâng. Tôi viết tiếp đến khi Việt Nam gia nhập ASEAN.
Nhưng đến năm 1994, tôi đã tham gia vào công việc của ASEAN với tư cách là trợ lý đặc biệt của Tổng Thư ký ASEAN Ajit Singh. Và tôi là người đã ghi chép các câu  hỏi của ông Thứ trưởng Vũ Khoan, đại diện cho Việt Nam với tư cách là quan sát viên, về ASEAN.
Việt Nam quan tâm đến liệu Việt Nam gia nhập ASEAN có ảnh hưởng tiêu cực không đến mình không. Ông Vũ Khoan hỏi nhiều lắm, độ chừng 200 câu hỏi.
Ấn tượng của ông về Vũ Khoan?
Không nhiều người biết rằng trước khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã có đóng góp cho hiệp hội này.
Chả là tại cuộc gặp ở Brunei, các nước ASEAN bàn nhau về tên gọi cuộc gặp Á - Âu mà bây giờ vẫn gọi là ASEM ấy. Đầu tiên, có người định đặt là AEM (Asia Europe Meeting), nhưng những người khác đã phát hiện ra là AEM là tên gọi tắt của ASEAN Economic Meeting.
Lúc đó, Vũ Khoan mới đưa ra gợi ý là nên gọi là ASEM, tức là lấy hai chữ viết tắt của châu Á (ASia). Và mọi người đã đồng ý.
Trước đó, ông có gặp Thứ trưởng Vũ Khoan ở Việt Nam? 
Có. Nhưng tôi biết bà Hồ Thể Lan, phu nhân của ông ấy, nhiều hơn. Thời tôi ở Việt Nam, bà Lan là Vụ trưởng Vụ Báo chí, Bộ Ngoại giao, người cung cấp những ý tưởng và phiên dịch trong các cuộc phỏng vấn giúp tôi.
Những kỷ niệm khi ông làm thường trú ở Việt Nam?
Tôi còn nhớ ở Lý Thường Kiệt, chỗ cắt phố có đài phát thanh (Bà Triệu) có người bơm mực bút bi. Bây giờ không ai dùng nữa, nhưng lúc đó rất phổ biển ở Việt Nam. Đó cũng là lần đầu tiên tôi tháy người ta dùng xi lanh để bơm mực vào ruột bút.
Ông nhìn nhận Việt Nam thay đổi như thế nào sau hơn 20 năm?
Việt Nam đã có bước tiến lớn trong quá trình hội nhập. Tham gia vào ASEAN, gia nhập WTO, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, thúc đẩy quan hệ kinh tế với EU, cũng như thúc đẩy cơ chế các hợp tác của ASEAN và với bên ngoài.
Nhưng tôi nghĩ bây giờ Việt Nam phải tiếp tục tiến bước mạnh hơn nữa, bởi vì những nước chậm tiến của khu vực trước đây, như Myanmar, thậm chí là Lào, đã có những bước tiến mạnh mẽ. Việt Nam, nếu không muốn tụt lại phía sau, phải kiên quyết tiến lên phía trước.
Việt Nam có một thế hệ dân số vàng. Nhưng điều quan trọng là giáo dục họ như thế nào để họ có thể góp sức vào cải cách, vào đổi mới.
Tóm lại, trong các lãnh đạo Bộ Ngoại giao thuở đó, ông nhớ ai nhất?
Tôi nhớ tất cả. Mỗi người có đặc điểm riêng.
Đối với Trần Quang Cơ, tôi nghĩ ông ấy là một người lịch lãm, hiểu biết, và sâu sắc. Ông muốn nhìn thấy quan hệ giữa Việt Nam và Thái Lan phát triển tốt đẹp.
Đối với Lê Mai, ông nhìn thấy Thái Lan là đất nước vô cùng quan trọng đối với sự ổn định của Việt Nam và Căm-pu-chia, chính vì vậy ông làm mọi cách để Thái Lan hiểu rõ tình hình Việt Nam, trong đó có việc can đảm mời tôi vào Việt Nam cuối năm 1986. Sự hiểu biết của tôi về Việt Nam đã được hình thành từ đó.
Tôi còn thích Lê Mai vì tiếng Anh của ông rất tốt, và ông hay nói về Việt Nam trong các mối quan hệ quốc tế.
Vũ Khoan là người thực hiện việc Việt Nam gia nhập ASEAN. Ông đã làm những công việc hết sức cụ thể, khi Việt Nam còn là quan sát viên.
Nhưng, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch là người mà tôi đưa tin nhiều nhất, bởi ông dính dáng nhiều đến vấn đề Căm-pu-chia.
Câu nói thường lệ của Nguyễn Cơ Thạch khi gặp tôi: "Kavi, tôi nói với anh nhiều chuyện cơ mật. Anh chỉ được đưa tin, chứ không được trích dẫn tôi là nguồn tin đâu nhé. Nếu anh trích dẫn tôi, tôi nghe được, tôi sẽ nói là anh nói láo. Độc giả sẽ không tin anh nữa."
Ông Nguyễn Cơ Thạch có một bí mật ở Thái Lan: Mỗi lần đến Bangkok, ông đều tìm mua thuốc nhuộm tóc của Nhật, bởi vì tóc ông lúc ấy bạc nhiều. Vì vậy, rời Bangkok trở về Việt Nam, tóc ông lại đen trở lại.
(Còn nữa)
Huỳnh Phan
(Tuần VN)

Alan Phan - Tiến Bộ kiểu Việt Nam

Hôm qua, trong lúc chờ đợi khám bệnh, tôi rãnh rổi lướt Net và tình cờ đọc vài tin tức trên các báo mạng. Nói chung là nếu không sống ở Việt Nam, chúng ta sẽ có một cảm giác vô cùng lạc quan vì sự tiến bộ về mọi mặt trên bình diện chính trị, kinh tế, xã hội…của đất nước. Sau một giờ lục lọi, chúng ta không thể có kết luận nào khác là chỉ vài năm nữa thôi, Việt Nam sẽ qua mặt Singapore để dẫn đầu Á Châu về mức thu nhập, về môi trường sống, về vị thế quyền lực…để mọi người Việt cùng hãnh diện khắp năm châu.
Về cơ chế chính trị, chúng ta vừa có một bản hiến pháp mới toanh, yêu thích bởi 99% dân số và quốc hội. Chúng ta còn là hội viên quản trị gì đó của hội đồng nhân quyền của Liên Hiệp Quốc (bọn tư bản Âu Mỹ sẽ câm miệng lại về nhân quyền của Việt Nam). Về xã hội, ngoài việc đăng cai liên tục trong Top 3 của chỉ số hạnh phúc suốt 10 năm qua, người Việt còn hãnh diện với số lượng siêu xe, hàng hiệu, đại gia và chân dài. Về kinh tế, chúng ta đạt chỉ tiêu dài dài, thành tích đếm không xuể.
Hai mẫu tin tiêu biểu cho sự tiến bộ vượt bực:
Một tờ nhật báo nói về triều cường lịch sử ngày 5/12 vừa qua tại thành phố HCM. Sau những hình ảnh ngập lụt, xe sụp ổ gà…là một bầy tỏ vô cùng cảm động của một người dân. “Cách đây vài năm, mỗi lần lụt là nước tràn vào nhà ngập lên tới cổ. Bây giờ chỉ lụt có đến đầu gối.” Anh ta chỉ quên câu…nhờ ơn Bác và Đảng…như đồng chí gì vừa được minh oan sau 10 năm tù.
Trong khi đó, các cơ quan chính phủ truyền điệp rộng rãi thông tin là chỉ riêng năm nay, thu nhập GNP mỗi đầu người Việt Nam gia tăng 23%, chạm mức 2,000 USD. Tức là năm ngoái bạn thu được 10 triệu một tháng, năm rồi lương đã tăng thành 12.3 triệu. Tôi không biết có bao nhiêu bạn vừa coi lại túi tiền mình? Chỉ một chú thích nhỏ: tập đoàn Samsung năm rồi xuất khẩu hơn 20 tỷ USD, gần 15% GDP của Việt Nam. Tôi không biết họ có đem chia cho 90 triệu dân theo tinh thần XHCN; nhưng nghe nói họ chỉ đóng thuế có 50 triệu USD.
Thực ra đây chỉ là một chiêu PR nhằm vào các nhà đầu tư quốc tế. Tiếc là không hãng truyền thông nước ngoài nào loan báo cho nhân loại mừng. Vì đây là một kỷ lục mới của niên đại công nghệ số.
Trong khi đó thì các báo mạng lề phải chỉ lướt qua mà không cho chúng ta biết về những tiến bộ khác, như tỷ lệ tội phạm, như số lượng hoá chất độc hại nhập từ Trung Quốc, như số bệnh nhân u bứu ung thư trên toàn quốc, như chỉ số hàng ngày về ô nhiễm cùa không khí và nước, như con số thất thoát về lãng phí và tham ô của các doanh nghiệp nhà nước…
Thôi Tết cũng sắp về. Chúng ta lại có một cơ hội khác để hy vọng và mơ mộng về một tương lai rực rỡ đang chờ đón quê hương. Mong chúng sẽ sống lâu hơn những nhánh hoa mai đang khoe sắc cùng vạn vật để rồi sửa soạn héo tàn chỉ trong vài tuần.
  Alan Phan
  (Blog Góc nhìn Alan ) 
 

Thưởng Tết ngân hàng, ‘ăn mày dĩ vãng’

Một năm xáo trộn với ngành ngân hàng khi phải cắt giảm số lượng lớn nhân viên, chi phí. Nhắc đến chuyện thưởng Tết năm nay, nhiều nhân viên nhà băng không muốn bàn đến mà chỉ hoài niệm về mức thưởng hoành tráng của 3-4 năm về trước.
Mơ về thời hoàng kim
Hàng năm, thưởng Tết của ngành ngân hàng luôn bị soi rất kỹ vì thường ở mức cao. Tuy vậy năm nay, hầu hết nhân viên nhân hàng đã không còn hào hứng về chuyện thưởng tết như mấy năm trước. Cách đây khoảng 2 năm, cứ cuối tháng 11, họ đã rục rịch nghe đến chuyện thưởng tết. Nhưng hiện đã bước sang tháng 12, tất cả các ngân hàng đều im lặng về việc này.
Theo chị Nguyễn Kim Ngọc, nhân viên một ngân hàng lớn trên địa bàn TP.HCM, năm 2010 chị được thưởng tết cả trăm triệu đồng. Năm ngoái, con số này bằng bốn tháng lương cộng lại. Sang 2013 thì thưởng tết trở nên xa xỉ. Chỉ chỉ mong có thưởng tết là vui rồi chứ không quan tâm đến mức thưởng nữa.
Cũng trong tâm trạng đó, anh Lê Hữu Công, nhân viên tín dụng một ngân hàng TMCP ở quận 7 nói rằng, những năm trước, anh từng được thưởng tết với số tiền cao nhất ngất ngưởng lên đến 12 tháng lương. Tuy nhiên, lợi nhuận của ngân hàng năm nay không mấy khả quan thì con số đó là ngoài tầm với.
Vì vậy, anh chẳng còn tâm trạng háo hức nữa. “Tất cả các ngân hàng đều đang trong thời suy thoái, làm ăn khó khăn, ngân hàng tôi cũng vậy. Chỉ hy vọng năm nay sẽ có thưởng, bao nhiêu cũng được, để lấy không khí tết là vui rồi”.
Chị Đặng Thị Thảo Nguyên - giao dịch viên chi nhánh ngân hàng cổ phần ở quận Bình Thạnh, tiết lộ năm nay, nhân viên ngân hàng hầu hết đều bị giảm lương và chị cũng không ngoại lệ. Ngân hàng chị làm không lớn nên lương cũng không cao bằng những nơi khác. Do đó, từ ngày lương bị hạ thì cuộc sống càng chật vật hơn. Khi hỏi về tiền thưởng tết, chị buồn bã: “Chỉ được thưởng chừng một tháng lương là may mắn lắm rồi”.
Thậm chí, anh Quang Định, làm việc tại một ngân hàng có nhiều biến động trong năm qua, chia sẻ rất nhiều nhân viên đã bị sa thải, lương sụt giảm. Anh may mắn là vẫn còn được giữ lại. “Các đồng nghiệp khác cũng chỉ nhắc đến những mức thưởng tết từ 3 năm trước để an ủi. Hi vọng tình trạng khó khăn của ngân hàng sớm qua. Riêng năm nay, tôi chỉ mong không bị sa thải chứ nói gì đến thưởng tết”, anh Định ngậm ngùi.
Vẫn trên đà tiết giảm chi phí
Suốt 2 năm nay để giảm thiểu tối đa chi phí hoạt động, nhiều ngân hàng đã cắt giảm nhân sự, đóng bớt chi nhánh. Đặc biệt với 2013, khi tăng trưởng tín dụng thê thảm thì lương thưởng cũng được nhìn nhận dưới gam màu u ám hơn.
Thưởng-tết, tết-nguyên-đán, nhân-viên-ngân-hàng, lương-thưởng, kết-quả-kinh-doanh, tăng-trưởng-tín-dụng, lợi-nhuận
Lương giảm, nhân viên ngân hàng không dám mơ thưởng Tết cao (ảnh minh họa)
Hiện nhiều lãnh đạo ngân hàng cũng chưa bàn nhiều về việc thưởng Tết mà vẫn trong chủ trương tiết giảm tối đa chi phí. Cả hơn một năm nay, hầu hết các ngân hàng đều xoay quanh việc điều chỉnh cắt giảm nhân sự. Điều dễ nhận thấy nhất là lương nhân viên cũng giảm liên tục từ năm 2011 tới nay, nhất là 2013 khi tình hình tín dụng bi đát hơn các năm trước.
Những ngân hàng nằm trong Top trên, như Eximbank, cũng phải xây dựng kế hoạch này khi đã cắt giảm 25-30% lương từ cấp lãnh đạo trở xuống. ACB năm nay không giảm nhiều, nhưng trước đó cũng chủ động cắt 25% lương cán bộ khi ngân hàng gặp khủng hoảng vào tháng 8/2012. Ở một số nhà băng khác, việc sa thải nhân viên và cắt giảm lương, thưởng cũng được thực hiện một cách mạnh mẽ để giảm chi phí.
Như vậy, trong quá trình cắt giảm chi phí thì khoản thưởng tết cuối năm cũng được các ngân hàng cân nhắc kỹ lưỡng. Chẳng hạn, tại Eximbank, giai đoạn 2009-2011, khi hoạt động tín dụng tăng trưởng cao, lợi nhuận vượt chỉ tiêu, nhân viên nhà băng này có mức thưởng tết bình quân từ 4 - 5 tháng thu nhập, thậm chí còn cao hơn cho các cấp trưởng phòng. Nay thì chế độ thưởng giảm nhiều do tín dụng không tăng, lợi nhuận sụt giảm. Mới đây, bà Đinh Thị Thu Thảo, Phó tổng giám đốc Eximbank, cho hay theo quy định, mỗi cán bộ ngân hàng này sẽ được công đoàn thưởng Tết nguyên đán 1,2 triệu đồng (ngoại trừ tháng lương thứ 13).
“Ngoài mức thưởng cố định trên, phần thưởng thêm tùy thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh. Song, năm nay, lợi nhuận ngân hàng chỉ ước đạt 50% chỉ tiêu nên nhiều khả năng thưởng tết sẽ khó tránh chuyện sụt giảm”, bà Thảo nói.
Nhiều ngân hàng khác cũng đang cân nhắc chuyện thưởng Tết cho nhân viên. Mặc dù chưa tiết lộ kế hoạch cụ thể về thưởng Tết nguyên đán năm nay, nhưng theo ông Nguyễn Thanh Toại, Phó tổng giám đốc ACB, nếu hoàn thành chỉ tiêu lợi nhuận năm nay thì cán bộ nhân viên sẽ nhận được mức thưởng tết 1-2 tháng lương. Tuy nhiên, điều đó còn phụ thuộc vào kết quả kinh doanh trong quý IV..
Nam Phong
(VNN)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét