Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 28 tháng 12, 2011

Bộ Ngoại giao Việt Nam thừa nhận sai sót vụ cờ TQ sáu sao

Các em bé Việt Nam cầm cờ hai nước đón ông Tập (hình của Reuters chụp trước Phủ Chủ tịch tại Hà Nội 21/12).
-- Ngô Nhân Dụng: Người Việt không bị Hán hóa  —  (NV).Cả tuần nay người Việt trong và ngoài nước kháo nhau về chuyện 5 sao với 6 sao. Ông Mao Trạch Ðông đặt ra cờ 5 sao có ý nói đảng cộng sản của ông ta (sao lớn) lãnh đạo bốn giai cấp xã hội (4 sao con).
Có người lại nói 5 ngôi sao đó tượng trưng 5 chủng tộc: Hán (sao lớn), và Mãn, Mông, Hồi, Tạng (4 sắc dân nhỏ). Giải thích như thế để suy ra là khi cho trẻ con Việt Nam cầm cờ 6 sao đi đón ông Tập Cận Bình, ông Nguyễn Phú Trọng muốn nói Trung Quốc có 6 chủng tộc; ngôi sao thứ sáu mới thêm vào là giống dân Việt! Ví thử lúc ông Bush hay ông Obama sang Việt Nam mà thấy các học sinh cầm lá cờ Mỹ vẽ 51 ngôi sao thì chắc người mình cũng tha hồ suy diễn đùa cợt như vậy! (Cờ nước Mỹ có 50 ngôi sao, cho 50 tiểu bang).

Nhưng không phải ông Mao (hay ông Tôn Trung Sơn) đã gom bốn sắc dân nhỏ vào với dân Hán. Việc gom góp này có từ đời nhà Thanh. Ai tới các đền đài cung điện ở Bắc Kinh đều thấy những tấm bảng viết bằng 5 thứ chữ, ngôn ngữ của 5 giống dân. Vì các ông vua nhà Thanh gốc người Mãn Châu; họ cần biện minh tại sao họ lại được ngồi trên đầu người Hán. Biện minh bằng lý luận rằng Thiên hạ là của chung; có 5 giống dân, người giống nào lên làm thiên tử cũng được.
Vì tham vọng của các ông hoàng Mãn Thanh cho nên bây giờ dân Mãn Châu bị mất gốc rễ (những người nói thông thạo tiếng Mãn hiện nay gần xuống lỗ hết; ông vua sau cùng là Phổ Nghi không nói thông thạo tiếng mẹ đẻ!) Người Mãn cũng như người Mông Cổ trước họ, đã đánh Ðông dẹp Bắc, cuối cùng chỉ “làm cỗ sẵn” cho người Hán xơi. Cuối cùng dân Hán đã đồng hóa hết các đám dân “Di, Ðịch!”
Nhưng thành công lớn nhất của người Hán không phải là đã gom các sắc tộc ngoài biên ải vào một nước Trung Hoa. Công trình lớn lao quan trọng hơn nữa là họ đã đem nền văn minh sông Hoàng, sông Hoài từ miền Bắc xuống “giáo hóa” và “đồng hóa” đám dân miền Nam sông Dương Tử (Trường Giang). Dân hai miền vốn gốc gác khác hẳn nhau. Người miền Bắc thuộc giống Mông Cổ, cao lớn, da nhợt nhạt hơn, mũi cao hơn, và ngôn ngữ thuộc họ Hoa-Tạng. Dân miền Nam da ngăm ngăm, ngôn ngữ vốn gốc Nam Á, Thái. Người Quảng Ðông, Phúc Kiến có họ hàng gần với người Việt, người Ðông Nam Á hơn so với người Hoa phương Bắc. Sau vài ngàn năm, các sắc dân phía Nam Trường Giang đã tự coi họ là người Hán, người Trung Hoa. Trừ đám dân Việt Nam bướng bỉnh tới bây giờ vẫn chưa bị đồng hóa - dù người ta biểu diễn cờ 5 sao hay 6 sao cũng mặc!
Nhờ đâu người phương Bắc thành công trong việc Hán hóa những sắc dân ở Hoa Nam? Sức mạnh quân sự không đủ để đồng hóa người khác. Bằng cớ là quân Mông Cổ đã từng chiếm từ Á Châu sang Ðông Âu, đến tận núi Ural; nhưng chính họ lại bị đồng hóa bởi các nền văn minh khác.
Người Hán thuần hóa được miền Hoa Nam nhờ “Sức Mạnh Mềm,” nói kiểu bây giờ, “Soft Power.” Họ tạo ra một tổ chức chính quyền rất hiệu quả trong việc thu thuế và bắt lính. Và họ nắm trong tay một dụng cụ thông tin là chữ viết. Các quan cai trị phải học chữ thông thạo trước khi được bổ nhiệm vào guồng máy thư lại, “bureaucracy.” Guồng máy đó vẫn sử dụng cho đến bây giờ, thí dụ chế độ “”hộ khẩu” đã áp dụng từ thế kỷ thứ ba trước Công nguyên. Nhờ chính sách của Tần Thủy Hoàng bắt dân bốn phương phải dùng chung một thứ chữ viết, dù nói tiếng khác nhau, nên việc cai trị một đế quốc rộng lớn trở nên dễ dàng hơn. Thứ chữ đó cũng chuyên chở Hán tộc tràn xuống phương Nam lập thành nước Trung Hoa bây giờ.
Chữ viết đã được phát minh ở các vùng Sumer, ở Ai Cập hay Mexico sớm hơn ở Trung Quốc. Nhưng trong các xã hội cổ sơ đó, việc học và sử dụng chữ viết bị giới hạn. Chỉ một số thư ký giữ kho cho ông vua, hay các thầy cúng tế trong đền thờ, là học đọc và viết chữ. Khi không được sử dụng nhiều, việc phát triển, cải thiện và gia tăng số chữ viết để diễn tả nhiều thứ khác nhau cũng chậm chạp. Ở Trung Quốc, các trường tư đã xuất hiện từ thời Xuân Thu, việc học đọc, học viết trở thành phổ cập từ hơn 2000 năm trước. Ít nhất 500 trước Công nguyên, Khổng Tử đã sống bằng nghề dạy học. Trường tư của Quỷ Cốc Tử dạy rất nhiều môn, không khác gì một đại học tổng hợp bây giờ. Nhờ nhiều người dùng nên chữ viết được hoàn thiện và nhiều chữ mới liên tục được đặt ra từ đời này sang đời khác để diễn tả những khái niệm mới nghĩ ra, các hiện tượng mới quan sát.
Có lẽ một phong trào đặt các chữ mới, bày ra cách viết mới đã “bùng nổ” vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, giống như các mạng blog bây giờ! Phong trào đó có thể là một động cơ khiến bộ tham mưu của Tần Thủy Hoàng thấy nhu cầu phải quy định các tiêu chuẩn thống nhất. Ít nhất, tránh trường hợp các “blogger” viết ra những bản văn mà các quan đọc không được! Thống nhất chữ viết giống như đặt ra một bức tường lửa, hay là bắt tất cả các blogs phải dùng chung một “máy server” vậy! Ðám quan lại được đào tạo trong nghề cai trị đã mang thứ khí cụ chữ viết này theo trong các cuộc chinh phục, thứ vũ khí nhẹ và dễ mang trong đầu nhưng lại có sức mạnh vô cùng lớn! Dần dần, ở cõi Giang Nam, những ai đã học đọc, học viết, tay cầm quyển sách, miệng ê a mấy câu chữ Hán, đã trở thành những mẫu người tiến bộ, bảnh nhất trong làng xóm; không khác gì hình ảnh những người ôm một cái iphone hay ipad đang đi trên đường phố ở khắp thế giới bây giờ!
Các giống dân ở phía Nam Trường Giang tự thấy mình “chậm tiến” hơn các quan cai trị, họ chịu thỏa hiệp, họ muốn học hỏi, muốn bắt chước lối sống của lớp người đã tiến bộ, văn minh đó. Những người “hội nhập nhanh” sẽ hãnh diện khi đọc được sách Khổng Mạnh. Học chữ Hán là một phương tiện thăng tiến trong xã hội! Những người biết chữ Hán chắc cũng bắt đầu tập nói tiếng phương Bắc. Cứ như thế, nhiều người bị đồng hóa, tự nhận là “Hán Tử,” hay “Hảo Hán,” thành phần tiến bộ hơn những người đồng chủng. Khi nhiều người cùng thay đổi theo thời thượng, thứ tiếng nói của tổ tiên họ lùi dần lại thành một tiếng thiểu số, một “patois” như người Pháp gọi thổ âm miền Provence đang chết dần.
Ở miền Nam Trung Quốc trong hai ngàn năm Hán hóa, những nông dân không biết đọc biết viết thì vẫn nói thứ ngôn ngữ cũ của cha ông; vì họ không cần tiếp xúc với các quan thứ sử, các tiết độ sứ. Cho nên đến bây giờ ở Hoa Nam vẫn còn những nhóm người nói các thổ âm tiếng Hẹ, tiếng Tiều, tiếng Phúc Kiến, vân vân, nhiều người vẫn từ chối không nói tiếng phổ thông (quan thoại). Nhưng dù vẫn tiếp tục nói tiếng địa phương, họ cũng chịu ảnh hưởng gián tiếp của chữ viết, khi bắt đầu thay đổi cách nói năng, thay đổi văn phạm theo lối mới. Hiện tượng tiếng nói bị đồng hóa này có thể diễn ra trong hàng ngàn năm chưa dứt.
Dòng sông Hán hóa cuốn hút các sắc dân Phúc Kiến, dân Tiều, dân Hẹ giống như con sông Hoàng Hà “Bôn lưu đáo hải bất phục hồi,” đi luôn không quay ngược lại nữa. Riêng tại Việt Nam thì người Việt vẫn giữ được tiếng nói riêng, dù có học, biết dùng chữ Hán. Tiến trình Hán hóa ngưng lại, không tiến xa hơn được. Không biết hiện tượng này diễn ra từ 2000 năm trước, vào thời Hai Bà Trưng, hay vào thế kỷ thứ năm (Lý Bôn xưng đế), thứ mười (Ngô Quyền lập quốc). Ðó là một hiện tượng khó hiểu, đáng kinh ngạc.
Tại sao giống dân Việt cũng được các thái thú người Hán “khai sáng” với cùng một hệ thống thư lại và thứ chữ viết mang từ phương Bắc xuống, trong hơn một ngàn năm, y như dân các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Ðông và Vân Nam; mà họ không chịu chung số phận biến thành người Trung Hoa? Người Việt Nam giải thích đó là do sức đề kháng quật cường của dân tộc mình, một điều huyền bí, thiêng liêng nhưng không thể chối cãi được. Ngôn ngữ, tín ngưỡng, có thể đã giúp dân Việt tự đứng lên vững chãi đương đầu.
Nhưng nếu nhìn với con mắt khách quan hơn, có thể thấy còn những yếu tố trong thiên nhiên đóng góp vào khả năng đề kháng suốt một ngàn năm đó.
Khí hậu, thủy thổ có thể là một “đồng minh” của dân tộc Việt Nam trong quá trình đề kháng. Các quan cai trị phương Bắc quen phong thổ miền khô, không khí lạnh lẽo. Ðất Giao Châu nóng và ẩm; cư dân ở đó sống chen chúc mấy ngàn năm đã sinh ra những bệnh thời khí, những vi khuẩn của riêng của một vùng. Thể xác người phương Nam đã phát triển được những kháng thể, di truyền để lại từ hàng ngàn năm. Người phương Bắc không có sẵn trong mình những kháng thể chống lại những vi trùng và vi khuẩn đó. Họ còn bị các ký sinh trùng miền nhiệt đới tấn công. Các loài vi khuẩn tìm được những “mảnh đất mầu mỡ” trong những “khách” từ phương xa lại. Những giống ruồi, muỗi ở phương Nam hỗ trợ sức bành trướng và sinh sôi nẩy nở của các loại vi trùng. Các di dân từ phương Bắc phải lựa chọn; hoặc bị tiêu diệt vì bệnh tật, hoặc phải quay về phương Bắc. Nhiều người phương Bắc sẽ nghĩ rằng nếu học cách ăn uống, cách sinh hoạt theo lối dân địa phương, chịu thờ phượng các thần thánh địa phương; họ hy vọng sẽ chống lại được các căn bệnh do đất, nước, mưa gió, thời tiết, ma quỷ bản địa gây ra, những người ở lại phải tập sống theo lối người địa phương. Cho nên mới có những ông Triệu Ðà, ông Sĩ Nhiếp tập nhiễm cách sinh hoạt của người phương Nam.
Phải nêu lên những điều kiện khách quan về địa dư, phong thủy đó để giải thích tại sao người Giao Chỉ, Cửu Chân không biến thành người Trung Hoa, như các giống dân láng giềng ở mấy tỉnh phía Bắc biên giới. Nhưng nói đến các yếu tố thiên nhiên đó không phải là để hạ thấp giá trị tinh thần quật cường của dân Việt; đó mới là yếu tố quyết định giữ được hồn tính, bản sắc của người Việt Nam. Vì tinh thần quật cường bướng bỉnh đó, chúng ta khỏi cần lo nước mình biến thành ngôi sao thứ sáu trên lá cờ Trung Quốc. Bộ Ngoại Giao Hà Nội giải thích rằng ngôi sao thứ sáu là do lầm lẫn kỹ thuật khi đi in cờ; một lời giải thích không mấy ai tin.
Câu chuyện 5 sao, 6 sao cũng mua vui được một vài trống canh. Nhưng không ai nghĩ rằng nước Việt Nam lại có thể trở thành một ngôi sao nhỏ trên lá cờ nước khác, dù là cờ 5 sao hay 50 ngôi sao!


- Bình luận bài viết của Trương Thái Du, vụ cờ 6 sao: Có khốn nạn lắm không? – (Dân làm báo). 
-Ngôi sao thứ 6   –  (Đông A).  – Minh tri cố muội?  –  (Đông A).   – Không hiểu nổi!  —  (Anh Vũ).- Nên hiểu thế nào về vụ “cờ 6 sao”? (Trần Kinh Nghị).   – Ngôi sao thứ 6 hay “Công hàm” bán nước thứ hai?  – (DLB). – Lời vĩ thanh cho câu chuyện thời bát nháo chi khươn (Gocomay).
-- - Một năm đa sắc (TVN/Tia sáng ). - 

Kim Tiểu Mai – TTHN lược dịch
Theo: Báo Thông tin TC
-
“Một quan chức Việt Nam, cho biết: “Bất cứ sai lầm nào cũng phải từ chức, trước hết phải được đổ lỗi là Bộ Ngoại giao Việt Nam, nếu họ đã cố ý khi dùng sai lá cờ của một quốc gia sẽ là sai lầm, rằng họ có thể làm việc (từ chức) đó?”.”
Nhận lời mời của Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam và Phó Chủ tịch nước Việt Nam bà Nguyễn Thị Doan, đồng chí Phó chủ tịch nước ta Tập Cận Bình đã tới Hà Nội, Việt Nam bắt đầu chuyến thăm chính thức Việt Nam. Trong chuyến thămnày , đồng chí Tập Cận Bình và lãnh đạo của Việt Nam đã tổ chức nhiều các cuộc họp và hội đàm, đoàn cũng đã gặp gỡ với đại diện giới trẻ tại Việt Nam.
Chuyến thăm này là nhằm thúc đẩy quan hệ Trung Quốc-Việt Nam đi đúng hướng cùng tiến về phía trước, coi việc củng cố và phát triển tình hữu nghị láng giềng của Trung Quốc với các nước láng giềng là quan trọng, đồng thời nó cũng là sự kết thúc của năm 2011, năm Trung Quốc thực hiện một loạt các hành động chiến lược ngoại giao. Trong chuyến thăm của Phó Chủ tịch Tập Cận Bình tại Việt Nam, đáng tiếc trong buổi lễ chào đón của các quan chức Việt Nam lại có sự cố là sự xuất hiện  lá cờ Trung Quốc có 6 ngôi sao, việc này đã biến chuyến thăm như hình ảnh  của cuốn phim hài. Tuy nhiên, thêm một ngôi sao nhỏ không phải là lần đầu tiên xuất hiện đối với công chúng Việt Nam. Tôi không biết lỗi của phía Việt Nam là các lỗi ở mức độ thấp, hoặc cố ý.
Phó chủ tịch Tập Cận Bình đã gặp hàng trăm người trẻ tuổi ở Việt Nam tại Hà Nội, Phó Chủ tịch cho biết, quan hệ hữu nghị giữa các thế hệ là nghĩa vụ kế thừa của những người trẻ tuổi giữa hai nước. Ngày 21 tháng 12, tại tòa nhà Phủ Chủ tịch ở Hà Nội, phía Việt Nam hoan nghênh Phó Chủ tịch Trung Quốc bằng những lá cờ đỏ nhỏ, mà xung quanh  ngôi sao lớn màu vàng trên nền đỏ thực sự có năm ngôi sao nhỏ, tổng cộng sáu ngôi sao do trẻ em Việt Nam nắm trong tay phất.
Điều thêm ngôi sao nhỏ này không phải là sự xuất hiện công khai đầu tiên ở Việt Nam. Vào giữa tháng trước, trong bản tin có liên quan đến quan hệ Việt Nam – Trung quốc trong chương trình tin tức trên Đài truyền hình trung ương, trong đó các lá cờ của hai quốc gia của phía Việt Nam đưa ra trong đó một bên của lá cờ của nhà nước Trung Quốc cũng có sáu ngôi sao
Lá cờ chính thức của Trung Quốc phải chăng phía Việt Nam đã không nhìn bao giờ thấy nó? Việc Bộ Ngoại giao Việt nam  khi mua sắm của các lá cờ quốc gia là có chủ ý? Vì vậy, khó để tin rằng đây là lỗi ở mức độ thấp, do vậy cái gọi là tình hữu nghị Việt Nam Trung Quốc là không đúng sự thật?
Tất nhiên, phía Việt Nam cũng rất tức giận, nhiều người Việt Nam chính thức lên tiếng chỉ trích về những sai lầm và coi là lỗi rất lớn trong việc sử dụng các lá cờ quốc gia của Trung Quốc thêm hình tượng là một ngôi sao nhỏ, vì vậy mà một số người nghĩ rằng chính quyền Việt Nam tại Hà Nội đã có suy nghĩ trở thành tiềm thức là muốn trở thành một phần của Trung Quốc. Tất nhiên, khả năng này là rất nhỏ, Việt Nam và Trung Quốc đang khúc mắc về vấn đề xung đột ở Biển Đông, điều đó rất khó rất khó xảy ra cho các quan chức Việt Nam có ý tưởng này.
Một quan chức Việt Nam, cho biết: “Bất cứ sai lầm nào cũng phải từ chức, trước hết phải được đổ lỗi là Bộ Ngoại giao Việt Nam, nếu họ đã cố ý khi dùng sai lá cờ của một quốc gia sẽ là sai lầm, rằng họ có thể làm việc (từ chức) đó?”.

-Trường Sa! Trường Sa! Đảo Chuếnh Choáng!*Nguyễn Xuân Nghĩa - Ngày 20111225
Khi lá cờ sáu sao của Trung Quốc xuất hiện ở Hà Nội
Việt Báo Xuân Mậu Tý 2008: Sau này, lịch sử Việt Nam sẽ ghi lại, rằng lần đầu tiên đất nước bị mất lãnh thổ - rồi cả lãnh hải - cho Trung Quốc là dưới chế độ Cộng sản. Còn lịch sử Trung Hoa thì ghi rằng đảng Cộng sản Việt Nam đã dâng Bắc Kinh ngôi sao thứ năm trên lá Ngũ tinh Hồng kỳ của họ…. Việt Báo Xuân Mậu Tý ghi lại sự kiện đau buồn ấy trong tiết mục sau đây, kết thúc với những sáng tác đắng chát của Đặng Thơ Thơ, Tô Thùy Yên, Khoa Hữu và Trịnh Cung… (* Thơ Tô Thùy Yên)
MỘT TẤM DƯ ĐỒ BỊ LÃNG QUÊN
Một bản đồ của Hoà Lan về Hoàng Sa và Trường Sa làm ta rơi nước mắt…
Cuối năm Đinh Hợi 2007, khi người Việt khắp nơi sôi sục với vụ Bắc Kinh đòi lập ra cơ chế hành chánh quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, thế giới mới chú ý đến vụ tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc trên các quần đảo này.
Một số dư luận nói theo sự mù lòa của cơ quan CIA Hoa Kỳ, rằng sau khi đô hộ Việt Nam, Chính quyền Thực dân Pháp mới chiếm các quần đảo ấy vào năm 1932: đến giờ này, tài liệu do CIA công bố trên trang nhà vẫn còn ghi như vậy!
Cứ theo lý luận đó thì nhờ Tây mà Việt Nam mới đòi chủ quyền trên các quần đảo trong một vùng biển cứ bị dư luận quen gọi là biển Nam của Trung Hoa, Trung Nam Hải. Rõ là cướp đất của Tầu!
Người ta đã nhìn chậm nhiều thế kỷ.
Người ta cũng làm ngơ trước cuốn Bạch thư của Việt Nam Cộng Hòa về Hoàng Sa và Trường Sa, được phổ biến sau vụ hải chiến tại Hoàng Sa ngày 19 tháng Giêng năm 1974. Khi ấy, cả miền Nam đang hấp hối, còn ai chú ý đến bãi cát vàng ở ngoài khơi?
Cũng vậy, người ta không chú ý đến một nỗ lực đáng quý trọng của xã hội dân sự tại miền Nam, qua sự xuất hiện của Tập san Sử Địa và số 29, đặc biệt dành cho chủ đề "Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa" (xuất bản tháng Ba năm 1975) và đã được nhà Khai Trí cho tái bản ở hải ngoại.
Người mình phải trình bày cho các thế hệ nối tiếp biết thấu đáo hơn về những công trình ấy.Và cho thế giới biết rõ Lê Quý Đôn là ai, tập "Phủ biên Tạp lục” của ông, soạn thảo từ năm 1776, đã viết thế nào về các quần đảo ấy… (… "Trước, họ Nguyễn đặt đội Hoàng sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào. Cắt phiên, mỗi năm cứ tháng Hai nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng. Đi bằng năm chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển ba ngày ba đêm thì đến đảo ấy…").
Nhân dịp ấy, cũng nên tham khảo một tài liệu khác. Một tấm dư đồ bị lãng quên.
Đây là tấm bản đồ tô màu, in năm 1613 trong cuốn Địa đồ Atlas Mercator Hondius.
Gerardus Mercator và Jodocus Hondius là hai nhà địa dư học nổi tiếng của Hoà Lan (Netherland) vào các năm 1600 trở về sau. Thời ấy, Công ty Đông Ấn của Hoà Lan lập ra năm 1602 để cạnh tranh với Công ty Đông Ấn của Anh và phát triển cơ sở khắp nơi nên tập trung lại các tài liệu tham khảo về địa hình địa thế Á Đông. Tấm bản đồ trình bày ở đây là do Jodocus Hondius (1563-1612) vẽ lại trước năm 1606, từ dữ kiện của nhà địa dư học Bồ Đào Nha (Portugal) Bartolomeu Lasso vào đầu thế kỷ 16 - tức là trước đó khoảng trăm năm.
Tấm bản đồ trình bày bằng tiếng Latinh, có tên là Insulae Indiae Orientalis, ghi rõ vùng biển Đông Nam Á, từ đảo Sumatra phía Tây tới New Guinea và cả đảo… Guam phía cực Đông (trong một chuỗi đảo họ mệnh danh là "quần đảo thổ phỉ" - Islas de Las Vellas), và từ đảo Timor gần Úc Đại Lợi phía Nam lên tới… đảo Hải Nam phía Bắc.
Thời ấy, thế giới vẫn mơ hồ về đảo Java, với hướng Nam còn ghi bằng hàng dấu chấm trên bản đồ. Nhưng các sử gia tìm thấy ở bản đồ chứng cớ cập bến của nhà thám hiểm và Phó Đề đốc nổi tiếng Francis Drake (sinh khoảng 1540, mất năm 1596) của Nữ hoàng Anh Elizabeth I. Tại một hải cảng ở miền Nam Java, qua hàng chữ "Huc Franciscus Dra. Appulit".
Người Việt ta lại tìm thấy nhiều dữ kiện khác.
Góc Tây-Bắc tấm dư đồ là đất "Cauchin, có tên khác là Cauchinchina", là Cochinchine theo lối gọi thời Tây sau này. Đấy là địa đồ của Đàng Trong khi mở ra cục diện Trịnh-Nguyễn phân tranh (Chúa Nguyễn Hoàng mất năm Nhâm Tý 1613, là năm xuất bản tấm địa đồ).
Nhân đây, xin ghi một chi tiết để tồn nghi về tên gọi. Từ thế kỷ 13, các nước đã theo Marco Polo gọi tên nước ta là Caugigu (phiên âm từ Giao chỉ quốc), sau đọc trại thành Kiaoche rồi Coci (cách gọi của Bồ Đào Nha). Thế rồi, để khỏi lầm với Koci của Ấn Độ, người ta thêm chữ China hay Cina, nên Cauchinchina trở thành tên gọi chung của nước Đại Việt. Đến thời phân tranh, người ta mới gọi Đằng Ngoài là Tunking, hay Tonkin, từ chữ Đông Kinh là Hà Nội, và Đằng Trong vẫn giữ tên Cauchinchina, hay Cochinchine như dân Pháp đã gọi.
Nếu cứ theo mặt tên mà nói thì các nhà báo Tây phương ngày nay có thể kết luận rằng toàn cõi Việt Nam là… của Trung Quốc. Đất Cochin của nước China mà!
Trên địa đồ, ta nhận ra Thuận Hoá (dưới tên viết Latinh là Sinoa), sau này mình gọi là Phú Xuân rồi Huế. Nhiều địa danh khác thì còn phải nghiên cứu thêm mới rõ được. Như tại phía Bắc có thành phố ghi tên Biciputri, dịch từ Latinh ra là trụ đá, hay Thạch trụ, Thạch bi (chẳng lẽ là núi Thạch Bi?)…  và tại phía Nam, quãng Phú Yên Khánh Hoà thì có địa danh Lantam. Thực tế là gì thì mình chưa rõ mà chỉ nhớ rằng bản đồ được vẽ từ những tài liệu của Bồ Đào Nha cách đó cả trăm năm.
Đáng chú ý hơn cả, tấm bản đồ ghi rất rõ ngoài khơi Việt Nam một vùng quần đảo có nhiều bãi cát nông chạy dài xuống hướng Tây Nam, được ghi là Pracel.
Đối diện với quần đảo, và trên lãnh thổ Việt Nam được viền màu vàng, là tên Costa de Pracel, "Bờ Pracel". Không chút liên hệ gì tới đảo Hải Nam được tô hồng với tên là Ainan! Nghĩa là trước khi Lê Quý Đôn soạn Phủ biên Tạp lục thì người ngoại quốc đã tới nước ta và ghi trên tài liệu của họ sự căn thuộc Việt Nam của quần đảo Paracels.
Sự kiện này phải xuất phát từ thực tế ở tại chỗ, vào thời đó.
Ta nhớ rằng người Bồ Đào Nha và Hoà Lan đã tiếp xúc và thực tế buôn bán với các chúa Trịnh và Nguyễn. Khi thương thuyền Grootenbrook bị đắm tại quần đảo Hoàng Sa, người cầm đầu thương điếm của Công ty Đông Ấn Hoà Lan tại Faifo lại không lên đảo Hải Nam mà vào Thuận Hoá để cám ơn chúa Thượng việc thủy thủ đoàn của họ được người Việt cứu vớt! Chúng ta cũng biết rằng dưới thời Trịnh Nguyễn, nhà Đại Thanh còn phải củng cố quyền lực, tới khi có tham vọng tấn công nước Nam thì lại tan tành vì Quang Trung Nguyễn Huệ năm 1789.
Những người Hoa duy nhất mà dân ta gặp là dân tỵ nạn của triều Minh, hoặc… thuyền nhân và hải tặc tìm đất dung thân ở Đằng Trong. Họ được đón nhận, đối xử lịch sự và bình đẳng - theo truyền thống Việt Nam mà các nhà hàng hải Hoà Lan đã sớm ghi nhận. Họ góp phần khai phá miền Nam, nhiều người trở thành kiện tướng hay công thần của các Chúa rồi các Hoàng đế nhà Nguyễn.
Không hề có chuyện người Trung Hoa cai quản hay làm chủ Hoàng Sa hoặc Trường Sa như Bắc Kinh ngày nay đang muốn diễn giải!
Nhân đây, xin ghi lại một chuyện nhỏ.
Xưa nay, ta vẫn gọi nước láng giềng phương Bắc là Trung Hoa và dân của họ là người Hoa, của nền văn minh Hoa Hạ. Đó là cách của người Việt. Chỉ có Trung Quốc - hay Trung Cộng thời nay - mới nhấn mạnh đến yếu tố "trung ương" của họ, như cái rốn của vũ trụ và trung tâm của thiên hạ. Trong quan hệ giữa hai nước, khi dùng chữ "Việt-Trung" hay "Trung-Việt" theo sự mù lòa của truyền thông Tây phương bằng tiếng Việt, ta mắc bệnh phiên thuộc của đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, xin đề nghị là người Việt nên dùng lại chữ cho đúng với truyền thống Việt Nam, là "Việt-Hoa" hay "Hoa-Việt". Hoa tộc và Việt tộc là láng giềng và bình đẳng. Hình như ông Khổng là người nói ra chuyện ấy - phải chính danh mới định phận. Chẳng phải Khổng Phu tử thì kiến thức tối thiểu về quảng cáo, tiếp thiï, marketing hay tuyên truyền cũng nói như vậy!
LỊCH SỬ NGÀN NĂM
Mối bất hoà của dân ta là một sự cám dỗ lớn…
Hơn 10 thế kỷ trước (1070 năm), năm 939 Việt Nam giành lại nền tự chủ từ Trung Hoa sau ngàn năm Bắc thuộc là khi nước Tầu có loạn, bị phân hoá trong thời Ngũ đại Thập quốc (907-960). Từ đấy bài học nằm lòng của dân Việt là tinh thần thống nhất dân tộc - các sắc tộc và địa phương - là điều kiện cần thiết để tiến tới sự hình thành của quốc gia. Hoặc biến báo hơn, khi Trung Hoa có loạn là dân ta dễ thở. Khi Trung Hoa thống nhất thì ta nên biết… cư an tư nguy. Khi dân ta chia rẽ, mối nguy tất sẽ hiển hiện.
Bài học ấy, tiền nhân đã thuộc.
Vì vậy mà mục tiêu của các hội nghị Bình Than (1282) và Diên Hồng (1284) thời kháng chiến chống Nguyên Mông chính là để vận động sự thống nhất quan điểm và ý chí của các tầng lớp lãnh đạo (Bình Than) và các địa phương (Diên Hồng) hầu chuẩn bị từng bước tiến thoái, và nhất là chiến lược du kích, cho cuộc tổng phản công sau này. Thiếu sự thống nhất ấy, vua quan triều Trần mà rút tới đâu thì bị phục kích tới đó. Và thiếu sự đồng lòng của dân ta thì cuộc xâm lăng lần thứ hai của nhà Nguyên đã… vẽ lại bản đồ Việt Nam.
Trong thế kỷ 20, Việt Nam lại quên bài học cũ mà mở ra cuộc tương tàn khi thế giới đã quốc tế hoá, với sự can thiệp của đủ màu ngoại bang vì rất nhiều động lực gần xa.
Đảng Cộng sản Việt Nam có tội lớn trong tai họa ấy khi đoàn kết với các đồng chí ở xa mà chém ngược vào ruột gan đồng bào ở nhà.
Các nhà thơ thường hay nói thật mà mình tưởng họ ngủ mơ. Khi Chế Lan Viên làm thơ về nỗ lực đấu tranh của "ta" để làm đẹp lòng Bắc Kinh, những người ít biết về thơ lại không hiểu gì về bản tuyên ngôn của đảng hàm chứa bên dưới lời thơ. Biến cố Mậu Thân 1968 là một đỉnh quang vinh của đảng, nằm trên núi xương sống máu của người Việt trong Nam, và báo hiệu trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974.
Năm đó, Hoa Kỳ hết cần "tiền đồn thế giới tự do" và khoanh tay nhìn Trung Quốc đi xuống các quần đảo mà Tham mưu trưởng Hải quân Mỹ, Đô đốc Elmo Zumwalt, cho là "không có giá trị chiến lược". Thời ấy, có thể là ông chưa nhìn ra trữ lượng 25 tỷ thước khối khí đốt và cả trăm tỷ tấn dầu thô ở bên dưới, hay vì cả tin vào Đệ thất Hạm đội để bảo vệ tự do vận chuyển qua eo biển Malacca!
Nhưng ở vào cảnh thất thế, Quân lực Việt Nam Cộng Hoà vẫn chiến đấu anh dũng để bảo vệ Hoàng Sa trước sự thụ động - và còn cung cấp thông tin sai lạc - của Hoa Kỳ. Và sự lặng thinh không một chút ngượng ngập của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà!
Việt Nam mất Hoàng Sa từ đó.
Sau khi được thống nhất về chính trị dưới chế độ Cộng sản, Việt Nam tiếp tục mất nhiều lãnh thổ và lãnh hải khác. Cho tới ngày nay.
Thực ra, ngay từ đầu, đảng Cộng sản đã chọn con đường ấy khi nương tựa vào - và đổi chác quyền lợi với - Bắc Kinh. Từ khi Tướng Trần Canh đội mũ chiến tướng cho Võ Nguyên Giáp tại trận Điện biên phủ cho tới khi hai vạn cán bộ binh lính Trung Quốc bảo vệ hậu cứ Bắc Việt để Hà Nội mở cuộc chiến vào Nam. Ai còn trông mong Võ đại tướng lên tiếng đòi lại Hoàng Sa Trường Sa là mắc bệnh mộng du. Hoặc quên trí nhớ.
Ngay từ đầu, Hà Nội đã thủ vai phiên thuộc, từ lá thư nhục nhã của Phạm Văn Đồng năm 1958 khi Bắc Kinh đòi chủ quyền ngay tại ngoài Đông hải của Việt Nam, cho tới sự chống đỡ yếu ớt năm 1988 khi Trường Sa bị thôn tính. Từ việc tương nhượng Trung Quốc sau năm 1990 cho đến khi kiểm soát phản ứng của dân chúng ngày nay trước quyết định hành chánh của Bắc Kinh về việc "quản lý" hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Cái mà đảng Cộng sản được là cái mà quốc gia bị mất.
Nói cho rõ hơn, đảng còn thì nước mất mà đảng mất thì nước vẫn còn. Quy luật ấy sẽ sáng tỏ trong năm Tý.
"NGŨ PHỤNG TỀ PHI" TRÊN LÁ HỒNG KỲ
Sao vàng của đảng sẽ nhập vào Ngũ tinh Hồng kỳ của Trung Quốc
Lá cờ lạ mà quen! Hà Nội giải thích là vì "tính sai sót kỹ thuật" Ảnh của Reuters tại Hà Nội
Năm 1949, Cộng sản Trung Quốc chuẩn bị thống nhất Hoa lục dưới sự lãnh đạo của đảng, và chọn quốc kỳ là lá cờ năm sao gọi là "Ngũ tinh Hồng kỳ", lần đầu tiên được Mao kéo lên vào tháng 10 năm đó. Ngôi sao chính, như vầng Bắc đẩu, là biểu tượng của đảng. Bốn ngôi chầu quanh là của các giai cấp công, nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc!
Đó là lý luận chính thức của họ khi tiến hành chiến tranh và cách mạng vô sản.
Lý luận đấu tranh giai cấp ấy nay đã lỗi thời và bị xoá mờ trong Hiến pháp.
Ngày nay, họ trở lại chủ thuyết truyền thống của nền văn hóa duy chủng: Hán tộc tất nhiên giữ ngôi Bắc đẩu, bốn phương đều chầu về đó. Bốn phương ấy là các tộc Mông, Mãn, Hồi, Tạng.
Có điều, nhìn vào lịch sử Trung Hoa thì đấy là một tất yếu lịch sử hơi yếu!
Trong lịch sử Trung Hoa, nhiều sắc dân thiểu số đã vào Trung Nguyên làm chủ Trung Quốc. Con cháu Thành cát Tư hãn tiêu diệt nhà Tống mà lập ra nhà Nguyên. Trước đó, nhà Kim đã khống chế phân nửa miền Bắc của Trung Quốc. Sau đó, hậu duệ của người Kim, thuộc tộc Nữ Chân, là người Mãn Châu, đã tiêu diệt nhà Minh để lập ra nhà Mãn Thanh, và tồn tại từ 1644 đến 1911. Trong lịch sử Trung Hoa, không thiếu gì công chúa đã được gả cho Thuyền vu hay Thổ tù và cả Quốc vương Tây Tạng, để mua lấy hoà bình cho Thiên tử! Văn minh Trung Hoa xuất phát từ nét văn hoá sợ sệt, lại ưa khoác lác, khinh người.
Trong lịch sử Việt Nam, Thái úy Lý Thường Kiệt đã dẫn binh đội nhà Lý tấn công thẳng vào lãnh thổ Trung Quốc, làm "Nội các" Vương An Thạch bị đổ, và nhà Tống phải nghiên cứu về tổ chức binh bị của nước Nam. Cũng trong thời đại ấy, viên thổ tù Nùng Trí Cao được triều Lý của ta dung tha lại gây "chấn động kinh sư" khiến Đại tướng Địch Thanh nhà Tống phải nhọc lòng đối phó.
Cho nên, bảo rằng Hán tộc đương nhiên lãnh đạo "thiên hạ" gồm có các sắc tộc khác chỉ là phản ứng tự mê.
Ngược lại, chính là vì kinh nghiệm lịch sử mà lãnh đạo Trung Quốc thường có phản ứng phòng thủ. Họ khuynh đảo hay mua chuộc các sắc tộc khác ở vòng phiên trấn nhằm lập ra vùng trái độn nhằm bảo vệ Trung Nguyên.
Suốt mấy ngàn năm lịch sử, các sắc tộc bị biến thành chư hầu đều chỉ là phên giậu của Trung Hoa trong lục địa. Nhưng thế giới ngày nay đã đổi khác vì các đại dương bị thu hẹp trong thế toàn cầu hoá. Quay đầu vào núi và núp dưới Vạn lý Trường thành thì không có đủ nguyên nhiên vật liệu nuôi sống hơn một tỷ ba trăm triệu dân.
Vì vậy, qua thế kỷ 21, Trung Quốc chuẩn bị bước ra với tư thế đại cường hải dương thay vì chỉ là cường quốc lục địa như trong lịch sử. Từ cả chục năm nay, đảng Cộng sản Trung Quốc chuẩn bị việc đó và cải cách kinh tế cũng trong mục tiêu đó, để có hải đội tiến ra biển xanh. Đây là nhu cầu sinh tử của họ khi chuyển theo kinh tế thị trường và cần nhiều nguồn tiếp vận từ bên ngoài lục địa.
Khi bước xuống biển nóng tìm dầu và khống chế luồng vận chuyển ngoài biển Thái bình, lần này họ có một bậc thềm là… Hà Nội.
Và họ có đám chư hầu canh cửa là lãnh đạo Cộng sản Việt Nam. Chẳng vậy mà ngần ấy bước tiến xuống Hoàng Sa, Trường Sa, Nam Quan, Bản Giốc đều có sự mặc nhiên tiếp sức hoặc e dè lên tiếng làm vì của Hà Nội.
Nếu dân Việt không làm gì thì trong một tương lai không xa, ngôi sao vàng trên lá cờ đỏ của Việt Nam ngày nay cũng sẽ biến. Vì bay vào quốc kỳ Trung Quốc thành ngôi sao của chư hầu thứ năm. Mông, Mãn, Hồi, Tạng, Việt sẽ là "ngũ phụng tề phi" - với màu sắc Trung Hoa.  
Đảng Cộng sản Việt Nam có tham vọng làm thay đổi bộ mặt của đất nước. Ít ai ngờ là lại thay đổi theo hướng đó. Một sự ô nhục có kích thước lịch sử, và có ý nghĩa sinh tử cho Việt tộc. Vì từ đó về sau, mọi quyết định của Việt Nam đều phải có sự thẩm xét tiên khởi của Bắc Kinh. Cho nên, thế kỷ 21 khởi đầu cho sự hình thành của chế độ phụ dung tại Việt Nam.
Nghĩa là đi ngược quy luật tiến hoá của nhân loại - và của lịch sử dân tộc. Chỉ vì hội chứng phiên thuộc của những người lãnh đạo Hà Nội. Những đảng viên Cộng sản đã mê đắm và hy sinh vì lý tưởng độc lập dân tộc, và cả quân đội giải phóng nữa, phải nghĩ sao về não trạng chư hầu này?
NHỮNG BÀI HỌC KHÓ QUÊN
Thắng thì quên, thua phải nhớ
Có một quy luật ít ai để ý tới là kẻ bại trận mới rút tỉa kinh nghiệm của chiến tranh.
Phe chiến thắng ca khúc khải hoàn xong là lập tức viết lại lịch sử để mạ vàng chiến công của mình - mà quên hẳn những sai lầm đã có trong cuộc chiến. Mọi sai lầm đều được phép quên, vì người người lo việc chia nhau chiến lợi phẩm.
Ngược lại, phe thua trận mới thấy đau buồn và nghĩ ngợi mãi về lý do thất trận. Trong hoàn cảnh bị biến làm nô lệ - hay bị tập trung cải tạo - họ càng nghiền ngẫm mọi khía cạnh của cuộc chiến để tìm ra lý do hay quy luật giải thích lẽ thắng bại ấy. Cho nên, quy luật "thắng thì quên - thua phải nhớ" chi phối sự suy tư chúng ta nhiều hơn là mình nghĩ.
Hà Nội còn giữ vết đạn quân Pháp bắn vào cửa Bắc Thăng Long năm xưa, một dấu tích đầu tiên của thất trận và "Hoà ước" Giáp Thân 1844. Nhưng sau chiến thắng tại miền Nam, thì khu cửa Bắc của thủ đô đã thành đặc khu kinh tế của các tướng lãnh - chiến lợi phẩm của kẻ chiến thắng.
Chiến lợi phẩm ở trong Nam thì… Hằng hà sa số, điểm không kể xiết.
Trong khi ấy, người chiến binh Cộng Hoà của miền Nam lại trăn trở không ít với lẽ thắng bại và có thể… dạy lại Hà Nội về cách ứng xử với Hoa Kỳ và về mối nguy Trung Quốc. Và dạy lại Hà Nội về đạo lý dân tộc bằng cách nhắc lại trận Hoàng Sa ngày 19 tháng Giêng năm 1974, khi Quân lực Việt Nam Cộng Hoà đơn độc bảo vệ tuyến đầu của vành đai Hoàng Sa Trường Sa.
Những người Việt thời nay cần nhớ lại là khi đã thế cùng lực kiệt, chỉ 15 tháng trước khi bị bức tử, Quân lực miền Nam đã có những quyết định không làm hổ danh Hoàng Diệu hay Nguyễn Tri Phương: bị nạn trong trận đánh, chiến hạm Nhật Tảo được lệnh là phải đâm vào bờ Hoàng Sa. Dù có chết thì cũng để lại chứng tích của người Việt trên đảo. Dù có ngã, vẫn phải ngã về phía trước!
Tinh thần ấy không làm chúng ta bật khóc hay sao?
Nhiều kẻ vẫn chê người lính chiến miền Nam là cứ gậm nhấm mãi nỗi buồn thất trận năm 1975. Họ không hiểu quy luật tâm lý của con người, một phần quan trọng của nhiều quy luật lịch sử.

Cho nên cũng không hiểu vì sao một người như Nguyễn Nhã tại miền Nam lại dày công nghiên cứu về Hoàng Sa và Trường Sa sau khi góp phần gây dựng Tập san Sử Địa tại Sàigòn, một nguồn tài liệu phong phú làm miền Nam hãnh diện ngay trong thời chiến và tới thời nay.
Ngoài "Hội chứng Bắc thuộc" của lãnh đạo Hà Nội, việc ông Nguyễn Nhã trình luận án Tiến sĩ ở trong Nam về Hoàng Sa cho thấy chiều sâu của người dân miền Nam, ở trong và ngoài đảng Cộng sản, khi nằm ở phe thất trận hay thất thế. Cũng nhờ đấy mà dân ta thu thập được nhiều tài liệu lịch sử chứng minh chủ quyền của người Việt trên các quần đảo đang có tranh chấp với Trung Quốc.
Ở bên ngoài, học giả Vũ Hữu San cũng là trường hợp đáng chú ý.
Ông là một trong bốn hạm trưởng của trận Hải chiến Hoàng Sa năm 1974 và nay là học giả có uy tín về nền văn minh hải dương và chủ quyền ngoài biển của Việt Nam. Trong cộng đồng những người thất trận và bị khinh miệt, ông đã giành mấy thập niên nghiên cứu và phổ biến các dữ kiện liên hệ đến chủ quyền của Việt Nam cho công luận cùng biết.
Những người ấy - và còn biết bao người khác - đã rút tỉa bài học đích thực của chiến tranh Việt Nam. Họ không ngoái nhìn về quá khứ hay nghĩ chuyện đỉnh chung mà nhìn vào quyền lợi của dân tộc từ ngàn xưa tới ngàn sau. Họ không là thần dân phục vụ bất cứ chính quyền nào mà miệt mài nghiên cứu và quảng bá những điều có lợi cho dân tộc Việt Nam.
Trước đấy hơn nửa thế kỷ, cách đây đúng 70 năm, Hoàng Đạo của Tự lực Văn đoàn cũng đã tiên báo về cái thế thắng bại trong chuyện phân tranh chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa với Trung Quốc. Ông thuộc phe "thua trận" trong mặt trận đoàn kết quốc cộng, và mất cách đây đúng 60 chục năm. Nhưng lời nhắn nhủ của ông còn vang vọng. Hà Nội không biết ngẫm lời cảnh báo của ông, có khi còn can dự vào cái chết bất ngờ của tay lý luận cự phách nhất của Tự lực Văn đoàn và Việt Nam Quốc dân đảng!
Vốn tự khoe là nắm vững quy luật lịch sử, lãnh đạo Hà Nội nghĩ sao về quy luật "đảng thắng thì nước thua"?
TRẬN CHIẾN "BẤM CHUỘT" TRONG NĂM TÝ
Tuổi trẻ trong một hình thái đấu tranh chưa từng có
Xưa nay, từ thời Bắc thuộc, rồi thời độc lập và dựng nước cho tới thời Pháp thuộc, thành phần ưu tú của xã hội ta chỉ sống và nhìn thấy không gian hai chiều Nam-Bắc. Làm gì thì họ cũng rập khuôn theo đạo Thánh hiền phương Bắc. Nếu có khẳng định tinh thần độc lập thì cũng vẫn là sự khẳng định căn cứ trên các khái niệm Trung Hoa.
Thế rồi, 150 năm trước, khi Pháp tông cửa bước vào nước Nam, từ miền Nam rồi lên miền Bắc, dân ta khám phá ra không gian… ba chiều. Ngoài quan hệ Nam-Bắc, Việt-Hoa, hình như còn có mối quan hệ khác nữa. Với Pháp, với Nhật…
Sinh sau mà đi trước nhiều người, kể cả hai cụ Phan Sào Nam và Phan Tây Hồ, có Hồ Chí Minh đã được dạy dỗ để nhìn ra không gian quốc tế của cục diện Việt Nam. Nhưng nhìn với con mắt nô lệ và tâm địa bầy tôi, thua xa các lãnh tụ cách mạng kia. Nhìn ra khía cạnh quốc tế của vấn đề Việt Nam, Hồ Chí Minh đã để quốc tế vận dụng Việt Nam. Cả cuộc đời của ông ta là một chuỗi dài đổi chác vì quyền bính.
Cái mà ông Hồ được thì nước ta mất. Mất tinh thần đoàn kết dân tộc vì Liên minh Quốc Cộng là hài kịch phản trắc. Mất tinh thần tự chủ vì làm gì cũng phải nghĩ trước xem có hợp với quy luật Mác-Lenin không. Nghĩ trật nói sai là đội mũ "xét lại chống đảng" và vào ngục. Không nên ngạc nhiên là từ dưới chân họ Hồ có Phạm Văn Đồng ký giấy công nhận chủ quyền phương Bắc trên lãnh thổ nước Nam….
Nhưng địa cầu vẫn quay và thế giới tiếp tục đổi thay. Trong khi đảng Cộng sản Việt Nam tự đóng khung trong không gian hai chiều - như loài giun trong lòng đất chỉ biết có hai hướng tiến lùi trên cùng một trục - người Việt Nam đã thấy ra nhiều không gian khác, trong những chiều kích khác.
Điển hình nhất là không gian điện toán, cyberspace!
Trong trận đánh Hoa-Việt ngày nay, đã đành là tướng lãnh Hà Nội thúc thủ và bộ đội ngẩn ngơ chưa biết tính sao, mà lãnh đạo thì cương quyết cầu hoà. Họ có thể mưu mô giật dây cho dân biểu tình làm phép, để dễ bề mặc cả "trong vòng lễ giáo" với Bắc Kinh. Nhưng bên dưới, bên ngoài, và khắp nơi trên thế giới, người Việt không chịu làm con rối mà muốn làm cho ra lẽ.
Những người biểu tình không có khí giới, tổ chức hay phương tiện dồi dào như đảng. Họ chỉ có tấm lòng và vận dụng một phương tiện mà các thế hệ trước không có: thông tin điện toán và các blog trao đổi ý kiến trên không gian điện toán. Họ thông báo và huy động nhau ở trên đó, để xuất hiện ở ngoài đời như một lực lượng tự phát mà cái cùm, cái còng hay cái roi điện không thể xử lý hết.
Họ đang làm lại lịch sử, theo một hình thái chưa từng có tại Việt Nam.
Cho tới ngày nay, đa số người dân trong nước chưa biết gì về cái tội bán nước và gắn sao của đảng Cộng sản Việt Nam cho hậu phương Bắc Kinh của đảng. Nhưng giới trẻ Việt Nam đã biết - và không chịu im. Họ tiến lên không gian điện toán để nhoài mình ra ngoài và bắt liên lạc với nhau.
Họ đang thấy rằng sở dĩ Bắc Kinh có quyền ngang ngược chính là vì đảng nhu nhược. Bao nhiêu lần ngư phủ của ta bị sát hại, bắt giữ mà đảng không dám làm gì. Bây giờ mới lật ngửa lá bài bán nước! Không gian của giới trẻ ngày nay chẳng còn là hai chiều giữa dân vớiø đảng, giữa Nam với Bắc, trong và ngoài, Hà Nội với Bắc Kinh. Mà là không gian đa diện, toàn phương vị, từ khắp nơi liên lạc với khắp nơi - bằng tốc độ điện tử.
Thời xưa, tại hội nghị Bình Than, lãnh đạo nhà Trần kịp nhìn ta một Trần Quốc Toản vì họ có cái tâm cho đất nước. Ngày nay, cái tâm đó không hề có trong lãnh đạo đảng, nhưng các Trần Quốc Toản đã xuất hiện khắp nơi. Họ không bấm vào quả cam trong nỗi bất lực của tuổi trẻ khi Tổ quốc nguy khốn. Họ bấm vào con chuột điện toán.
Ta đang chứng kiến một hiện tượng mới.
Hàng ngày, biết bao quyết định hệ trọng của loài người văn minh đã thành hình từ một động tác rất thường, rất nhỏ. Là bấm vào con chuột điện toán. Trong năm Hợi, đảng Cộng sản Việt Nam tìm cách ngăn cản giới trẻ lên tiếng và lên đường để tranh đấu cho chủ quyền lãnh thổ. Qua năm Tý, đảng sẽ lâm vào trận chiến với chuột. Một cái bấm là mấy trăm người đều nhận được thông tin, và tiếp tục bấm cho mấy trăm người khác…
Tất nhiên là đảng tìm cách kiểm soát và ngăn chặn. Nhưng sẽ ăn nói ra sao với Intel, hay Cisco?Kết quả trận đánh trên không gian đa phương của điện toán không thể là sự tái diễn của nạn bán nước để cứu đảng. Đó là lời chúc của năm Mậu Tý 2008!
(Bài này được viết cho Giai phẩm Xuân Mậu Tý của Việt Báo, xuất bản đầu năm 2008 tại miền Nam California, xin đăng lại nguyên văn để nhớ chuyện mới trong một tờ báo xuân cũ.... NXN)
Kỷ luật cán bộ liên quan vụ cờ 6 sao (TT).  – Bộ Ngoại giao: Về sai sót liên quan đến quốc kỳ Trung Quốc (VOV).  VN 'kỷ luật cán bộ vụ cờ sáu sao’ - (BBC) -Bộ Ngoại giao Việt Nam nói Cục Lễ tân Nhà nước đã nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm và kỷ luật các cán bộ có liên quan sự cố mang cờ TQ thừa sao.- TV Trung Quốc không chiếu video cảnh Tập Cận Bình ôm hôn Nguyễn Phú Trọng! Xi reaffirms intent for deal on isles to maintain peace (SCMP 23-12-11) -- TV VN có chiếu không?-

– Kami: Bí mật đằng sau việc VN dùng cờ Trung Quốc có 6 ngôi sao đón ông Tập Cận Bình (RFA’s blog). Đây là điều hết sức bất thường chứ hoàn toàn không đơn giản như nhiều người nghĩ vì nó mang tính chất đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Nghĩa là những vật có cùng tiếng thì cùng đáp lại với nhau, những vật có cùng khí chất thì tìm đến nhau kiểu ngưu tầm ngưu, mã tầm mã và chắc chắn là một mưu đồ chính trị của một số phần tử bảo thủ (thân Trung Quốc) trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp Việt nam hợp tác với phía Trung Quốc tấn công phái cấp tiến cụ thể là nhằm hạ uy tín Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và hạ bệ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh con trai của cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Theo nguồn tin từ Bộ Ngoại giao cho biết trước chuyến thăm Trung Quốc của TBT Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng từ ngày 11 tới 15/10/2011 và chuẩn bị cho Phó Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tới Việt nam, phía Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà nội đã đề nghị Vụ Đông Bắc Á Bộ Ngoại giao cho phép sử dụng lá cờ Trung Quốc (do ĐSQ Trung Quốc tại Hà nội cung cấp) với biểu tượng 6 ngôi sao với lý do coi như là sự bày tỏ cảm tình thắm thiết biết ơn về sự ủng hộ của Trung Quốc trong mối quan hệ với Trung Quốc mang tính vĩnh hằng và đời đời bền vững. Việc này Vụ Đông Bắc Á Bộ Ngoại giao đã báo cáo cho một thứ trưởng lãnh đạo và đồng báo cáo Ban Đối ngoại trung ương đảng CSVN để xin ý kiến chỉ thị và đã được chấp thuận. Trong việc này Cục Lễ tân Nhà nước Bộ Ngoại giao cũng như Đài truyền hình Việt  Nam (VTV) trước đây chỉ là đơn vị thừa hành theo chỉ thị của cấp trên, hoàn toàn không phải là như nội dung bản tin của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao và chắc chắn sẽ không có ai sẽ bị kỷ luật như nội dung bản tin công bố. Sự việc nêu trên không biết có liên quan tới việc sáng 23.12.2011, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tới làm việc với Ban Đối ngoại Trung ương đảng? Trong buổi làm việc này Tổng Bí thư cho rằng, hạn chế lớn nhất hiện nay của Ban Đối ngoại Trung ương là công tác nghiên cứu cơ bản, tham mưu, dự báo chiến lược còn chưa đáp ứng được yêu cầu, thiếu tính chủ động và tích cực.

Người Việt thường ví thâm như Tầu, để nói lên sự nham hiểm của người Trung Quốc trong lĩnh vực chính trị, xã hội và đối ngoại. Việc phía Trung Quốc đề nghị phía Việt nam dùng quốc kỳ Trung quốc thừa một ngôi sao là kế sách chịu nhục của ban lãnh đạo Trung Quốc để thi hành kế sách “vứt xương cho chó cắn nhau”, hòng hạ thấp uy tín ngành ngoại giao và Văn phòng Chủ tịch nước nhằm chia rẽ nội bộ và tạo mâu thuẫn cho cuộc đấu đá trong nội bộ ban lãnh đạo đảng CSVN và chính quyền của họ. Nhằm mục đích mượn tay những kẻ thân Trung Quốc để nhổ những cái gai trong mắt họ như Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh là đối tượng số một cần phải triệt hạ. Ngay sau khi nhà nước Việt nam đón tiếp Phó Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tới Việt nam bằng cờ Trung Quốc 6 sao, đã có tiếng nói trong ban lãnh đạo đảng CSVN yêu cầu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh từ chức để thể hiện sự chịu trách nhiệm về sai sót mang tính kỹ thuật trong cương vị của mình.

VN ‘kỷ luật cán bộ vụ cờ sáu sao’  —  (BBC).  – Việt Nam : vụ cờ Trung Quốc có 6 ngôi sao là “sai sót kỹ thuật”  —  (RFI). – Hà Sỹ Phu: Sau lời giải thích của Bộ Ngoại giao – (DLB).   –Hạch cờ – (DLB). – Nguyễn Ngọc Già – Phải nghiêm trị việc làm sai cờ Trung Quốc – (Dân Luận).

-Có thêm: -   Cờ Trung Quốc 6 sao là “sai sót mang tính kỹ thuật” (Bee).  – Kỷ luật các cán bộ để sai sót ‘cờ Trung Quốc 6 sao’ (VTC/ĐV).--Kỷ luật các cán bộ để sai sót 'cờ Trung Quốc 6 sao' (mỗi ĐV đăng tin)

(ĐVO) "Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội đã được thông báo đây là sai sót mang tính kỹ thuật", Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lương Thanh Nghị cho biết.

Trước câu hỏi của phóng viên "Đề nghị cho biết thông tin về việc trong lễ đón Phó Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình ngày 21/12, các cháu thiếu nhi Việt Nam đã vẫy cờ Trung Quốc có in hình 6 sao trong khi cờ Trung Quốc chỉ có 5 sao?", Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lương Thanh Nghị ngày 23/12 trả lời:

"Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội đã được thông báo đây là sai sót mang tính kỹ thuật. Cục Lễ tân Nhà nước đã nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm và kỷ luật các cán bộ có liên quan".

Hoàng Cường
-Việt Nam chính thức lên tiếng về vụ 'cờ Trung Quốc 6 sao'

--Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao trả lời câu hỏi của phóng viên ngày 23/12/2011

Câu hỏi
: Đề nghị cho biết thông tin về việc trong lễ đón Phó Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình ngày 21/12, các cháu thiếu nhi Việt Nam đã vẫy cờ Trung Quốc có in hình 6 sao trong khi cờ Trung Quốc chỉ có 5 sao?

Trả lời: 

          Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội đã được thông báo đây là sai sót mang tính kỹ thuật. Cục Lễ tân Nhà nước đã nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm và kỷ luật các cán bộ có liên quan./.
-“CỜ ĐỎ 6 SAO” ĐÓN TRUNG QUỐC-VIỆT NAM ĐÙA QUÁ RỒI basam-

caixun.com (Tiếng Trung)   23-12-2011 - Quốc Thanh dịch

Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào ngày hôm qua đã hoàn thành một cách thuận lợi chuyến viếng thăm Việt Nam, trong thời gian hội đàm, lãnh đạo hai nước đã đạt được sự đồng nhận thức trong việc thúc đẩy cho mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung-Việt phát triển đi tới. Tuy nhiên, một lỗi hạ cấp từ phía Việt Nam – trong nghi thức đón tiếp chính thức lại xuất hiện “quốc kỳ” Trung Quốc có 6 ngôi sao 5 cánh, đã mưu sát thành công vô số “cuộn phim”, đồng thời đã dẫn đến sự bức xúc của các giới.

Theo các nguồn tin, trên những lá cờ nhỏ mà trẻ em Việt Nam giơ lên khi tham gia nghi thức đón tiếp vào ngày 22, vây quanh ngôi sao lớn có tới 5 ngôi sao nhỏ, “cờ đỏ 5 sao” vì thế tự nhiên biến thành “cờ đỏ 6 sao”.

Về chuyện này, dân chúng ở cả hai nước Trung-Việt đều tỏ ra không hiểu nổi. Một số người Trung Quốc thì cười cho qua chuyện, đùa rằng 1 ngôi sao thừa ra hiển nhiên là đại diện cho Việt Nam rồi, bởi vì quốc kỳ “cờ đỏ sao vàng” của Việt Nam về cơ bản là giống với sắc màu của Trung Quốc (có khác chăng là con số ngôi sao mà thôi), “cờ đỏ 6 sao” có thể biểu đạt ý nguyện Việt Nam hòa nhập vào Trung Quốc cùng mưu cầu một sự phát triển chung.

Nhưng cũng có cả những lời gièm pha: Trong “cờ đỏ 6 sao”, ngôi sao to của Việt Nam nằm ở giữa, 5 ngôi sao nhỏ vây quanh bên ngoài, chẳng lẽ lại muốn Trung Quốc quay xung quanh Việt Nam?

Còn người dân Việt Nam thì tỏ ra bức xúc hơn, theo họ, Việt Nam in nhầm “cờ đỏ 5 sao” của Trung Quốc thành “cờ đỏ 6 sao” là có ý tự làm thấp mình đi.

Được biết, những lá cờ nhỏ thừa sao này không phải xuất hiện công khai lần đầu tiên ở Việt Nam. Trung tuần tháng 10, trong mục tin về quan hệ Trung-Việt phát trên Đài truyền hình Việt Nam, bên cạnh quốc kỳ Việt Nam, đã nghiễm nhiên xuất hiện một lá quốc kỳ Trung Quốc 6 sao.

Bất kể là “cờ đỏ 6 sao” có ẩn chứa ý nghĩa nào đó hay không, thì điều không thể phủ nhận được là, sự cố ngoại giao này của phía Việt Nam đã gây cười cho thiên hạ. Thực ra, rất nhiều nước đều đã từng phạm phải lỗi tương tự: Trong Hội nghị thượng đỉnh ASEAN vào tháng 3 năm nay, quốc kỳ Phipippines bị nhân viên Mỹ treo ngược. Mà theo luật pháp của Philippin, thì quốc kỳ treo ngược chứng tỏ đất nước đang trong tình trạng chiến tranh.

Song, “cờ đỏ 6 sao” cũng đã nói cho người dân Trung Quốc và Việt Nam rõ một điều là, hai nước quá giống nhau ở rất nhiều phương diện, chẳng hạn như quốc kỳ, chính thể, hình thái ý thức… Sai sót ngoại giao một lần sẽ không hề gây ảnh hưởng đến tiến trình mở ra sự hợp tác tích cực giữa hai nước Trung-Việt. Sau này, về rất nhiều vấn đề như Nam Hải (Biển Đông-ND) …, hai nước Trung-Việt đều phải nắm tay nhau cùng đón đầu những thách thức và khảo nghiệm, để thực hiện cùng lợi cùng thắng.

Hướng Khôn biên tập

Nguồn: caixun.com (Tiếng Trung)

Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011

——————————-

-  Vietnam in embarrassing flag gaffe with China (The Telegraph).  Việt Nam vi phạm sai lầm sơ đẳng trong việc treo cờ Trung Quốc – (DCVOnline). Dịch từ bài: Vietnam in Chinese flag faux pas (AFP).

Việt Nam đón tiếp phó chủ tịch Tập Cận Bình với lá cờ Trung Quốc có thêm một ngôi sao  —  (RFI). – VN giương cờ TQ dư một ngôi sao khi đón Phó Chủ tịch TQ Tập Cận Bình  —  (VOA).  – Flag gaffe: Vietnam greets top Chinese official with 1 star too many (Washington Post/AP).  Cờ TQ sáu sao ‘là do lỗi kỹ thuật’   — (BBC). -http://bbs.tiexue.net/post2_5646107_1.html);  – (http://www.chnqiang.com/article/2011/1223/mil_56163.shtml).

Vẫy cờ tào lao đón thái tử tào lao thiên triều (Gocomay).  – KHÔNG NGỜ ĐÓ LÀ SỰ THẬT (Trần Nhương).  – Cờ 6 sao, mèo, và mơ ước đêm Noel (Anh Vũ). – THÁI BÌNH: Chơi khăm? (Quê choa).  – Lạm bàn: Việt Nam “dùng sai” quốc kỳ Trung Quốc(Non sông gấm vóc).  – VỤ CỜ TRUNG QUỐC 6 SAO: CẦN PHẢI XỬ LÝ NGHIÊM MINH (Nguyễn Tường Thụy). – Nghi vấn quanh lá cờ lạ  —  (RFA). - Cờ 6 sao trên báo lề đảng – dán lên rồi gỡ xuống – (DLB). - Trần Đông Đức: Tại sao Việt Nam dùng cờ sáu sao của Trung Quốc (RFA’s blog).

-Cờ TQ sáu sao 'là do lỗi kỹ thuật' -Theo Bộ Ngoại giao Trung Quốc, giới chức Việt Nam nói với Đại Sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội rằng việc mang sai cờ Trung Quốc là do "lỗi kỹ thuật".

Bấm Nghi lễđón Phó Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tại thủ đô Hà Nội tuần này có sự cố khi đoàn thiếu nhi chào đón khách đã vẫy cờ có sáu sao thay vì năm.

Người phát ngôn tại Bắc Kinh Lưu Vi Dân, khi trả lời câu hỏi của một phóng viên hôm 23/12, nói Việt Nam thông báo với Sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội rằng sự việc là do "lỗi kỹ thuật".

"Phía Việt Nam đã giải thích với Sứ quán Trung Quốc ở Việt Nam và nói đó là lỗi kỹ thuật."

Chiều ngày 23/12, khi BBC gọi điện cho Sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội, một viên chức ngoại giao ở đây phủ nhận, nói rằng không biết đã xảy ra việc mang cờ với số lượng sao bị thừa sao.

Truyền thông chính thống ở cả hai nước đến giờ này đều không nói gì về sự cố ngoại giao trên.

Nhưng các tấm ảnh thiếu nhi vẫy cờ thừa sao, với sáu sao thay vì năm, tại Phủ Chủ tịch vào hôm thứ Tư đã gây bức xúc tại Việt Nam.

Cờ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có màu đỏ với bốn ngôi sao nhỏ màu vàng cuốn quanh một ngôi sao lớn hơn ở phía góc của cờ.

Lời bình trên các diễn đàn trực tuyến của người Việt yêu cầu có lời giải thích.

Trong một chương trình thời sự hồi tháng Mười năm nay, Đài truyền hình Việt Nam cũng đã để một lá cờ Trung Quốc bị thừa sao trong lúc người dẫn chương trình đọc bản tin.

Một sự cố tương tự cũng xảy ra ở Ấn Độ??? (Pakistan), trong một buổi lễ chính thức đón một phái đoàn Trung Quốc tới Delhi năm 2006 - lá cờ Trung Quốc cũng có sáu sao thay vì năm.

VN đón lãnh đạo TQ với ‘cờ thừa sao’  —  (BBC)Vietnam displays Chinese flags with 6 stars instead of 5 HANOI (AFP) - Vietnam made an embarrassing gaffe this week when receiving China's Vice-president Xi Jinping, considered the future number one in Beijing, by displaying Chinese flags bearing one star too many.– Cờ và sao (Anh Vũ).

Phó chủ tịch Trung Quốc kết thúc chuyến thăm Việt Nam : Hai bên cố gắng làm dịu tình hình ở Biển Đông  —  (RFI).  – Tập Cận Bình đến Hà Nội, lấy lại ‘niềm tin đang sứt mẻ’  —  (NV).  – Việt-Trung cải thiện quan hệ  —  (VOA).   Việt – Trung thúc đẩy giải quyết các vấn đề biên giới và trên biển (TN).   - Việt-Trung chuẩn bị trao đổi về thỏa thuận trên biển (PLTP). - Nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên 60 tỉ USD vào năm 2015 (NLĐ).

China and Vietnam improve strained ties HANOI (AFP) - China's vice-president was ending a visit to Vietnam on Thursday, part of an effort to consolidate ties that deteriorated following recent tensions over the disputed South China Sea.

Việt Nam khẳng định lập trường nhất quán về Biển Đông

GiangleBa điều ước của phó Chủ tịch Tập Cẩm Bình:
- Đội tuyển bóng đá TQ lọt vào vòng chung kết WC một lần nữa
- TQ đăng cai vòng chung kết WC
- TQ vô địch WC

Bụt hiện lên nói:
- Ta cho con một điều ước
- Xin Bụt làm giá nhà đất giảm xuống để dân nghèo có thể mua được một căn nhà
- (lưỡng lự).....
- Hay thôi cho con xin chức vô địch WC cho đội tuyển bóng đá TQ?
- (gãi đầu) ....
- (???)....
- .... Hừ, thế con muốn giá nhà đất giảm xuống bao nhiêu?

[Note: đấy là trích đoạn bài báo link bên dưới của The Economist nhé, không phải của tôi :-)]

Little red card

The Buddha tells the people he can fulfil only one of their wishes.
-Tại sao Việt Nam dùng cờ sáu sao của Trung Quốc -Trong thời gian gần đây, cứ mỗi lần có việc nghinh tiếp hay giao lưu với Trung Quốc, Việt Nam hay có tật "ngộ dụng" quốc kỳ Trung Quốc, tức là dùng phiên bản "sai" của lá cờ từ năm sao (ngũ tinh hồng kỳ) nâng lên thành sáu sao. Điều này xảy ra hoài trên truyền thông làm nhiều người đâm ra nghi ngờ là ban lễ tân bộ ngoai giao Việt Nam giả ngu không biết nghi thức quốc tế hay là có tình kết nội bộ kiểu gì đây?. Hôm nay, trong nghi thức đón phó chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình xảy ra ngay tại Hà Nội, phía Việt Nam cũng dùng cờ sáu sao rồi cho các em nghi đồng phất phất ngay trước quốc huy Việt Nam (cờ đỏ một sao) nhìn buồn cười chết được! Nhiều người lại tự hỏi không lẽ Việt Nam lại dùng sai cờ để tiếp quốc khách Tập Cận Bình. Như thế mà cũng được à?
 Có xu hướng cho rằng chắc là tại lỗi in ấn ở Việt Nam không biết cờ Tàu. Rủi có hàng cờ Tàu in lộn tồn đọng trong kho thì nay có khách đến, phải đem ra dùng chứ! Không thì lại phải đem đi đốt hoặc quăng thùng rác - như thế thì không chừng lại còn thất lễ?
Nhưng cũng có xu hướng quyết liệt cho rằng Việt Nam đã cam tâm tình nguyện gắn thêm cái sao vàng vào cờ của Trung Quốc cho nó vừa mang tính chất giao lưu, vừa thống thuộc về cùng một phương hướng do đảng cộng sản cùng màu cùng sắc lãnh đạo, kiểu như liên minh dự định giữa liên bang Nga với Belarus. Dù như thế nào đi nữa, việc gắn sao vào cờ Tàu kiểu này là tự đặt Việt Nam vào vị trí không bình đẳng liên quan đến nền tảng và bố cục giữa hai ngọn cờ "hồng".
Cờ sáu sao bắt nguồn từ trục huyền cơ thâm hiểm Trung Quốc - Pakistan
Nhưng vấn đề dùng cờ sáu sao lại có một nguyên cớ khác mà nhiều người Việt chưa biết. Thì ra đây là một cử chỉ cảm tạ tri ân, chiến hữu thân mật bày tỏ lòng mong ước về mặt nghĩa tình của lân bang Pakistan với Trung Quốc. (Mềnh đã từng viết bài về trục này đăng trên blog RFA - rất nham hiểm).
Nghi thức này được bắt đầu từ nước Pakistan nhân chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào tới thăm nước này cách đây mấy năm. Lúc đó, nước chủ nhà này cho các thiếu nữ xinh đẹp Pakistan dùng cờ sáu sao tạo nên dư luận hiếu kỳ. Tưởng là lỗi tại in ấn, dư luận còn định đem ra chọc quê hay là khiển trách. Nhưng không ai ngờ, đây là sự sắp đặt tinh vi biến thành nghi thức đạo mạo ấp ủ cho Việt Nam sau này. Pakistan đã giải thích với Trung Quốc là cố ý cho thêm một sao vào đấy! Coi như là Pakistan bày tỏ cảm tình thắm thiết biết ơn về sự ủng hộ của Trung Quốc (giúp đối đầu với Ấn Độ)…  Pakistan không ngại nguyện sẽ biến thành như một ngôi sao trong mối quan hệ chu vi quanh với Trung Quốc mang tính vĩnh hằng và đời đời bền vững.
"Pakistan đã vượt mặt Bắc Hàn và Việt Nam về sự biết ơn Trung Quốc" theo ý kiến của cư dân mạng tieba  baidu khiến sự sai ngộ này biến thành một huyền cơ chính trị địa lý làm Trung Quốc vô cùng thích chí và có sự gợi ý ngầm về một quan hệ chu vi chặt chẽ thì dùng cờ sáu sao cũng không sao cả.
Việt Nam như được hướng dẫn để hưởng ứng cho phong trào "ngọn cờ nguyện ý chu vi" cho nên cũng cho in loại cờ này ra kiểu úp úp mở mở để đẹp lòng "trung ương đảng". Tuy nhiên bộ ngoại giao Việt Nam cũng không thể nào giải thích rõ ràng như kiểu Pakistan vì nhân dân Việt Nam có truyền thống chống Tàu và nhạy cảm với vị trí "sao vàng năm cái mộng hồn quanh" này.
Trong chuyến viếng thăm của nhà Tập mở đầu cho một mối quan hệ của thế hệ lãnh đạo mới, ban lễ tân Việt Nam như đã nhận được tín hiệu này từ phía Trung Quốc do đó lén lén lút lút cho dùng cờ sáu sao để bày tỏ thiện chí. Tuy nhiên, ngọn cờ Việt Nam đối với sự kiện này là một điều nhạy cảm và cũng khá bất ngờ (vì cứ giả lả "sai ngộ" thường xuyên - lần này thì hàng loạt)... BBC Việt Ngữ khi đưa hình này lên rồi rút xuống (chắc là để điều tra hư thực) rồi sau đó cho lên lại khiến sự tò mò lan rộng. Báo chí trong nước thì không dám đăng rồi. Nhưng mục đích cuối cùng là cốt làm thế nào để nhân dân không quá hiếu kỳ mà Trung Quốc nhận được tín hiệu tình nồng.
Tuy nhiên, khẳng định một điều, qua cử chỉ tiền lệ của Pakistan đã được Trung Quốc bày tỏ mãn ý, Việt Nam rõ ràng không phải ngộ dụng cờ sáu sao (một lớn năm bé) tí nào - như nhiều người vẫn còn nghi nghi mà đi chê ban lễ tân ngu dốt hay sơ ý này nọ. Đây chính là sự bày tỏ thiện chí mang tính mật ước mật mã giao kết. Lãnh đạo Việt Nam muốn nói lên điều gì đây. Hỏi tức là trả lời.
Chỉ có điều cờ Pakistan khác hẳn bố cục cờ Trung Quốc. Sáu sao mà bi ghép vào như thế thì không thể nào không làm người Việt Nam liên tưởng ngay vào khái niệm sát nhập đỏ đỏ vàng vàng quyện hẳn vào nhau. Nhìn vào  là thấy ngay điều  nhạy cảm, tính thống thuộc sắc màu, và sự đua đòi trong thái độ biết ơn Trung Quốc như kiểu Pakistan bày ra.
Ngoài ra, cái sao vàng thêm vào như thế, đứng về phía cờ đỏ sao vàng của Việt Nam mà nhận xét thì còn có ý định đi làm phên dậu cho cái "Đại Cứu Tinh", tức là ngôi sao to đại diện cho đảng cộng sản trên cái lá cờ Tàu của nó.
Trần Đông Đức

HÀ NỘI (NV)
 - Dân viết báo mạng cá nhân (bloggers) đang vô cùng sửng sốt khi nhìn thấy một chuyện lạ đang xảy ra tại Việt Nam và nhiều người đặt dấu hỏi tại sao, có chủ ý gì.
Cờ Trung Quốc với một ngôi sao lớn và 5 ngôi sao nhỏ ở bên phải được em nhỏ cầm đón Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình ở Phủ Chủ Tịch nước tại Hà Nội ngày 21 tháng 12, 2011. (Hình: AP Photo/Luong Thai Linh, Pool)
Hình ảnh do hai hãng thông tấn quốc tế AP và AFP phổ biến cho thấy những em nhỏ Việt Nam được cho ăn mặc rất đẹp với váy đầm trắng, áo đỏ, khăn quàng đỏ, trên tay mỗi em cầm một lá cờ Trung Quốc.

Ðiểm đặc biệt là lá cờ này có tới 6 ngôi sao, gồm một ngôi sao lớn và 5 ngôi sao nhỏ. Cờ chính thức của Trung Quốc chỉ có 5 ngôi sao gồm một ngôi sao lớn và 4 ngôi sao nhỏ ở bên phải, tượng trưng cho 5 sắc tộc chính là Hán, Mãn, Hồi, Mông, Tạng.


Câu hỏi được đặt ra là “chẳng lẽ chế độ Hà Nội lại không biết rõ điều này hơn ai hết? Hay muốn đưa Việt Nam trở thành ngôi sao thứ 6?”


Blogger Nguyễn Xuân Diện đặt dấu hỏi là, “Việc chuẩn bị những lá cờ này do phía Việt Nam hay phía Trung Quốc?

Ðoàn thiếu nhi Việt Nam đón Tập Cận Bình với cờ Trung Quốc 6 sao ở Phủ Chủ Tịch nước Hà Nội ngày 21 tháng 12, 2011. (Hình: AFP/Getty Images)
Không mấy ai tin rằng Phó chủ tịch nước Tập Cận Bình sang thăm viếng chính thức Việt Nam phải mang theo một đống cờ, mà lại là cờ... 6 sao!

Theo một 
bài viết của ký giả Trần Ðông Ðức trên Facebook, đây có thể không phải là sự lầm lẫn in ấn mà là một sự “cố tình để bày tỏ lòng biết ơn quan thầy Trung Quốc.”

Trước đây, khi Hồ Cẩm Ðào, chủ tịch nước Trung Quốc, đến Pakistan vào tháng 10 năm 2006, nước này cũng đã đóng tiếp ông ta với một rừng cờ Trung Quốc 6 sao.


Ký giả Trần Ðông Ðức viết: “...qua cử chỉ tiền lệ của Pakistan đã được Trung Quốc bày tỏ mãn ý, Việt Nam rõ ràng không phải ngộ dụng cờ sáu sao (một lớn năm bé) tí nào - như nhiều người vẫn còn nghi nghi mà đi chê ban lễ tân ngu dốt hay sơ ý này nọ. Ðây chính là sự bày tỏ thiện chí mang tính mật ước mật mã giao kết. Lãnh đạo Việt Nam muốn nói lên điều gì đây. Hỏi tức là trả lời.”


Bloggers Việt Nam giận dữ


“Quân phản quốc là đây chứ là đâu. Kẻ phản quốc nằm ngay ở đầu não.” Một người ẩn danh phát biểu trên Nguyễn Xuân Diện Blogspot.


“Thô bỉ quá. Chúng không còn coi ai ra gì cả.” Một người nặc danh phát biểu trên Ba Sàm Blog.


Nhóm thông tin thời sự Dân Làm Báo gọi lá cờ 6 sao là “món quà triều cống dành cho thái tử Tập Cận Bình.”


Thật ra, đây không phải là lần đầu tiên Hà Nội sử dụng lá cờ 6 sao của Trung Quốc. Khi đưa tin Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đi sang Bắc Kinh ngày 11 tháng 10, 2011, đài truyền hình VTV1 cũng đã cho đọc bản tin trên đó có lá cờ Trung Quốc 6 sao.
 (TN)
-Hình ảnh chuyến thăm VN của ông Tập Cận Bình-bbcLá cờ Tàu (Nguyễn Thông).  – Khách khí với Tập Cận Bình (Mr. Do). – -video VTC  

- Mỹ - Châu Á: The American Pivot to Asia (FP 21-12-11) -- Kenneth Liebenthal, mộtt chuyên gia hàng đầu của Mỹ về Trung Quốc, cho rằng việc Mỹ "xoay hướng" sang châu Á là nói dễ hơn làm. Bài dài, nên đọc
Trung Quốc - MỹHow Kim Death Risks China Crisis (Diplomat 21-12-11) -- Bài Minxin Pei
Tại sao Trung Quốc sẽ dân chủ hoá: Why China will democratize (Washington Quarterly Winter 2012) -- Wishful thinking!◄◄
Nước Mỹ thối lui? America is retreating from the world stage (Telegraph 21-12-11)




--Tướng Việt Nam kể chuyện bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc


TRUNG TƯỚNG VŨ XUÂN VINH*

Tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt - Trung qua hồi ức của Trung tướng Vũ Xuân Vinh, nguyên Cục trưởng Cục Đối ngoại Quân sự.
LTS: Loạt bài "Hành trình học để hiểu nhau giữa hai cựu thù" kể về tiến trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao và kinh tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã thu hút được sự chú ý và hoan nghênh của đông đảo bạn đọc. Nói về hành trình Việt - Mỹ, không thể bỏ qua một sự kiện đối ngoại khác cũng có ý nghĩa trọng đại không kém và tác động qua lại phức tạp với tiến trình Việt - Mỹ, đó là tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt - Trung.

Để góp thêm một tư liệu tham khảo giúp bạn đọc có thêm thông tin về một thời kì lịch sử quan trọng, Tuần Việt Nam giới thiệu trích đoạn bài viết của Trung tướng Vũ Xuân Vinh, nguyên Cục trưởng Cục Đối ngoại Quân sự trong cuốn sách "Bảo vệ, xây dựng và đổi mới đất nước", NXB Chính trị Quốc gia, 2007.Từ vấn đề ta giúp đỡ cách mạng Campuchia cũng là để bảo vệ nhân dân và lãnh thổ của ta, đưa quân sang giúp nhân dân Campuchia đánh đổ bọn diệt chủng Pôn Pốt, xây dựng chính quyền cách mạng nhân dân, ta bị một số nước trong khu vực, phương Tây và Mỹ cấm vận kinh tế, cô lập về ngoại giao và tình hình biên giới hai nước Việt - Trung trở nên rất căng thẳng, ảnh hưởng đến xây dựng đất nước sau khi được thống nhất.
Từ tình hình trên, tại Đại hội VI, Đảng ta đã có chuyển biến đổi mới tư duy từng bước, nhất là về kinh tế và đối ngoại. Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết Trung ương 13 (tháng 5/1988) kịp thời điều chỉnh chiến lược đối ngoại với tư tưởng "Hạn chế đối đầu, tăng cường đối tác", "Hoàn thành nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Lào và Campuchia, rút quân tình nguyện về nước để bạn đủ sức tự vệ lo về quốc phòng - an ninh", "Củng cố tăng cường quan hệ với bạn bè". Tất cả với mục đích: "Chuyển cuộc đấu tranh từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác cùng tồn tại hòa bình", làm thất bại cuộc bao vây cấm vận và cô lập Việt Nam về kinh tế, chính trị, ngoại giao, làm cho Việt Nam chủ động hòa hợp vào cộng đồng thế giới. Kiên trì mục tiêu "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các quốc gia và các dân tộc trên thế giới".
Để thực hiện các chủ trương tại Nghị quyết Trung ương 13 của Bộ Chính trị, ta đã có những bước đi hợp lý, mạnh mẽ, từ năm 1987-1988:
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ quốc tế giúp bạn, ta tuyên bố các đợt rút quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước. Cụ thể: ta rút quân tình nguyện khỏi Lào năm 1988. Sau các đợt rút quân khỏi Campuchia bắt đầu từ năm 1982, đến năm 1989 thì rút xong toàn bộ quân tình nguyện và đoàn chuyên gia Việt Nam. Đồng thời ta thực hiện giảm lớn quân số thường trực...
Nắm bắt và phân tích kỹ tình hình quốc tế, đồng chí Lê Đức Anh, với tư duy lý luận và thực tiễn sắc sảo đã có công đóng góp và điều chỉnh chiến lược đối ngoại, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 13 (Đại hội VI) của Bộ Chính trị đạt kết quả; nhất là việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Thái Lan.


Ngày 9/11/1993 tại Đại lễ đường nhân dân Bắc Kinh, Chủ tịch nước Trung Quốc Giang Trạch Dân tổ chức lễ đón, chào mừng Chủ tịch nước Việt Nam Lê Đức Anh sang thăm Trung Quốc.
Đồng chí Lê Đức Anh đã nói với tôi, Cục trưởng Đối ngoại: Trung Quốc là một nước lớn, láng giềng gần gũi với ta, nếu hai nước luôn ở tình trạng đối đầu căng thẳng thì không xây dựng được đất nước mà còn bị phương Tây lợi dụng. Trung Quốc lại có nhiều điểm tương đồng với ta, nhất là điểm tương đồng cơ bản là còn tính chất XHCN. Trước tình hình quốc tế phức tạp hiện tại, ta cần chủ động sớm mở ra quan hệ bình thường với Trung Quốc. Vì lợi ích dân tộc ta, ông cha ta xưa kia cũng có truyền thống chủ động quan hệ với Trung Quốc những lúc hai bên gay cần, nhưng vẫn không mất độc lập, chủ quyền mà còn có điều kiện đấu tranh với mặt tiêu cực, không phù hợp của họ. Đồng chí có nhiệm vụ và có điều kiện quan hệ với Đại sứ quán Trung Quốc, tác động vào việc bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhưng phải giữ bí mật vì ở trong ta đang còn những quan điểm khác nhau.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Lê Đức Anh, Cục trưởng Đối ngoại đã tổ chức bốn cuộc gặp với Đại sứ Trung Quốc là Trương Đức Duy vào cuối tháng 5 đầu tháng 6/1990.
-         Cuộc gặp thứ nhất: Với danh nghĩa cá nhân Cục trưởng Đối ngoại, để thăm dò việc mở ra quan hệ bình thường giữa hai nước.
-         Cuộc gặp thứ hai: Tôi gặp Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy, theo sự chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Anh. Tôi nói Việt Nam và Trung Quốc cần tác động đến hai bên đối địch ở Campuchia làm cho họ liên hiệp với nhau, sẽ chấm dứt được xung đột, đem lại hòa bình, có lợi cho ổn định hòa bình ở Campuchia. Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy không phản ứng gì, chỉ nói ghi nhận và sẽ báo cáo lên trên, nhưng nét mặt tỏ ra hoan hỉ.
-         Cuộc gặp thứ ba: Giữa đồng chí Lê Đức Anh với Đại sứ Trung Quốc.
-         Cuộc gặp thứ tư: Giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy lúc 20h ngày 6/6/1990. cả hai cuộc gặp này đều diễn ra tại nhà khách Bộ Quốc phòng, số 28 Cửa Đông.
Sau các cuộc gặp đó, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đánh tiếng "Sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với Việt Nam" khi ông đi thăm Sigapore (tháng 7/1990), Thủ tướng Đỗ Mười tỏ lời hoan nghênh. Ngày 19/8/1990, Đại sứ Trung Quốc gửi thư của lãnh đạo Trung Quốc mời Tổng Bí thư Nguyên Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang thăm chính thức Trung Quốc, để gặp lãnh đạo Trung Quốc tại Thành Đô ngày 3 và 4/9/1990, trao đổi ý kiến về bình thường hóa quan hệ giưa hai nước, vấn đề Campuchia và một số vấn đề khác.
Đến tháng 3/1991, Thủ tướng Lý Bằng tuyên bố "Quan hệ Việt - Trung đã tan băng!". Tháng 8/1991, đồng chí Lê Đức Anh với cương vị là "Đặc phái viên của Bộ Chính trị" sang thăm Trung Quốc để bàn những nội dung cụ thể về việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Tối 23/10/1991, Hiệp định Paris về Campuchia đã được ký kết, thỏa mãn được quyền lợi các bên có liên quan; Việt Nam và Trung Quốc đã đóng góp đáng kể vào thành công của Hiệp định.
Đến tháng 11/1991, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã sang thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc. Hai bên ra Thông cáo chung và ký kết Hiệp định chính thức quan hệ bình thường hai nước trên cơ sở năm nguyên tắc hòa bình và kỳ cả quan hệ bình thường giữa hai Đảng.
Năm 1993, đồng chí Lê Đức Anh với cương vị Chủ tịch nước đã sang thăm chính thức Trung Quốc, mở ra giai đoạn bình thường hóa quan hệ giữa hai nước sau 15 năm căng thẳng, tạo điều kiện cho Việt Nam gia nhập ASEAN và bình thường hóa quan hệ với Mỹ vào năm 1995, đi vào hội nhập với cộng đồng khu vực và thế giới, phục vụ cho chủ trương xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.



-Niềm tin và thất vọng (TVN)
2011: Hiệu ứng ngoại giao cấp cao (TVN)



 Nhật ký Trường Sa: Quân dân một lòng giữ biển đảo (Lâm Đồng Online).  – Mang quà xuân đến nhà giàn DK1 (Tin tức).  – Tăng cường bảo vệ chủ quyền vùng biển (PLTP).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét