Đôi dòng về tác giả.
Lê Văn Bỉnh, cựu sinh viên Đốc sự khóa 10, Cao Hoc 2 Ban Kinh Tế Tài Chánh, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Saigon.
Du học Hoa Kỳ (1972-74), xong M.A. (Economics). Về nước, phục vụ tại
Khu Chế Xuất Saigon và dạy học tại Đại Học Kinh Thương, Đại Học Cửu Long
v.v.
Ông là
tác giả một số bài viết kinh tế giá trị đã đăng trên các báo Việt ngữ
và điện tử hải ngoại. Dưới đây là một bài viết công phu của ông về tài chánh Hoa Kỳ.
Trọng Đạt
———————————–
Trong
một bức thư gửi cho một người bạn, vị Bộ Trưởng Ngân Khố đầu tiên của
Hoa Kỳ Alexander Hamilton (hình trên tờ giấy bạc $10), đã viết:
Quốc trái, nếu không dư thừa, sẽ là quốc phúc đối với chúng ta. Nó
sẽ là một chất xi măng có tác dụng mạnh mẽ gắn chặt Liên Hiệp của chúng
ta lại. Nó còn đưa đến sự cần thiết duy trì thuế khóa tới mức độ nào
đó, nếu không bị áp chế, sẽ là một kích thích cho nền kinh tế.
Hamilton
đã viết những lời trần tình trên vào năm 1780, tức trên hai trăm ba
mươi năm về trước, để giải thích vì sao quốc gia tân lập này cần huy
động quốc trái để trả dứt nợ mà một số tiểu bang còn mắc trong cuộc
chiến tranh giành độc lập từ nước Anh. Quan điểm của ông đã thắng thế
thời bấy giờ. Và quốc trái Hoa Kỳ hình thành từ đấy.
Nhiều
người khi biện minh cho việc chính phủ vay nợ, đã cố tình bỏ đi mấy chữ
“if it is not excessive” trong câu “A national debt, if it is not
excessive, will be to us a national blessing.”
Có
lẽ chỉ vì Hamilton đã không cho biết đến mức độ nào thì nợ bị gọi là
“dư thừa”, cho nên vấn đề quốc trái đã không ngừng được bàn cãi trong
những thập niên vừa qua khi mức nợ cứ lần lần lên cao, và “nổ tung” ra
từ giữa năm 2011 khi cần phải quyết định xem đến đâu thì được xem là mức
nợ không được phép vượt qua (debt ceiling). Báo chí của cộng đồng người
Việt hải ngoại bỗng dưng cũng bị hai “chữ lạ” xâm nhập. Đó là “Nợ
trần”! Nếu dịch là “trần nợ” theo nguyên văn và đúng ngữ pháp, thì may
ra người đọc còn có thể tưởng tượng để mà hiểu được!
Chữ quốc trái trong
bài này dùng để dịch chữ national debt. Nếu đề cập đến Hoa Kỳ mà thôi,
nó cũng dùng để chỉ nợ liên bang (federal debt) mà chính phủ liên bang
Hoa Kỳ vay mượn từ các nguồn trong và ngoài nước.
Thật
ra đã từ lâu các nhà lãnh đạo trên thế giới đã sử dụng quốc trái để tài
trợ những chi phí cần thiết. Đế quốc La Mã, đế quốc Anh v.v. không
những chỉ được xây dựng trên xương máu của binh sĩ, mà còn trên nợ nần
để mua sắm vũ khí, tàu bè, quân trang, quân dụng. Và từ năm 1936, khi
học thuyết của kinh tế gia John Meynard Keynes ra đời thống ngự chính
sách kinh tế của hầu hết các nước Tây phương nhiều thập niên sau đó, thì
vay mượn trở thành “chuyện thường ngày”. Không phải chỉ khi có chiến
tranh lớn, chính quyền mới vay mượn nợ; mà trong thời bình, mỗi khi thấy
cần thiết, chính quyền cũng vay mượn nợ như một công cụ cho chính sách
kinh tế tài chánh. Thậm chí nhiều chính quyền còn vay mượn nợ để tài trợ
cho những chương trình được xem là dân sinh để nhằm duy trì hay củng cố
quyền lợi của cá nhân hay đảng phái của mình.
Song
song với cuộc khủng hoảng nợ nần của chính phủ liên bang Hoa Kỳ, người
ta cũng đang chứng kiến cảnh bên kia bờ Đại Tây Dương, nhiều nước châu
Âu trong Châu Âu Thống Nhất lâm vào cảnh nợ nần chồng chất. Bắt đầu từ
Hy Lạp, rồi đến Ý, đến Tây Ban Nha v.v., vấn đề quốc trái đang đe dọa
nền tiền tệ của khu vực sử dụng đồng euro. Ban đầu nhiều người nghĩ nếu
không có sự ra tay của “hiệp sĩ” Đức dưới một hình thức nào đó, thậm
chí của “hảo hớn” Bắc Kinh mà ngũ tạng kinh tế cũng đang có vấn đề, thì
tổ chức bên kia bờ Đại Tây Dương này, vốn đã được dày công thành lập với
tham vọng đối kháng với sức mạnh kinh tế Hoa Kỳ, sẽ trở về giấc mơ
nguyên thủy. Nhưng sau hội nghị thượng đỉnh European Leaders ngày
26/10/11 vừa qua, thì tình hình tài chánh của châu Âu đã bớt khẩn trương
và các vấn đề sẽ được giải quyết theo hướng mà hội nghị đã vạch ra, tuy
chi tiết thi hành cũng sẽ gây xích mích ít nhiều giữa các nước trong tổ
chức, nhất là giữa Pháp và Đức.
Một chút lý thuyết
Để
tài trợ công chi, chính phủ thường sử dụng 2 biện pháp chính: thuế và
vay mượn. Tại Hoa Kỳ, cả hai đều phải có sự chấp thuận của Quốc Hội:
thuế thường được biểu quyết riêng biệt và vay mượn thường được thông qua
khi biểu quyết ngân sách. Lệ phí cũng giúp khá nhiều cho số thu[1],
do các cơ quan hành chánh quyết định. Ngân sách hằng năm của liên bang
mang tên niên lịch năm sắp tới, bắt đầu vào ngày 1 tháng 10 của niên
lịch năm nay và chấm dứt vào ngày 30/9 niên lịch sau. Thí dụ Ngân Sách
2012 bắt đầu ngày 1/10/2011 (đã được soạn thảo xong và chuyển sang quốc
hội vào tháng Hai năm 2011 để Quốc Hội thảo luận và biểu quyết) và sẽ
chấm dứt ngày 30/09/12.
Lý
tưởng là số dự thu bằng số dự chi. Đôi khi nền kinh tế bỗng nhiên phồn
thịnh hơn dự tính, thì số thực thu có thể vượt quá số dự thu, nhờ căn
bản thuế tăng lên, trong khi thuế suất vẫn không thay đổi. Khi số thực
thu nhỏ hơn số thực chi thì xảy ra khiếm hụt ngân sách (budget deficit). Và khi số thực thu lớn hơn số thực chi thì là thặng dư ngân sách (budget surplus).
Khi
số thu (revenues) nhỏ hơn số chi (outlays), thì ý nghĩ đầu tiên là phải
tìm cách nâng số thu lên, bằng cách tăng thuế suất các loại thuế hiện
hành hoặc đặt ra các loại thuế mới. Giải pháp tăng thuế suất có thể đưa
đến việc trốn thuế (tax evasion), tức người bị đánh thuế sẽ không khai
thuế, hoặc khai gian, mặc dầu biết đó là phạm pháp; hoặc họ tìm mọi cách
để tránh thuế (tax avoidance) nếu có thể được, chẳng hạn không đi làm
thêm nếu là cá nhân, hay tân tạo, sửa chửa máy móc dụng cụ theo luật
định, mặc dầu không cần thiết, nếu là cơ sở thương mại. Cả hai hành vi
trốn thuế và tránh thuế, nếu ở mức độ cao sẽ đưa đến thất thu cho ngân
sách. Ngoài ra, cả hai giải pháp tăng thuế hay ra thuế mới không phải dễ
thực hiện, vì dễ đưa đến hậu quả chính trị không hay cho những nhân vật
đề nghị, hay bỏ phiếu.
Một câu hỏi tự nhiên khác cũng được đặt ra: Tại sao khi dự trù ngân sách lại không bớt số
dự chi để cho nó cân bằng với số dự thu? Thông thường vị Tổng Thống
đương nhiệm, muốn chứng tỏ mình làm được việc, thường có khuynh hướng
thêm chương trình này, dự án nọ v.v. dĩ nhiên đưa đến tốn kém hơn dưới
thời người tiền nhiệm, hay ngay cả dưới tài khóa trước; hoặc để cứu nguy
cho tình thế kinh tế suy thoái, thì lại tốn kém nhiều hơn. Dự trù chi
thêm, nhưng lại không dám dự trù tăng thuế, nhất là phải tăng nhiều cho
cân bằng. Khi thảo luận, các vị dân cử –nhất là các vị thuộc đảng đối
lập — có thể đề nghị cắt bớt các khoản chi; nhưng thường thì chẳng mấy
ai dám đề nghị tăng thuế, nhất là tăng thuế đụng chạm đến quyền lợi của
cử tri, đặc biệt cử tri đã từng ủng hộ, hay có thể sẽ còn ủng hộ mình.
Vai trò của các tay vận động hành lang (lobbyists) sẽ trở nên rất lợi
hại đối với các công ty, các ngành nghề lớn (xe hơi, xăng dầu, nông
nghiệp vv.)
Khi
Quốc Hội thảo luận cắt bỏ một số loại thuế, nhất là khi giảm thuế suất
cho các loại thuế hiện hành –đặc biệt thuế lương bỗng (payroll tax) và
thuế lợi tức (income tax), dư luận thường lên án là cắt giảm thuế chỉ
“giúp cho người giàu trở thành giàu thêm”. Câu chuyện này đã xảy ra từ
thời Tổng Thống Reagan. Tái diễn ra dưới thời Tổng Thống G.W.Bush, lúc
nền kinh tế Hoa Kỳ đã dấu hiệu suy thoái trước khi ông bước vào Tòa Bạch
Ốc, chứ không cần phải đợi đến biến cố lịch sử 9-11-2001. Có phải thực
sự Đảng Cộng Hòa đã hai lần hành động vô lý và “điên rồ” hay không?
Vì
chủ trương giảm thuế suất để tăng thu cho ngân sách là một chủ trương
tương đối mới, chỉ phổ biến từ đầu thập niên 1970, cho nên xin bàn thêm
một chút. Thật vậy, từ khi phương pháp sản xuất hằng loạt (mass
production) được áp dụng rộng rãi ở Hoa Kỳ và nhiều nước khác trên thế
giới, lý thuyết kinh tế dựa chủ yếu trênsố cầu tổng gộp (aggregate
demand): muốn kinh tế tăng trưởng cần phải nâng cao số cầu tổng gộp,
tức cầu của những người tiêu thụ (consumption), cộng với cầu của những
nhà đầu tư (investment) và cầu của chính phủ (government), tức (C + I +
G) như thường viết vắn tắt. Theo Keynes, cung cầu không thể tự điều
chỉnh; do đó muốn giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp, thì chính quyền cần ảnh
hưởng đến cầu tổng gộp qua chính sách tài chính, tức tăng công chi. Theo
lý luận này, thì một đô la chính phủ chi ra sẽ làm cho tổng sản lượng
quốc gia tăng thêm nhiều hơn một đô la theo tác dụng số nhân (multiplier effect), và càng lớn hơn khi
càng qua tay nhiều người hơn. Nói chung, cầu tổng gộp tăng kéo cung
tổng gộp (hàng hóa và dịch vụ) tăng theo, làm cho kinh tế lớn mạnh thêm,
và chính quyền sẽ thu nhiều được thuế hơn. Năm 1971, sau khi quyết định
tách đồng đô la ra khỏi kim bản vị (tức không thể đổi đồng đô la để lấy
vàng như trước đó), Tổng Thống Nixon tuyên bố: “Giờ đây tôi cũng là một
người theo chủ nghĩa Keynes trong kinh tế học” (I am now a Keysian in
economics).
Sang đầu thập niên 1970, một số kinh tế gia thuộc trường phái “kinh tế dựa trên phía cung” (supply side economics, trong đó có Arthur B. Laffer[2],
sau trở nên một thành viên của Economic Policy Advisory Board của Tổng
Thống Reagan 1981-89), lý luận rằng việc giảm thuế suất không những
không bớt mà còn tăng tổng số thu cho ngân sách nữa. Nếu tổng số thuế
thu là tích số của thuế suất và căn bản thuế (tax base), như công thức
dưới đây:
Tổng số thuế thu = (thuế suất) X (căn bản thuế),
thì
khi giảm thuế suất đến một mức nào đó, căn bản thuế sẽ mở rộng ra, và
chính phủ sẽ thu thuế vào nhiều hơn. Theo một nghiên cứu, khi thuế suất
lên cao đến 70%, như trường hợp Thụy Điển năm 1969, chính quyền giảm
thuế suất, thì tổng số thu đã tăng lên. Cơ sở cho lý luận của lý thuyết
“kinh tế dựa trên phía cung” là: Giảm thuế suất sẽ khuyến khích và thúc
đẩy người ta hăng hái làm việc hơn: người lao động cung cấp thêm sức
lao động để làm thêm giờ, thêm jobs; các nhà sản xuất cung cấp thêm hàng
hóa dịch vụ, các nhà tư bản cung cấp thêm vốn để đầu tư vv. Và Chú Sam
sẽ có thêm tiền thuế bỏ vào túi, nhiều hơn khi không giảm thuế suất.
Một
thí dụ giản dị: Giả sử có 10.000 người đang thất nghiệp, và mỗi người
hưỏng trợ cấp thất nghiệp 1.300 đô la/tháng. Nếu có jobs mở ra cho họ,
trung bình 2.000/tháng và thuế suất là 20%; như vậy khi đi làm, họ sẽ
lãnh 1.600 đô la/tháng, không hơn trợ cấp thất nghiệp bao nhiêu và chưa
chắc họ muốn đi làm ngay. Bây giờ, nếu giảm thuế bằng cách hạ thuế suất
xuống chỉ còn 10%, nếu đi làm mỗi người sẽ lãnh 1.800 đô la/tháng. Họ có
thể suy nghĩ lại. Nếu tất cả đều đi làm, thuế chính phủ sẽ thu: 2.000 x
10% x 10.000 = 2.000.000 đôla/tháng. Đó là chưa kể đến số tiền tiêt
kiệm lớn vì không còn phải trả cho trợ cấp thất nghiệp: 13.000.000
đôla/tháng.
Ứng
cử viên Tổng Thống Ronald Reagan đã đưa ra chương trình giảm khiếm hụt
ngân sách và nợ nần liên bang như một trong những chủ đề tranh cử. Thắng
cử vẻ vang, ngày 20/1/81, ông tuyên bố như sau về chuyện nợ nần trong
bài diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ đầu tiên:
“Đồng
bào và tôi, với tư cách cá nhân, có thể sống quá phương tiện của chúng
ta bằng cách vay mượn, nhưng chỉ trong một thời gian hạn định mà thôi.
Vậy thì, nói chung như một quốc gia, chúng ta có nên nghĩ rằng chúng ta
không bị ràng buộc bởi cùng cái giới hạn đó hay chăng? Chúng ta phải
hành động ngay bây giờ để duy trì mai hậu. Và đừng để hiểu lầm. Chúng ta
sẽ bắt đầu hành động, bắt đầu ngay hôm nay.”
Ông lại còn quả quyết: “Chính quyền không là một giải đáp cho vấn đề; chính quyền mới chính là vấn đề.” Ông
đã thành công trong việc thuyết phục quốc hội chịu giảm thuế suất lợi
tức (từ 70%, xuống còn 50% năm 1984, rồi chỉ còn 33%; rồi với cuộc cải
cách thuế khóa năm 1986, thuế lợi tức chỉ còn 2 thuế suất 28% và 15%
khi ông mãn nhiệm kỳ 2). Ông cũng tận lực cắt giảm tổng công chi của
chính phủ liên bang, từ 23,5% TSLQG năm 1983 xuống cò 21,2% năm 1989.
Chỉ riêng trong lãnh vực quốc phòng, ông cũng làm cho các vị dân cử bùi
tai thông qua kế hoạch tốn kém “Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao” (Star War),
lôi cuốn Liên Xô phiêu lưu vào cuộc thi đua võ trang, và cuối cùng tan
rã, chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh không một phát súng như chúng ta đã
biết. Và kết quả sau 2 nhiệm kỳ là: khiếm hụt từ 73.845 tỷ (tài khóa
1981) 152.481 tỷ (tài khóa 1989), và nợ liên bang cùng thời đã tăng
theo, từ 909.050 triệu tỷ lên 3.206.564 triệu, tức trên 3,2 ngàn-tỷ (3.2
trillion). Nói cách khác, nợ nần tính bằng ngàn-tỷ bắt đầu từ thời
Reagan![3]
Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh ở đây: Khiếm
hụt ngân sách và quốc trái không phải là các tiêu chuẩn để đánh giá
hiệu quả của chính sách kinh tế, vì các mục tiêu chính của chính sách
kinh tế là chống lạm phát, tạo công việc làm, tăng lợi tức cho dân
chúng. Thật vậy, dưới thời Reagan, ngân sách năm nào cũng khiếm hụt
– năm ít hơn, năm nhiều hơn – và quốc trái mỗi năm đều tăng về số
lượng, cũng như về tỷ lệ so với tổng sản lượng quốc gia (Quốc
Trái/TSLQG)[4],
nhưng nhờ chính sách cắt giảm thuế và chủ rrương tháo gỡ các ràng buộc
(deregulation, chẳng hạn không còn qui định giá cả, lệ phí, không hạn
chế địa lý hoạt động của các ngân hàng v.v.) mà nền kinh tế Hoa Kỳ bành
trướng thêm ra hơn 30% trong thời kỳ 7 năm hồi phục. Chỉ riêng năm 1984,
mức tăng trưởng kinh tế lên con số kỷ lục 6,8%. Về phương diện nhân
dụng, đã có thêm 20 triệu công việc làm; tỷ lệ thất nghiệp giảm dần, chỉ
còn 5,3% vào năm 1989. Tỷ lệ lạm phát năm 1980 (trước khi Reagan nhậm
chức) xuống phân nửa, tức chỉ còn 6,2% vào năm 1982; rồi lại xuống thêm
phân nửa vào năm sau đó, tức 3,2%, nghĩa là gần đạt mức lý tưởng 3% mà
các kinh tế gia xem là lúc nền kinh tế toàn dụng. Cũng dưới thời Reagan,
lợi tức khả dụng thực (real per capita disposable income, tức
lợi tức khả dụng sau khi điều chỉnh lạm phát) đã tăng lên 18%, khiến cho
mức sống của dân chúng được nâng cao nhiều.
Lúc
đầu, nhiều kinh tế gia không mấy tin tưởng vào hiệu quả của nguyên tắc
giảm thuế theo lý thuyết kinh tế dựa trên phía cung. Nhưng về sau, khi
nó phát huy đầy đủ tác dụng thì kết quả rất khả quan. Thực vậy trong tài
khóa 1986, khiếm hụt ngân sách lên đến con số kỷ lục: 221 tỷ. Nhưng
trong 3 tài khóa kế tiếp sau đó, thì khiếm hụt chỉ còn 149,8 tỷ; 155,2
tỷ và 152,5 tỷ. Một vài tác giả còn dành công lao cho lý thuyết này khi
kể đến sự ra đời và phát triển của các đại công ty như Microsoft, Intel,
Wal Mart v.v.
Trên đây là lời giải thích rất đơn sơ cho biết vì sao những chính quyền sau đó vẫn còn chuộng các biện pháp giảm thuế.
Khiếm hụt Ngân sách và quốc trái
Khi
ngân sách khiếm hụt, thì chính quyền đi vay nợ để tài trợ các khoản
chi, nếu không thể thu thuế đủ để trang trải. Nhìn lại lịch sử của Hoa
Kỳ trong một trăm năm vừa qua, chúng ta thấy rằng không phải đợi đến khi
có chiến tranh, thì ngân sách mới thâm thủng; mà ngay trong thời bình
chính phủ cũng phải vay mượn, tuy thường ít hơn.
Thật
vậy từ tài khóa 1909 đến 1917, tỷ lệ quốc trái so với tổng sản lượng
quốc gia (TSLQG) chỉ trong khoảng 2% – 3%. Mười tài khóa thời bình
(1930-1940) do ảnh hưởng của cuộc Đại Suy Thoái Kinh Tế (Great
Depression), tỷ lệ này lên từ 17,90% lên 50,85%. Các biện pháp can
thiệp khá thành công của nhà nước dưới thời Tổng Thống Franklin D.
Roosevelt (1933-1945) vào lãnh vực kinh tế tài chánh, cùng sự ra đời của
học thuyết Keynes về vai trò tích cực của chính quyền trong việc giải
quyết thất nghiệp như đã đề cập là một bước ngoặc quan trọng giúp chính
quyền càng ngày càng thêm bạo dạn trong việc sử dụng nợ nần trong thời
bình.
Thế
Chiến Thứ Hai là một biến cố gây tốn hao nhất trong lịch sử Hoa Kỳ so
với tất cả những biến cố trước đó: Tài khóa 1946, ngân sách khiếm hụt
17.389 triệu, đưa quốc trái tích lũy lên mức 269.422 triệu, tức 129,98%
TSLQG. Nhưng trong sáu tài khóa kế tiếp, ngân sách đều thặng dư, nợ
được trả dần; quốc trái chỉ còn bằng 74% TSLQG (1952).
Từ
đó đến năm 1997, ngoại trừ một năm thặng dư (1960), ngân sách liên bang
đều khiếm hụt, nhưng tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG lại giảm dần (phần lớn nhờ
TSLQG tăng nhanh), thấp nhất là 33,84% (1981), rồi
lại tăng lên. Cuối nhiệm kỳ của Reagan (1989), tỷ lệ này là 54,68%. Và
cứ thế mà tăng. Đến nhiệm kỳ 2 của Bill Clinton, thì có bước ngoặc rất
lịch sử: liên tiếp 4 tài khoá (1998, 1999, 2000 và 2001), ngân sách đều
thặng dư. Được như thế, một mặt, là do giảm chi:
trung bình mỗi năm chi tiêu thực (đã điều chỉnh lạm phát) chỉ tăng 1,5%
TSLQG (so với 5% dưới thời Lyndon Johnson và George W. Bush) nhờ chi
phí quốc phòng sau khi Bức Tường Bá Linh đổ xuống chỉ còn chiếm 3% TSLQG
(so với 10% trong 3-4 thập kỷ trước đó) . Mặt khác, cũng nhờ tăng thu,
chẳng hạn, tăng thuế suất áp dụng cho nhóm lợi tức cao nhất lên đến mức
39.6% (Bush hứa “read my lips” không có thuế mới “no new taxes” nhưng
đã tăng thuế suất này từ 28% lên 31%, và tạo nhiều bất lợi chính trị khi
ông tái tranh cử dù đã tạo chiến thắng quân sự huy hoàng ở Vùng Vịnh),
tiền hưu an sinh xã hội (social security benefits) cũng bị thuế. Tóm
lại, do giảm chi và nhờ bội thu do kinh tế tăng trưởng, tỷ lệ Quốc
Trái/TSLQG thấp xuống: lần lượt là 62,60%; 60,50%; 57,30% và 59,20%.
Đến đây, những chuyên viên kinh tế, tài chánh, ngân hàng, ngân sách tỏ
ra vô cùng phấn khởi, hy vọng là nếu tiếp tục giữ cơ cấu thuế và hạn chế
chi tiêu như thế này thì đến năm 2013, chính phủ Mỹ sẽ trang trải hết
nợ nần.
Nhưng
đó chỉ còn là một giấc mơ lớn! Như đã thấy, trong trên 50 năm, từ 1949
đến 2001, Hoa Kỳ chỉ có 10 tài khóa ngân sách thặng dư, thì trong 50 năm
tới, con số tài khóa thặng dư chắc chắn sẽ còn ít hơn. Và giấc mộng trả
dứt nợ nần không thể nào thành sự thật được.
Thật
vậy, năm 2001, sau khi Tổng Thống G.W. Bush được bầu vào Tòa Bạch Ốc,
thì nhiều biến cố lớn xảy ra: vụ không tặc tấn công New York và
Washington DC làm kinh tế trì trệ, hai cuộc chiến Afghanistan và Iraq vô
cùng tốn kém. .
Như
đã nói trên, phấn khởi vì 4 tài khóa thặng dư trong nhiệm kỳ hai của
Tổng Thống Clinton, nhiều chuyên viên đề nghị tỷ lệ Khiếm Hụt/TSLQG
không được vượt quá 1%. Nhưng khi Tổng Thống G.W. Bush bước vào Nhà
Trắng năm 2001, thì kinh tế có đã dấu hiệu suy thoái rồi. Để chống suy
thoái, ông tạm cắt giảm thuế trong một thời gian Trước hết, là thuế lương bỗng và thuế lợi tức cá nhân. Sở
dĩ thuế suất của 2 loại thuế này đưọc sử dụng thường xuyên vì nó không
những là một công cụ tài chánh hữu hiệu dễ đem lại nguồn thu lớn nhất
cho chính quyền liên bang mà còn phản ảnh khá rõ ràng lập trrường chính
trị của đảng cầm quyền. Thí dụ, individual income tax & tax withholding trong 2 tài khóa 2004 và 2005 chiếm trên 80% ngân sách dự trù[5]. Bush
giảm tỷ lệ 39,6% cho nhóm cao nhất thời Clinton, xuống còn 35% (rất
thấp so với tỷ lệ 94% thời Thế Chiến Hai, hay 90% thời Tổng Thống
Eisenhower 1963-61); và cho nhóm thấp nhất từ 15% xuống còn 10%. Năm
2003, thuế suất đánh trên thắng lợi tư bản (capital gains tax rate) và
thuế suất thuế lợi tức đánh trên tiền lời cổ phiếu công ty (income tax
rate on corporate dividents) được giảm hơn phân nửa. Năm sau đó, Đạo
Luật American Jobs Creation Act lại giảm thuế lợi tức cho các công ty
Hoa Kỳ kinh doanh ở nước ngoài.
Nhưng
với những phương cách giảm thuế suất đó, tổng số thu không tăng lên
nhanh như dự trù, mà trái lại còn sụt xuống nhiều — chủ yếu do ảnh hưởng
biến cố 11/9/2001– từ 20,9% GNP trong tài khóa 2000 xuống còn 16,3% GNP
trong tài khóa 2004. Chỉ riêng trong tài khóa này, quốc trái lên đến
413 tỷ. Tuy nhiên, trong 3 năm kế tiếp, sau khi các biện pháp cắt giảm
thuế nói trên được áp dụng và phát huy tác dụng, thì nền kinh tế cải
tiến phục hồi khả quan: chi phí tư doanh tăng trung bình mỗi quý 6,7%,
nhờ đó tạo thêm 7,8 triệu công việc làm, hạ tỷ lệ thất nghiệp từ 6%
xuống còn 4,4%, sản lượng công nghiệp vọt lên cao nhất tính trong vòng
20 năm, đẩy suất số tăng trưởng kinh tế lên 3,5%, tức tăng gấp đôi 3 năm
trước đó. Riêng số thu đánh trên thắng lợi tư bản (capital gains tax)
lại tăng gấp đôi mặc dù thuế suất giảm đi 25%.
Nhưng những thuận lợi trên không kéo dài được lâu.
Nếu
trước đây đến cuối nhiệm kỳ của Tổng Thống Clinton, thì nay chỉ mới đến
năm thứ 7 của nhiệm kỳ của vị Tổng Thống G.W. Bush, nền kinh tế phồn
vinh dựa trên nợ nần vay mượn của Hoa Kỳ cho thấy nhiều dấu hiệu suy
thoái. Những người Mỹ lớn tuổi đã từng chứng kiến thị trường nhà cửa vỡ
tung ở nhiều thập niên truớc, cũng như người Việt di tản đã từng chứng
kiến thị trường chim cút sụp đổ ở Saigon hồi đầu thập niên 1970, cũng
nghĩ sẽ có chuyện không hay xảy ra. Một số kinh tế gia Mỹ — không nhiều
— đã lên tiếng cảnh giác; nhưng rất tiếc không mấy ai tiên liệu rõ được
thời điểm, nguyên nhân và hậu quả! Giá xăng dầu lên vùn vụt, giá nhà
đất mỗi ngày một lên cao khi có nhiều người tranh giành nhau mua, các
gia chủ refinance để tiêu xài thoải mái, hệ thống tín dụng sự cho vay
bừa bãi v.v. chỉ là một tín hiệu tuy đáng ngại nhưng không rõ ràng lắm.
Sự kiện hàng hóa ế ẩm mùa Giáng Sinh 2007, và hàng hóa bán đại hạ giá
vài tuần sau đó cũng không được chiếu cố như những năm trước là một tín
hiệu rất rõ nét. Tháng 2/2008, quốc hội thông qua đạo luật nhằm kích
thích nền kinh tế (Econonomic Stimulus Act) cho phép hành pháp tung ra
$168 tỷ — gọi là hoàn thuế, $600/người cho hầu hết người lớn và $300 cho
mỗi trẻ em. Lần “giảm thuế” này không phải là để kích thích phía cung,
mà là để kích thích phía cầu. Các tác giả của giải pháp này hy vọng
khoảng 3 tháng sau khi các checks được gửi đi, thì TSLQG sẽ tăng lên từ 1
đến 3%. Nhưng thực tế cho thấy những người nhận được tiền chỉ xài
20-30% cho việc sắm sửa; số còn lại thì tiết kiệm để xài từ từ cho những
nhu cầu khác, trong đó quan trọng nhất là nhu cầu đổ xăng, mà giá cả
càng ngày càng tăng, trung bình là $4.00/gallon vào cuối tháng 5 năm đó.
Cuộc
khủng hoảng nhà đất năm 2007-2008 bắt nguồn từ việc cho vay dễ dãi
(subprime mortgage crisis) đã gây tác hại rất lớn mà đến nay ảnh hưởng
vẫn còn, nhất là đối với các địa phương. Theo ý kiến của một số chuyên
viên kinh tế, nó xuất phát từ thời Clinton: Dưới sự vận động của nhóm
khuynh tả Assosiation for Community Organization for Reform Now (ACORN),
năm 1993, Bộ Trưởng Phát Triển Nhà Ở và Đô Thị (HUD) Henry Cisneros đã
cho sửa đổi nhiều điều khoản về cho vay của 2 công ty tính cách “bán
công” Fannie Mae và Freddie Mac’s để các tổ chức này tạo điều kiện giúp
những người có lợi tức thấp được dễ dàng vay tiền để mua nhà. Trong một
cuộc họp báo tháng 6/1995, Clintontuyên bố: “Kế hoạch sở hữu chủ gia cư
của chúng ta sẽ không tốn hao thêm một xu nào cho người thọ thuế. Nó
cũng không đòi hỏi thủ tục lập pháp.”[6] Năm
1998, khi bị chất vấn tại Quốc Hội về việc không tiết kiệm của xã hội
Mỹ, vị Chủ Tịch FED Alan Greenspan giải thích: “Vâng, nhưng giá nhà đang
lên cao, và vì vậy mà người ta có tiền tiết kiệm.” Nếu lúc đó, ông mua
cái biệt thự sang trọng 5 triệu đô la, thì giờ đây nếu bán được thì chỉ
còn không hơn 3,5 triệu: ông không tiết kiệm, mà còn lỗ to.
Tháng
9/2008, sau 2 tháng cố gắng cứu nguy nhưng không hiệu quả, ngày 7/9/08
chính quyền liên bang đành nhận đảm nhiệm 2 công ty trên, cam kết đền bù
200 tỷ để đền bù thiệt thòi cho các cổ đông, và 150 tỷ cho 2 năm kế
tiếp. Bỏ mặc cho đại công ty Lehman Brothers khai phá sản, vào ngày
19/6/08, Bộ Ngân Khố tuyên bố sẽ bỏ thêm 85 tỷ bailout đại công ty bảo
hiểm khác AIG.
Trong
khi cuộc tranh cử gần kết thúc và ứng cử viên Tổng Thống Obama đang có
chiều thắng thế, thì ngày 13/10/08, Bộ Trưởng Ngân Khố Henry Paulson của
chính quyền Bush, Chủ Tịch Quỹ Dự Trữ Liên Bang Ben Bernake, Tổng Giám
Đốc Sheila Bair của FDIC và Chủ Tịch Fed ở New York Timo Geithner gặp gỡ
làm việc với 9 vị Tổng Giám Đốc ngân hàng lớn nhất của nước Mỹ, yêu cầu
họ điền và ký vào mẫu in sẵn để bán preferred stock của các ngân hàng
này cho chính phủ, nhiều ít tùy theo tầm cở của ngân hàng, với giá tính
trung bình thấp hơn 20% total equity của các ngân hàng. Nói cách khác,
nếu các ngân hàng này không muốn bị chính phủ bailed out, thì bất kỳ lúc
nào FBI cũng có thể xin lệnh bố ráp … và đóng cửa. Đến 6 giờ rưỡi tối,
thì quý vị TGĐ đành tuân thủ ghi tiền bán đã được định sẵn, ký tên và
ghi ngày tháng vào. Có lẽ Bộ Ngân Khố đã đãi họ ăn trưa với cái
hamburger và lon nước soda rồi. Mà nếu Paulson có đãi cơm chiều vì tình
đồng nghiệp cũ, thì họ cũng không ăn nỗi! Thật ra, sự kiện xảy đến cũng
không có gì đáng ngạc nhiên: Mười ngày trước đó, sau khi đã bị đánh bại
ở Hạ Viện, một dự luật nhằm cho phép Hành Pháp xuất một ngân khoản lớn
đã được Thượng Viện bổ sung, rồi thông qua và được Tổng Thống Bush ban
hành có hiệu lực kể từ ngày 3/10/08. Đó là Luật Cứu Trợ Kinh Tế Khẩn Cấp
(The Emergency Economic Stabilization Act) cho phép Bộ Ngân Khố thiết
lập chương trình TARP (Troubled Asset Relief Program) với ngân khoản 700
tỷ để mua các chứng khoán được bảo đảm bằng mortgage (mortgage-backed
security) cũng như giúp các ngân hàng đang gặp khó khăn.
Nói
tóm lại, giảm thuế, lún sâu vào 2 cuộc chiến Afghanistan và Iraq, cứu
trợ Katrina, suy thoái kinh tế nhiều năm sau vụ tấn công của khủng bố,
các vụ bailout vv. đã khiến cho khiếm hụt ngân sách tăng lên đáng ngại.
Trừ tài khóa 2001, mà ngân sách được soạn thảo và thực hiện từ thời
Clinton, tất cả tài khóa dưới thời ông (2002 – 2009) đều khiếm hụt,
khiến tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG vượt quá con số 60%. Ông bay về Texas thảnh
thơi bửa củi cho khỏe tay, để lại ngân sách khiếm hụt trên 1.420 tỷ,
hay 1,42 ngàn-tỷ (trillion), và đưa quốc trái lên 1,909 ngàn-tỷ, khiến
tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG là 81.54%. Để cho dễ nhớ, chúng ta có thể ghi
nhận rằng:Tổng Thống Bush là vị Tổng Thống Mỹ đầu tiên đưa khiếm hụt
ngân sách lên đơn vị ngàn-tỷ (trillion); còn trước đó thì Tổng Thống
Reagan đã mở kỷ nguyên đưa quốc trái lên ngàn-tỷ.
Quả là một sự chuẩn bị trao ấn kiếm hứa hẹn nhiều thách thức cho chủ nhân mới của Tòa Bạch Ốc.
Trước
tình hình kinh tế rất khẩn trương: tỷ lệ thất nghiệp càng ngày càng
cao, dân chúng không trả nổi mortgage, hệ thống ngân hàng hầu như bất
động, nhiều người lo sợ một đại khủng hoảng kinh tế mới sẽ xảy ra.
(Amazon.com cho biết các sách viết về cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh Tế hồi
đầu 1930 được tái bản và bán rất chạy. Người viết này cũng là một trong
những người mua). Ngay từ tháng 11/2008, Tổng Thống Đắc Cử Obama loan
báo đề cử một số chuyên gia kinh tế thượng thặng vào các chức vụ cao cấp
nhất trong chính phủ mới, và họ bắt đầu làm việc ngay, rất khẩn trương.
Vì dân chúng không có việc để mà làm, cho nên biện pháp giảm thuế để
khuyến khích người ta làm việc đã không được nghĩ tới. Các kinh tế gia
đều nghĩ đến các chương trình New Deal hồi phục kinh tế của Tổng Thống
Franklin D. Roosevelt (1933-1945, vị TT được bầu lại nhiều nhiệm kỳ nhất
trong lịch sử Hoa Kỳ), và John M. Keynes với tác dụng số nhân của tiền
chính phủ tung ra như đã đề cập ở trên.
Trong
bức thư đề ngày 14/2/11 kèm theo dự án Ngân Sách 2012, nghĩa là ông
đang bước vào năm thứ ba của nhiệm kỳ, Tổng Thống Obama phân trần: “Khi
tôi tuyên thệ nhậm chức 2 năm trước đây, Chánh Phủ của tôi được để lại
cho một ngân sách khiếm hụt hàng năm 1,3 ngàn-tỷ, hay 9, 2% TSLQG; và
một khiếm hụt được dự phóng trên 8 ngàn-tỷ cho 10 năm kế. Những khiếm
hụt này là hậu quả của 8 năm đã không chi trả cho nhiều chương trình –
đáng lưu ý, 2 lần cắt giảm thuế lớn lao, và lợi ích mới Medicare chi trả
cho việc mua thuốc có toa – cũng như cuộc khủng hoảng và suy thoái tài
chánh đã làm tệ hại thêm tình hình thuế má trong khi số thu lại giảm và
các loại chi phí tự động của Chính Phủ (automatic government outlays)
lại tăng lên để đối phó với cuộc suy thoái, và làm nhẹ bớt ảnh hưởng của
nó.”[7]
Tổng
Thống Obama tuyên bố Chính Phủ của ông đã thực hiện nhiều bước để “tái
lập trách nhiệm tài chánh (re-establish fiscal responsibility).” Khác
với Tổng Thống Kennedy muốn ám chỉ việc tránh khiếm hụt thêm ngân sách
(avoidance of additional deficits)[8] khi
đầu tiên dùng chữ “trách nhiệm tài chánh” trong Thông Điệp gửi Quốc Hội
ngày 04 20/4/61, Tổng Thống Obama còn muốn đề cập tới việc đã hoàn
thiện thủ tục ngân sách, cắt bỏ, cải tổ các chương trình kém hiệu năng
hay trùng dụng. Theo phân tích của Congressional Budget Office (thường
được gọi tắt CBO, một cơ quan không mang tính cách đảng phái của Quốc
Hội phụ trách ngân sách, được thành lập nhiều năm sau Office of
Management and Budget, gọi tắt OMB trực thuộc Tòa Bạch Ốc), thì khiếm
hụt ngân sách giảm hơn 200 tỷ trong thập niên này, và 1.000 tỷ trong
thập niên kế.
Để
đạt các mục tiêu trên, ngân sách tài khóa 2012 sẽ không tăng các dự chi
cho các lãnh vực khác ngoài lãnh vực an ninh; không tăng lương cho công
chức liên bang trong 2 năm; bãi bỏ nhiều cơ quan; giảm chi phí Bộ Quốc
Phòng, trong đó bỏ hẳn các dự án quân dụng tốn kém, giải ngũ trên 100 vị
đại tướng và đô đốc. Để duy trì nguồn thuế, ông chống lại việc triển
hạn cắt giảm thuế cho những gia đình có lợi tức hàng năm trên 250.000 đô
la đã được ban hành năm 2001 và 2003 dưới thời TT. Bush. Dự án ngân
sách cũng đề nghị cải tổ hệ thống bảo hiểm thất nghiệp, cải tổ Công Ty
Pension Benfits để bảo đảm tiền hưu cho công nhân của các công ty suy
sụp và phá sản, cải tổ Cục Federal Housing Administration phụ trách
giúp đỡ nhà ở rẻ tiền cho những người có lợi tức thấp; cải tổ thêm hệ
thống bảo hiểm sức khỏe để đủ chi trả trong 2 năm theo tỷ lệ tăng lên ở
mức chịu đựng được, mà không phải cắt giảm lớn lao số tiền bồi hoàn y tế
cung cấp cho người lớn tuổi.
Trong
khi đó, sẽ có những đầu tư mới và lớn lao cho một số lãnh vực quan
trọng sau đây. Trước hết, Ngân Sách 2012 khuyến khích giáo dục đại học
qua việc triển hạn Luật American Opportunity Tax Cut, duy trì chương
trình học bỗng Pell Grant có từ nhiều thập niên vùa qua, ngõ hầu đến năm
2020, Hoa Kỳ sẽ có số sinh viên tốt nghiệp đại học cao nhất thế giới;
đào tạo thêm 100.000 giáo chức toán và khoa học kỹ thuật; thúc đẩy và
khuyến khích các trương học, các tiểu bang thi đua trong giáo dục qua
chương trình “Race to Top”. Kế đến ngân sách này cũng sẽ tích cực trợ
giúp những nghiên cứu cơ bản (basic research), tức những nghiên cứu chỉ
có thể sinh lợi về lâu về dài mà các công ty không muốn thực hiện, chẳng
hạn trong lãnh vực kỹ thuật năng lượng sạch (clean energy technology)
để sao cho đến năm 2015, Hoa Kỳ là nước đầu tiên có 1 triệu chiếc xe hơi
chạy điện; đến năm 2035, có 80% điện lực được cung cấp bằng năng lượng
sạch. Hơn nữa, ngân sách này sẽ tiếp tục sửa sang, tu bổ hay tân tạo hạ
tầng cơ sở, hệ thống lưu thông đã khá cũ kỹ, với số đầu tư sơ khởi 50
tỷ và qua sự thành lập của một ngân hàng mới có tên National
Infrastructure Bank.
Ngân
Sách 2012 do Obama đưa sang đề nghị phần thu (revenues) là 2,627
ngàn-tỷ và phần chi (outlays) là 3,732 ngàn-tỷ. Vào tháng 4, đảng Cộng
Hòa đề nghị 2 con số này lần lượt là 2,533 ngàn-tỷ và 3,529 ngàn-tỷ;
nghĩa là đề nghị giảm cả thu lẫn chi. Tuy nhiên, trong phần dự chi, có
những khoản được gọi là entitlements, thì đề nghị cắt giảm của Đảng Cộng
Hoà không đáng kể, vì chúng được xem như là bắt buộc (mandate). Chính
Obama đã đề nghị giảm chi phí cho các chương trình sau đây: Medicare
0,6% (còn 761 tỷ), Medicaid và Chương Trình Bảo Hiểm Y Tế Trẻ Em Cho
Các Tiểu Bang 2,5% (còn 269 tỷ), Trợ Cấp Thất Nghiệp 14% (còn 612 tỷ),
Cứu Nạn Nhà Cửa Gặp Khó Khăn 54% (còn 13 tỷ). Tuy nhiên, trong thành
phần entilements này có 2 loại chi phí tăng lên. Đó là tiền an sinh xã hội (social security), lý do là vì các baby boomers bắt đầu về hưu, tăng 2.6% (lên 761 tỷ) và tiền lãi cho quốc trái sẽ tăng 17% (lên đến con số 242 tỷ). Nhìn
chung, các chi phí bắt buộc (entitlements) lên đến 2,382 ngàn-tỷ, chiếm
67,5% ngân sách; và Đảng Cộng Hòa dù có cắt giảm thành công chăng nữa,
thì cũng chẳng giảm được bao nhiêu. Riêng tiền lãi trả cho quốc trái đã
chiếm trên 10% ngân sách.
Chi
phí cao nhất vẫn là chi phí cho Bộ Quốc Phòng (553 tỷ, tăng 0,7%); Kế
đến là Overseas Contingecies Operations, tức các hoạt động chống khủng
bố hải ngoại, (118 tỷ, giảm 26%); Bộ Y Tế Xã Hội (79, 9 tỷ, giảm 1,8%)
vv. Ngân Sách của Bộ Giáo Dục tăng 6,2%; của Bộ Năng Lượng tăng 4,2%,
của Bộ Gia Cư tăng 0,5% phù hợp với các chương trình phát triển đã đề
cập trên đây. Và dĩ nhiên ngân sách Bộ Cựu Chiến Binh cũng tăng nhiều
(3,1%) để đáp ứng nhu cầu cho quân nhân về hưu, thương tật trở về.
Trong
khi đó, thì tổng số thu chỉ là 2,627 ngàn-tỷ, trong đó thuế lợi tức cá
nhân như bấy lâu nay vẫn đem lại số thu cao nhất: 1,141 ngàn tỷ (43,4%).
Kế đến là thuế lợi tức công ty 329 tỷ (12,5%); thuế công quản (excise
tax) 103 tỷ (3,92%). Deposits of Earnings và Hệ Thống Dự Trữ Liên Bang
cũng sẽ đem lại 66 tỷ (2,5%). Riêng Thuế An Sinh Xã Hội và Thuế Lương
Bỗng đem lại 925 tỷ (35%). Chúng ta cũng đừng quên rằng thuế an sinh xã
hội của những người chưa về hưu mỗi tháng 2 kỳ phải bỏ vào trust fund,
trên nguyên tắc là để sau này trả mỗi tháng cho người đó. Nhưng trust
này có nhiều tiền quá, trong khi chính phủ lại thiếu tiền. Vì vậy chính
phủ cứ tiếp tục mượn đỡ để “xoay xở” và trả tiền lãi. Đã có lúc Quỹ An
Sinh Xã Hội không có tiền mặt, vì thu vào chưa kịp, để trả cho những
người đã về hưu!
Thu không đủ chi, khiếm hụt ngân sách phát sinh từ đó. Và vay mượn là kết quả hiển nhiên.
Nhưng câu hỏi quan trọng đã được đặt ra là: Khiếm Hụt Ngân và Quốc Trái lên đến mức nào thì đáng được gọi là báo động?
Đến
ngày 17/12/11, TSLQG Hoa Kỳ là 15,074 ngàn-tỷ và quốc trái lên đến
15,128 ngàn-tỷ (so với 14,294 ngàn-tỷ ngày 12/2/11 lúc TT Obama chuyển
Ngân Sách 2012 sang Quốc Hội). Nghĩa là tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG là 100,36%. Trong khi đó, khiếm hụt ngân sách là 1.303 ngàn-tỷ. Như vậy, tỷ lệ Khiếm Hụt/TSLQG là 8,64%.[9]
Theo
thỏa hiệp The Maastricht Treaty được các nguyên thủ quốc gia Châu Âu
Thống Nhất ký kết ngày 10/12/199, một trong những điều kiện để một quốc
gia được chấp nhận vào Liên Hiệp Tiền Tệ là khiếm hụt ngân sách không được vượt quá 3% TSLQG, và tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG phải dưới 60%. Nếu Hoa Kỳ cũng theo tiêu chuẩn này, thì khiếm hụt và quốc trái phải đáng được báo động từ lâu rồi.
Tuy
nhiên, theo tính toán của Reinhart &Rogoff thuộc Viện Peterson
Institute for International Economics, một tổ chức chuyên nghiên cứu nợ
nần của Hoa Kỳ và các nước phát triển khác, thì:
“…mối
liên hệ giữa nợ của chính phủ và TSLQG thực sẽ yếu đối với những tỷ lệ
Nợ/TSLQG bắt đầu ở mức 90%. Trên mức 90% này, thì các suất số tăng
trưởngtrung bình giảm 1% xuống, và sự tăng trưởng trung bình giảm xuống nhiều hơn.”[10]
Vả
lại, cân bằng ngân sách một cách tuyệt đối (nghĩa là chi phải bằng thu)
cũng không phải là một giải pháp lý tưởng. Lý do là nếu xảy ra lạm phát
chẳng hạn, thì Federal Open Market Committeee, bộ phận phụ trách mua
bán chứng khoán chính phủ (government securities) thuộc Quỹ Dự Trữ Liên
Bang, tức ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ, sẽ khó thi hành hữu hiệu
chính sách tiền tệ.
Tỷ
phú Warren Buffet trong cuộc phỏng vấn với đài truyền hình CNBC
(8/7/11) đã sử dụng tỷ lệ 3% đề cập trong Thỏa Hiệp Maastritch khi ông
tuyên bố: “Tôi có thể chấm dứt khiếm hụt ngân sách trong 5 phút. Chỉ cần
ra một đạo luật quy định rằng bất kỳ khi nào khiếm hụt ngân sách trên
3% TSLQG, thì tất cả thành viên đương nhiệm của quốc hội không đủ điều
kiện để tái tranh cử.” Ông chỉ nói cho vui, chứ nếu ông bỏ ra phân nửa
tài sản để vận động, thì cái luật như vậy cũng không thể ra đời! Ba năm
trrước đó (2008), trong một cuộc phỏng vấn, ông cho rằng tỷ lệ Quốc
Trái/TSLQG 40% đã không gây rắc rối gì trong quá khứ, thì cũng sẽ không
gây phiền toái trong tương lai.
Chúng
ta đồng ý với Tổng Thống Reagan là cá nhân thì không nên xài quá khả
năng tài chánh của mình, bởi lẽ nợ nhiều quá nếu thiên hạ biết được sẽ
không cho mượn tiếp; và không trả thì sẽ gặp rắc rối đối với pháp luật.
Nhưng đối với nhà nước thì lại khác. Không ai bắt giam nhà nước cả; nhà
nước lại còn có uy tín và có nhiều phương cách để vay mượn.
Tuy
nhiên, nếu nhà nước nợ nần nhiều quá, cứ phải in tiền mới để trả, hoặc
cứ phải tiếp mượn nợ mới để trả tiền lãi và nợ cũ, thì có cơ thiên hạ sẽ
không dám cho vay nữa, vì sợ lạm phát sẽ làm mất giá cả vốn lẫn lãi. Do
đó cũng cần phải có biện pháp qui định mức vay mượn, mục tiêu và cách
thức vay mượn, cũng như kế hoạch và thời gian hoàn trả v.v. Đó là lý do
Quốc Hội Hoa Kỳ muốn đặt ra một mức nợ không được vượt qua (debt
ceiling) mà Hành Pháp phải tuân theo. Đáng lẽ đến ngày 30/9/11 vừa rồi
Quốc Hội phải biểu quyết xong ngân sách để được ban hành và áp dụng từ
ngày 1/10/11, nhưng Quốc Hội đã không làm xong, vì chưa thỏa thuận được
mức nợ đó, cho nên Quốc Hội đã làm một chuyện bất thường; đó là lập ra
liên ủy ban gọi là Joint Select Committee on Debt Reduction, gồm 12
thành viên (3 Dân Biểu và 3 Thượng Nghị Sĩ, tức 6 người mỗi đảng) được
cử ra ngày 10 và 11/8 . Làm việc trên 2 tháng dài, 2 phía không đi đến
thỏa hiệp nào cả về thời gian gia hạn gỉảm thuế (ban hành từ thời TT
Bush), các khoản chi tiêu cần cắt giảm hay thêm mới; mức quốc trái không
được vượt qua (debt ceiling) cùng thời gian bắt đầu hiệu lực (việc này
đáng lẽ TT Obama nên làm khi đảng Dân Chủ còn chiếm đa số ghế ở Quốc
Hội, trưóc cuộc bầu cử cuối năm 2010) vv. Đến ngày 21/11/11, siêu ủy
ban này tuyên bố sứ mạng đã thất bại, hai bên đổ lỗi cho nhau và chờ đợi
Quốc Hội họp lại quyết định! Nếu Quốc Hội quyết định mau chóng đi nữa,
thì chỉ mới xong cho Ngân Sách 2012 mà thôi.
Riêng
chuyện nợ nần của Chánh Phủ Hoa Kỳ vẫn còn là câu chuyện dài, khó có
thể giải quyết trong một hay hai nhiệm kỳ Tổng Thống sắp tới vì Ngân
Sách hằng năm của Hoa Kỳ theo một tiên liệu mặc dầu rất lạc quan của
Congressional Budget Office (CBO) thì từ nay đến tài khóa 2020, năm nào
cũng khiếm hụt vì kinh tế chưa phục hồi.[11] Mà ngân sách còn khiếm hụt, thì chính phủ còn phải vay mượn.
Nói
chung, các chủ nợ trong và ngoài nước có thể mua đủ loại chứng khoán
của Chính Phủ Hoa Kỳ từ ngắn hạn đến dài hạn do Bộ Ngân Khố, nhân danh
Chánh Phủ Hoa Kỳ bán ra để trang trải nhu cầu tài chánh vào mỗi thời
điểm. Loại thứ nhất gồm những loại chứng khoán mà chủ nợ mua vào và có
thể bán lại được (marketable debt) gồm US Treasry Bills (13, 26, 52
tuần); US Treasury (1-10 năm); US Treasury Bonds (10 năm trở lên). Loại
thứ hai, gồm những loại chứng khoán không bán lại (non-marketable debt)
gồm USgovernment accounts; Foreign governments; US Savings Bonds.[12] Như vậy, chúng ta có thể hiểu được rằng không bao giờ xảy ra tình trạng các loại chứng khoán trên đáo hạn cùng một lúc. Do
đó, một trong những công tác quan trọng của Bộ Ngân Khô là bán những
loại chứng khoán này cho người mua trong cũng như ngoài nước để có tiền
trả cho các nợ đáo hạn, cũng như tài trợ cho các chi tiêu mới đã được
Quốc Hội cho phép. Chỉ khi nào không còn người mua các loại chứng khoán
chính phủ, nghĩa là không còn ai cho vay nữa, thì lúc đó Chánh Phủ Hoa
Kỳ mới gặp khó khăn và vỡ nợ. Trong chiều hướng này, thì quyết định vào
đầu năm 2012 của công ty lượng giá Standard & Poor’s trong việc hạ
thấp hạng (downgrade) các chứng khoán dài hạn của chính phủ mà nhiều
người chê trách là vội vã (so với tích sản còn quá lớn của Mỹ) và có
tính cách giả nhân giả nghĩa (tổ chức này được các công ty tài chánh bảo
trợ cho nên muốn tạo áp lực để Bộ Ngân Khố tăng lãi suất cho các chứng
khoán dài hạn mà các công ty này sẽ mua) có ảnh hưởng không ít cho việc
vay nợ dài hạn của Chánh Phủ.
Đến
tháng 12/10/11, Hoa Kỳ đã nợ nước ngoài 4.440 tỷ. Nhiều nhất từ Hoa
Lục: 1.160 tỷ (26,1%); kế đến từ Nhật: 882,3 tỷ (19.9%); Anh: 272, 1 tỷ
(6,1%); các xứ xuất cảng dầu hỏa: 221, 9 tỷ (4,8%) v.v. Tuy đứng đầu
danh sách chủ nợ, nhưng nợ Hoa Lục, theo Phó Tổng Thống Joe Biden cho
biết trong cuộc phỏng vấn cuối năm dành cho tuần báo Newweek, chỉ bằng
1% tích sản tài chánh (financial assets) của Hoa Kỳ, khoảng 6% hay có
thể 7% – 9% tổng số chứng khoán Chính Phủ Hoa Kỳ bán ra cho công chúng.
Nghĩa là không có gì đáng lo ngại. Ông còn nói ông sang Bắc Kinh, sau
vụ lượng giá nói trên, không phải để “xin lỗi” Hoa Lục. Bởi vì ông biết
Hoa Lục khó tin ai khác hơn Chú Sam về tiền bạc! [13]
Cựu Tổng Thống Clinton cho rằng nếu không tính các
lưu giữ của Quỹ Dự Trữ Liên Bang (Fed’s holdings) và các chứng khoán
chính phủ (Treasury bonds) giữ bởi Social Security và các trust funds
khác như là những thành phần của quốc trái, thì ngoại quốc là chủ nợ của
hơn phân nửa tổng số quốc trái Hoa Kỳ.[14]
Sở
dĩ các công ty, các ngân hàng ngoại quốc, cũng như các chánh phủ ngoại
quốc (qua Ngân Hàng Trung Ương của họ) mua các chứng khoán của chính phủ
Hoa Kỳ nói trên là vì: (1) đồng đô la vẫn còn là key currency dùng cho
các thanh toán quốc tế theo Hội Nghị Bretton Woods; (2) mua các chứng
khoán của Chính Phủ Hoa Kỳ vẫn an toàn hơn là gửi tiền vào các ngân
hàng; (3) theo quy ước, các xứ xuất cảng dầu hỏa đồng ý để đồng đô la
lại ở Hoa Kỳ, vậy thì nên mua các loại chứng khoán nói trên vừa an toàn,
vừa được lãi, tuy không cao; (4) có khi Chánh Phủ Hoa Kỳ đến “năn nỉ”
các chánh phủ ngoại quốc, và các chánh phủ này trực tiếp mua (qua Ngân
Hàng Trung Ương) hay thuyết phục các ngân hàng, hay công ty công/tư v.v.
mua chứng khoán của Chánh Phủ Hoa Kỳ để “giúp cho đồng minh.”
Đến
đây có thể có người hỏi tại sao chính phủ không in tiền ra để xài hay
trả nợ, mà lại phải vay mượn cho phiền toái và tốn kém vì phải trả tiền
lãi và các chi phí khác. Câu trả lời là: Nếu in tiền ra thêm, thì
dễ đưa đến lạm phát; càng tung thêm nhanh tiền mặt ra thì lạm phát sẽ
càng lên cao mau lẹ, rất khó đối phó, và nền kinh tế dễ đưa đến suy sụp.
Kết luận
Khi
một nền kinh tế tự hào, hay mang tiếng không mấy tốt “một nền kinh tế
dựa trên tiêu thụ”, nó sẽ lần lần sản sinh một nền văn hóa sống ngoài
khả năng của mình (overdraft culture). Đó là chưa nói đến thói quen của
một bộ phận không nhỏ của xã hội đã quen trông cậy và đòi hỏi ở chính
quyền, cũng như sẵn sàng lợi dụng những kẽ hở của luật lệ mà trục lợi.
Đến lượt nó, nền văn hóa sống ngoài khả năng này sẽ đòi hỏi cho kỳ được
một loại chính quyền chi tiêu vượt khả năng (overdraft government) để
thỏa mãn nó, không cần phải ưu tư nhiều vì rồi đây sẽ có người khác trả
nợ cho mình. Ngành bảo hiểm gọi đây là “nguyên tắc nguy hiểm về tinh
thần” (the principle of moral harzard). Nay nếu vì một sức mạnh tinh
thần nào đó – chứng tỏ trách nhiệm tài chánh, nêu gương “tri túc/ tri
hữu” và “đứng trên hai chân mình”, hoặc cảm thấy tội lỗi với thế hệ mai
sau vì bắt buộc chúng phải chịu sưu cao thuế nặng để trả món nợ cho mình
gây ra– chính quyền loại này muốn bớt tiêu xài và hạn chế nợ nần, thì
điều đó không phải thực hiện dễ dàng và nhanh chóng được, dù cho quốc
gia đó đó là Hoa Kỳ.
Như chúng ta đều biết: Kinh tế học là môn học nghiên cứu về sự phân bố tài nguyên khan hiếm. Nợ là một loại tư bản khan hiếm.
Do đó, nó cần phải được sử dụng khôn ngoan để phục vụ cho ổn định và
tăng trưởng kinh tế. Trong nhiều thập niên vừa qua, rõ ràng Hoa Kỳ đã sử
dụng quốc trái chủ yếu cho tiêu thụ hơn cho đầu tư, cho mục tiêu quân
sư hơn cho tăng trưởng kinh tế. Với biện pháp hạn chế mức nợ không được
phép vượt qua trong thập sắp đến,và dự trù sử dụng tiền vay mượn vào
việc tái thiết hạ tầng cơ sở; cải tổ giáo dục; tăng cường nghiên cứu cơ
bản v.v., mà Chánh Phủ của Tổng Thống Obama và Quốc Hội hiện nay đang cố
gắng thực hiện có đánh dấu được một bước khởi đầu kiên quyết mới, và sẽ
được các chính quyền sau này tiếp tục không; hay hóa ra đó chỉ là những
nổ lực nhằm mục tiêu tranh cử mà thôi. Người ta còn phải chờ đợi câu
trả lời trong tương lai
Virginia, 12/2011
© Lê Văn Bình
© Đàn Chim Việt
(Bài do tác giả Trọng Đạt viết lời giới thiệu và gửi tới)
[1] Mỗi năm đóng góp vào ngân sách 16,3% đến 20,9% tổng sản lượng quốc gia trong khoảng thời gian 1953- 2008 (Presimetrics, by Mike Kimel & Miachael Kanell, 2010, p. 40)
[2] Nổi
tiếng với khúc tuyến Laffer curve: Trục tung biểu thị tổng số thuế thu,
trục hoành biểu thị thuế suất. Khúc tuyến Laffer có hình một paroble úp
xuống và không đối xứng; phát xuất từ điểm O (thuế suất 0%) và cắt trục
hoành ở điểm p (thuế suất 100%). Ở 2 thuế suất này, không thu được gì
cả. Theo Laffer, thuế suất lớn hơnOm (m là điểm chiếu của đỉnh paroble
xuống trục hoành) chỉ làm cho tổng số thu sụt giảm mà thôi.
[3] Trong bài này, các con số được viết theo lối tiếng Việt (23,5%) thay vì tiếng Anh (23.5%) và ngàn-tỷ dùng để dịch trillion
[4] Những tỷ lệ Quốc Trái/TSLQG sử dụng dưới đây có nguồn là U.S. Dept. of Commerce, được in lại trong Hamilton’s Blessing, by
John S. Gordon (2010), p. 207.. Nguyên văn Gordon ghi: Debt as % of
GNP/GDP. Xin lưu ý là GNP Hoa Kỳ trong mấy thập niên vừa qua chỉ bằng
20-25% GDP (tổng sản lượng quốc nội) vì chưa cộng thêm hiệu số giữa lợi
tức của người Mỹ đầu tư ở hải ngoại và lợi tức người ngoại quốc đầu tư ở
Hoa Kỳ. Nói khác đi, Quốc Trái/TSLQG < Quốc Trái/TSLQN.
[5] Financial Report of theUnited States ( 2006), p.192
[6] America‘s Ticking Bankrupcy Bomb, by Peter Ferrara (2011) , pp. 184-186
[7] Fiscal Year 2012 BUDGET of theU.S. Government
[8] Macroeconomic Decision Making in the World Economy, 3rd ed., by Michael G. Rukstad (1992), p. 238
[9] Tính theo U. S. Debt Clock.org mà các con số thay đổi không ngừng
[10] A Decade of Debt by Carmen M. Reinhard & Kenneth S. Rogoff (2011), p.27
[11] Debt, Deficits and the Demise of the American Economy by PeterTanous & Jeff Cox (2011), p.6
[12] Red Ink: The Budget, Deficit and Debt of the ỤS. Government by Gary R. Evans (1997), p.6
[13] The World According to Joe Biden (Newweek December.26. 2011 /January 2, 2011), p.45
[14] Back to Work: Why We Need Smart Government for a Strong Economy by Bill Clinton (2011), p.33 & p.55
-- 2011, châu Âu điêu đứng vì khủng hoảng nợ công — (RFI).- Chủ nợ của thế giới và các nhóm lợi ích trong cải cách (VEF).
- Thị trường và đạo đức (Kì 12) — (Phạm Nguyên Trường).
--- Tái cơ cấu ngân hàng: Qui mô và chuyên sâu (Tầm nhìn).- Tái cơ cấu ngân hàng giúp vốn lưu thông (VIR). – Vô tư mua bán ngoại tệ (NLĐ).
- Tái cấu trúc tài chính DNNN – yêu cầu bức thiết nhất (Tầm nhìn).- Chứng khoán 2011 và những đòn “chém gió” hớ hênh(VnEconomy). – Tiếng khóc của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán (Café chém gió). – Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Bình chém gió về ổn định tiền tệ và thị trường vàng (Café chém gió).- Chứng khoán: 10 sự kiện của năm thất vọng (VEF). - Cổ phiếu ngân hàng diễn biến theo 3 nhóm (VIR). - Cổ phiếu BĐS: Có còn là ‘điềm báo’ cho nhà đất? (Vietstock).- Sau IPO, giá cổ phiếu BIDV sẽ giảm? (SGTT). – Bầu Đức chi hơn 86 tỷ đồng ‘ôm’ cổ phiếu rớt ‘đáy’ của HAGL (ĐV).
- Việt Nam ổn định giá xăng dầu, chuẩn bị áp thuế nhập khẩu xăng — (VOA). - Giảm mức trích Quỹ bình ổn xăng dầu (TN). - Nâng mức chi phí tối đa dùng để tính giá cơ sở xăng dầu (SGGP).
- Một doanh nghiệp khác cũng… khổ vì hải quan! (LĐ). -- “Doanh nhân của năm” 2011: Ông Nguyễn Đức Kiên (VnEconomy).- Càphê Trung Nguyên: Bước trực tiếp vào siêu thị nước ngoài (SGTT). - Hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường Đức (SGTT).
- EVN khẳng định lỗ nên không thưởng Tết (TQ). – EVN không thưởng tết (TP). –Thưởng Tết và sự phân hoá giàu nghèo (TQ). – Nam Định: DN tư nhân thưởng tết 26 triệu (LĐ). – Nhiều doanh nghiệp thưởng tết bằng bột ngọt, hạt dưa…(SGTT).- CT Trương Tấn Sang: Doanh nhân trẻ phấn đấu đạt tầm Đông Nam Á (TT).- Năm 2011, xuất khẩu tăng 33% (PLTP). - Cơ hội lớn tăng xuất khẩu vào châu Âu (SGGP). - Vụ nhập lậu thịt bò Kobe: Gửi hồ sơ lên Bộ Công an (NLĐ).
- Người mua vàng đang gánh lỗ thay doanh nghiệp (TP). -- Ô tô dưới 10 chỗ phải chịu phí trước bạ 20% (ĐV).- Nhầm vai! (PLTP). - Tăng giá điện là hợp lý (!) (Vietstock). - Bất động sản thắt ruột ngóng thưởng Tết (VEF).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét