Thị trường và đạo đức (Kì 11)
David Kelley
Ayn Rand và chủ nghĩa tư bản: Cuộc cách mạng về đạo đức
Phạm Nguyên Trường dịch
Trong
tiểu luận này, nhà triết học theo trường phái khách quan chủ nghĩa,
David Kelley, đề nghị một “cuộc cách mạng thứ tư” nhằm hoàn thiện nền
tảng của thế giới hiện đại và bảo vệ những thành tựu do chủ nghĩa tư bản
mang lại.
David
Kelley là giám đốc điều hành tổ chức Atlas, một tổ chức khuyến khích sự
phát triển và truyền bá chủ nghĩa khách quan. Kelley là tác giả các
cuốn: Bằng chứng của tri giác, nghệ thuật lập luận (Evidence of the Senses, The Art of Reasoning – một trong những tác phẩm được sử dụng rộng rãi nhất trong môn logic học ở Mĩ),Cuộc sống riêng tư: quyền cá nhân và nhà nước phúc lợi (A Life of One’s Own: Individual Rightsand the Welfare State)
và một số tác phẩm khác. Ông dạy triết học tại Vassar College và
Brandeis University và đã công bố nhiều tiểu luận trên những ấn phẩm
dành cho công chúng như Harper’s, The Sciences, Reason, Harvard Business
Review, and Barron’s.
Cuộc
khủng hoảng trong thị trường tài chính đã tạo ra một cơn lũ những ý
kiến bài tư bản mà người ta có thể dự đoán được từ trước. Mặc cho sự
kiện là những qui định của chính phủ là nguyên nhân chính dẫn tới khủng
hoảng, nhưng những người bài xích chủ nghĩa tư bản và những người tạo
điều kiện cho họ có tiếng nói trên các phương tiện thông tin đại chúng
đã chỉ trích thị trường và kêu gọi thực hiện những biện pháp quản lí
mới. Các chính phủ đã thực hiện những biện pháp can thiệp vô tiền khoáng
hậu vào thị trường tài chính và dường như rõ ràng là những biện pháp
quản lí kinh tế sẽ đi xa chứ không chỉ bao gồm phố Wall mà thôi. Quản lí
sản xuất và thương mại là một trong hai vấn đề quan trọng nhất mà chính
phủ làm trong nền kinh tế hỗn hợp của chúng ta. Việc thứ hai là tái
phân phối – tức là chuyển thu nhập và tài sản từ tay người này sang tay
người kia. Cũng trong lĩnh vực này, những người bài xích chủ nghĩa tư
bản đã nắm ngay lấy thời cơ để kêu gọi những việc khác như chăm sóc sức
khỏe, cùng với những khoản thuế mới đánh vào tầng lớp giàu có. Khủng
hoảng kinh tế cùng với việc bầu Barack Obama đã làm bật ra những đòi hỏi
đã bị dồn nén về việc tái phân phối. Đòi hỏi này từ đâu mà ra? Muốn trả
lời câu hỏi này một cách thấu đáo ta phải trở về với cội nguồn của chủ
nghĩa tư bản và xem xét một cách cặn kẽ những luận cứ ủng hộ cho việc
tái phân phối như thế.
Hệ
thống tư bản chủ nghĩa hình thành trong một thế kỉ, từ năm 1750 đến năm
1850, là kết quả của ba cuộc cách mạng. Thứ nhất, đấy là cuộc cách mạng
chính trị: thắng lợi của chủ nghĩa tự do, mà đặc biệt là học thuyết về
các quyền tự nhiên, và quan niệm cho rằng chính phủ phải giới hạn chức
năng của nó là bảo vệ các quyền cá nhân, trong đó có quyền tư hữu. Cuộc
cách mạng thứ hai là sự xuất hiện kiến thức về kinh tế học, được Adam
Smith trình bày trong tác phẩm Của cải của các quốc gia (The Wealth of the Nations).
Smith chứng minh rằng khi các cá nhân được tự do theo đuổi quyền lợi
của mình thì kết quả không phải là sự hỗn loạn mà là trật tự tự phát,
còn hệ thống thị trường, trong đó các cá nhân hợp tác với nhau và làm ra
được nhiều tài sản hơn là chính phủ quản lí kinh tế. Cuộc cách mạng thứ
ba đương nhiên là cách mạng công nghiệp rồi. Những cải tiến trong lĩnh
vực công nghệ cung cấp cho người ta cái đòn bẩy làm cho sức sản xuất gia
tăng gấp nhiều lần. Kết quả không chỉ là nâng cao mức sống của mọi
người mà nó còn thông báo và khuyến khích các cá nhân về viễn cảnh kiếm
được số của cải không thể tưởng tượng nổi trong một tương lai gần.
Cuộc
cách mạng chính trị, sự toàn thắng của học thuyết về quyền cá nhân song
hành với chủ nghĩa lí tưởng về đạo đức. Đấy là giải phóng con người
khỏi chế độ chuyên chế, là công nhận mỗi người – dù họ có vị trí như thế
nào trong xã hội – là mục đích của chính mình. Nhưng cách mạng kinh tế
lại được thể hiện trong những thuật ngữ nhập nhằng về mặt đạo đức: như
một hệ thống kinh tế, chủ nghĩa tư bản bị nhiều người coi là được hoài
thai trong tội lỗi. Ước muốn giàu sang bị coi là có liên hệ với tính ích
kỉ và lòng tham mà Thiên chúa giáo cấm. Những nhà nghiên cứu trật tự tự
phát thời kì đầu nhận thấy rằng họ đang xác quyết một nghịch lí về mặt
đức hạnh – nghịch lí mà như Bernard Mandeville nói là thói xấu của cá
nhân có thể làm lợi cho xã hội.
Những
người chỉ trích thị trường luôn luôn lợi dụng những sự do dự như thế về
đạo đức của chủ nghĩa tư bản. Phong trào xã hội chủ nghĩa sống được là
nhờ lí lẽ cho rằng chủ nghĩa tư bản nuôi dưỡng tính ích kỉ, hiện tượng
bóc lột, vong thân, bất công. Với hình thức nhẹ nhàng hơn, nhưng nhà
nước phúc lợi cũng tạo ra niềm tin như thế, nhà nước phúc lợi thực hiện
việc tái phân phối bằng những chương trình của chính phủ với tên gọi là
“công bằng xã hội”. Chủ nghĩa tư bản không bao giờ thoát khỏi được sự
nhập nhằng như thế về mặt đạo đức. Nó được đánh giá cao vì sự thịnh
vượng mà nó mang lại, nó được đánh giá cao vì đấy là điều kiện cần cho
quyền tự do chính trị và tự do tri thức. Nhưng ít người biện hộ cho chủ
nghĩa tư bản sẵn sàng quả quyết rằng lối sống tư bản chủ nghĩa – theo
đuổi tư lợi thông qua sản xuất và buôn bán – cho dù nó không phải là cao
quí hoặc lí tưởng, nhưng cũng đáng trọng về mặt đạo đức.
Nguồn
gốc của thái độ ác cảm đối với thị trường không phải là điều bí mật. Nó
xuất phát từ lòng vị tha, đã ăn sâu bén rễ trong nền văn hóa phương
Tây, mà thực ra là trong hầu hết các nền văn hóa. Theo tiêu chuẩn của
chủ nghĩa vị tha thì theo đuổi tư lợi, trong trường hợp tốt nhất cũng
chỉ là hành động trung tính, nằm ngoài lĩnh vực đạo đức, còn trong
trường hợp xấu nhất là tội lỗi. Đúng là thành công trên thương trường
xuất phát từ buôn bán tự nguyện và cũng có nghĩa là bằng cách thỏa mãn
được nhu cầu của tha nhân. Nhưng cũng đúng là những người thành công lại
có động cơ là kiếm lợi cho cá nhân mình, mà đạo đức thì liên quan đến
cả kết quả lẫn động cơ.
Trong
ngôn ngữ hàng ngày, thuật ngữ “lòng vị tha” thường chỉ có nghĩa là lòng
tốt và thái độ lịch sự thông thường mà thôi. Nhưng ý nghĩa thực sự của
nó, cả về mặt lịch sử lẫn triết học, lại là hi sinh bản thân. Đối với
những người xã hội chủ nghĩa – những người tạo ra thuật ngữ này – thì nó
có nghĩa là hoà tan cái tôi vào trong xã hội rộng lớn hơn. Như nói:
“Nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa vị tha là con người không có quyền
sống cho riêng mình, rằng phục vụ tha nhân là lời biện hộ duy nhất cho
sự tồn tại của con người và hi sinh là trách nhiệm đạo đức, là đức hạnh
và giá trị cao nhất”. Chủ nghĩa vị tha, theo nghĩa này, là nền tảng của
nhiều quan niệm về “công bằng xã hội” khác nhau, tức là những quan niệm
được sử dụng để biện hộ cho những chương trình tái phân phối tài sản của
chính phủ. Những chương trình này chính là sự hi sinh bắt buộc của
những người đóng thuế. Chúng chính là sử dụng các cá nhân như là nguồn
cung cấp mang tính tập thể cho mục đích của những người khác. Và đấy là
lí do căn bản vì sao họ phải dựa vào nền tảng đạo đức nhằm chống lại
những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản.
Đòi hỏi công bằng xã hội
Đòi
hỏi công bằng xã hội xuất hiện dưới hai hình thức mà tôi gọi là thuyết
về xã hội phúc lợi và chủ nghĩa bình quân. Theo thuyết xã hội phúc lợi
thì các cá nhân có quyền được đáp ứng một số nhu cầu tối thiểu nhất
định, trong đó có thức ăn, nhà ở, quần áo, chữa bệnh, học hành ..v.v..
Xã hội có trách nhiệm bảo đảm rằng tất cả các thành viên của nó đều có
thể tiếp cận được với những nhu cầu đó. Nhưng hệ thống tư bản chủ nghĩa
“laissez-faire” lại không bảo đảm chuyện này cho bất cứ ai. Như vậy là,
những người theo thuyết xã hội phúc lợi khẳng định: chủ nghĩa tư bản
không thể đáp ứng được trách nhiệm đạo đức của nó và vì vậy mà phải được
làm dịu bớt thông qua những hành động của chính phủ nhằm cung cấp những
loại hàng hóa đó cho những người không thể tự mình kiếm được.
Còn
theo chủ nghĩa bình quân thì của cải do xã hội sản xuất ra phải được
phân phối một cách công bằng. Sẽ là bất công nếu một số người có thu
nhập gấp mười lăm, năm mươi, thậm chí một trăm lần thu nhập của một số
người khác. Nhưng chủ nghĩa tư bản laissez-faire cho phép và khuyến
khích sự cách biệt về thu nhập và tài sản như thế và vì vậy mà là chế độ
bất công. Điểm nổi bật của chủ nghĩa bình quân là việc sử dụng số liệu
thống kê về phân phối thu nhập. Lấy năm 2007 làm thí dụ, 20% gia đình có
thu nhập cao nhất ở Mĩ kiếm được 50% tổng thu nhập toàn xã hội, trong
khi 20% gia đình có thu nhập thấp nhất chỉ kiếm được có 3,4% thu nhập
toàn xã hội mà thôi. Mục đích của chủ nghĩa bình quân là giảm thiểu sự
cách biệt này, bất kì sự thay đổi nào theo hướng bình đẳng hơn đều được
coi là thắng lợi của công bằng.
Sự
khác nhau của hai quan điểm về công bằng xã hội như thế là do sự khác
nhau giữa mức độ sung túc tuyệt đối và tương đối mà ra. Những người theo
thuyết xã hội phúc lợi đòi hỏi rằng người dân phải được hưởng một mức
sống tối thiểu nào đó. Khi mà mức nền này hay “điểm an toàn” đã có rồi
thì người khác có giàu đến đâu hay mức độ cách biệt giữa người giàu và
người nghèo có lớn đến đâu cũng không còn là vấn đề quan trọng nữa. Như
vậy là, những người theo thuyết xã hội phúc lợi quan tâm trước hết tới
những chương trình làm lợi cho những người nằm dưới mức nghèo khổ, hoặc
những người ốm đau, thất nghiệp hay bị túng thiếu vì những lí do khác
nữa. Còn những người theo thuyết bình quân thì lại quan tâm tới hiện
tượng sung túc tương đối. Những người theo chủ nghĩa bình quân
thì nói rằng họ thích xã hội trong đó tài sản được phân phối một cách
đồng đều hơn, ngay cả khi mức sống của mọi người có thấp hơn. Như vậy
là, những người theo thuyết bình quân chủ nghĩa có xu hướng ủng hộ những
biện pháp của chính phủ như thuế lũy tiến, nhằm tái phân phối của cải
trên toàn bộ thang thu nhập chứ không chỉ chú ý vào những người nằm dưới
đáy. Họ còn có xu hướng ủng hộ việc quốc hữu hóa những loại hàng hóa
như giáo dục và thuốc chữa bệnh, rút tất cả các loại hàng hóa này khỏi
thị trường và cung cấp cho mọi người một cách tương đối bình đẳng.
Xin lần lượt xem xét hai quan niệm về công bằng xã hội đó.
Thuyết xã hội phúc lợi: Nghĩa vụ không thể thoái thác
Giả
thuyết căn bản của thuyết phúc lợi là người dân có quyền nhận những
hàng hóa như thức ăn, nhà ở và chăm sóc sức khỏe. Họ được quyền hưởng
những thứ đó. Theo giả định này thì một người nào đó nhận được lợi ích
từ chương trình của chính phủ chỉ đơn thuần là nhận cái anh ta đáng được
hưởng, tương tự như là người mua nhận món hàng mà anh ta đã trả tiền
rồi. Khi nhà nước chi cho phúc lợi thì đấy đơn thuần là nó đang bảo vệ
quyền của người dân, giống hệt như là nó bảo vệ người mua khỏi bị lừa
dối vậy. Không có gì phải cảm ơn ở đây.
Quan
niệm về quyền hưởng phúc lợi hay như người ta thường gọi là quyền đương
nhiên được hình thành trên cơ sở quyền sống, quyền tự do và quyền sở
hữu của chủ nghĩa tự do truyền thống. Nhưng ở đây có sự khác biệt mà ai
cũng biết. Những quyền mà chủ nghĩa tự do truyền thống nói tới là quyền
hành động mà không bị người khác can thiệp. Quyền sống là quyền hành
động với mục đích là bảo toàn mạng sống của mình. Nó không phải là quyền
không phải chết vì những lí do tự nhiên, thậm chí chết non nữa. Quyền
sở hữu là quyền tự do mua và bán và quyền chiếm làm của riêng những món
hàng vô chủ từ tự nhiên. Đấy là quyền tìm kiếm sở hữu, chứ không phải là
quyền được nhà nước hay tự nhiên ban tặng cho mình, nó cũng không bảo
đảm rằng người ta sẽ thành công trong việc tìm kiếm sở hữu. Cho nên
những quyền này chỉ áp đặt lên những người khác trách nhiệm có tính chất
tiêu cực là không can thiệp, không dùng sức mạnh ngăn chặn người khác
hành động theo ý người đó. Nếu tôi tưởng tượng là mình bị tách ra khỏi
xã hội – thí dụ như sống trên một hòn đảo không người – thì quyền của
tôi sẽ được bảo đảm một cách tuyệt đối. Tôi có thể không sống lâu và
chắc chắn là không sướng, nhưng tôi sẽ sống hoàn toàn tự do khỏi bọn sát
nhân, trộm cắp và hành hung.
Ngược
lại, quyền hưởng phúc lợi được hiểu là quyền chiếm hữu và hưởng thụ một
số vật dụng, không phụ thuộc vào hành động của mình; đấy là quyền có đồ
dùng do người khác cung cấp nếu mình không tự kiếm được. Cho nên những
quyền này áp đặt lên người khác trách nhiệm tích cực. Nếu tôi có quyền
ăn cơm thì một người nào đó phải có trách nhiệm trồng lúa. Nếu tôi không
có tiền trả thì một người nào đó phải mua cho tôi. Những người theo
thuyết xã hội phúc lợi đôi khi biện luận rằng trách nhiệm đó là của toàn
xã hội chứ không phải là của cá nhân cụ thể nào. Nhưng xã hội không
phải là thực thể, càng không phải là người đại diện về mặt đạo đức, đứng
trên các thành viên của nó, cho nên tất cả những trách nhiệm đó đều đổ
hết lên đầu những cá nhân là chúng ta. Khi mà những quyền phúc lợi được
thực hiện thông qua những chương trình của chính phủ, đấy là nói thí dụ
thế, thì trách nhiệm sẽ được phân chia cho những người đóng thuế.
Như
vậy là, từ quan điểm đạo đức thì bản chất của thuyết phúc lợi là giả
định cho rằng nhu cầu của cá nhân là đòi hỏi đặt lên vai những cá nhân
khác. Đòi hỏi này chỉ giới hạn trong một thành phố hay một quốc gia mà
thôi. Nó không thể bao trùm lên toàn thể loài người được. Nhưng dù học
thuyết này có được trình bày như thế nào thì đòi hỏi cũng không phụ
thuộc quan hệ của chúng ta với người đang đòi hỏi đó, nó cũng không phụ
thuộc vào việc ta có muốn giúp hay không, không phụ thuộc vào việc ta
đánh giá kẻ kia là có đáng giúp hay không. Đấy là trách nhiệm không thể
thoái thác, xuất phát từ nhu cầu của kẻ đang đòi hỏi.
Nhưng
chúng ta cần phân tích sâu hơn một chút. Nếu tôi sống một mình trên
hoang đảo thì dĩ nhiên là tôi không có quyền hưởng phúc lợi bởi vì không
có ai ở đó để cung cấp hàng hóa cho tôi. Tương tự như thế, nếu tôi sống
trong xã hội nguyên thủy, khi chưa ai biết thuốc chữa bệnh là gì thì
tôi cũng không có quyền được chữa bệnh. Nội dung của quyền phúc lợi phụ
thuộc vào sự dồi dào về mặt kinh tế và khả năng sản xuất của xã hội. Vì
lẽ đó, trách nhiệm của cá nhân trong việc đáp ứng nhu cầu của người khác
phụ thuộc vào khả năng làm như thế của người đó. Người ta không thể chê
trách tôi vì không cung cấp cho người khác những thứ mà tự tôi không
sản xuất được.
Giả
sử tôi sản xuất được nhưng tôi không muốn cho thì sao? Giả sử tôi có
khả năng kiếm được nhiều hơn thu nhập hiện nay của tôi, thuế thu nhập
đánh vào khoản thu nhập đó sẽ giúp cái người mà không có nó thì sẽ bị
đói. Tôi có phải làm nhiều hơn để có thu nhập cao hơn vì người đó không?
Tôi chưa thấy nhà triết học theo trường phái phúc lợi nào nói như thế.
Những đòi hỏi về mặt đạo đức mà người ta áp đặt cho tôi nhằm thỏa mãn
nhu cầu người khác chưa chắc đã được thực hiện không chỉ vì nó phụ thuộc
khả năng của tôi mà còn phụ thuộc vào việc tôi có muốn làm hay không.
Và
điều này cũng cho ta thấy một số chi tiết quan trọng của mối quan tâm
chính yếu của thuyết phúc lợi. Nó không khẳng định trách nhiệm theo đuổi
việc thỏa mãn các nhu cầu của con người, mà cũng không khẳng định trách
nhiệm phải thu được thành công trong khi làm như thế. Mà đây là trách
nhiệm có tính điều kiện: những người thu được thành công trong việc tạo
ra của cải chỉ có thể làm như thế với điều kiện là những người khác cũng
được phép chia sẻ khối tài sản này. Mục tiêu không phải là làm lợi cho
người khốn khó mà là trói chân trói tay những người có tài. Giả định
ngầm chứa ở đây là tài năng và sáng kiến của cá nhân là tài sản của xã
hội, chúng chỉ có thể được đem ra sử dụng nếu chúng nhắm đến mục tiêu là
phục vụ những người khác.
Chủ nghĩa bình quân: Phân phối “công bằng”
Nếu
quay lại với chủ nghĩa bình quân thì chúng ta cũng sẽ tìm thấy nguyên
tắc tương tự - dĩ nhiên là cách thức lí luận phải khác. Khung đạo đức
của người theo thuyết bình quân chủ nghĩa được xác định bởi quan niệm về
công bằng chứ không phải là quyền. Nếu chúng ta coi xã hội là một tổng
thể thì chúng ta sẽ thấy rằng thu nhập, tài sản và quyền lực được phân
phối giữa các cá nhân và các nhóm theo một kiểu nào đó. Câu hỏi quan
trọng nhất là: cách phân phối hiện nay có công bằng hay không? Nếu không
thì cần phải điều chỉnh bằng các chương trình tái phân phối của chính
phủ. Nền kinh tế thị trường thuần túy dĩ nhiên là không tạo ra quyền
bình đẳng giữa các cá nhân. Nhưng một vài người theo chủ nghĩa bình quân
tuyên bố là công lí đòi hỏi mọi người phải hoàn toàn bình đẳng với
nhau. Quan điểm chung nhất ở đây là giả định rằng mọi người đều ủng hộ
việc chia đều kết quả và bất kì sự bất bình đẳng nào cũng chỉ được chấp
nhận nếu nó làm lợi cho toàn thể xã hội. Nhà văn người Anh, tên là R. H.
Tawney, từng viết: “Sự bất bình đẳng chỉ được coi là hợp lí trong chừng
mực mà nó là điều kiện cần để bảo đảm hoàn thành những công việc mà
cộng đồng cần”. “Nguyên tắc chênh lệch” nổi tiếng của John Rawls – cho
rằng bất bình đẳng được thừa nhận khi nó phục vụ cho quyền lợi của những
người kém may mắn nhất trong xã hội – là thí dụ gần đây nhất của cách
tiếp cận như thế. Nói cách khác, người theo chủ nghĩa bình quân công
nhận rằng cào bằng tuyệt đối sẽ gây ra những hậu quả thảm khốc đối với
quá trình sản xuất. Họ thừa nhận rằng không phải ai cũng có đóng góp như
nhau đối với của cải của xã hội. Vì vậy mà ở mức độ nào đó, người ta
phải được tưởng thưởng phù hợp với khả năng sản xuất của họ, đây được
coi là sự khích lệ để người ta cống hiến hết khả năng của mình. Nhưng
những thứ cần thiết cho lợi ích xã hội thì sự chênh lệch như thế phải bị
hạn chế.
Cơ
sở triết học của nguyên tắc đó là gì? Người theo chủ nghĩa bình quân
thường biện luận rằng nó xuất phát từ nguyên tắc căn bản của công lí:
những người có đạo đức khác nhau thì mới bị đối xử khác nhau. Nhưng nếu
chúng ta áp dụng nguyên tắc căn bản này cho việc phân phối thu nhập thì
trước tiên chúng ta phải giả định rằng xã hội đã tham gia theo nghĩa đen
vào hành động phân phối thu nhập. Giả định như thế là sai. Trong nền
kinh tế thị trường thu nhập được quyết định bởi sự lựa chọn của hàng
triệu cá nhân – người tiêu dùng, nhà đầu tư, doanh nhân và người lao
động. Sự lựa chọn này lại được điều tiết bởi luật cung cầu và không phải
ngẫu nhiên mà doanh nhân thành đạt có thu nhập cao gấp nhiều lần người
lao động công nhật. Nhưng đấy không phải là ý định của xã hội. Năm 2007
người làm trong lĩnh vực giải trí ở Mĩ được trả lương cao nhất là Oprah
Winfrey, với thu nhập khoảng 260 triệu dollar. Nhưng đấy không phải “xã
hội” quyết định là bà ta đáng được như thế mà vì có hàng triệu khán giả
cho rằng những buổi nói chuyện của bà là đáng xem. Ngay cả trong nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa, như chúng ta đã thấy, các nhà lập kế hoạch của
nhà nước cũng không kiểm soát được kết quả hoạt động kinh tế. Ngay cả ở
đây cũng vẫn tồn tại trật tự tự phát - mặc dù đã bị làm sai lạc đi –
trong đó kết quả hoạt động kinh tế được quyết định bởi những cuộc đấu đá
trong bộ máy quản lí, chợ đen..v..v..
Mặc
dù không có những hành động phân phối theo nghĩa đen của từ này, nhưng
người theo chủ nghĩa bình quân thường biện luận rằng xã hội có trách
nhiệm bảo đảm rằng phân phối thu nhập đáp ứng được một số tiêu chuẩn về
công bằng. Tại sao? Vì sản xuất là quá trình hợp tác, là quá trình mang
tính xã hội. Xã hội thương mại và phân công lao động làm ra nhiều của
cải hơn là xã hội của những người tự sản tự tiêu. Phân công lao động có
nghĩa là nhiều người đóng góp vào sản phẩm cuối cùng, còn thương mại thì
có nghĩa là còn có nhiều người nữa có trách nhiệm đối với sản phẩm cuối
cùng của người sản xuất. Như vậy là những mối quan hệ này đã chuyển hóa
quá trình sản xuất, người theo chủ nghĩa bình quân nói như thế, cho nên
nhóm người tham gia phải được coi là một đơn vị sản xuất và là nguồn
gốc thực sự của tài sản. Ít nhất đấy cũng là nguồn gốc của sự khác biệt
về tài sản giữa xã hội hợp tác và xã hội thiếu sự hợp tác. Vì vậy mà xã
hội phải bảo đảm rằng thành quả của sự hợp tác được phân phối một cách
công bằng cho tất cả những người tham gia.
Nhưng
luận cứ này chỉ có giá trị nếu ta coi của cải là sản phẩm xã hội ẩn
danh, không thể phân biệt được đóng góp của từng cá nhân. Chỉ có trong
trường hợp như thế thì mới cần nghĩ ra những nguyên tắc phân phối công
bằng theo-đuôi-sự-kiện để có thể chia đều sản phẩm mà thôi. Nhưng, một
lần nữa, đây là giả định sai lầm. Cái gọi là sản phẩm xã hội trên thực
tế lại là một loạt sản phẩm và dịch vụ của những cá nhân hiện hữu trên
thương trường. Chắc chắn là có thể nhận biết được sản phẩm hay dịch vụ
của từng cá nhân trong quá trình sản xuất. Và có thể xác định được ai đã
làm gì sau khi sản phẩm được một nhóm người làm ra. Mà nói cho cùng thì
người sử dụng lao động không thuê công nhân chỉ vì ông ta thích như
thế. Người công nhân được thuê là vì anh ta sẽ có đóng góp sự khác biệt
của mình vào sản phẩm cuối cùng. Người theo chủ nghĩa bình quân cũng
công nhận sự kiện này khi họ cho rằng bất bình đẳng là có thể chấp nhận
được nếu nó là biện pháp khuyến khích nhằm gia tăng năng suất lao động.
Để đảm bảo rằng biện pháp khuyến khích được trao đúng người, như Robert
Nozick nhận xét, ngay cả những người theo chủ nghĩa bình quân cũng thừa
nhận là chúng ta có thể xác định được đóng góp của từng cá nhân. Nói tóm
lại, không có căn cứ để có thể áp dụng khái niệm phân phối công bằng
thu nhập hay của cải trong toàn bộ nền kinh tế. Chúng ta phải từ bỏ bức
tranh về một cái bánh to, đang được những ông bố bà mẹ nhân từ chia đều
cho các con ngay bên bàn ăn.
Một
khi đã từ bỏ bức tranh này rồi thì sẽ phải đối xử như thế nào với
nguyên tắc do Tawney, Rawls và những người khác đề xuất: bất bình đẳng
là có thể được chấp nhận, khi và chỉ khi nó phục vụ cho quyền lợi của
mọi người? Nếu nguyên tắc này không có nguồn gốc từ công lí thì nó phải
được coi là vấn đề trách nhiệm mà chúng ta phải có với tha nhân. Khi xem
xét nó dưới góc độ này, chúng ta có thể thấy nó cũng là nguyên tắc mà
chúng ta coi là căn cứ của quyền hưởng phúc lợi. Nguyên tắc cho rằng
những người làm việc có hiệu quả có thể hưởng thành quả của mình với
điều kiện là những cố gắng của họ cũng làm lợi cho người khác. Nguyên
tắc này không nói tới trách nhiệm sản xuất, sáng tạo hay kiếm được thu
nhập. Nhưng nếu bạn làm như thế, nhu cầu của những người khác sẽ xuất
hiện và là trở ngại đối với những hành động của bạn. Khả năng của bạn,
sáng kiến của bạn, trình độ học vấn của bạn, sự cống hiến của bạn cho
mục tiêu của mình và tất cả những phẩm chất làm nên thành công của bạn,
là tài sản của bạn lại buộc bạn phải có trách nhiệm với những người kém
cỏi hơn, ít sáng kiến hơn, ít kiến thức hơn và không chịu cống hiến như
bạn.
Nói
cách khác, kiểu nào thì công bằng xã hội cũng dựa vào giả định cho rằng
khả năng của cá nhân là tài sản của xã hội. Giả định không nói rằng cá
nhân không thể sử dụng tài năng của anh ta để chà đạp lên quyền của
những người yếu đuối hơn. Giả định cũng không nói rằng lòng tốt và hào
phóng là những đức tính tốt. Nó chỉ nói rằng cá nhân phải coi mình - ít
nhất là một phần – là phương tiện để làm lợi cho người khác. Và như vậy
là chúng ta đã đến điểm mấu chốt của vấn đề. Khi tôn trọng quyền của
người khác là tôi công nhận rằng họ có mục đích sống của họ, rằng tôi
không được coi họ chỉ là phương tiện nhằm thỏa mãn những khát vọng của
mình như tôi vẫn đối xử với những đối tượng vô tri vô giác. Thế thì tại
sao lại không coi tôi là mục đích của chính mình? Tại sao tôi lại không
chấp nhận – do tôn trọng phẩm giá của mình, như là một người có nhân
cách - việc coi mình là phương tiện phục vụ những người khác?
Nói về đạo đức của chủ nghĩa cá nhân
Còn
lời biện hộ cho chủ nghĩa tư bản của Ayn Rand lại dựa vào đạo đức của
chủ nghĩa cá nhân, tức là nền đạo đức công nhận quyền theo đuổi quyền
lợi cá nhân và bác bỏ chủ nghĩa vị tha ngay từ căn để của nó.
Những
người theo thuyết vị tha biện luận rằng cuộc đời đưa cho chúng ta một
sự lựa chọn căn bản như sau: vì mục đích của mình chúng ta sẵn sàng hi
sinh người khác hoặc chúng ta sẵn sàng hi sinh vì người khác. Hi sinh
vì người khác là đường lối hành động của những người theo thuyết vị tha,
và giả định cho rằng sống khác đi là lợi dụng người khác. Nhưng theo
Rand thì đặt vấn đề như thế là sai. Cuộc sống không đòi hỏi phải hi sinh
theo bất kì hướng nào. Quyền lợi của những người có lí trí không hề mâu
thuẫn nhau và việc theo đuổi quyền lợi thực sự đòi hỏi chúng ta phải cư
xử với người khác một cách hòa bình và trao đổi tự nguyện.
Muốn
biết tại sao, xin hãy xem cách chúng ta quyết định cái gì là tư lợi.
Quyền lợi là giá trị mà chúng ta tìm kiếm: của cải, khoái lạc, an toàn,
tình yêu, lòng tự trọng hay một số lợi ích khác. Triết lí đạo đức của
Rand dựa trên nhận thức sâu sắc rằng giá trị quan trọng nhất, điều thiện
tối thượng [summum bonum] chính là cuộc sống. Đấy là sự tồn tại của các
sinh vật sống, là nhu cầu duy trì sự sống của chúng thông qua những
hoạt động thường trực nhằm đáp ứng các nhu cầu của chúng, chính những
nhu cầu này tạo ra toàn bộ hiện tượng giá trị. Thế giới không có cuộc
sống là thế giới của sự kiện chứ không phải là thế giới của giá trị, là
thế giới trong đó không thể có tình trạng được gọi là tốt hơn hay xấu
hơn bất kì tình trạng nào khác. Cuộc sống chính là tiêu chuẩn giá trị
nền tảng để con người quyết định cái gì là quyền lợi của anh ta: không
phải là sống sót từ thời điểm này tới thời điểm kia, mà là thỏa mãn tất
cả những nhu cầu của anh ta bằng cách sử dụng năng lực của anh ta.
Năng
lực quan trọng nhất của con người, phương tiện quan trọng nhất để anh
ta có thể sống sót, chính là khả năng tư duy của anh ta. Đấy là nguyên
nhân giúp chúng ta có thể sống bằng sản xuất và nâng mình lên khỏi mức
sống bấp bênh thời săn bắn và hái lượm. Tư duy là cơ sở của ngôn ngữ,
mà ngôn ngữ chính là phương tiện để cho chúng ta hợp tác và chuyển giao
kiến thức. Tư duy là nền tảng của các định chế xã hội được quản lí bằng
những luật lệ trừu tượng. Mục đích của đức dục là cung cấp cho người ta
các tiêu chuẩn sống phù hợp với lí trí, nhằm phục vụ cho đời sống của
chúng ta.
Để
sống theo lí trí thì chúng ta phải coi tự chủ là đức hạnh. Tư duy là
năng lực của cá nhân. Chúng ta học được từ người khác những gì không
phải là điều quan trọng, hành động tư duy chỉ xảy ra trong bộ não của
từng cá nhân. Nó phải được bắt đầu trong mỗi chúng ta, bằng sự lựa chọn
của chúng ta và được hướng dẫn bởi nỗ lực tinh thần của mỗi chúng ta.
Như vậy là, lí trí đòi hỏi rằng chúng ta phải chịu trách nhiệm hướng dẫn
và duy trì đời sống của chúng ta.
Để
sống theo lí trí thì chúng ta phải coi hiệu quả sản xuất là đức hạnh.
Sản xuất là tạo ra giá trị. Con người không thể được an toàn và thỏa mãn
nếu chỉ sống qua ngày bằng cách tìm trong tự nhiên những gì họ cần,
tương tự như các loài động vật vẫn làm. Họ cũng không thể ăn bám vào
người khác. “Nếu con người tìm cách sống bằng những phương tiện bạo lực
hay gian lận, bằng cách cướp đoạt, trộm cắp, lừa dối hay nô dịch người
sản xuất, thì đúng là họ chỉ có thể sống dựa vào nạn nhân của họ, dựa
vào những người tìm cách suy nghĩ và sản xuất ra những món hàng mà những
kẻ cướp bóc tước đoạt. Những kẻ cướp bóc đó là những tên ăn bám bất
tài, chúng chỉ tồn tại bằng cách phá hoại những người có tài, những
người theo đuổi đường lối hành động xứng đáng với con người”, Rand biện
luận như thế.
Người
ích kỉ thường nói mình là người sẽ làm bất kì việc gì để đạt được điều
mình mong muốn – nói dối, ăn cắp và tìm cách khuynh đảo người khác nhẳm
thỏa mãn những khát vọng của mình. Tương tự như đa số người khác, Rand
coi cách sống như thế là vô đạo đức. Nhưng bà lập luận rằng nó vô đạo
đức không phải vì làm hại những người khác. Nó vô đạo đức vì làm hại
chính mình. Ước muốn chủ quan không phải là thước đo xem một vật hay sự
kiện nào đó có thuộc quyền lợi của ta hay không, còn lừa dối, trộm cắp
và quyền lực cũng không phải là phương tiện dẫn đến hạnh phúc hay cuộc
đời thành đạt. Đức hạnh mà tôi nhắc tới bên trên là tiêu chuẩn khách
quan. Chúng ăn sâu bén rễ ngay trong bản chất của con người và vì vậy mà
được áp dụng cho tất cả mọi người. Nhưng mục đích của chúng là giúp cho
từng cá nhân “đạt được, duy trì, thực hiện và thụ hưởng giá trị tối
thượng, mục tiêu nằm trong chính nó mà cũng là đời sống của mỗi người”.
Như vậy là, mục đích của đức dục là chỉ cho chúng ta cách tìm những
quyền lợi thực tế của mình chứ không phải là cách hi sinh những quyền
lợi đó.
Nguyên tắc thương mại
Vậy
thì chúng ta phải đối xử với người khác như thế nào? Lí thuyết về đạo
đức xã hội của Rand dựa trên hai nguyên lí nền tảng: nguyên lí về quyền
và nguyên lí về công bằng. Nguyên lí về quyền nói rằng chúng ta phải đối
xử với người khác một cách hòa bình, bằng trao đổi tự nguyên, không
được sử dụng vũ lực trước. Chỉ có bằng cách đó chúng ta mới có thể sống
một cách độc lập, trên cơ sở những hoạt động sản xuất của riêng mình;
còn những kẻ sống bằng cách chế ngự những người khác chính là những kẻ
ăn bám. Hơn thế nữa, sống trong một xã hội có tổ chức chúng ta phải tôn
trọng quyền của người khác, đấy là nói nếu ta muốn người ta cũng tôn
trọng quyền của mình. Chỉ bằng cách đó chúng ta mới nhận được nhiều lợi
ích từ tương tác xã hội: lợi ích từ trao đổi kinh tế và trí tuệ cũng như
những giá trị của những quan hệ cá nhân riêng tư hơn. Nguồn gốc của
những lợi ích này là lí trí, hiệu quả, cá tính của mỗi người, và tất cả
những điều đó lại đòi hỏi tự do để có thể đơm hoa kết trái. Nếu tôi sống
dựa vào vũ lực, có nghĩa là tôi tấn công ngay vào nền tảng của những
giá trị mà tôi tìm kiếm.
Nguyên
tắc công bằng được Rand gọi là nguyên tắc thương mại: sống dựa vào mua
bán, dùng giá trị để đổi lấy giá trị, không tìm kiếm những thứ mà mình
không xứng đáng, cũng không cho ai những thứ mà họ không xứng đáng nhận.
Người chính trực là người không đòi hỏi người khác đáp ứng nhu cầu của
mình, người đó đề nghị một giá trị làm cơ sở cho mối quan hệ. Người đó
cũng không chấp nhận nghĩa vụ không thể thoái thác là phải phục vụ nhu
cầu của những người khác. Không có người nào, đấy là nói những gười biết
coi trọng đời sống của mình, lại chấp nhận trách nhiệm vô thời hạn là
trở thành người trông coi người anh hoặc em của mình. Cũng như không một
người tự lập nào lại muốn được ông chủ hay Vụ y tế và Nhân lực bảo trợ
hết. Nguyên tắc thương mại, như Rand quan niệm, là nền tảng duy nhất, để
con người dựa vào trong khi đối xử với nhau như những cá nhân bình
đẳng.
Nói
ngắn, đạo đức khách quan coi các cá nhân là mục đích nằm trong chính họ
với toàn bộ ý nghĩa của thuật ngữ này. Ngụ ý là chủ nghĩa tư bản là hệ
thống duy nhất đúng đắn và hợp đạo lí. Xã hội tư bản là xã hội dựa trên
sự công nhận và bảo vệ các quyền cá nhân. Trong xã hội tư bản con người
được tự do theo đuổi mục đích của mình - bằng cách sử dụng trí tuệ của
mình. Cũng như trong bất kì xã hội nào, con người bị qui luật tự nhiên
bó buộc. Thức ăn, nhà ở, quần áo, sách vở và thuốc chữa bệnh không mọc
trên cây, chúng phải được con người sản xuất ra. Và cũng như trong bất
kì xã hội nào, con người bị những hạn chế thuộc về bản chất của mình, bị
khả năng của mình, bó buộc. Nhưng bó buộc duy nhất mà chủ nghĩa tư bản
áp đặt lên các cá nhân là yêu cầu những người muốn được người khác phục
vụ phải đền đáp. Không ai được sử dụng nhà nước làm công cụ tước đoạt
những sản phẩm do người khác làm ra.
Kết
quả trên thương trường – phân phối thu nhập và của cải – phụ thuộc vào
hành động và tương tác tự nguyện của tất cả những người tham gia. Khái
niệm công bằng không áp dụng cho kết quả mà áp dụng cho quá trình hoạt
động kinh tế. Thu nhập của một người là công bằng nếu đấy là kết quả của
quá trình trao đổi tự nguyện, là phần thưởng cho giá trị món hàng mà
người đó chào, và được đánh giá bởi những đối tác của người đó. Các nhà
kinh tế học đã biết từ lâu rằng không có cái gọi là mức giá đúng cho một
món hàng, đấy chỉ là đánh giá của những người tham gia trên thương
trường về giá trị của món hàng mà người ta đưa ra cho họ mà thôi. Điều
đó cũng đúng khi nói về giá trị của lao động sản xuất của con người.
Điều đó không có nghĩa là nói tôi phải dùng mức thu nhập để đo giá trị
của mình, mà chỉ muốn nói là nếu tôi muốn sống bằng giao dịch với những
người khác thì tôi không thể đòi hỏi họ chấp nhận điều kiện của tôi bằng
cách hi sinh quyền lợi cá nhân của chính họ.
Lòng nhân ái là giá trị do người ta tự chọn
Thế
những người nghèo, người tàn tật, người vì lí do nào đó không thể tự
kiếm sống được thì sao? Đây là một câu hỏi hợp lí, với điều kiện là nó
không phải là câu hỏi đầu tiên về hệ thống xã hội. Dùng cách thức xã hội
đối xử với những người có năng suất lao động thấp nhất làm tiêu chuẩn
đầu tiên để đánh giá xã hội là di sản của chủ nghĩa vị tha. “Phúc cho những kẻ có tinh thần khó nghèo”, Jesus nói, “Phúc cho những kẻ hiền lành”
Nhưng
về mặt pháp lí, chẳng có cơ sở nào để ta phải kính trọng người nghèo
hay người hiền lành hay phải coi nhu cầu của họ là quan trọng nhất. Nếu
chúng ta phải lựa chọn giữa xã hội theo chủ nghĩa tập thể, trong đó
chẳng có ai được tự do nhưng cũng không có ai bị đói và xã hội theo chủ
nghĩa cá nhân trong đó mọi người đều được tự do nhưng có một số người bị
đói thì tôi xin khẳng định rằng xã hội tự do là lựa chọn phù hợp với
đạo lí. Không ai có quyền ép buộc người khác phải phục vụ anh ta, ngay
cả nếu cuộc sống của anh ta phụ thuộc vào sự giúp đỡ của người khác.
Nhưng
đây không phải là sự lựa chọn mà chúng ta đang gặp. Trên thực tế, người
nghèo trong chế độ tư bản sống sướng hơn là trong chế độ xã hội chủ
nghĩa, thậm chí sướng hơn là trong các nước phúc lợi. Sự kiện lịch sử là
những xã hội, trong đó không người nào được tự do – như Liên Xô trước
đây – là những xã hội trong đó có nhiều người bị đói hơn.
Tất
cả những người có khả năng lao động đều hết sức quan tâm tới sự phát
triển kinh tế và công nghệ, mà trong xã hội thị trường những thứ này lại
có tốc độ phát triển nhanh nhất. Đầu tư tài chính và sử dụng máy móc
cho phép sử dụng những người mà nếu không có tư bản và máy móc thì sẽ
không thể kiếm đủ ăn. Thí dụ như máy tính và các phương tiện liên lạc
hiện nay đã cho phép những người tàn tật nhất có thể làm việc ngay tại
nhà. Còn đối với những người không thể nào làm việc được, xã hội tự do
bao giờ cũng có nhiều hình thức trợ giúp tư nhân và các tổ chức từ thiện
bên ngoài thương trường: những tổ chức chăm sóc người nghèo, các hội từ
thiện và những hình thức khác. Liên quan đến vấn đề này, xin nói rõ
rằng ở đây không có mâu thuẫn giữa chủ nghĩa vị kỉ với lòng nhân ái. Do
nhiều lợi ích mà ta thu được trong khi giao dịch với người khác cho nên
tự nhiên là ta phải đối xử với những người đồng bào của mình trong tinh
thần nhân ái, thông cảm với những điều không may của họ, và giúp đỡ họ
nếu sự trợ giúp này không đòi hỏi phải hi sinh quyền lợi của chính chúng
ta. Nhưng có một sự khác biệt to lớn giữa khái niệm nhân ái của thuyết
vị kỉ và thuyết vị tha.
Đối
với người theo thuyết vị tha thì hào phóng với người khác là tiêu chuẩn
đạo đức quan trọng nhất, và phải hào phóng đến mức bị thiệt, theo
nguyên tắc “trao tặng cho đến lúc cảm thấy đau”. Trách nhiệm đạo đức là
trao tặng, không cần biết đến những giá trị khác mà người ta có, còn
người nhận thì có quyền nhận. Đối với người theo thuyết vị kỉ thì hào
phóng là một trong nhiều phương tiện để theo đuổi những giá trị của
mình, kể cả giá trị là nhắm tới hạnh phúc của tha nhân. Trao tặng phải
được thực hiện trong bối cảnh của những giá trị khác mà người ta có,
trên nguyên tắc “cho nếu có ích”. Đấy không phải là trách nhiệm, người
nhận cũng không có quyền yêu cầu. Người theo thuyết vị tha có xu hướng
coi hào phóng như một sự chuộc lỗi, dựa trên giả định rằng có một cái gì
đó tội lỗi hay đáng ngờ khi mình là người có khả năng, là người thành
đạt, làm việc có năng suất hay giàu có. Còn người theo thuyết vị kỉ thì
coi những phẩm chất đó là đức hạnh và hào phóng là biểu hiện của niềm tự
hào.
Cuộc cách mạng thứ tư
Tôi
đã nói ngay từ đầu rằng chủ nghĩa tư bản là kết quả của ba cuộc cách
mạng, mỗi cuộc cách mạng đều là một sự đoạn tuyệt triệt để với quá khứ.
Cách mạng chính trị đặt quyền con người và nguyên tắc chính phủ là đầy
tớ chứ không phải là ông chủ lên vị trí tối thượng. Cuộc cách mạng kinh
tế mang tới những hiểu hiết về thị trường. Cách mạng công nghiệp khuếch
trương việc áp dụng kiến thức vào quá quá trình sản xuất. Nhưng loài
người chưa bao giờ đoạn tuyệt với quá khứ đạo đức của mình. Nguyên tắc
đạo đức cho rằng tài năng của mỗi người đều là tài sản của xã hội là
không phù hợp với xã hội tự do. Nếu tự do là sống và thịnh vượng thì
chúng ta cần một cuộc cách mạng nữa, đấy là cuộc cách mạng trong lĩnh
vực đạo đức, cuộc cách mạng sẽ thiết lập quyền của mỗi cá nhân trong
lĩnh vực đạo đức, tức là quyền sống cho chính mình.
Thị trường và đạo đức (Kì 12)
Tom G. Palmer
Adam Smith và huyền thoại về lòng tham
Phạm Nguyên Trường dịch
Trong
tiểu luận này, tác giả kết liễu huyền thoại về một ông Adam Smith ngây
thơ, một người tin rằng chỉ cần dựa vào “tính tư lợi” là có thể tạo ra
được sự thịnh vượng. Những người nói như thế về Smith dường như chỉ mới
đọc một vài trích đoạn từ các công trình của ông và không biết rằng ông
đặc biệt chú ý nhấn mạnh vai trò của định chế và hậu quả tai hại của
hành động tự tư tự lợi, được thực hiện thông qua những định chế cưỡng
bức của nhà nước. Chế độ pháp quyền, quyền sở hữu, hợp đồng và trao đổi
biến tính tư lợi thành lợi ích của cả hai bên, trong khi tình trạng vô
luật pháp và không tôn trọng quyền tư hữu làm cho tính tư lợi trở thành
hoàn toàn khác và rất có hại.
Người
ta thường nghe nói Adam Smith tin là dân chúng chỉ hành động vì tính
ích kỉ của mình và mọi người sẽ thoải mái trong một thế giới mà “Lòng
tham làm cho thế giới chuyển động”. Dĩ nhiên là Smith không tin rằng chỉ
dựa vào những động cơ ích kỉ ta có thể làm cho thế giới trở thành tốt
đẹp hơn, ông cũng không khuyến khích hay cỗ vũ cho những hành động ích
kỉ. Cuộc thảo luận sâu rộng vai trò của “người quan sát vô tư” trong
tác phẩm Lí thuyết về cảm nhận đạo đức (The Theory of Moral Sentiments)
phải đặt dấu chấm hết cho sự hiểu lầm như thế. Smith không phải là
người biện hộ cho tính ích kỉ, mà ông cũng không ngây thơ đến mức tin
rằng hết lòng vì hạnh phúc của người khác (hoặc bày tỏ thái độ như thế)
có thể làm cho thế giới trở thành tốt đẹp hơn. Như Steven Holmes đã nhận
xét trong tiểu luận Bí ẩn của lịch sử về thói tư lợi (The Secret History of Self-Interest)[1] rằng
Smith biết rất rõ hậu quả tai hại của những tình cảm “bất vụ lợi” như
đố kị, ác ý, thù hằn, cuồng tín và những tình cảm tương tự như thế.
Những kẻ cuồng tín bất vụ lợi của Tòa án dị giáo Tây Ban Nha làm những
việc mà họ làm vì hi vọng rằng trong giây phút đau đớn tột cùng, những
kẻ dị giáo có thể sẽ sám hối và được Chúa tha thứ. Người ta gọi đấy là
cứu rỗi. Trong huấn thị dành cho những quan tòa của toà án dị giáo,
Humbert de Romans nhấn mạnh rằng họ được cộng đoàn cho phép áp dụng
những hình phạt đối với những kẻ dị giáo vì: “Chúng tôi cầu xin Chúa và
cầu xin các vị rằng các vị phải cùng với tôi cầu xin ngài rằng nhờ lòng
từ bi của ngài mà ngài sẽ làm cho những kẻ bị trừng phạt nhẫn nại chịu
đựng hình phạt mà chúng ta định thực hiện đối với họ (theo yêu cầu của
công lí, nhưng đau đớn), những hình phạt có thể làm cho họ được cứu rỗi.
Vì vậy mà chúng ta áp dụng những hình phạt như thế”[2].
Theo quan điểm của Smith thì người hết lòng vì hạnh phúc của người khác
cũng chẳng phải là người đức hạnh hơn những thương nhân bị nghi ngờ là
ích kỉ đang tìm cách làm giàu bằng cách bán bia và bán cá muối cho những
người đang đói khát.
Nói
chung, Smith không phải là người biện hộ cho những hành vi ích kỉ vì
những động cơ như thế có dẫn tới – “như bởi một bàn tay vô hình” – sự
gia tăng quyền lợi chung còn phụ thuộc rất nhiều vào bối cảnh của hành
động, nhất là môi trường định chế. Đôi khi ước muốn hoàn toàn mang tính
vị kỉ là được người khác yêu – buộc chúng ta phải nghĩ về hình ảnh của
mình trong mắt những người khác - có thể làm ta chấp nhận một quan niệm
đạo đức nào đó. Trong khung cảnh quan hệ cá nhân hạn hẹp, được mô tả
trong Lí thuyết về cảm nhận đạo đức, động cơ như thế có thể góp
phần tạo ra lợi ích chung vì “ước muốn trở thành những người được người
khác yêu mến, trở thành người đáng yêu và đáng hâm mộ như những người mà
chúng ta yêu quí và hâm mộ nhất” đòi hỏi chúng ta phải “trở thành người
quan sát không thiên vị tính cách và đạo đức của mình”[3].
Ngay cả khi tính tư lợi rõ ràng là quá mức nhưng trong môi trường định
chế đúng đắn thì vẫn có thể có lợi cho những người khác. Đấy là câu
chuyện Smith kể về con một người đàn ông nghèo, tham vọng của anh ta đã
buộc anh ta làm việc không biết mệt để rồi sau khi có một gia tài thì
lại cảm thấy mình không hạnh phúc hơn một gã ăn mày đang nằm phơi nắng
bên vệ đường. Việc theo đuổi tư lợi quá đáng của con trai người đàn ông
nghèo kia đã mang lại lợi ích cho nhân quần vì anh ta đã sản xuất và
tích cóp được tài sản làm cho nhiều người khác có thể sống được vì “nhờ
lao động của con người mà đất đai màu mỡ hơn và có thể nuôi sống được
nhiều người hơn”[4].
Còn trong bối cảnh kinh tế chính trị học rộng lớn hơn, được mô tả trong tác phẩm Tài sản của các quốc gia (An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations),
nhất là những bối cảnh liên quan đến các định chế của nhà nước thì việc
theo đuổi tư lợi có vẻ như không tạo ra những kết quả tích cực như thế.
Thí dụ như vì theo đuổi quyền lợi riêng tư mà thương nhân vận động nhà
nước thành lập các tập đoàn độc quyền, thực hiện chủ nghĩa bảo hộ, thậm
chí là gây chiến nữa: “Hi vọng rằng một lúc nào đó tự do thương mại sẽ
được tái lập hoàn toàn ở Anh quốc là hi vọng hão huyền, chẳng khác gì hi
vọng một ngày nào đó Xã hội không tưởng được thiết lập tại đây. Không
chỉ các định kiến của xã hội mà quyền lợi riêng tư không thể nào chế ngự
được của rất nhiều người cũng sẽ chống lại nó”[5].
Lợi ích vặt vãnh mà những người buôn bán thu được nhờ các doanh nghiệp
độc quyền tạo ra gánh nặng khủng khiếp cho xã hội dưới hình thức các nhà
nước đế quốc và chiến tranh:
Trong
hệ thống luật pháp được thiết lập để quản lí các thuộc địa của chúng ta
ở Mĩ và Tây Ấn, quyền lợi của người tiêu dùng chính quốc đã bị hi sinh
cho lợi ích của những nhà sản xuất nhiều hơn là những qui định về thương
mại khác của chúng ta. Một đế chế lớn hơn đã được thiết lập chỉ nhằm
một mục đích duy nhất là tạo ra đất nước của những người tiêu dùng,
những người buộc phải mua từ cửa hàng của những nhà sản xuất khác nhau
tất cả các món hàng mà họ có thể cung cấp. Chỉ vì muốn giữ giá cao, tức
là giá mà sự độc quyền có thể bảo đảm cho các nhà sản xuất của chúng ta,
mà người tiêu cùng ở chính quốc phải gánh trên vai mình toàn bộ chi phí
cho sự giữ gìn và bảo vệ đế chế đó. Để thực hiện mục tiêu đó, và chỉ
vì mục tiêu đó mà thôi, mà trong hai cuộc chiến tranh gần đây người ta
chi tới hai trăm triệu đồng và ngoài tất cả những khoản chi cho cùng mục
tiêu đó trong những cuộc chiến trước, đất nước còn mắc thêm một khoản
nợ mới là hơn một trăm bảy mươi triệu đồng nữa. Tiền lãi của khoản nợ
này không chỉ lớn hơn toàn bộ lợi nhuận do độc quyền buôn bán với thuộc
địa mang lại mà còn lớn hơn toàn bộ giá trị của ngành thương mại này hay
lớn hơn giá trị xuất khẩu trung bình hàng năm tới các thuộc địa đó[6].
Như
vậy là, quan điểm của Smith, nếu thể hiện bằng ngôn từ của Gordon
Gecko, một nhân vật trong bộ phim Wall Street của Oliver Stone “lòng
tham là tốt” thì câu trả lời dứt “cũng có lúc tốt, cũng có lúc xấu” (với
giả định rằng tất cả những hành vi tư lợi đều bị coi là “tham” hết).
Khác nhau như thế là ở môi trường pháp lí.
Còn
về quan điểm của nhiều người cho rằng thị trường cổ vũ cho những hành
động ích kỉ, rằng tâm lí sinh ra trong quá trình trao đổi khuyến khích
tính ích kỉ? Tôi chẳng thấy có lí do gì để nghĩ rằng thị trường khuyến
khích thói ích kỉ hay lòng tham hết, theo nghĩa là tương tác trên thương
trường làm cho người ta tham hơn hoặc làm người ta ích kỉ hơn, so với
những xã hội do nhà nước bao cấp, tức là nhà nước đè nén hoặc ngăn chặn
hay cản trở hoặc có những hành động quấy nhiễu thị trường. Trên thực tế,
thị trường làm cho những hành động vị tha nhất cũng như ích kỉ nhất có
cơ hội bộc lộ, nhằm thúc đẩy những mục tiêu của chúng một cách hòa bình.
Những người dành trọn đời mình cho việc giúp đỡ những người khác sử
dụng thị trường để thúc đẩy những mục tiêu của họ cũng chẳng khác gì
những người mà mục tiêu là gia tăng khối tài sản của họ. Một số người
tìm cách tích tụ tài sản còn nhằm mục đích là làm cho họ có nhiều khả
năng giúp đỡ người khác hơn. George Soros và Bill Gates là những thí dụ
như thế, họ kiếm được hàng núi tiền, một phần là để gia tăng khả năng
giúp đỡ tha nhân thông qua những hoạt động nhân đạo của họ. Kiếm được
tài sản trong quá trình tìm kiếm lợi nhuận làm cho họ trở thành những
người hào phóng hơn.
Những
người nhân đức hay các vị thánh thường thích sử dụng tài sản có sẵn để
nuôi ăn, cung cấp quần áo mặc và ai ủi cho càng nhiều người càng tốt.
Thị trường tạo điều kiện cho người ta tìm được những tấm chăn, thức ăn,
thuốc chữa bệnh với giá thấp nhất để có thể chăm sóc cho những người cần
giúp đỡ. Thị trường tạo điều kiện cho người ta tạo ra tài sản để có thể
sử dụng vào việc giúp đỡ những người bất hạnh và tạo điều kiện cho
những người từ tâm tăng đến mức tối đa khả năng giúp đỡ người khác của
họ. Thị trường làm cho những người từ tâm có của mà bố thí.
Sai
lầm của nhiều người là coi mục tiêu của người ta chỉ là “tư lợi”, rồi
sau đó lại lẫn lộn tư lợi với “ích kỉ”. Mục tiêu của những người tham
gia thị trường là mục tiêu của bản thân, nhưng như những con người sống
có mục đích, chúng ta còn lo lắng đến quyền lợi và hạnh phúc của những
người khác nữa – các thành viên trong gia đình, bạn bè, hàng xóm và thậm
chí những người hoàn toàn xa lạ, những người chúng ta chẳng bao giờ
gặp. Thực ra, thị trường tạo điều kiện cho người ta để ý tới nhu cầu của
tha nhân, kể cả những người hoàn toàn xa lạ.
Philip
Wicksteed đề nghị cách xử lí tế nhị hơn với động cơ trong mua bán trên
thương trường. Thay vì sử dụng “tính ích kỉ” để mô tả động cơ trong việc
tham gia vào thương trường (người ta có thể ra chợ để mua thức ăn cho
người nghèo, thí dụ như thế) thì ông đặt ra thuật ngữ “không quan tâm
tới quyền lợi của đối tác”[7].
Chúng ta có thể bán sản phẩm của mình lấy tiền để giúp bạn bè của chúng
ta, thậm chí giúp những người hoàn toàn xa lạ, nhưng khi chúng ta mặc
cả giá thấp nhất hoặc giá cao nhất thì chúng ta hiếm khi làm điều đó vì
lo lắng cho hạnh phúc của đối tác mà chúng ta đang mặc cả. Nếu chúng ta
làm như thế thì có nghĩa là chúng ta vừa trao đổi vừa tặng, điều đó sẽ
làm rắc rối cho việc trao đổi. Người nào cố tình trả nhiều hơn số tiền
cần phải trả thì khó mà trở thành doanh nhân thành đạt và như H.B. Acton
nhận xét trong tác phẩm Đạo đức của thị trường (The Morals of the Markets[8]): kinh doanh lấy lỗ nói chung là cách trở thành người nhân từ ngốc nghếch, thậm chí là ngu xuẩn nữa.
Rất
nên nhắc cho những người coi trọng việc làm quan hơn là sản xuất hoặc
kinh doanh rằng quan chức có thể làm nhiều việc tai hại và chẳng mấy khi
làm được những việc tốt. Voltaire, một người cầm bút trước Smith, đã
nhìn thấy rõ sự khác biệt này. Trong tiểu luận Bàn về thương mại (On Trade) trong cuốn Những bức thư liên quan đến dân tộc Anh (Letters Concerning the English Nation),
(do Voltaire viết bằng tiếng Anh, một ngôn ngữ mà ông khá thành thạo,
rồi sau đó được ông viết lại bằng tiếng Pháp với đầu đề là Những bức thư triết học - Lettres Philosophiques), ông nhận xét như sau:
Ở
Pháp danh hiệu hầu tước được tặng miễn phí và những người từ vùng quê
xa xăm có tiền rủng rỉnh trong túi, họ của những người này kết thúc bằng
chữ “ac” hay “ille”, đến Paris đều có thể tự tin và gào lên: “Ta là
người cao quí làm sao!”. Và hắn ta có thể nhìn một nhà buôn với vẻ khinh
miệt; trong khi nhà buôn kia - vì thường nghe nói là người ta coi
thường nghề của mình – phải đỏ mặt lên vì chuyện đó. Nhưng tôi không thể
nói rằng một quí ông quyền cao chức trọng, một quan chức trong văn
phòng thủ tướng hay một thương nhân, người đang làm cho đất nước mình
giàu lên, người đang gửi hàng từ công ty của mình tới Surat và Cairo và
góp phần làm cho thế giới hạnh phúc hơn, thì ai là người có ích hơn[9].
Các
thương nhân và các nhà tư bản không cần phải đỏ mặt khi các chính khách
và những người có học đương thời nhìn họ bằng nửa con mắt, và khệnh
khạng ca ngợi cái này, chê bai cái kia, trong khi lúc nào cũng đòi các
thương nhân, các nhà tư bản, công nhân, nhà đầu tư, thợ thủ công, nông
dân, nhà phát minh và những người sản xuất hữu ích khác phải làm ra của
cải để các chính trị gia tịch thu và những người có học ghen tị nhưng
lại thèm khát tiêu thụ ngay lập tức.
Tương
tự như chính trị, thương trường không phụ thuộc vào và cũng không giả
định trước rằng dân chúng là những người ích kỉ. Buôn bán trên thương
trường cũng không khuyến khích những hành vi và động cơ ích kỉ. Nhưng
khác với chính trị, tự do trao đổi giữa những người tham gia có thiện ý
tạo ra của cải và hòa bình, thiện ý và hòa bình cũng là điều kiện cho
lòng hào phóng, tình bạn và tình yêu đơm hoa kết trái. Đấy là một vài
điều cần lên tiếng, Adam Smith hiểu rõ như thế.
Nguồn: http://studentsforliberty.org/college/the-morality-of-capitalism/
[1] “The
Secret History of Self-Interest,” in Stephen Holmes, Passions and
Constraints: On the Theory of Liberal Democracy (Chicago: University of
Chicago Press, 1995).
[2] Quoted
in Christine Caldwell Ames, Righteous Persecution: Inquisition,
Dominicans, and Christianity in the Middle Ages (Philadelphia:
University of Pennsylvania Press, 2008, p. 44.
[3] Adam Smith, The Theory of Moral Sentiments, ed.
D.D. Raphael and A.L. Macfie, vol. I of the Glasgow Edition of the
Works and Correspondence of Adam Smith (Indianapolis: Liberty Fund,
1982. Chapter: a chap ii: Of the
love of Praise, and of that of Praise–worthiness; and of the dread of Blame, and of that of Blame–worthiness; Accessed from http://oll.libertyfund.org/title/192/20125) on 2011-05-30.
[4] Adam
Smith, The Theory of Moral Sentiments, ed. D.D. Raphael and A.L.
Macfie, vol. I of the Glasgow Edition of the Works and Correspondence of
Adam Smith (Indianapolis: Liberty Fund, 1982. Chapter: b chap. i b: Of
the
beauty
which the appearance of Utility bestows upon all the productions of
art, and of the extensive in9 uence of this species of Beauty; Accessed
from http:// oll.libertyfund.org/title/192/20137 on 2011-05-30.
[5] Adam Smith, An Inquiry Into the Nature and Causes of the Wealth of Nations, Vol.
1 ed. R.H. Campbell and A.S. Skinner, vol. II of the Glasgow Edition of
the Works and Correspondence of Adam Smith (Indianapolis: Liberty Fund:
1981. Chapter: [IV.ii] CHAPTER II: Of Restraints upon the Importation
from Foreign Countries of such Goods as can be Produced at Home.
Accessed from http://oll.libertyfund.org/title/220/217458/2313890 on 2010-08-23.
[6] Smith, An Inquiry Into the Nature and Causes of the Wealth of Nations, Vol.
1 ed. R.H. Campbell and A.S. Skinner, vol. II of the Glasgow Edition of
the Works and Correspondence of Adam Smith (Indianapolis: Liberty Fund:
1981. Chapter: [IV.viii] CHAPTER VIII: Conclusion of the Mercantile
System. Accessed from http://oll.libertyfund.org/title/200/217484/2316261 on 2010-08-23.
[7] “The specific characteristic of an economic relation is not its “egoism,” but its “non-tuism.” Philip H. Wicksteed, The Commonsense of Political Economy, including a Study of the Human Basis of Economic Law (London: Macmillan,
1910. Chapter: CHAPTER V: BUSINESS AND THE ECONOMIC NEXUS. Accessed from http://oll.libertyfund.org/title/141538938/104356 on 2010-08-23.
[8] H.B. Acton, The Morals of Markets and Related Essays, ed. by David Gordon and Jeremy Shearmur (Indianapolis: Liberty Fund, 1993.
[9] Voltaire, Letters Concerning the English Nation, ed. Nicholas Cronk (Oxford: Oxford University Press,1999, p. 43.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét