Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 7 tháng 4, 2014

Thực hư chuyện TQ làm ăn ‘mờ ám’ ở VN - Bí thư Nguyễn Sự: Quan chức không giàu khác nào “trên trời rơi xuống”?

TIN LÃNH THỔ


TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ


TIN THẾ GIỚI

Bí thư Nguyễn Sự: Quan chức không giàu khác nào “trên trời rơi xuống”?

http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/168971/quan-chuc-khong-giau-khac-nao–tren-troi-roi-xuong–.html
quan chức, Hội An, tài sản, minh bạch, Nguyễn Sự
Với đồng lương như thế, thu nhập như thế giàu sao được. Vậy mà chúng ta lại nhìn một quan chức không giàu có như một cha nào đó từ trên trời rơi xuống?
Hẹn gặp Bí thư Nguyễn Sự của TP. Hội An trong một quán café cóc ven đường. Ông Bí thư phố Hội ăn mặc giản dị, đi xe đạp đến, gọi 3 ly trà đá và rất nhẹ nhõm khi nói về chuyện nghèo của mình giữa sự giàu có của nhiều quan chức khác.
DN tiếp cận lãnh đạo là chuyện thường

Tôi đã rất tò mò về ông, thậm chí là thấy khó tin, khi mọi người kể rằng gia đình ông sống trong một ngôi nhà lợp mái gianh rất bình thường?
Đó là chuyện sáu năm trước đây. Bây giờ gia đình tôi ở trong một ngôi nhà cấp 4. Nhưng tôi thấy điều đó cũng bình thường thôi chứ không có gì khó tin cả.
Nhưng Hội An là một mảnh đất kiếm ra tiền thực sự bằng du lịch. Nhiều doanh nghiệp muốn đầu tư vào đây. Mà chúng ta đều không lạ gì cơ chế bôi trơn đã trở thành một thứ “văn hoá” ở đất nước ta. Lẽ nào các doanh nghiệp đến Hội An đầu tư họ không tìm cách tiếp cận ông?
Ở Hội An, doanh nghiệp cũng tìm cách gặp tôi. Họ tiếp cận tôi khi tôi ngồi uống cafe chẳng hạn. Nhưng không chỉ có doanh nghiệp, ai cũng có thể ngồi uống café cùng tôi, kể cả anh xe ôm.
Tôi có thể không giải quyết được vấn đề của họ ở quán café, nhưng tôi lắng nghe họ, hướng dẫn họ cách giải quyết. Thậm chí có khó khăn gì, doanh nghiệp có thể tìm đến nhà tôi.
Nhưng có một điều rất rõ ràng chúng tôi quy định với doanh nghiệp: Thứ nhất, khi anh đến Hội An đầu tư, có những điều kiện bắt buộc mà chúng tôi đặt ra với anh, anh buộc phải tuân theo: môi trường, mật độ xây dựng, cây xanh, kiến trúc đô thị, hay chuyện anh được kinh doanh cái gì và không kinh doanh cái gì theo luật của Hội An.
Nếu anh chấp nhận những cái đó, anh cứ vô Hội An làm. Nếu vi phạm, anh không thể tiếp tục tồn tại ở Hội An nữa. Chúng tôi không bao giờ dùng quyền lực của mình để làm khó doanh nghiệp. Vì thế, ở Hội An không có văn hoá phong bì giữa doanh nghiệp với các quan chức. Nếu có cũng chỉ rơi rớt vài trường hợp cá biệt.
Có những doanh nghiệp mới đến Hội An, chưa biết cách làm việc của chúng tôi cũng đến gặp tôi và tìm cách đưa phong bì. Tôi rất thẳng thắn với họ: nếu anh đến Hội An mà giữ cách làm việc này thì người đầu tiên không đồng ý cho anh đầu tư vào Hội An là tôi. Chúng tôi không chấp nhận anh. Bất cứ người lãnh đạo, quản lý nào có tự trọng thì sẽ đều làm như vậy, tôi tin thế.
Cũng phải nói thêm rằng doanh nghiệp tiếp cận lãnh đạo là chuyện bình thường. Cơ chế của chúng ta khiến cho nhiều doanh nghiệp muốn được việc hay không là do ông lãnh đạo ở địa phương đó, chứ không phải luật pháp quyết định. Một ông doanh nghiệp muốn xây khách sạn, luật pháp không cấm, nhưng ông ấy cần đất đai, mà ông chính quyền ở đó không kí thì doanh nghiệp chịu. Doanh nghiệp tiến cận quan chức cũng vì muốn được việc cũng là lẽ đương nhiên, chúng ta không có lý do gì trách họ.
Nhưng cách ứng xử của người lãnh đạo là cái cần quan tâm. Khi doanh nghiệp tiếp cận anh, nếu anh hướng dẫn để doanh nghiệp làm đúng luật pháp thì mọi chuyện sẽ rất minh bạch – tốt! Nhưng nếu anh để doanh nghiệp đi cửa sau, cửa trước, làm chuyện dấm dúi này nọ – không tốt!
quan chức, Hội An, tài sản, minh bạch, Nguyễn Sự
Ông Nguyễn Sự. Ảnh: Lan Hương
“Ông Sự không vì cái nhà mà… to hơn”Con người luôn có ham muốn: ham muốn về vật chất, về dục vọng. Là quan chức, xung quanh luôn có rất nhiều sự cám dỗ, ông kiểm soát sự ham muốn của mình thế nào?
Tôi luôn tâm niệm hai chữ “tri túc” – biết thế nào là đủ. Cái này tôi không học từ đâu cả, mà học từ chính gia đình mình. Nhà tôi nghèo, mẹ tôi mù chữ. Nhưng bà làm lụng vất vả, cố gắng cho tôi đi học, chỉ mong tôi nuôi được thân mình, chứ không phải mơ tôi làm quan chức này nọ. Cha tôi cũng có chữ nghĩa, học hành, cũng chỉ là người lao động.
Tôi thường ngẫm nghĩ khi tôi nghèo khổ, tôi ở nhà tranh, tôi không thấy mình hèn. Đến hôm nay, đồng lương cải thiện, biết tiết kiệm, tôi đã xây được cái nhà cấp 4, tôi cũng không thấy mình sang hơn. Bản thân ông Sự cũng không vì cái nhà mà trở nên to hơn. Ngay cả lúc dù cuộc sống đụng đâu thiếu đó, tôi cũng vẫn thấy mình đủ. Đó là tri túc.
Tôi nghĩ “quan không thanh liêm” mới là sự bất thường, vậy mà giờ đây chúng ta dùng từ “quan thanh liêm” để nói về một sự bất thường.
Cha mẹ tôi lúc  còn sống không dễ để có một bộ đồ mới, một miếng ăn ngon, nhưng đến lúc tôi có điều kiện làm được điều đó, thì cha mẹ tôi đã nằm xuống. Tôi cứ nghĩ mãi vậy thì chuyện nhiều tiền hay không có quan trọng nữa không? Mẹ tôi không biết chữ, nhưng không có nghĩa bà để cho con cái hư hỏng. Cũng không phải vì chúng tôi nghèo mà hèn. Không ai tự hào mình nghèo. Nhưng chúng tôi biết thế nào là đủ. Và tôi luôn đặt chữ Tri Túc trước mặt để răn mình.
Ai thấy tiền cũng ham, nhưng nếu anh từ chối được một lần thì sẽ từ chối được những lần sau. Nếu anh đã lỡ nhận lần đầu tiên, thì những lần sau anh sẽ vi phạm. Mọi thứ đều do mình cả.
Lẽ nào trong suốt mấy chục năm qua, không có lúc nào đó ông cảm thấy mình đứng ở ranh giới lựa chọn giữa việc làm một “ông quan thanh liêm” và những cơ hội khác về vật chất?
Tôi không thích cái từ “quan thanh liêm”. Bởi tôi nghĩ Đảng đặt mình vào vị trí đó, dân đặt mình vào vị trí đó đâu phải để mình không thanh liêm, đâu phải để mình không đàng hoàng, ngay thẳng?
Tôi nghĩ “quan không thanh liêm” mới là sự bất thường, vậy mà giờ đây chúng ta dùng từ “quan thanh liêm” để nói về một sự bất thường.
Khi nói bản thân một quan chức không giàu có, nhiều người sẽ không tin, coi đó là chuyện bất thường. Nhưng thực tế chuyện không giàu có là bình thường vì với đồng lương như thế, thu nhập như thế giàu sao được. Vậy mà chúng ta lại nhìn một quan chức không giàu có như một thằng cha trên trời rơi xuống?
quan chức, Hội An, tài sản, minh bạch, Nguyễn Sự
Phố cổ Hội An. Ảnh: Chudu
Sự ngay ngắn đáng lẽ là điều bình thường giờ lại trở thành cái không bình thường trong con mắt chúng ta. Đó chính là sự “bất thường” trong tư duy của chúng ta hôm nay, kể cả báo chí cũng mắc lỗi đó.
Nếu có ai hỏi tại sao ông làm quan mà lại ở cái nhà như thế này? Tôi chắc sẽ hỏi lại tại sao ông làm quan chức mà lại ở cái nhà to như thế kia?
Tôi chống lại sự cám dỗ một cách đơn giản: tôi nhớ một điều rằng cái gì không phải của tôi thì tôi không xài. Người ta đưa cho tôi cái phong bì dày hay mỏng không quan trọng, nhưng tôi biết số tiền trong cái phong bì đó không phải của tôi.
Trong khi gia đình ông sống trong một ngôi nhà cấp 4, thì nhiều quan chức khác có xe hơi, có biệt thự; vợ con họ đi du lịch nước trong nước ngoài, du học này nọ…. Vậy vợ ông có bao giờ chạnh lòng về việc mình cũng có một ông chồng quan chức mà cuộc sống lại chỉ như đơn giản như lâu nay không?
Vợ tôi sinh ra trong một gia đình khá cơ cực. Cái cơ cực bây giờ so với cái cơ cực những năm tháng đó chẳng là gì. Cũng có thể vì vợ tôi hiểu chồng nên không bao giờ đòi hỏi, trách móc chồng về chuyện đó. Đó cũng là niềm vui, là may mắn của tôi.
Có thể vợ tôi cũng có suy nghĩ, cũng có mơ ước, nhưng vợ tôi ủng hộ và có chung quan điểm với tôi: cái gì không phải của mình đừng có xài.
Nhận tiền của người ta như nhận lấy món nợ vào đời mình. Tôi nghĩ, món nợ ân tình thì đời mình trả không xong, đời con mình sẽ trả. Nhưng món nợ vật chất, trả bao nhiêu cũng sẽ mãi mang tiếng. Mà không có cái đó chúng tôi đâu có chết.
Tôi chống lại sự cám dỗ một cách đơn giản: tôi nhớ một điều rằng cái gì không phải của tôi thì tôi không xài. Người ta đưa cho tôi cái phong bì dày hay mỏng không quan trọng, nhưng tôi biết số tiền trong cái phong bì đó không phải của tôi.
Không có biệt thự, không có ô tô, không đi nước ngoài, chúng tôi vẫn sống bình thường. Dĩ nhiên nghèo đến mức ra đường mà không có đồng bạc trong túi uống café, hay không có tiền sửa xe thì không được. Nhưng đồng lương của tôi đủ để tôi không nghèo đến mức đó. Như ở Hội An này chẳng hạn, tôi chỉ cần vài ba trăm trong túi là yên tâm.
Xin tò mò một chút là trong ví ông thường có bao nhiêu tiền?
Đôi khi có vài ba triệu, đôi khi chẳng có đồng xu nào cả. Nhưng nói thật là tôi không bận tâm điều đó. Khi tôi cần mua gì đó, lục ví ra không còn đủ tiền thì tôi không mua.
Nhưng ông không sợ người dân Hội An nhìn thấy, họ cười vì “ô.. ông bí thư mà lại không có đủ tiền mua một món đồ hay sao”?

Tôi không ngại, vì tôi chưa có, thì để lúc có tôi sẽ mua. Người dân thậm chí bảo tôi chưa đủ tiền thì cứ lấy, bao giờ có thì trả. Đó là chuyện bình thường thôi, sao phải ngại?
(Còn nữa)

“Tôi tin cuộc đời không cho không ai cái gì cả. Chuyện Nhân – Quả cha ông ta đã dạy. Các cụ dạy “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, nhưng giờ tôi nghĩ, gieo nhân nào sẽ gặt ngay quả đó, đời cha ăn mặn chưa kịp bỏ đũa có thể đã khát nước rồi”, ông Nguyễn Sự tiếp tục chia sẻ.
Mời bạn đọc tiếp tục theo dõi.

Lan Hương(thực hiện)

Thực hư chuyện TQ làm ăn ‘mờ ám’ ở VN

BBC
Mở bằng chương trình nghe nhìn khác
Lao động phổ thông của Trung Quốc ở Việt Nam
Hiện chưa có thông kê đầy đủ về số lượng lao động phổ thông TQ trong nội địa VN.
Có thể xác nhận nhiều động thái đầu tư, di cư lao động phổ thông, buôn bán thương lái của Trung Quốc vào nội địa Việt Nam gây ra những tác động có tính ‘phá hoại’, ‘đe dọa an ninh trật tự, môi trường’ của Việt Nam một cách có hệ thống, theo nhà quan sát từ Việt Nam.
Đã đủ thông tin để xác nhận nhiều cuộc đầu tư của doanh nghiệp của Trung Quốc được thực hiện mà không đem lại hiệu quả giá trị gia tăng công nghệ cho các ngành, cấp, địa phương hoặc các khu vực, lĩnh vực kinh tế của Việt Nam, mà ngược lại gây tác hại cho thị trường lao động của Việt Nam, người lao động Việt Nam, theo bà Phạm Chi Lan, nguyên Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam (VCCI).
Trao đổi với BBC hôm 06/4/2014, bà Lan nói nhiều doanh nghiệp của Trung Quốc đã vi phạm luật lao động, đầu tư và kinh doanh ở Việt Nam, hoạt động bất chấp luật pháp, thậm chí không có phép tắc,
Lao động phổ thông của Trung Quốc di cư tràn lan vào Việt Nam gây ra tình trạng ‘cướp công ăn, việc làm’ của người dân địa phương, trong khi thương lái của Trung Quốc có hàng loạt các động thái gom, mua hàng rất ‘mờ ám và bất thường’, từ việc mua ốc bươu vàng, mua đỉa, mua lá khoai lang non, mua mầm thảo quả, nấm độc, cá sấu, heo mỡ, tôm nguyên liệu v.v…
Những hành động này diễn ra trong nhiều năm và theo nhà quan sát có yếu tố phá hoại kinh tế với Việt Nam, gây lo lắng cho việc làm ăn của người dân Việt Nam với Trung Quốc, là quốc gia có đường biên giới cả trên đất liền và biển với Việt Nam.

‘Yêu cầu Trung Quốc nghiêm chỉnh’

Một khu phố Trung Quốc ở Việt Nam
Ngày càng xuất hiện nhiều ‘khu phố’ Trung Quốc ở các địa phương ở Việt Nam.
Việc để các hiện tượng trên xảy ra, theo bà Lan, có phần tác trách của các chính quyền địa phương, đồng thời chính phủ và chính quyền Trung ương của Việt Nam cần nghiêm túc rút kinh nghiệm và có các biện pháp yêu cầu Trung Quốc làm ăn nghiêm túc trở lại trên cơ sở bình đẳng với Việt Nam.
Mặt khác, Việt Nam cần có các điều tra, thống kê cụ thể để nắm bắt được rõ ràng các khuynh hướng, động thái, động cơ đầu tư của Trung Quốc ở Việt Nam, từ hình thức, tính chất, quy mô, số lượng, cho tới hàm lượng công nghệ, chất lượng lao động của họ và qua đó có những động thái cụ thể để kiểm soát, bảo vệ lợi ích kinh tế, thương mại và an ninh của Việt Nam.
Đồng thời, vẫn theo chuyên gia kinh tế này, Trung Quốc với tư cách cường quốc đang lên và láng giềng, cũng phải rút kinh nghiệm quản lý tốt hơn giới đầu tư, lao động và thương lái của mình, tránh để tạo ra những tâm lý phản cảm, lo lắng, quan ngại được cho là có cơ sở của người Việt Nam, không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn trong các quan hệ có liên quan tới quốc phòng, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, từ biển đảo cho tới các dự án trong đất liền, để cả hai phía đều có thể thụ hưởng được lợi thế hợp tác kinh tế song phương một cách lành mạnh và bền vững.
Mở đầu cuộc trao đổi với BBC hôm Chủ Nhật, bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban tư vấn của Thủ tướng Chính phủ thời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và cựu Thủ tướng Phan Văn Khải điểm lại bốn nhóm nguy cơ chính và đồng thời là các quan ngại mà việc làm ăn, đầu tư, thương lái, di cư lao động không ‘tường minh’ và ‘bất thường’ của Trung Quốc đang gây ra đối với người dân và cộng đồng lao động, kinh doanh của Việt Nam trong cả nước.

Nguyễn Hưng Quốc - Điểm G của chế độ

Mới đây, trong bài “Cơn nhức đầu 100 năm” đăng trên nhật báo Người Việt, nhà báo Ngô Nhân Dụng nhắc đến vấn đề biên giới giữa Israel và Palestine, và ông xem đó là một vấn đề “nhạy cảm” đối với sinh hoạt chính trị của Mỹ. Điều thú vị là ông lại để hai chữ “nhạy cảm” trong ngoặc kép. Tại sao? Tôi đoán là ông muốn mượn lại và cũng muốn nhắc nhở người đọc nhớ đến cái chữ “nhạy cảm” vốn rất thông dụng tại Việt Nam hiện nay.

Cảm thấy thú vị với hai chữ “nhạy cảm” trong ngoặc kép ấy, tôi tò mò vào Google, và phát hiện ra một điểm khác cũng thú vị không kém: Bạn có biết hai chữ “nhạy cảm” xuất hiện ở đâu nhiều nhất không? Thưa, đó là hai lãnh vực: chính trị (Việt Nam) và tình dục.
Điểm G của chế độ

Liên quan đến tình dục, chữ “nhạy cảm” đã được dùng một cách phổ biến từ lâu. 
 
Nói đến “nhạy cảm”, người ta hay nghĩ đến thân thể của người phụ nữ: Đại khái, ở đó, có một số điểm “nhạy cảm” hơn hẳn những chỗ khác. Nơi “nhạy cảm” nhất thường được gọi là điểm G (Gräfenberg Spot). Có điều, giới nghiên cứu y khoa lại không đồng ý với nhau về vị trí của cái điểm G ấy. Người nói thế này, người nói thế khác. Người thì nói nó nằm bên ngoài; người thì nói nó nằm bên trong. Người thì cho đó chỉ là một huyền thoại, người thì bảo: nó có thật; chỉ có vấn đề là không thể khẳng định dứt khoát nó nằm ở đâu mà thôi. Qua những sự cãi vã ấy, chúng ta, với tư cách là những người ngoại đạo trong ngành y học, có thể tạm rút ra ít nhất vài kết luận: một, cái điểm “nhạy cảm” ấy tương đối nhỏ; hai, nó khá khuất, chứ không lồ lộ như một cái nốt ruồi; và ba, ngay cả khi lồ lộ ra ngoài như thế, nó cũng chỉ “nhạy cảm” trong một số điều kiện nhất định chứ không phải ai hay cái gì đụng vào nó cũng lên tới... đỉnh cả. Chính ở đây, chúng ta dễ dàng nhận thấy có sự khác biệt lớn trong cách dùng chữ “nhạy cảm” trong lãnh vực tình dục và lãnh vực chính trị.

Trong lãnh vực tình dục, chỗ “nhạy cảm” là chỗ có khả năng làm cho người ta đạt đến chỗ “cực khoái”; trong lãnh vực chính trị, chỗ “nhạy cảm” là chỗ làm cho giới lãnh đạo, ngược lại, nhột nhạt và khó chịu, thậm chí, tức giận. Trong lãnh vực tình dục, người tìm ra chỗ “nhạy cảm” được khích lệ; trong lãnh vực chính trị, người nào đụng đến chỗ đó thì rất dễ có nguy cơ bị bắt và ở tù với bằng chứng là hai cái condom “đã qua sử dụng” (như trường hợp của Cù Huy Hà Vũ)! Nhưng sự khác biệt này mới là quan trọng: trên thân thể con người chỉ có một số điểm được xem là nhạy cảm; còn ở Việt Nam hiện nay thì dường như ở đâu cũng “nhạy cảm” cả. Chuyện đa nguyên đa đảng ư? - Ồ! Nhạy cảm lắm. Chuyện tự do và dân chủ ư? – Cũng nhạy cảm! Chuyện tranh chấp với Trung Quốc ư? – Cũng nhạy cảm! Chuyện tham nhũng ư? – Nhạy cảm! Chuyện khả năng của lãnh đạo ư? – Nhạy cảm! Chuyện cán bộ đua nhau mua bằng giả ư? – Nhạy cảm! Chuyện con cháu cán bộ ăn chơi hư hỏng ư? – Nhạy cảm! Chuyện ngư dân Việt Nam bị bắt, bị cướp hoặc bị giết chết ngoài biển khơi ư? – Nhạy cảm! Ngay cả những chuyện như tàu thủy chở du khách ngoại quốc bị chìm cũng bị xem là “nhạy cảm”. Chuyện khai thác bauxite ở Tây nguyên cũng bị xem là “nhạy cảm”. Chuyện xây dựng đường sắt cao tốc cũng lại là chuyện “nhạy cảm”, v.v...

Chỗ nào cũng có thể bị xem là “nhạy cảm” cả. Bây giờ hãy thử tưởng tượng nền chính trị Việt Nam là thân thể của một phụ nữ: nơi nào cũng “nhạy cảm”. Đi đường, chỗ hẹp, bạn vô tình chạm vào lưng nàng, nàng la toáng lên: "Sách nhiễu tình dục!" (sexual harassment). Lý do? Lưng nàng rất "nhạy cảm! Gặp nhau, theo lối Tây phương, bạn đưa tay bắt, nàng giãy lên đành đạch: “Sách nhiễu tình dục”. Lý do? – Tay nàng rất “nhạy cảm”!  Ngồi ăn chung một bàn, vô tình chân bạn đụng phải chân nàng dưới ghế, nàng cũng buộc tội là “sách nhiễu tình dục” và hăm he đòi gọi cảnh sát bắt bạn vì chân nàng rất... “nhạy cảm”.

Ối giời!
  Nguyễn Hưng Quốc
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ

‘Trồng cây gì, nuôi con gì’


“Trồng cây gì, nuôi con gì” – câu nói của Cựu Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải và chính sách định hướng, hổ trợ ổn định nền nông nghiệp Việt nam của nhà nước đến nay vẫn là cái vòng luẩn quẩn.
Chưa có thành quả ổn định đáng kể nào trực tiếp dành cho người dân làm nông nghiệp từ nhà nước. Tự họ mò mẫm nuôi trồng và chấp nhận số phận rủi may, bị ép giá và chèn ép lượng tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp do chính họ làm ra.
Bản chất người Việt Nam hiện tại, đa số là “làm ăn” theo kiểu phát triển ngành nghề, đầu tư, kinh doanh nhỏ lẻ, nguy hiểm nhất là theo tâm lý bầy đàn mà không cân nhắc hệ lụy.
Những người đi sau thường phải hứng nhận sự thất bại đến thảm hại do hê quả cung hơn cầu. Đó là thực tế đã và đang diễn ra hàng ngày do tâm lý trên.
Người nông dân Việt Nam cũng không ngoại lệ. Họ nuôi trồng tự phát, manh mún theo phong trào mà không có nhiều thông tin quy hoạch hoặc cảnh báo từ chính quyền.
Nhu cầu của họ là muốn gặt hái thành công nhanh chóng, có lợi nhuận ngắn hạn và thỏa mãn tài chính trước mắt, hình thành tư duy theo lối mòn, tâm lý ùa theo đám đông, tạo làn sóng mà không hiểu bản chất cung cầu thị trường, bị độc quyền tiêu thụ mà không có thỏa thuận ràng buộc về bao tiêu, về giá, rơi vào cái bẫy “bong bóng đầu cơ” mà chính họ là nạn nhân cuối cùng.
“Việt Nam cũng có tổ chức công đoàn, hàng trăm hiệp hội ngành nghề ra đời nhưng bản chất chỉ là hình thức, là cái vỏ không hồn.”
Đó là những biểu hiện thực tế và nguyên nhân dẫn đến thất bại, bị ép giá đến thua lỗ, bị đóng băng sản phẩm phải tiêu hủy của nông dân tại Việt Nam. Những bài học nhãn tiền lập đi lập lại, người nông dân mắc phải mà chưa biết bao giờ kết thúc.
Nhà nước đã làm gì?
Chủ tịch tỉnh Vĩnh Long phổ biến việc cảnh giác thương lái Trung Quốc trong canh tác khoai lang gần đây bằng văn bản là việc làm định hướng hiếm hoi của chính quyền mang lại lợi ích cho nông dân khu vực.
Theo mô hình các nước trên thế giới, Việt Nam cũng có tổ chức công đoàn, hàng trăm hiệp hội ngành nghề ra đời nhưng bản chất chỉ là hình thức, là cái vỏ không hồn, chức năng, tiêu chí hoạt động hầu như vô định, không được đầu tư, không trang bị kiến thức và kỹ năng phù hợp, không đem đến lợi ích thực tế thiết thực nào đáng kể cho chính ngành nghề mà họ đại diện.
(Lời bình của GNA: Lý do các hiệp hội là cái “vỏ không hồn” vì họ đều xuất thân từ “quốc doanh” với cơ chế như nhà nước: quan liêu, lo lợi ích riêng, bệnh thành tích, phục vụ quyền lợi của quan chức và phong bì…thay vì các công, nông dân mà họ đại diện)
Thực tế hiệp hội các sản phẩm từ nông nghiệp ở Việt Nam có vai trò rất quan trọng.
Hiệp hội tạo ra môi trường, cơ chế, liên kết một cách chặt chẽ các doanh nghiệp, các cá thể tham gia hoạt động kinh tế, tiến hành xác định, tiên đoán cung cầu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nghiên cứu và theo dõi sát những diến biến của thị trường, xúc tiến thương mại tiêu thụ địa phương, xúc tiến thương mại xuất khẩu tiêu thụ toàn cầu.
Hiệp hội đại diện cho người nông dân bảo vệ thành quả lao động, chống gian lận thương mại bởi lợi ích nhóm và thương lái, tránh bị tiêu thụ độc quyền, mang lại hiệu quả trực tiếp cho người nông dân sản xuất các sản phẩm nông nghiệp, góp phần tích cực quyết định sự tồn tại, phát triển và tạo lập sự bền vững cho nền nông nghiệp Việt Nam, cho nông dân Việt Nam.
“Hiệp hội các sản phẩm từ nông nghiệp ở Việt Nam có vai trò rất quan trọng”
Việt Nam là quốc gia nông nghiệp với 70% dân số là nông dân nhưng các hiệp hội hỗ trợ phát triển, bảo hộ thành quả nông nghiệp hầu như bị bỏ ngỏ hoặc tự phát, chưa có sự quan tâm, đầu tư, tổ chức, quy hoạch đúng mức từ nhà nước đến các ban ngành địa phương.
Có chăng vài hành động được hỗ trợ của nhà nước chỉ theo kiểu chắp vá, nóng đâu thổi đó, chỉ lợi dụng khi cần thiết, không có một chiến lược dài hạn khả thi, đồng bộ, có hệ thống để phát huy vai trò chức năng của hiệp hội.
Sự thờ ơ của nhà nước, của xã hội đối với mặt hàng thịt bò Úc ‘gây bão’ chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ hàng ngày, đánh bại giá thịt bò nội địa tại một quốc gia chủ yếu sản xuất nông nghiệp, dù cho nó cõng trên mình các loại thuế và cước vận chuyển. Hiện tượng trên chính là sự thất bại của ngành nông nghiệp Việt nam.
Chăn nuôi bò bằng cách quy hoạch trồng cỏ nuôi bò những nơi phù hợp thay thế cho những cây trồng mà sản phẩm tiêu thụ bất ổn định, thu nhập bất thường, thua lỗ, ở vùng sâu vùng xa, kết hợp với ưu thế lớn đó là sử dụng các phụ phẩm của ngành trồng trọt như rơm rạ đang đốt bỏ, phụ phẩm từ các nhà máy chế biến sản phẩm nông nghiệp phải bỏ đi.
‘Cần quan tâm đúng trọng tâm’
Phải chăng nhà nước cần quan tâm đúng trọng tâm, đúng mức?
Thay vì chấp nhận thực tại, việc nên làm là triển khai hướng dẫn, phát động, tổ chức chính sách hỗ trợ nuôi bò từ nhà nước, từ các hệ thống quản lý nông nghiệp, khuyến nông, phát triển hiệp hội chăn nuôi, định hướng nhân dân thực hiện
Đó mới hình thành được sự phát triển kinh tế bền vững, ổn định, ít lệ thuộc và chống chảy máu ngoại tệ giá trị lớn hàng ngày, đang ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế nước nhà vốn dĩ yếu kém trong cạnh tranh về giá, về lượng, về chất hàng hóa xuất khẩu.
Sự thất bại, thua lỗ của người nông dân với sản phẩm dưa hấu hiện tại là đương nhiên, lập đi lập lại như nhiều sản phẩm nông nghiệp khác.
Hiện tượng không có gì lạ trong một xã hội chỉ biết chia sẻ thông tin, xôn xao bàn tán, hơn thua việc tranh luận nuôi trồng con gì, cây gì, ví dụ như câu chuyện lợi hại gần đây về con gián đất, mà không hiểu hết bản chất bấp bênh của việc tiêu thụ sản phẩm, gian lận thương mại, sản xuất manh mún, tâm lý bầy đàn, quan hệ cung cầu bị độc quyền, quá nhiều lệ thuộc lái thương, không có tổ chức bảo hộ, khai thác tiềm năng tiêu thụ toàn cầu ở Việt Nam.
Trồng cây gì, nuôi con gì là một vấn đề lớn có tầm quan trọng quốc gia.
Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp là nhiệm vụ, là chiến lược lớn của nhà nước, chính quyền ban ngành khu vực, phải được hỗ trợ bởi các nhà quản lý chuyên ngành, các hiệp hội thực thụ chứ không phải tầm nhìn cảm tính, mò mẫm từ gia đình của người nông dân.
Nhà nước Việt Nam đang ở đâu trong cái vòng luẩn quẩn “trồng cây gì, nuôi con gì”? Đã quan tâm đến đâu về tầm nhìn phát triển bền vững ngành nông nghiệp với mục đích phục vụ nền tảng phát triển kinh tế đất nước, phục vụ cho công cuộc xóa đói giảm nghèo và bảo hộ lợi ích người nông dân? Trong khi đó, thuế nông nghiệp người nông dân vẫn tuân thủ thực hiện.
THEO BBC

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét