Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 6 tháng 4, 2014

Đặng Tiểu Bình và quyết định của Trung Quốc tiến hành chiến tranh với Việt Nam

Phát Diệm: Chủ nghĩa dân tộc, tôn giáo và bản sắc trong chiến tranh Pháp – Việt Minh

Nghiencuuquocte

Nguồn: Ronald H. Spector (2013). “Phat Diem: Nationalism, Religion, and Identity in the Franco–Viet Minh War”, Journal of Cold War Studies, Vol. 15, No. 3, pp. 34–46.
Biên dịch: Phạm Trang Nhung | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Trong cuốn sách Người Mỹ trầm lặng của Graham Greene, có lẽ là cuốn tiểu thuyết tiếng Anh về Việt Nam được đọc nhiều nhất, nhà báo Anh Thomas Fowler đến một chiến trường giữa Pháp và Việt Minh ở thị trấn Phát Diệm tại rìa phía nam Đồng bằng châu thổ sông Hồng cách Hà Nội 120 dặm về phía đông nam. Ông miêu tả khu vực như sau:
Tôi đã biết rõ về Phát Diệm trong những ngày trước cuộc tấn công – con đường hẹp dài có những quán hàng bằng gỗ, cứ khoảng 100 thước lại có một kênh đào, một nhà thờ và một cây cầu. Ban đêm thị trấn chỉ được thắp sáng bằng nến hay những ngọn đèn dầu nhỏ … và dù ngày hay đêm thì đường phố cũng luôn đông đúc và ồn ã. Trong cách thức trung cổ kì lạ của nó, dưới cái bóng và sự bảo vệ của Giám mục vương quyền (Prince Bishop, tức một chức vị vừa cai quản về mặt chính quyền, vừa là giám mục cai quản giáo xứ – NHĐ), nó từng là thị trấn giàu sức sống nhất nước và giờ đây là nơi chết chóc nhất. Gạch vụn và thủy tinh vỡ và mùi vữa và sơn cháy và con đường dài trống rỗng dài ngút tầm mắt.[1]
Những cuộc giao tranh ở Phát Diệm là một phần của đợt tấn công quy mô lớn do Việt Minh tiến hành vào tháng 5-tháng 6 năm 1951 ở khu vực sông Đáy và nhằm vào các thị trấn Nam Định, Ninh Bình, Phát Diệm và Phủ Lý. Giao tranh kéo dài từ cuối tháng 5 đến giữa tháng 6, khi lực lượng Việt Minh, hết vũ khí và bị tách khỏi các tuyến đường tiếp tế, buộc phải rút lui. Tuy nhiên, bằng cách cầm chân lực lượng phòng thủ người Pháp và quân tiếp viện của họ ở bốn thị trấn trọng tâm này, các đơn vị tấn công của Việt Minh đã tạo điều kiện cho các đơn vị Việt Minh khác xâm nhập vào những phần khác của vùng đồng bằng, chiếm giữ các vụ thu hoạch lúa, và tuyển thêm quân.[2]
Tổn thất ở cả hai bên đều lớn, mặc dù không biết được con số cụ thể. Người Pháp tuyên bố rằng Việt Minh tổn thất tổng cộng khoảng 9.000 người. Số thương vong của phía Pháp bao gồm cả con trai Tướng Delattre de Tassigny, Tổng tư lệnh kiêm Toàn quyền Đông Dương. Ngày nay Quốc lộ 1 chạy qua đồng bằng sông Đáy vẫn còn nhiều nghĩa trang quân sự.
Bài viết này gợi ý rằng cả các mối liên hệ về văn chương (như trong tiểu thuyết Người Mỹ trầm lặng – NHĐ) của Phát Diệm lẫn ý nghĩa quân sự của nó đều không phải là nguyên nhân làm cho thị trấn này đáng chú ý. Thay vào đó, Phát Diệm thể hiện rõ nét một cách khác thường bản chất thực sự của Chiến tranh Lạnh ở châu Á trong một thập niên từ khi người Nhật đầu hàng năm 1945 tới Hội nghị Geneva năm 1954. Với nhiều người, cụm từ “Chiến tranh Lạnh” nghĩa là cuộc đối đầu mở rộng giữa Liên Xô và Mỹ ở châu Âu từ năm 1947 đến năm 1989. Viết về thời kì này, nhà sử học John Lewis Gaddis đã sử dụng cụm từ “nền hòa bình dài lâu” để mô tả thời kì thù địch liên tiếp và đôi khi khủng hoảng nhưng không có xung đột quân sự thực thụ, một cụm từ rất nhanh được các tác giả khác chú ý và sử dụng.[3]
Vào khoảng cùng lúc cụm từ “nền hòa bình dài lâu” của Gaddis nhận được sự tán đồng của giới học giả, Thiếu tá I. S. Gibb, một binh sĩ Anh, đang hoàn thành cuốn hồi kí về giai đoạn thực hiện nghĩa vụ quân sự ở nhiều khu vực tại châu Á. Hồi tưởng về “40 năm kể từ khi tôi lần đầu tiên đặt chân đến Bombay năm 1945”, Gibb xúc động nhấn mạnh, “từ đó đến nay xảy ra bao cuộc giao tranh, bao cuộc nổi loạn, bao cuộc chiến đưa Pakistan chống lại Ấn Độ, Ấn Độ chống lại Trung Quốc, Bắc Triều Tiên chống lại Nam Triều Tiên, rồi Thời kì khẩn cấp ở Malaya, Đối đầu ở Borneo, Cách mạng ở Trung Quốc, Bắc Việt Nam chống lại Nam Việt Nam.”[4] Trong 10 năm sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, ước tính khoảng 2.500.000 người đã thiệt mạng trong cuộc xung đột quân sự ở Trung Quốc, khoảng 2.000.000 người ở Triều Tiên, và khoảng 400.000 người ở Đông Dương. Hàng chục nghìn người khác đã chết trong các cuộc chiến ở Malaysia, Indonesia, và Philippines cùng lúc đó.
Ở châu Á, khi đó, Chiến tranh Lạnh không thực sự là một thời kì “hòa bình dài lâu”. Nó cũng không nhất thiết là về Chủ nghĩa Cộng sản, vũ khí hạt nhân, chủ nghĩa tư bản, ngăn chặn (cộng sản), hay dân chủ. Nói rằng nó là chiến tranh về “phi thực dân hóa” có lẽ có vẻ chính xác hơn, nhưng những cuộc xung đột “hậu thực dân” này không chỉ là cuộc đấu tranh giành lấy quyền tự quyết và độc lập. Như Frederick Cooper đã nhận định, các nhà sử học về thời kì phi thực dân hóa thường không thể nhận ra “rằng các nhóm khác nhau trong một dân tộc bị thực dân hóa có thể đưa lịch sử và lợi ích riêng của họ vào một dàn xếp phức tạp với một cường quốc thực dân.”[5] Ở nhiều nước châu Á, cuộc chiếm đóng của người Nhật và sự kết thúc hay suy yếu sau đó của chế độ thực dân đã làm bung ra những lực lượng chính trị và ý thức hệ mới, đồng thời thúc đẩy sự tái sinh những mối bất hòa và những mục tiêu cũ. Các chính quyền ở mọi cấp độ trở nên yếu kém hơn, và các đối thủ mới xuất hiện tranh giành quyền lực. Các biên giới và các mối ràng buộc cũ của cộng đồng bắt đầu biến mất. Sự khác biệt về vùng miền, sắc tộc và tôn giáo càng sâu sắc hơn.
Kết quả là các cuộc chiến tranh hậu thực dân ở châu Á, mặc dù thường được người Mỹ xem như những cuộc đấu tranh giữa các lực lượng cộng sản và phi cộng sản hay giữa các phong trào thực dân và độc lập, thường có nhiều khía cạnh của nội chiến, cướp bóc, và xung đột tôn giáo, sắc tộc, hay vùng miền. Điều này thể hiện rõ ràng nhất là ở Trung Quốc và Triều Tiên, nhưng cũng khá rõ ở Indonesia, nơi người Java, Sumatra, Ambon, người Hoa, và người lai Âu Á (In-đô và Hà Lan – NHĐ) chiến đấu để ủng hộ lẫn chống đối nền Cộng hòa, và ở Malaysia, nơi mà “Tình trạng khẩn cấp” đã đưa ra những vấn đề về tương lai của ba nhóm sắc tộc chính cũng như cuộc chiến chống lại sự nổi dậy của lực lượng cộng sản.[6] Như nhà nhân học Heonik Kwan đã nhận định, “Ở những khu vực mà Chiến tranh Lạnh được tiến hành dưới hình thức nội chiến hay các dạng chia rẽ triệt để và mạnh mẽ giữa các lực lượng xã hội khác … xung đột hai cực không chỉ diễn ra theo ý định của các chủ thể nhà nước siêu cường mà còn dựa trên cơ sở của các điều kiện và dự tính về cấu trúc và quy phạm cụ thể đang tồn tại ở địa phương.”[7]
Phát Diệm nhìn theo nhiều cách đều là phiên bản thu nhỏ của những tư tưởng chủ nghĩa vùng miền, chủ nghĩa dân tộc và tôn giáo đối lập đó. Năm 1945 nó là một khu vực Công giáo đậm nét trong một nước Việt Nam hầu như phi Thiên Chúa giáo. Giám mục của khu vực, Tổng Giám mục Thaddeus Lê Hữu Từ, có vai trò không chỉ là lãnh đạo tinh thần mà còn là người cai trị thế tục gần như tuyệt đối.[8] Giáo phận Phát Diệm bao gồm phần lớn tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa. Người Công giáo chiếm khoảng 25% toàn bộ dân số, nhưng nhiều làng và huyện lại có tới gần 100% người Công giáo.
Một nhà báo người Pháp đã mô tả Phát Diệm và giáo phận lân cận Bùi Chu như sau
Một lãnh địa phong kiến, đất phong của giáo hội nhân danh Chúa. Khu vực này mang đậm cảnh quan nhà dòng. Mỗi khu vực đều có một nhà thờ lớn cao hơn và vượt trội hơn mọi thứ khác. Mỗi khu vực có nhà thờ ở giữa là một giáo xứ; thánh chức tôn giáo là lãnh chúa và giáo dân là nông nô. Vì lợi ích về thể xác và tâm hồn, người nông dân bị thống trị bởi một nhóm nhỏ gồm các thầy tu châu Á với gương mặt béo ú và áo chùng sáng bóng; và đó là chưa tính đến những nữ tu người An Nam.[9]
Nhiều khu vực trong lãnh địa của Từ chỉ có thể tiếp cận được bằng đường thủy, và giám mục đi quanh khu vực trên một chiếc thuyền “có lá cờ trắng vàng tiêu chuẩn của Giáo hoàng và thủy thủ đoàn gồm những chàng trai trẻ tuổi mang trên vai biểu tượng riêng của Lê Hữu Từ, một con rồng Trung Hoa quấn quanh một cây kèn trumpet.”[10]
Lê Hữu Từ là người Việt Nam thứ 4 được thụ phong Giám mục, sản phẩm của một nỗ lực do Giáo hoàng Benedict XV và Pius XI vào những năm 1920 để thành lập một “giới giáo phẩm bản địa”, thậm chí ở các cấp bậc cao nhất, tại những khu vực ngoài châu Âu. Việc thụ phong mục sư cho bốn người đó được nhiều giáo dân người Việt ủng hộ nhiệt tình. Giáo dân ở Việt Nam thường xuyên phải chịu đựng sự kỳ thị vì bị gắn với một tôn giáo do người Pháp áp đặt. Kết quả là, sự xuất hiện của thứ bậc giáo chức nhà thờ Việt Nam có thể được xem là một bước quan trọng nhằm thành lập một giáo hội quốc gia độc lập không có bất cứ liên hệ nào với chủ nghĩa thực dân.[11]
Trong những năm 1920 và 1930, nhiều giám mục “bản xứ” khác đã được thụ phong ở Trung Quốc và các khu vực khác trong thế giới thực dân. Tuy nhiên, Giám mục Từ và hàng xóm là Đức cha Phạm Ngoc Chi, giám mục (giám quản tông tòa) Bùi Chu, là những mục sư duy nhất bên ngoài Vatican có quân đội riêng. Một phóng viên báo Time đã viết rằng quân đội của ông Từ gồm 1.700 người, một số có trại lính trong phần đất của thánh đường. Họ được chỉ huy bởi “thiếu tá” Ngô Cao Tùng, một cựu chiến binh trong quân đội Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch, và được trang bị khoảng một tá xe jeep và xe tải quân sự. Lực lượng của Từ cũng bao gồm khoảng 6.000 dân quân được trang bị thô sơ. Ngay cạnh chỗ ở của các tu sĩ là một “nhà máy nhỏ để chế tạo lựu đạn, đạn súng cối và súng phóng lựu.”[12]
Phóng viên báo Time mô tả mục sư Từ là “một nhân cách thú vị…một người đàn ông duyên dáng và có sức quyến rũ đáng kể.”[13] Những môn đồ của mục sư mô tả ông là người ủng hộ chủ nghĩa xã hội Công giáo đặc trưng bởi “công bằng, lý tính, nhân văn, và khoan dung.”[14]
Nhà báo Pháp Lucien Bodard lại có ít lời khen ngợi hơn, kể lại thời kì ông Từ thuộc về dòng tu Trappist (dòng tu thành lập năm 1664 tại tu viện Trappe ở Normandy, nổi tiếng vì nguyên tắc khổ hạnh và giữ im lặng – NHĐ) ở làng Châu Sơn,
Ông bắt các thầy tu sám hối bằng các hình thức khổ hạnh đến mức họ chết vì chúng và ông ta tra tấn bản thân bằng roi vọt. Tại Phát Diệm Lê Hữu Từ như thể là một quan tòa xử dị giáo bảo vệ niềm tin – một thứ niềm tin không có tình yêu và nhân đạo; không có gì ngoài kỷ luật hà khắc… Ông ta là một nhà tiên tri của dòng kinh Cựu ước. So với ông ta, Đức cha Chi …có vẻ là một người hiền lành tốt tính. Ông ta thực tế khá độc đoán nhưng theo một cách thức khôn ngoan, kín đáo.[15]
Nhưng, cho dù nhiệt huyết tôn giáo của ông Từ và việc ông ta khăng khăng rằng chủ nghĩa cộng sản “đi ngược trực tiếp các giá trị tinh thần của nhà thờ” có lớn tới mức nào đi nữa, ông cũng là một người theo chủ nghĩa dân tộc và phản đối ách cai trị của Pháp ở Đông Dương.[16] Một quan sát viên người Pháp đã mô tả ông là “linh hồn chống lại nước Pháp” giữa các lãnh tụ Công giáo người Việt.[17] Với tư cách là Bề trên tiên khởi của dòng tu Trappist trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, ông đã hợp tác với các cán bộ của Việt Minh và thi thoảng che giấu họ trong tu viện để tránh bị người Pháp và người Nhật lùng bắt. Như lời Charles Keith, ông Từ là “đại diện của một nhà thờ công giáo Việt Nam có tầm nhìn vượt ra ngoài quá khứ truyền giáo và thực dân để hướng về tương lai trong một nước Việt Nam độc lập.”[18]
Ngay sau khi người Nhật đầu hàng, ông Từ và ba mục sư Công giáo người Việt khác ở Đông Dương, đáp lại yêu cầu của lãnh đạo Việt Minh, đã gửi một bức thư công khai cho Giáo hoàng, thỉnh cầu Vatican và mọi cộng đồng Công giáo ủng hộ sự độc lập của Việt Nam và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập.[19] Vào tháng 10 năm 1945, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, và các lãnh đạo khác của chính phủ Việt Minh đã tới dự lễ thụ phong ông Từ làm mục sư ở Phát Diệm, và ông Từ được chỉ định là “cố vấn tối cao” cho chủ tịch nước. Hồ Chí Minh công khai thể hiện việc công nhận “sự tự trị” của Phát Diệm và quyền có dân quân của mục sư.[20]
Không bên nào thực sự hài lòng với thỏa thuận này. Việt Minh tiếp tục tổ chức các chi bộ và ủy ban xã trong lãnh địa của giám mục, bao gồm một nhóm mặt trận nhằm thu hút giáo dân tham gia kháng chiến. Mục sư Từ đáp lại bằng việc thành lập Liên Đoàn Công Giáo như là một phương tiện cho việc tổ chức cộng đồng giáo dân.[21] Cùng lúc đó, giáo phận tiến hành nhiều nỗ lực để trang bị vũ khí hiện đại cho dân quân. Sự việc càng phức tạp hơn khi Phát Diệm, tới năm 1946, đã bắt đầu thu hút số lượng đáng kể người ủng hộ các đảng dân tộc (hay quốc gia – NHĐ) chủ nghĩa chống Việt Minh như Đồng Minh Hội (Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, hay Việt Cách – NHĐ) và Việt Nam Quốc Dân Đảng (hay Việt Quốc – NHĐ). Ở Hà Nội và những nơi khác những đảng này tham gia vào một cuộc đấu tranh đang trên đà thất bại trong việc tranh giành quyền lực với Việt Minh và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập của Hồ Chí Minh. Ở nhiều nơi thuộc Phát Diệm họ tổ chức các cuộc tấn công vào các cán bộ của Việt Minh, và ở một ngôi làng hơn 100 người ủng hộ Việt Minh đã bị giết hại.
Những cuộc tấn công này trùng với thời điểm người Trung Quốc chấm dứt chiếm đóng miền Bắc Việt Nam vào mùa xuân năm 1946 và thỏa thuận của Hồ Chí Minh cho phép người Pháp quay trở lại miền Bắc trong hòa bình để đổi lấy việc công nhận chính quyền của ông là “một nước tự do thuộc Liên hiệp Pháp” và hứa hẹn về các cuộc đàm phán sau đó. Một khi đã thoát khỏi sự can thiệp của người Trung Quốc và mối đe dọa khẩn cấp từ người Pháp, Việt Minh nhanh chóng trả đũa những người chống lại họ ở Phát Diệm. Ba ngôi làng đã từng là địa điểm của chiến dịch “thanh trừng cộng sản” bị quân Việt Minh tấn công. Vài tuần sau giám mục Từ bị bắn, nhưng không bị thương, bởi một người Việt mà theo các con chiên của giám mục là thành viên lực lượng an ninh của Việt Minh.[22] Đến lúc đó, Hồ Chí Minh, đang phải đối mặt với một cuộc chiến sắp tới với người Pháp ở phía Bắc, cố gắng hàn gắn mọi chuyện với giám mục và công khai xác nhận lại sự ủng hộ của ông đối với tự do tôn giáo. Giám mục Từ, cần nhiều thời gian hơn để vũ trang cho dân quân của mình, bề ngoài tỏ ra chấp nhận đề nghị của Hồ Chí Minh.
Sự bùng nổ chiến tranh toàn diện giữa người Pháp và Việt Minh vào tháng 12 năm 1946 đã mang lại thêm nhiều vấn đề cho Phát Diệm. Máy bay Pháp xuất hiện trên bầu trời Phát Diệm và đánh bom chợ trung tâm và nơi ở của giám mục, gây ra nhiều thương vong. Giám mục Từ công khai lên án “hành vi tàn bạo vô nhân tính này” và nhắc lại “chính sách trung lập của ông đổi với người Pháp và Việt Minh và kêu gọi họ tôn trọng nền tự trị của Phát Diệm.” Nhưng ở Hà Nội những người đại diện của giám mục lại bắt đầu đàm phán bí mật với các nhân viên tình báo người Pháp.[23]
Do kết quả của các cuộc thảo luận này, Cha Minh, đại diện bán chính thức của giám mục trước quân đội Pháp, nhận được sự chấp thuận cho phép Phát Diệm mua vũ khí từ miền nam Trung Quốc vốn vẫn nằm trong tay Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch, và vận chuyển những vũ khí này qua Hà Nội. Vào tháng 12 năm 1947, 12 chiếc thuyền đi từ Phát Diệm tới một làng gần biên giới Trung Quốc, và vũ khí được chuyển lên tàu. Trong chuyến trở về các chiếc thuyền này bị tàu đánh cá có vũ trang của Việt Minh chặn lại ngoài khơi tỉnh Thái Bình. Một tàu chiến của Pháp đã can thiệp và tất cả tàu của Việt Minh đã bị phá hủy, để cho đoàn thuyền của ông Từ đến được Phát Diệm.[24]
…..
Download phần còn lại của văn bản tại đây: Phat Diem-CN Dan toc, ton giao va ban sac.pdf

[1] Graham Greene, The Quiet American (New York: Penguin, 2004), pp. 38-39.
[2] Yves Gras, Historie de la Guerre d’Indochine (Paris: Plon, 1979), pp. 226-228; và Edgar O’balance, The Indo-China War, 1945-1954 (London: Faber and Faber, 1964), pp. 136-139.
[3] John Lewis Gaddis, The Long Peace: Inquiries into the History of the Cold War (New York: Oxford University Press, 1987).
[4] Major I. S. Gibb, “A Walk in the Forrests,” unpub. Ms., p. 129, trong Imperial War Museum.
[5] Frederick Cooper, “The Dialects of Decolonization: Nationalism and Labor Movements in Post-war French Africa,” trong Frederick Cooper và Ann Laura Stoler, eds., Tensions of Empire: Colonial Cultures in a Bourgeois World (Berkeley: University of California Press, 1977). p. 436.
[6] Để biết ba tác phẩm gần đây cùng có chung quan điểm này, xem Stein Tonnesson, “National Division in Indochina’s Decolonization,” trong Prasenjit Duara, ed., Decolonization: Perspectives from Now and Then (New York: Routledge, 2004), pp. 253-277; Shawn McHale, “Understanding the Fanatic Mind: The Viet Minh and Race Hatred in the First Indochina War,” Journal of Vietnam Studies, Vol. 4, No. 3 (Fall 2009), pp. 98-138; và Heonik Kwan, The Other Cold War (New York: Columbia University Press, 2010).
[7] Kwan, The Other Cold War, p.18.
[8] Peter Hansen nhận định, “lãnh đạo tôn giáo ở nhiều giáo xứ Công giáo miền Bắc đôi khi chấp nhận những khía cạnh của chính trị thần quyền toàn diện.” Xem Peter Hansen, “Bac Di Cu: Catholic Refugees from the North of Vietnam and Their Role in the Southern Republic, 1954-1959,” Journal of Vietnam Studies, Vol. 4, No. 3 (Fall 2009), p. 178.
[9] Lucien Bodard, The Quicksand War (Boston: Little Brown, 1967), p. 211.
[10] Eric Gibbs, “Battle of Indo-Chian: Arms and the Bishop,” Time, 8/01/1951.
[11] Charles Keith, “Annam uplifted: The First Vietnamese Catholic Bishops and the Birth of a National Church,” Journal of Vietnam Studies, Vol. 3, No. 2 (Summer 2008), pp. 143-145.
[12] Gibbs, “Battle of Indo-China”.
[13] Như trên
[14] Tam (Vu Van Cuong), Vietnam’s War, 1940-1975: The Causes of French and American Failures in Vietnam (Lawrenceville, VA: Brunswick Publishing, 1983), p.112. Ông Cường là thư kí và trợ lý hành chính cho giám mục Từ.
[15] Bodard, The Quicksand War, pp. 211-212.
[16] Tam, Vietnam’s War, p. 115.
[17] Trích trong Keith “Annam Uplifted,” p.159.
[18] Như trên, p.159.
[19] Như trên, p. 128.
[20] General Marcel Carpentier to Ministre de la France Outre-Mer, 29/10/1949, Château de Vincennes, Paris, in Service Historique de l’Armée de Terre (SHAT), 10H170, Dossier 1: Bodard, The Quicksand War, p.212; và Tam, Vietnam’s War, p. 118.
[21] Keith, “Annam Uplifted,” p. 159; Pham Van Bong, “Ngọn lửa kháng chiến” (Bảo vệ đồng bào và chống lại kẻ thù), trong Tập ký kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (Flames of the resistance war: Memoirs of the anti-French resistance war) (Hanoi: Party History Studies, 1978), pp. 113-116; and Tam, Vietnam’s War, p. 132.
[22] Tam, Vietnam’s War, p. 132.
[23] Như trên, pp.129, 131.
[24] Như trên, pp. 132-133

Đặng Tiểu Bình và quyết định của Trung Quốc tiến hành chiến tranh với Việt Nam

Nghiencuuquocte

Nguồn: Xiaoming Zhang (2010). “Deng Xiaoping and China’s Decision to go to War with Vietnam”, Journal of Cold War Studies, Volume 12, Number 3 (Summer), pp. 3-29
Biên dịch: Vũ Minh Hải | Hiệu đính: Nguyễn Thị Nhung
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (từ đây viết tắt là Trung Quốc) đã tham gia hai chiến dịch quân sự lớn – một ở Triều Tiên chống lại Hoa Kỳ từ tháng 10 năm 1950 đến tháng 7 năm 1953, và hai là chiến tranh với Việt Nam năm 1979. Không may là ở Trung Quốc, cuộc chiến tranh với Việt Nam đã bị lịch sử lãng quên. Sự kiện này hiếm khi được thảo luận trên phương tiện truyền thông và các học giả ở Trung Quốc bị cấm nghiên cứu vấn đề này. Đến giữa những năm 1970, Trung Quốc và Việt Nam vẫn còn là những đồng minh thân cận trong Chiến tranh Lạnh. Vậy tại sao vào cuối năm 1978 Trung Quốc lại quyết định tiến hành chiến tranh với Việt Nam?
Những nguồn tư liệu chính thức từ Trung Quốc đều không đưa ra được câu trả lời thoả đáng cho câu hỏi này.Lý do ban đầu của Bắc Kinh đưa ra bao gồm “Giấc mộng xưng bá” tại Đông Nam Á của Hà Nội; hành vi xâm phạm biên giới Trung Quốc và cuộc tấn công sau đó vào lãnh thổ Trung Quốc; việc Hà Nội ngược đãi cộng đồng người Hoa sống ở Việt Nam; và quan hệ mật thiết của Việt Nam với Liên Xô vào thời điểm cường quốc này đang mở rộng ảnh hưởng đến Đông Nam Á.[1] Những nhà quan sát đương thời cũng như một vài nghiên cứu sau đó cho rằng mục tiêu thật sự của Bắc Kinh là chuyển hướng tập trung sức mạnh quân sự của Hà Nội khỏi Campuchia và giữ chân lực lượng Việt Nam ở mặt trận thứ hai.[2] Những nhà quan sát khác lại cho rằng việc Bắc Kinh sử dụng lực lượng quân đội tấn công Việt Nam là nhằm làm mất uy tín Liên Xô trong vai trò là một đồng minh đáng tin cậy của Việt Nam, đáp trả lại việc Việt Nam hợp tác với Liên Xô bao vây Trung Quốc từ phía Đông Nam Á.[3]
Quyết định gây chiến với Việt Nam của Trung Quốc được hình thành một phần do mối quan hệ xấu đi giữa Hà Nội với Bắc Kinh, bởi liên minh mới giữa Việt Nam với Liên Xô, và bởi vị thế bá quyền khu vực của Việt Nam, đồng thời nó cũng nảy sinh từ nỗ lực của Trung Quốc nhằm nâng cao vị trí chiến lược trên thế giới và đẩy mạnh chương trình cải cách kinh tế trong nước. Ba sự kiện diễn ra tại Bắc Kinh trong tháng 12 năm 1978 đã có tác động quan trọng đến quyết định chiến tranh của Trung Quốc: Đặng Tiểu Bình trở lại hàng ngũ lãnh đạo cấp cao tại Hội nghị TW ba Khóa 11 của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), Bắc Kinh thông qua quyết định đưa cải cách kinh tế làm ưu tiên hàng đầu của quốc gia, và việc Trung Quốc bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ. Đặng được xem là kiến trúc sư trưởng của Trung Quốc về chiến lược quốc gia trong thời kỳ hậu Mao, đóng vai trò chính trong quyết định tấn công Việt Nam của Trung Quốc. Các học giả hiện nay cũng thừa nhận vai trò của Đặng trong quyết định chiến tranh của Trung Quốc, nhưng đưa ra rất nhiều giả thuyết khác nhau cho quyết định này.
Phân tích của Gerald Segal năm 1985 cho rằng vận động chính trị trong giới lãnh đạo gần như không tác động đến quyết định của Trung Quốc, và những bất đồng cấp cao, nếu có, cũng không ảnh hưởng đến các chiến dịch quân sự của Trung Quốc.[4] King Chen lại đưa ra ý kiến trái chiều rằng quyết định đã được thực hiện sau “các cuộc tranh luận liên tục, kéo dài” tại Hội nghị Công tác Trung ương cuối năm 1978, và phong cách lãnh đạo của Đặng là “yếu tố không thể thiếu khi thuyết phục” Bộ Chính trị ĐCSTQ – khi đó đang bị chia rẽ sâu sắc – chấp thuận quyết định này.[5] Một nghiên cứu liên quan gần đây của Andrew Scobell khẳng định các nhà lãnh đạo dân sự và quân đội Trung Quốc đã chia thành phái ủng hộ và phản đối hành động quân sự chống Việt Nam và quá trình đưa ra quyết định chiến tranh là một phần của cuộc đấu tranh giành quyền kế thừa quyền lực trong giai đoạn chính trị hậu Mao của Trung Quốc.[6]
Nghiên cứu về quyết định của Trung Quốc tấn công Việt Nam gặp trở ngại do thiếu các tài liệu (chính thức) của Trung Quốc, nhưng khoảng trống này được bù đắp một phần nhờ số lượng nguồn tài liệu tiếng Trung (khác) tăng lên, đặc biệt là hồi ký của các quan chức quân đội cấp cao, cũng như các tài liệu được giải mật của Mỹ.[7] Phần đầu bài viết này tôi thảo luận về tiến trình một đề xuất của Bộ Tổng tham mưu Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (Giải phóng Quân Trung Quốc) về việc sử dụng vũ lực trong giải quyết tranh chấp biên giới với Việt Nam đã phát triển thành quyết định phát động một cuộc xâm lược quy mô lớn như thế nào. Sau đó, tôi đi vào nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố trong nước và quốc tế đến tư duy chiến lược của các lãnh đạo Trung Quốc, đặc biệt là Đặng Tiểu Bình, và quá trình hình thành quyết định chiến tranh.
Những yếu tố này bao gồm nỗ lực mới của Bắc Kinh nhằm đẩy mạnh cải cách kinh tế và mở cửa ra thế giới, các chính sách chống Trung Quốc của Việt Nam, việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia, và mối quan hệ liên minh Xô-Việt. Đặng dường như đã tin rằng quan hệ hợp tác chiến lược Xô-Việt là mối đe doạ đến Trung Quốc. Ông không chỉ hy vọng rằng quan hệ bình thường hoá với Hoa Kỳ sẽ cải thiện vị trí chiến lược của Trung Quốc và tạo điều kiện thuận lợi hơn trong cải cách kinh tế với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ; mà ông ta còn trông đợi cuộc tấn công của Trung Quốc vào đồng minh của Liên Xô sẽ thuyết phục chính phủ Mỹ rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc cùng có lợi ích chung. Thắng lợi chính trị của Đặng ở Hội nghị Trung ương ba của ĐCSTQ đã củng cố vị trí của Đặng tại Trung Quốc và ngăn cản bất cứ ai muốn thách thức quyết định của ông ta – một quyết định sau này đã dẫn đến cuộc chiến tranh tốn kém và chết chóc. Nếu như trước khi đưa quân vào Triều Tiên Trung Quốc đã tiến hành nhiều cuộc thảo luận, thì ngược lại không hề có tranh cãi nghiêm trọng nào trong giới lãnh đạo cấp cao ở Bắc Kinh về quyết định chiến tranh với Việt Nam.[8] Tuy nhiên, quá trình tranh giành quyền lực trong nội bộ lãnh đạo đảng thực sự cũng có ảnh hưởng đến quyết định này.
Trung Quốc đáp trả các sự kiện biên giới
Sau chiến thắng của quân đội Bắc Việt Nam trước Nam Việt Nam năm 1975, các lãnh đạo ĐCSTQ tỏ ra ngày càng lo lắng về chính sách đối ngoại của Hà Nội. Người Trung Quốc e ngại ảnh hưởng của Liên Xô tại Đông Dương khi Hà Nội trở lên gần gũi hơn bao giờ hết với Mátxcơva do nhận viện trợ vật chất và cùng ý thức hệ.[9] Các lãnh đạo Trung Quốc cũng khó chịu với những nỗ lực của Hà Nội trong việc thiết lập mối quan hệ đặc biệt với Lào và Campuchia, riêng Campuchia còn chịu áp lực quân sự gia tăng từ phía Việt Nam.[10] Có lẽ vấn đề quan trọng nhất là Bắc Kinh và Hà Nội đã xung đột về vấn đề lãnh thổ. Trong quá khứ, Trung Quốc đã vài lần xâm lược Việt Nam nhằm giành quyền thống trị khu vực nhưng không phải để chiếm giữ lãnh thổ (?). Về phần mình Việt Nam cho đến thời điểm đó chưa bao giờ thách thức các yêu sách về lãnh thổ của Trung Quốc (?). Tình hình bắt đầu thay đổi sau năm 1975 khi những tranh chấp biên giới trở thành vấn đề chính đối với Bộ Tổng tham mưu Giải phóng Quân Trung Quốc. Giải phóng Quân Trung Quốc đã ra lệnh cho hai tỉnh giáp biên giới và Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh và quân khu đảm bảo ổn định tình hình biên giới.[11] Mặc dù Bắc Kinh tuyên bố muốn giải quyết tranh chấp biên giới bằng hoà bình nhưng bạo lực ở biên giới vẫn gia tăng trong năm 1978.
Về phương diện lịch sử, những tranh chấp lãnh thổ là lý do phổ biến nhất cho chiến tranh giữa các nước.[12] Tuy nhiên, quyết định của Trung Quốc tấn công Việt Nam được hình thành do nhiều yếu tố đan xen. Bước đi đầu tiên của Trung Quốc về phía chiến tranh là khi Bộ Tổng tham mưu Giải phóng Quân đáp trả các sự cố biên giới ngày càng gia tăng giữa lúc diễn ra những tranh cãi về cộng đồng người Hoa ở Việt Nam giữa năm 1978. Vào ngày 12 tháng 8, quân đội Việt Nam đã bất ngờ tấn công một đội tuần tra biên giới của Trung Quốc gần Cửa khẩu Hữu nghị ở tỉnh Quảng Tây. Hai tuần sau đó cũng tại khu vực này, hơn 200 bộ đội Việt Nam đã chiếm đóng một đỉnh núi bên phía biên giới Trung Quốc và tăng cường thêm quân trấn giữ tại các cao điểm.[13] Các quan chức Trung Quốc xác định số lượng xung đột biên giới tăng từ 752 vụ năm 1977 lên 1.100 vụ năm 1978.[14] Quy mô của các vụ xung đột cũng lan rộng hơn. Đến trước tháng 8 năm 1978, hầu hết là những vụ đấu súng nhỏ với thương vong không đáng kể. Tính chất các vụ đụng độ vào tháng 8 tăng lên mức khốc liệt và chết người, cho thấy có sự tham gia của số lượng lớn quân đội Việt Nam. Từ tất cả những dấu hiệu trên cho thấy, xung đột biên giới leo thang là yếu tố đầu tiên thúc đẩy các nhà lãnh đạo Bắc Kinh xem xét phương án sử dụng lực lượng quân đội chống lại Việt Nam.
Vào tháng 9 năm1978, Bộ Tổng tham mưu đã tổ chức một cuộc họp tại Bắc Kinh về vấn đề “làm thế nào giải quyết phần lãnh thổ của chúng ta bị quân đội Việt Nam chiếm đóng”. Phó Tổng tham mưu trưởng Trương Tài Thiên (Zhang Caiqian) đã chủ trì cuộc họp với các sĩ quan từ Quân khu Quảng Châu và Côn Minh cũng như Cục tác chiến và Cục tình báo của Bộ Tổng tham mưu. Ngay từ đầu, Trương đã lưu ý rằng Bộ Tổng tham mưu phải tư vấn cho các lãnh đạo ĐCSTQ về cách thức đối phó với hành vi ngược đãi Hoa kiều của Hà Nội cùng những động thái khiêu khích ngày một tăng từ quân đội Việt Nam và lực lượng an ninh dọc theo biên giới Việt-Trung.[15] Ông ta đã đề cập đến hàng loạt sự kiện vào mùa hè năm 1978. Vào ngày 8 tháng 7, Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam đã ra lệnh cho lực lượng của mình theo đuổi một “chiến lược tấn công” chống lại Trung Quốc và phát động “cuộc tấn công và phản công trong và ngoài biên giới”.[16] Hai tuần sau đó, Hội nghị TW 4 của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã xác định chủ nghĩa đế quốc Mỹ là “kẻ thù lâu dài” nhưng gọi Trung Quốc là “kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm nhất”, và là một “kẻ thù mới trong tương lai”. Cùng thời điểm, một quân khu mới được thành lập ở Tây Bắc Việt Nam dọc theo tỉnh Vân Nam của Trung Quốc.[17] Bộ Tổng tham mưu Giải phóng Quân Trung Quốc nhận thấy một sự tương quan chặt chẽ giữa tình trạng thù địch mới của Hà Nội và mức độ căng thẳng biên giới ngày càng gia tăng. Các tài liệu hiện có mô tả vấn đề biên giới giống như “một phương diện thể hiện sự đối đầu hơn là một tranh chấp nghiêm trọng”,[18] nhưng đối với Trung Quốc vấn đề biên giới là điểm kích hoạt cho những tính toán về một cuộc tấn công đối với Việt Nam.[19]
Từ thời điểm thành lập nước CHND Trung Hoa, các lãnh đạo Trung Quốc đã thể hiện khuynh hướng sử dụng lực lượng quân sự trong tranh chấp lãnh thổ với các nước khác. Giải phóng Quân Trung Quốc đã được sử dụng vũ lực để duy trì tuyên bố chủ quyền chống lại Ấn Độ năm 1962 và Liên Xô năm 1969. Bộ Tổng tham mưu Giải phóng Quân Trung Quốc đã tiếp tục truyền thống này khi đề xuất một chiến dịch quân sự chống lại một trung đoàn quân Việt Nam đóng ở Trùng Khánh, một huyện biên giới tiếp giáp tỉnh Quảng Tây. Đề xuất của Bộ Tổng tham mưu được tính toán cẩn thận để tránh khả năng leo thang, khi điều này có thể đe doạ đến tiến trình cải cách kinh tế của Trung Quốc. Châu Đức Lễ (Zhou Deli), Tham mưu trưởng quân khu Quảng Châu, sau này kể lại Bộ Tổng tham mưu tin rằng vị trí cô lập của Trùng Khánh sẽ cho phép quân đội Trung Quốc chia cắt tiền đồn này của Việt Nam khỏi quân tiếp viện và dễ dàng tiêu diệt nó. Sau một ngày xem xét kỹ thông tin tình báo về các khả năng Việt Nam đưa quân vào Campuchia và thảo luận tình hình chung, hầu hết những người tham dự cuộc họp đều kết luận vấn đề hiện nay với Việt Nam không chỉ là vấn đề biên giới mà rằng bất cứ hành động quân sự nào cũng phải tạo ra tác động mạnh đến Việt Nam và tình hình ở Đông Nam Á. Họ đề xuất một cuộc tấn công vào một đơn vị quân đội thường trực Việt Nam trên một vùng địa lý rộng hơn. Mặc dù không đi đến quyết định cụ thể nào, hội nghị cũng đã hình thành tinh thần chung cho cuộc chiến mà sau này Trung Quốc rốt cục đã tiến hành chống lại Việt Nam, liên kết kế hoạch tấn công với hành động của chính Việt Nam tại Đông Nam Á.[20]
Thật không may, không có nguồn tài liệu nào của Trung Quốc lý giải Bộ Tổng tham mưu Giải phóng Quân Trung Quốc đã thay đổi kế hoạch chiến tranh trong các tháng tiếp theo như thế nào. Rõ ràng, các quan chức tại Bắc Kinh lo ngại các tư lệnh địa phương của Giải phóng Quân Trung Quốc có thể trở nên hung hăng quá mức khi ứng phó với các diễn biến biên giới đang ngày càng gia tăng và sẽ gây tổn hại cho kế hoạch chiến tranh của trung ương. Vào ngày 21 tháng 11, Quân ủy Trung ương của ĐCSTQ đã ra lệnh cho các tư lệnh quân khu tuân thủ chiến lược chính chống bá quyền Liên Xô khi xử lý các sự cố biên giới và ra lệnh cho tất cả các đơn vị biên giới ghi nhớ phương châm “hữu lý, hữu lợi, hữu tiết” (youli, youli, youjie), nghĩa là phù hợp với khả năng, có lợi và biết cách tiết chế hợp lý, chỉ chiến đấu sau khi quân địch đã tấn công.[21]
Hai ngày sau đó, Bộ Tổng tham mưu triệu tập một cuộc họp khác để thảo luận về một kế hoạch chiến tranh mới. Xem xét đề xuất trước đó, Bộ Tổng tham mưu mở rộng phạm vi và thời gian cuộc chiến, mục tiêu là tiêu diệt một hoặc hai sư đoàn chính quy của Việt Nam trong một chiến dịch gần biên giới kéo dài 3 đến 5 ngày.[22] Một số người tham dự tin rằng tầm với của những chiến dịch này chưa đủ xa bởi vẫn chỉ giới hạn trong một vùng hẻo lánh và không đe doạ trực tiếp tới Hà Nội. Tuy nhiên, họ không lên tiếng phản đối mà tuân theo sự đánh giá của chỉ huy cấp cao. Bộ Tổng tham mưu đã ra lệnh cho Quân khu Quảng Châu và Côn Minh thực hiện chiến dịch và cho phép điều chuyển lực lượng dự bị chiến lược của Giải phóng Quân Trung Quốc, gồm hai tập đoàn quân của Quân khu Vũ Hán và Thành Đô, nhằm củng cố cho mặt trận Quảng Tây và Vân Nam.[23] Sau đó, kế hoạch chiến tranh đã được thay đổi đáng kể để đối phó với việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia. Nhưng thực tế Bộ Tổng tham mưu Giải phóng Quân Trung Quốc phác thảo một chiến dịch quân sự lớn thậm chí trước cả khi lực lượng Việt Nam vượt sông Mekong đã cho thấy ý định ban đầu của cuộc chiến ít nhất là buộc Việt Nam chấp nhận các yêu sách của Trung Quốc về tranh chấp biên giới và trục xuất Hoa kiều.
Đặng trở lại trung tâm quyền lực
Quan điểm của các nhà lãnh đạo Trung Quốc về kế hoạch chiến tranh như thế nào? Một bài phát biểu của Bí thư Quân ủy Trung ương Cảnh Tiêu (Geng Biao) vào ngày 16/1/1979 đã làm sáng tỏ suy tính của Bắc Kinh về cách thức đối phó với việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia. Vào tháng 11 năm 1978 Uông Đông Hưng (Wang Dongxing), Phó Chủ tịch ĐCSTQ, và Tô Chấn Hoa (Su Zhenghua), Chính uỷ thứ nhất của hải quân và Uỷ viên Bộ chính trị ĐCSTQ đưa ra ý kiến gửi binh sĩ Trung Quốc hoặc một đơn vị hải quân đến Campuchia. Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou), tư lệnh của Quân khu Quảng Châu, đề nghị được phép tấn công Việt Nam từ Quảng Tây.[24] Cảnh Tiêu thuật lại rằng sau khi xem xét kỹ lưỡng, các lãnh đạo ĐCSTQ đã phản đối tất cả các đề xuất.[25] King Chen cho rằng Cảnh Tiêu chắc hẳn biết rõ Giải phóng Quân Trung Quốc đã bố trí quân đội dọc biên giới Việt Nam, và đã cố tình che dấu kế hoạch quân sự của Bắc Kinh.[26] Báo cáo của Cảnh Tiêu cũng không tiết lộ vai trò của Đặng Tiểu Bình trong quá trình ra quyết định vì Đặng đã củng cố quyền lực trong khi ảnh hưởng chính trị của Uông và Tô suy yếu ở giai đoạn này.[27] Quyết định ban đầu của Trung Quốc về Việt Nam trùng với thời điểm bắt đầu chu kỳ đấu tranh quyền lực mới trong nội bộ ĐCSTQ.
Đặng Tiểu Bình, một nhà lãnh đạo đảng lâu đời và là một chính khách của Trung Quốc, nổi lên trở lại đấu trường chính trị Trung Quốc vào tháng 7 năm 1977 với vai trò Phó chủ tịch ĐCSTQ, Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng, và Tổng tham mưu trưởng Giải phóng Quân Trung Quốc. Ban đầu quyền lực của Đặng được khôi phục không đồng nghĩa với việc ông nắm uy thế áp đảo trong ĐCSTQ. Hoa Quốc Phong, chủ tịch của cả ĐCSTQ và Quân ủy Trung ương, được sự hậu thuẫn của Uông Đông Hưng, Phó Chủ tịch ĐCSTQ, vẫn còn kiểm soát Đảng và nhà nước và vẫn tiếp tục thực hiện nhiều ý tưởng và chính sách của cố lãnh đạo Mao Trạch Đông.[28] Diệp Kiếm Anh (Ye Jianying) vẫn còn phụ trách Quân ủy Trung ương. Đặng khi vừa trở lại cơ quan cấp cao đã tình nguyện phụ trách khoa học và giáo dục, lĩnh vực được xem như ít quan trọng hơn công tác Đảng và quân sự.[29]
Từ tháng 8/1977 đến tháng 12 năm 1978, cuộc đấu tranh quyền lực giữa Hoa và Đặng ngày càng căng thẳng.[30] Với vị trí Tổng tham mưu trưởng Giải phóng Quân Trung Quốc, Đặng nắm rõ kế hoạch chiến tranh, nhưng dường như ông ta không chắc chắn liệu tấn công Việt Nam sẽ nhận được sự ủng hộ của toàn bộ Bộ Chính trị ĐCSTQ hay không. Hơn nữa, Đặng cần xem xét các mục tiêu Giải phóng Quân Trung Quốc có khả năng đạt được thông qua hành động quân sự ngoài việc đơn giản là trừng phạt Việt Nam. Trong một chuyến thăm Singapore vào đầu tháng 11/1978, đáp lại câu hỏi của Thủ tướng Lý Quang Diệu về việc liệu Trung Quốc sẽ dùng vũ lực tấn công lực lượng quân đội Việt Nam tại Campuchia hay không, Đặng đã tỏ ra ngần ngại khi trả lời. Có lần, ông nói với ông Lý rằng Trung Quốc sẽ trừng phạt Việt Nam, nhưng trong lần khác ông chỉ trả lời “cũng còn tuỳ”.[31]
Cán cân chính trị nghiêng về phía Đặng ngay sau khi ông trở về Bắc Kinh. Từ ngày 10 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12, Hội nghị công tác trung ương đã diễn ra với sự tham dự của lãnh đạo các tỉnh, các quân khu, và Trung ương Đảng, chính phủ, và cơ quan quốc phòng. Chương trình nghị sự ban đầu tập trung vào các vấn đề trong nước – phát triển nông nghiệp và chính sách kinh tế trong các năm 1979 và 1980 – và không bao gồm tình hình Đông Dương, trái với khẳng định đã nêu của King Chen.[32] Cuộc họp đã có một bước ngoặt bất ngờ khi Trần Vân (Chen Yun), một nhà hoạch định kinh tế kế hoạch cho Mao, phát biểu vào ngày 12 tháng 11 nhấn mạnh họ trước tiên phải giải quyết các hậu quả để lại của Cách mạng Văn hoá. Chương trình nghị sự sau đó đã chuyển sang vấn đề phục chức cho các đảng viên cấp cao trước đây bị truy tố trong Cách mạng Văn hoá và sang hướng chỉ trích liên minh Hoa – Uông vì tiếp tục theo đuổi chính sách tư tưởng cực tả. Cuộc họp kết thúc với quyết định triệu tập Hội nghị TW ba của Đại hội Đảng khoá 11, ở đây Trần Vân đã trở thành Phó Chủ tịch ĐCSTQ, củng cố vị thế chính trị của Đặng Tiểu Bình. Với bầu không khí chính trị thay đổi ở Bắc Kinh, các quyết định của Đặng dần trở lên có ảnh hưởng cao tại Trung Quốc.[33]
Một trong những quyết định quan trọng đầu tiên của Đặng, công bố tại Hội nghị TW ba, là chuyển ưu tiên quốc gia của Trung Quốc sang hiện đại hoá kinh tế và mở cửa ra thế giới bên ngoài.[34] Theo chương trình này, Hoa Kỳ đã được xem là nguồn chính để học tập các ý tưởng và công nghệ tiên tiến, đồng thời là tấm gương thích hợp nhất về hiện đại hoá. Cựu Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Zhang Wenjin nhớ lại Đặng tin rằng nếu Trung Quốc chỉ mở cửa với các nước khác nhưng nói không với Hoa Kỳ thì chính sách mới sẽ không có hiệu quả.[35] Đến tháng 12 năm 1978, Bắc Kinh đã mời một số tập đoàn lớn của Hoa Kỳ để giúp đỡ phát triển tài nguyên thiên nhiên, dầu khí, và các nghành công nghiệp nặng khác ở Trung Quốc. Vấn đề chính sách đối ngoại không nằm trong chương trình nghị sự của Hội nghị công tác trung ương hay Hội nghị TW ba, nhưng tình hình chính trị trong nước và mối quan hệ xấu đi giữa Trung Quốc và Việt Nam (biểu trưng bởi liên minh mới Việt-Xô) thúc đẩy các nhà lãnh đạo sắp xếp một cuộc họp đặc biệt về vấn đề thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ.[36] Nhân tố Mỹ đóng một vai trò quan trọng trong tư duy chiến lược của Trung Quốc trong gian đoạn trước khi tiến hành cuộc xâm lược Việt Nam.
Nhân tố Liên Xô
Nghiên cứu của Qiang Zhai về mối quan hệ của Trung Quốc với Bắc Việt Nam trước tháng 4 năm 1975 lưu ý rằng nếu như các nhà lãnh đạo Trung Quốc trước đây luôn duy trì mối quan hệ cá nhân thân thiết với giới chức Việt Nam, thì Đặng ngược lại không có bất cứ sự “gắn bó cá nhân sâu nặng nào với Việt Nam”. Đến cuối năm 1978, vì cảm thấy bị xúc phạm quá mức trước những dấu hiệu mà ông ta cho rằng Hà Nội đang thách thức lợi ích của Bắc Kinh, Đặng đã không “ngần ngại tiến hành một cuộc chiến tranh để dạy cho Việt Nam một bài học.”[37] Năm 1979, các lãnh đạo Việt Nam cũng đã cáo buộc Đặng chống lại những lợi ích của Việt Nam ngay cả trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Lê Duẩn tuyên bố Đặng đã không chỉ cố gắng thuyết phục miền Bắc Việt Nam giảm bớt cuộc cách mạng ở miền Nam, mà còn ngăn miền Bắc Việt Nam không được nhận viện trợ từ Liên Xô, coi đây là điều kiện để Trung Quốc tiếp tục viện trợ cho Hà Nội.[38]
Tổng cộng Trung Quốc đã cung cấp cho Hà Nội 20 tỷ đô la viện trợ trong hai thập kỷ, nhiều hơn nguồn tiếp tế của bất kỳ quốc gia nào khác.[39] Khi chính quyền Việt Nam bắt đầu trục xuất Hoa kiều ở miền bắc Việt Nam và xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc dọc theo biên giới, nhiều người Trung Quốc đã tức giận trước những hành vi mà họ coi là sự vô ơn của Hà Nội sau những viện trợ và hy sinh của họ. Trung Quốc đã chứng kiến ​​một làn sóng giận dữ của công chúng chống lại Việt Nam do bộ máy tuyên truyền chính thống kích động.[40] Những người từng hỗ trợ những người cộng sản Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ cảm thấy bị phản bội và sẵn sàng “dạy cho Việt Nam một bài học”. Phó Thủ tướng Lý Tiên Niệm đã mô tả hành động quân sự của Trung Quốc giống như “một cái tát vào mặt [Việt Nam] để cảnh cáo và trừng phạt họ.”[41] Đặng Tiểu Bình cũng không phải là ngoại lệ. Ông ta đã tỏ ý khó chịu với thái độ “vô ơn” của Việt Nam kể từ giữa những năm 1960.[42]
Mặc dù tình trạng thù địch giữa Trung Quốc và Việt Nam trở nên căng thẳng trong cuối những năm 1970, Đặng trở nên ngày càng nhạy cảm, thậm chí một lần đã gọi Việt Nam là wangbadan (một từ mang nghĩa chửi thề -NBT) trước mặt một nhà lãnh đạo nước ngoài.[43] Như Raymond đã chỉ ra, trong một tình huống mà “ý định thù địch [tồn tại] ở cả hai bên, sự giận dữ và lòng thù hận [có khả năng] nảy sinh”.[44] Điều mà Đặng nhìn nhận là “thái độ xấc xược” của Việt Nam, cùng với các xung đột biên giới leo thang và cuộc di tản đang diễn ra của Hoa kiều, tất cả đã tạo ra “sự giận dữ và lòng thù hận” ở Bắc Kinh, và thúc đẩy chính phủ cân nhắc đến các phương án quân sự. Việc sử dụng lực lượng quân sự cũng phù hợp với tư duy chiến lược của vị lãnh đạo cao nhất này của Trung Quốc.
Sau khi quay lại nắm quyền lực, quan điểm chính sách đối ngoại của Đặng ban đầu vẫn chịu ảnh hưởng theo tư duy chiến lược của Mao Trạch Đông, tức là coi công cuộc bành trướng toàn cầu và lực lượng quân sự của Liên Xô là mối đe dọa chính đối với hòa bình. Mặc dù Matxcơva đã nỗ lực hòa giải với Trung Quốc trong năm 1977 và 1978, các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn từ chối tin tưởng vào Liên Xô vì sự thù địch từ lâu giữa hai đất nước.[45] Liên Xô tiếp tục tăng cường quân đội mạnh mẽ gần Trung Quốc và thường xuyên tiến hành tập trận bằng đạn thật mô phỏng xung đột biên giới.[46] Bắt đầu từ đầu những năm 1970, Mao theo đuổi chiến lược “một đường ngang” (yitiaoxian – nhất hoành tuyến) trên toàn cầu, tức là một đường phòng thủ chiến lược chống lại Liên Xô kéo dài từ Nhật Bản sang châu Âu đến Mỹ. Cơ sở chiến lược “hoành tuyến” của Mao là dựa vào hợp tác chặt chẽ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Washington đã không hưởng ứng phương pháp này theo cách mà Bắc Kinh trông chờ​​. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã kết luận rằng Mỹ vẫn chủ yếu quan tâm đến chính sách hòa dịu (détente) với Liên Xô.[47]
Nỗi thất vọng của Trung Quốc tiếp tục trong suốt những năm đầu của nhiệm kỳ tổng thống Jimmy Carter khi ông chính thức tuyên bố sẽ dành ưu tiên cao hơn cho hoà dịu Xô-Mỹ. Đặng không thích chính sách cố gắng xoa dịu căng thẳng quốc tế thông qua đàm phán của Hoa Kỳ. Vào ngày 27 tháng 9 năm 1977, trong cuộc gặp với George H. W. Bush, cựu giám đốc văn phòng liên lạc của Mỹ tại Bắc Kinh, Đặng đã chỉ trích thỏa thuận kiểm soát vũ khí hạt nhân Xô-Mỹ vốn không ngăn được Liên Xô đạt được sức mạnh ngang bằng với Mỹ.[48] Vài tháng sau đó, vị lãnh đạo Trung Quốc nhắc lại những lời chỉ trích đó với Zbigniew Brzezinski, cố vấn an ninh quốc gia của chính quyền Carter, khi vị này đến thăm Bắc Kinh tháng 5 năm 1978. Đặng cảnh báo Brzezinski về ý định của Liên Xô, cho rằng nước này sẽ gây hại cho Mỹ. Lãnh đạo Trung Quốc đã không tin rằng các thỏa thuận hoặc hợp tác với Liên Xô có thể ngăn chặn nước này bành trướng. Tuy nhiên, Brzezinski cho rằng chính sách của Trung Quốc chỉ đơn giản là “nói suông”. Đặng không đồng ý và giải thích rằng Trung Quốc đã làm mọi điều trong khả năng của mình.[49] Khó có thể khẳng định rằng cuộc trao đổi này có ảnh hưởng tâm lý tới Đặng hay không, nhưng sau đó ông ta đã thừa nhận không muốn các nước khác nhận thức Trung Quốc yếu đuối khi đối đầu với liên minh Xô-Việt.[50] Hành động quân sự của Trung Quốc được dự kiến là nhằm chứng tỏ rằng Bắc Kinh không chỉ nói miệng nếu Trung Quốc và Hoa Kỳ thống nhất trong việc chống lại thái độ hung hăng của Liên Xô.[51]
Trong tháng 11, một số diễn biến phát sinh đã khiến Bắc Kinh càng thêm lo lắng. Đầu tiên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc lo ngại về khả năng bình thường hoá hoặc cải thiện quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Vào ngày 03 tháng 11, Lý Tiên Niệm đã lên tiếng không hài lòng trong một cuộc trò chuyện với Bộ trưởng Năng lượng Mỹ James Schlesinger, tuyên bố mối ­­quan hệ gần gũi hơn với Việt Nam sẽ không kéo Việt Nam khỏi Liên Xô.[52] Trung Quốc tỏ ra nóng lòng muốn đẩy nhanh các cuộc đàm phán với Hoa Kỳ về việc thiết lập quan hệ ngoại giao và khôi phục các cuộc đàm phán vốn đã bị đình trệ hồi đầu tháng 7 năm 1978. Thứ hai, tăng cường quan hệ quân sự của Liên Xô với Việt Nam sau khi ký Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị Xô-Việt vào ngày 3 tháng 11 là tiếng chuông báo động với Bắc Kinh. Trung Quốc cho rằng Liên Xô đã hậu thuẫn Việt Nam đưa quân vào Campuchia và khuấy động căng thẳng biên giới phía Nam Trung Quốc.[53] Đối với Trung Quốc, Việt Nam đang trở thành một mối đe dọa quân sự nghiêm trọng, càng làm sâu sắc hơn mối đe dọa của Liên Xô từ phía Bắc. Trung Quốc cần tìm cách lập lại thế cân bằng chiến lược thông qua hành động quân sự chống lại “chủ nghĩa bá quyền khu vực” của Việt Nam.
Ngày 7 tháng 12 Quân ủy Trung ương đã nhóm họp trong vài giờ và quyết định phát động một cuộc chiến tranh hạn chế “đánh trả” Việt Nam.[54] Tại cuộc họp một số lo ngại rằng Liên Xô có thể phản ứng bằng một cuộc tấn công trả đũa từ phía Bắc, đẩy Trung Quốc sa vào một cuộc chiến tranh hai mặt trận. Phân tích tình báo của Bộ Tổng tham mưu Giải phóng Quân Trung Quốc chỉ ra rằng Liên Xô sẽ có ba lựa chọn quân sự để đáp trả cuộc xâm lược này: (1) một cuộc tấn công quy mô lớn bao gồm cả tấn công trực tiếp vào Bắc Kinh, (2) xúi giục các phần tử dân tộc thiểu số lưu vong có vũ trang tấn công các vùng xa xôi của Trung Quốc ở Tân Cương và Nội Mông, và (3) sử dụng các vụ đụng độ nhỏ để kích động căng thẳng biên giới giữa hai nước. Mặc dù 54 sư đoàn của Liên Xô đã được triển khai dọc biên giới với Trung Quốc và Mông Cổ, Bộ Tổng tham mưu Giải phóng Quân Trung Quốc tính toán rằng hai phần ba trong những sư đoàn này thiếu quân số và trang bị không đầy đủ, Liên Xô không có đủ lực lượng để triển khai một cuộc can thiệp quân sự quy ​​mô lớn ở Trung Quốc. Bất kỳ sự can thiệp nào cũng sẽ buộc Matxcơva không chỉ chuyển một số lượng lớn quân đội từ Châu Âu, mà còn đặt an ninh quốc gia của Liên Xô vào rủi ro lớn bởi khả năng đáp trả từ Hoa Kỳ là điều hoàn toàn có thể. Liên Xô không thể tấn công Trung Quốc từ phía Bắc mà không xem xét đến điều này.[55] Ngày 8 tháng 12 Quân ủy Trung ương đã ra lệnh cho Quân khu Quảng Châu và Côn Minh chuẩn bị sẵn sàng cho hành động quân sự chống lại Việt Nam trước ngày 10 tháng 1 năm 1979.[56]
Bình thường hoá quan hệ Trung-Mỹ 
Đặng Tiểu Bình ra quyết định
Tìm kiếm ủng hộ từ Washington
Kết luận: Đánh giá quyết định chiến tranh của Trung Quốc
Download toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Dang Tieu Binh va quyet dinh chien tranh voi VN.pdf


Ghi chú: Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả, không phải quan điểm của người dịch và BBT Nghiencuuquocte.net. Do nhiều nguồn tư liệu mà tác giả trích dẫn trong bài là từ phía Trung Quốc nên tính chính xác và khách quan có thể không được đảm bảo. Tuy nhiên, trên tinh thần học thuật, tôn trọng tác giả và nhằm giúp bạn đọc hiểu được quan điểm tuyên truyền nội bộ Trung Quốc về cuộc chiến, chúng tôi dịch nguyên văn bài viết, bao gồm cả cách diễn đạt, dùng từ. Quyền nhận định và đánh giá nội dung bài viết thuộc về các độc giả.
[1] Renmin ribao [Nhân dân nhât báo], ngày 19 tháng 3 năm 1979. Bản dịch tiếng Anh, xem Bắc Kinh Review, ngày 23 tháng 3 năm 1979.
[2] Harlan W. Jencks, “China’s ‘Punitive’ War on Vietnam: A Military Assessment,” Asian Survey, Vol. 19, No. 8 (August 1979), pp. 802–803; Steven J. Hood, Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War (Armonk, NY: M. E. Sharpe, 1992), pp. 50–57; and Edward C. O’Dowd, Chinese Military Strategy in the Third Indochina War: The Last Maoist War (New York: Routledge, 2007), p. 6.
[3] Robert S. Ross, The Indochina Tangle: China’s Vietnam Policy, 1975–1979 (New York: Columbia University Press, 1988), p. 253; and Bruce Elleman, Modern Chinese Warfare, 1785–1989 (London: Routledge, 2001), p. 285.
[4] Gerald Segal, Defending China (New York: Oxford University Press, 1985), pp. 225–226.
[5] King Chen, China’s War with Vietnam, 1979 (Stanford, CA: Hoover Institution Press, 1987), pp. 85–86, 152.
[6] Andrew Scobell, China’s Use of Military Force beyond the Great Wall and the Long March (New York: Cambridge University Press, 2003), pp. 124–143.
[7] Những cuốn hồi ký đáng chú ý là Zhou Deli, Yige gaoji canmouzhang de zishu [Personal Recollections of a High-Ranking Chief of Staff ] (Nanjing: Nanjing chubanshe, 1992); Xu Shiyou de zuihou yizhan [The Last Battle of Xu Shiyou] (Nanjing: Jiangsu renmin chubanshe, 1990); and Zhang Zhen, Zhang Zhen huiyilu [Zhang Zhen’s Memoirs] (Beijing: Jiefangjun chubanshe, 2003). Ngoài ra, các trang web Internet Trung Quốc chứa các tài liệu, hồi ký, hồi ức cá nhân, và những đoạn trích từ các ấn phẩm của Trung Quốc liên quan đến cuộc chiến tranh năm 1979 với Việt Nam. Hữu ích nhất là “Zhongyue zhangzhen beiwanglu” [Memoranda of Sino-Vietnam War], http://bwl.top81.cn/war79/index.html.
[8] Đối với nghiên cứu về quyết định của Trung Quốc trong chiến tranh Triều Tiên, xem Shu Guang Zhang, Mao’s Military Romanticism: China and the Korean War, 1950–1953 (Lawrence, KS: University Press of Kansas, 1995), ch. 4; Chen Jian, Mao’s China and the Cold War (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2001), ch. 4; and Xiaoming Zhang, Red Wing over the Yalu: China, the Soviet Union, and the Air War in Korea (College Station: Texas A&M University Press, 2002), ch. 3.
[9] Ross, The Indochina Tangle, các trang 118–123, 127–128. Người Trung Quốc cho rằng Trung Quốc không thể giữ nguyên mức độ trợ giúp Việt Nam như đã làm trong chiến tranh bởi vì kinh tế Trung Quốc đang phải đối mặt với những khó khăn rất lớn trong thời gian này. Xem Guo Ming, ed., ZhongYue guanxi yanbian sishinian [The Development of Sino-Vietnamese Relations in Forty Years] (Nanning, China: Guangxi renmin chubanshe, 1992), p. 114.
[10] Chen, China’s War, các trang 35–36.
[11] Luo Yuansheng, Baizhan jiangxing Wang Shangrong [The Biography of GeneralWang Shangrong] (Beijing: Jiefangjun wenyi chubanshe, 1999), pp. 375–377; and Yang Qiliang et al., Wang Shangrong jiangjun [General Wang Shangrong] (Beijing: Dangdai Zhongguo chubanshe, 2000), p. 626.
[12] John Vasquez and Marie T. Henehan, “Territorial Disputes and the Probability of War, 1816– 1992,” Journal of Peace Research, Vol. 38, No. 2 (2001), pp. 123–138.
[13] Guo, ed., ZhongYue guanxi yanbian sishinian, trang 169; Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, các trang 241–242.
[14] Han Huanzhi, chief ed., Dangdai Zhongguo jundui de junshi gongzuo [Contemporary Chinese Military Affairs] (Beijing: Zhongguo shehui kexue chubanshe, 1989), Vol. 1, p. 659.
[15] Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, các trang 239–240.
[16] Han Lianlong, chief ed., Dangdai Zhongguo waijiao [Contemporary Chinese Diplomacy] (Beijing: Zhongguo shehui kexue chubanshe, 1990), pp. 285–286.
[17] Vietnamese National Defense Ministry, Military History Institute, Yuenan renminjun wushinian [Fifty Years of Vietnamese People’s Army], trans. by Liu Huanpu et al. (Beijing: Junshi Yiwen chubanshe, 1994), pp. 267–268.
[18] BrantlyWomack, China and Vietnam: The Politics of Asymmetry (New York: Cambridge University Press, 2006), p. 199.
[19] Một nghiên cứu gần đây lưu ý rằng từ năm 1949 đến năm 2007 Trung Quốc đã có 23 tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng cả trên đất liền và dưới biển, đã sử sụng vũ lực trong 6 lần. Xem M. Taylor Fravel, Strong Borders, Secure Nation: Cooperation and Conºict in China’s Territorial Disputes (Princeton, NJ: Princeton University Press, 2008), pp. 1–2.
[20] Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, các trang 242–243.
[21] “Zhongguo Renmin Jiefangjun Tongjian” Editorial Committee, Zhongguo renming jiefangjun tongjian [A General Record of the PLA of China, 1927–1996], 3 vols. (Lanzhou, China: Gansu renmin chubanshe, 1997), Vol. 2, p. 2173.
[22] Trừ khi có trích dẫn khác, tất cả các thông tin chi tiết về kế hoạch xâm lược của Trung Quốc được cung cấp bởi Cai Pengcen, một sinh viên sau đại học ngành lịch sử tại Đại học Tây Nam ở Trung Quốc.
[23] Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, pp. 244–245; Zhang Zhen, Zhang Zhen junshi wenxuan [Selected Military Works of Zhang Zhen] (Beijing: Jiefangjun chubanshe, 2005), p. 298; and Wang Hancheng, Wang Hancheng huiyilu [Wang Hancheng Memoirs] (Beijing: Jiefangjun chubanshe, 2004), p. 535. Cả Zhang và Wang cho rằng quân đội từ Quân khu Vũ Hán và Thành Đô được xem là quân dự bị chiến lược của Giải phóng Quân Trung Hoa.
[24] Điều này có lẽ xảy ra vào cuộc họp tháng 11 năm 1978 của Quân ủy Trung ương. Xem Zhang, Zhang Zhen huiyilu, Vol. 2, pp. 165–66; and Jin Ye, Hu Juchen, and Hu Zhaocai, Baizhan jiangxing Xu Shiyou [Biography of General Xu Shiyou] (Beijing: Jiefangjun wenyi chubanshe, 1999), pp. 329–331.
[25] Geng Biao, “Secret Report,” 16 January, 1979, in Studies on Chinese Communism, No. 166 (15 October 1980), pp. 150–152.
[26] Chen, China’s War, trang 87.
[27] Ye Yonglie, Cong Hua Guofeng dao Deng Xiaoping: Zhongkang shiyijie sanzhong quanhui qianhou [From Hua Guofeng to Deng Xiaoping: Around the Third Plenum of the Eleventh Central Party Committee] (Hong Kong: Tiandi Books, 1998), pp. 526–527; Sun Dali, “A Historical Turning Point of New China: The Third Plenum of the Eleventh Central Committee,” in Lin Zhijian, ed., Xin Zhongguo yaoshi shuping [Review of the Important Events of New China] (Beijing: Zhongyang wenxian chubanshe, 1994), p. 498; and Xiao Jinguang, Xiao Jinguang huiyilu xuji [Xiao Jinguang Memoirs: Continuation Edition] (Beijing: Jiefangjun chubanshe, 1988), pp. 361–363.
[28] Hội nghị TW ba của Uỷ ban Trung ương Đảng khóa 10, diễn ra từ ngày 16 đến ngày 21 tháng 7 năm 1977, dự kiến Hoa là Chủ tịch ĐCSTQ với đầy đủ quyền kiểm soát Đảng, Nhà nước, và quốc phòng. Diệp vẫn chịu trách nhiệm về quân đội, và Uông, người được thăng chức Phó Chủ tịch Đảng sau đó 1 tháng, chịu trách nhiệm về tổ chức Đảng, tuyên huấn, và an ninh. Xem Ye, Cong Hua guofeng dao DengXiaoping, các trang 222, 227, 235–236, 240.
[29] Deng Xiaoping, Deng Xiaoping wenxuan [Selected Works of Deng Xiaoping] (Beijing: Renmin chubanshe, 1983), Vol. 2, p. 65.
[30] Ye, Cong Hua guofeng dao Deng Xiaoping, pp. 222–226; and Sun, “A Historical Turning Point of New China,” pp. 478–480.
[31] Lee Kuan Yew, From the Third World to First: The Singapore Story, 1965–2000 (New York: Anchor Press, 2000), pp. 601–602.
[32] Chen, China’s War, trang 85.
[33] Mặc dầu Uông vẫn còn giữ chức Phó Chủ tịch Đảng nhưng ông đã không còn kiểm soát Văn phòng TW Đảng hoặc Ban bảo vệ trung ương của Giải phóng Quân Trung Quốc. Ye, Cong Hua Guofeng, các trang 463–528.
[34] Deng Xiaoping, Deng Xiaoping wenxuan [Selected Works of Deng Xiaoping], Vol. 3 (Beijing: Renmin chubanshe, 1993), p. 269.
[35] Li Shenzhi, Li Shenzhi wenji [Collected Works of Li Shenzhi] (Beijing: n.p., 2004), p. 334.
[36] Qian Jiang, Deng Xiaoping yu ZhongMei jianjiao fengyun [Deng Xiaoping and the Establishment of Diplomatic Relationship between China and the United States] (Beijing: Zhonggong dangshi chubanshe, 2005), p. 153; Gong Li, Deng Xiaoping yu Meiguo [Deng Xiaoping and the United States] (Beijing: Zhonggong dangshi chubanshe, 2004), p. 236.
[37] Qiang Zhai, China and the Vietnam Wars, 1950–1975 (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2000), p. 214.
[38] “Comrade B on the Plot of the Reactionary Chinese Clique against Vietnam (1979),” trans. By Christopher E. Goscha, The Cold War International History Project Bulletin, No. 12/13 (Fall/Winter 2001), pp. 281, 284, 289. Xem thêm, Odd Arne Westad, et al, eds., “77 Conversations between China and foreign Leaders on the Wars in Indochina, 1964–1977,” CWIHP Working Paper No. 22, Cold War International History Project, Washington, DC, p. 57.
[39] Đây là thống kê chính thức của Trung Quốc nhưng cách thức tính toán thế nào thì chưa rõ ràng. Căn cứ theo nguồn tin có thẩm quyền của Trung Quốc, Trung Quốc cung cấp cho miền Bắc Việt Nam tổng cộng 4,26 tỷ nhân dân tệ bằng viện trợ quân sự từ năm 1950 đến năm 1974. Li Ke and Hao Shengzhang,Wenhua dagemin zhong de jiefangjun [The PLA in the Cultural Revolution] (Beijing: Zhonggong dangshi ziliao chubanshe, 1989), p. 409.
[40] Guo, ed., ZhongYue guanxi, trang106.
[41] Luo, Baizhan jiangxing Wang Shangrong, trang 377.
[42] Xem Westad et al., eds., “77 Conversations,” pp. 94–98, 194–195.
[43] Lee, From the Third World, trang 595.
[44] Raymond Aron, Peace and War: A Theory of International Relations (Garden City, NY: Anchor Press, 1973), p. 19.
[45] Ví dụ, trong tháng 3 năm 1978, lãnh đạo tối cao Liên bang Xô Viết gửi một tin nhắn cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nhân dân Trung Quốc đề nghị Liên Xô và Trung Quốc đưa ra tuyên bố hữu nghị về các quy tắc định hướng quan hệ giữa hai quốc gia. Người Trung Quốc đã công khai từ chối đề nghị này.
[46] Đối với quan điểm của Đặng về Liên Xô, xem Memorandum of Conversation, Brzezinski-Deng, 21 May 1978, in China Vertical File, Jimmy Carter Library (JCL).. Xem thêm Wang Zhongchun, “The Soviet Factor in Sino-American Normalization, 1969–1979,” in William C. Kirby, Robert S. Ross, and Gong Li, eds., Normalization of U.S.-China Relations: An International History (Cambridge, MA: Harvard University Asia Center, 2005), pp. 165–166.
[47] Wang, “The Soviet Factor in Sino-American Normalization, 1969–1979,” pp. 158–164.
[48] PRC Ministry of Foreign Affairs Archives, Weiren de zuji: Deng Xiaoping waijiaohuodong dashiji [The Footprints of a Great Man: The Record of Deng Xiaoping’s Participation in Important Foreign Events] (Beijing: Shijie zhishi chubanshe, 1998), p. 158.
[49] Memorandum of Conversation, Brzezinski-Deng, 21 May 1978.
[50] Kyodo News, 26 February 1979, in U.S. Foreign Broadcast Information Service, Daily Reports: China (FBIS-PRC), 26 February 1979, p. A6.
[51] Đặng Tiểu Bình tin rằng chiến tranh Việt Nam sẽ chỉ ra “Trung Quốc không bao giờ bị lừa phỉnh bởi những điều ngụy biện [buxinxie].” Xem Deng Xiaoping, Deng Xiaoping junshi wenji [Collected Military Works of Deng Xiaoping] (Beijing: Junshi kexue chubanshe, 2004), Vol. 3, p. 177.
[52] Memorandum from Stansªeld Turner to Brzezinski, 21 November 1978, in NLC-26-57-1-6-4, JCL.
[53] Wang, “The Soviet Factor in Sino-American Normalization,” p. 166. Nghiên cứu hiện có của phương Tây không đưa ra được bằng chứng về vai trò của Liên Xô trong việc Việt Nam quyết định đưa quân vào Campuchia.  Xem Stephen J.Morris, Why Vietnam Invaded Cambodia: Political Culture and the Causes of War (Stanford, CA: Stanford University Press, 1999), pp. 215–217.
[54] Min Li, ZhongYue zhanzheng shinian [Ten Years of Sino-VietnamWar] (Chengdu, China: Sichuandaxue chubanshe, 1993), p. 15.
[55] Sách đã dẫn, các trang 16–17.
[56] Zhou, Yige gaoji canmouzhang de zishu, trang246

Báo Tuổi trẻ, “5 đứa trẻ trong căn nhà không có người lớn” và số phận của hơn 2 tỉ đồng từ thiện

Báo Tuổi trẻ chủ nhật, số ra ngày 1/12/2013 có bài phóng sự gây chấn động dư luận vớt tiêu đề “5 đứa trẻ trong căn nhà không có người lớn” của phóng viên Ngọc Hậu. Bài viết với những lời lẽ thương tâm xé lòng với hoàn cảnh éo le của 5 đứa trẻ thơ vô tội, đã lấy bao nước mắt của bạn đọc cả nước. Hàng chục ngàn ý kiến phản hồi của bạn đọc gửi về tòa soạn báo Tuổi trẻ thể hiện sự cảm thông, chia sẻ và trách móc chính quyền, đoàn thể địa phương đã tắc trách, không chăm lo cho những mảnh đời cơ cực. Đáng nói hơn là số tiền trên 02 tỉ đồng và hàng ngàn phần quà của doanh nghiệp, bạn đọc đã tới tấp gửi về Ban Công tác Xã hội báo Tuổi trẻ. Số tiền “từ thiện” này hiện nay báo Tuổi trẻ vẫn đang gửi ngân hàng để lấy lãi, còn quà tặng thì một phần nhỏ được chuyển cho các cháu, còn phần lớn đã được báo Tuổi trẻ “linh hoạt” điều đi nơi khác để “bù” vào một số thiếu sót trong “công tác tổ chức” ở các chuyến từ thiện trước đây. Sự thật đằng sau câu chuyện này là gì?

Lâm Ngọc Hậu cùng “cô giáo Oanh” trong họp mặt lớp Báo chí 4B, Đại học KHXH&NV cuối năm 2013
Trước hết cần đề cập sơ lược vài nét về Phóng viên báo Tuổi trẻ Lâm Ngọc Hậu (bút danh Ngọc Hậu), sinh năm 1977, từng làm phóng viên báo Người Lao Động, vì “lao động” thiếu đất sống nên đầu tháng 4/2008, Hậu đầu quân cho tờ Tuổi trẻ, được phân công về ban Chính trị Xã hội, sau đó nhờ “bút pháp” tốt nên được chuyển qua Ban Công tác xã hội. Với vẻ ngoài “hiền lành”, “vui vẻ”, “dễ gần”, Ngọc Hậu dễ dàng “đánh hơi” và tiếp cận các mảnh đời bất hạnh để viết bài, làm phóng sự lấy nước mắt độc giả, cùng với Phan Văn Đắc kiếm được vô số khoản “từ thiện” khổng lồ về cho báo Tuổi trẻ, được Đức Hải và BBT đánh giá “rất cao” (Hải nham lúc nào cũng đặc biệt đánh giá cao về những phóng viên có bài thu hút được tiền, quà từ thiện của bạn đọc, vì như chúng tôi vạch mặt, chỉ riêng “chi phí tổ chức” trao quà, tiền từ thiện của bạn đọc có những lúc chiếm đến ¾ tổng số tiền do bạn đọc tài trợ cho những “mảnh đời bất hạnh”). Cũng chính vì “tài năng” này, đầu tháng 12/2010, Ngọc Hậu được Đức Hải, Hữu Phong điều về Văn phòng Sông Tiền, mảnh đất được bộ sậu báo Tuổi trẻ đánh giá là “mỏ vàng” để đào sâu cuốc bẫm vào những hoàn cảnh neo đơn, khốn khó của người dân nơi đây.

Lâm Ngọc Hậu (thứ 2 từ trái sang) bên cạnh Nguyễn Hoài Phong (Phong “dzê”) tại Văn phòng Sông Tiền, báo Tuổi trẻ

Nhưng tại Văn phòng Sông Tiền, làm việc dưới sự điều hành của vị Trưởng đại diện Phong “dzê” với chuyên môn duy nhất là gái, Ngọc Hậu thiếu sự hỗ trợ nên “tài năng” không có chỗ “dụng võ”, trước khi xảy ra kỳ án hiếp dâm cộng tác viên của Trưởng văn phòng báo Tuổi trẻ Phong “dzê”, đầu năm 2013, Ngọc Hậu đã đề xuất Hữu Phong cho chuyển về địa phương khác, Đức Hải sau khi điều nghiên đã chọn Văn phòng Đông Nam Bộ, phụ trách các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai được Hải đánh giá “đây cũng là những mảnh đất màu mỡ để “tài năng” của Ngọc Hậu không bị thui chột”. Trong một diễn biến liên quan mà độc giả chưa biết, trước khi Phong dzê bị nhận quyết định kỷ luật (không kỷ luật không được trước sự “hăm dọa” của nhóm cộng tác viên Văn phòng Sông Tiền), Nguyễn Hoài Phong và Lâm Ngọc Hậu đều đã chính thức đứng trong hàng ngũ của Đảng ngày 9/1/2014 với sự “đồng thuận tuyệt đối” của chi bộ tòa soạn báo Tuổi trẻ.

Quay lại về bài phóng sự “5 đứa trẻ trong căn nhà không có người lớn”, sự thật Ban Công tác bạn đọc nghe phản ánh về hoàn cảnh gia đình của 5 đứa trẻ, nhận thấy đây là cơ hội tốt để “ghi bàn từ thiện”, Đức Hải bàn với Văn Đắc và quyết định cử Lâm Ngọc Hậu, phóng viên có “tài năng” nhất của tòa soạn Tuổi trẻ về khoản “lấy nước mắt độc giả” về địa bàn xã Phú Tân, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai (thực tế Ngọc Hậu đang phụ trách địa bàn tỉnh Tây Ninh) để tìm hiểu và làm phóng sự. Qua tìm hiểu chi tiết, Ngọc Hậu báo về tòa soạn Tuổi trẻ tình hình thực tế là quả thực 5 đứa trẻ có hoàn cảnh xuất phát từ gia đình của chúng chẳng tốt lành gì, Nguyễn Thị Phượng bà mẹ của 5 đứa trẻ trên có tới 3 đời chồng với tất cả 8 người con. Hơn một năm trước, chính quyền, người dân địa phương đều biết ông chồng sau của bà Phượng đã hiếp dâm đứa con gái riêng của vợ khi chưa đầy 15 tuổi, bà Phượng đã nộp đơn tố cáo và ông này bỏ trốn cho đến nay, cơ quan chức năng chưa vào cuộc vì sau đó bà Phượng nộp đơn bãi nại cho ông chồng mất nhân tính và xin hủy bỏ bản tố cáo trước đó khiến bé gái phẫn uất, rủ anh và chị lớn bỏ nhà ra đi. Sau đó bà Phượng đi làm xa, gửi 5 đứa trẻ cho anh chị em bên ngoại chăm sóc. Nhờ sự hỗ trợ của họ hàng, chính quyền đoàn thể và bà con hàng xóm, các cháu vẫn đủ ăn đủ mặc, nhưng chẳng chịu học hành, suốt ngày lêu lổng với game điện tử chứ không thương tâm đến nỗi như nguồn tin phản ánh. Sau khi nhận được báo cáo của Ngọc Hậu, Trưởng Ban CTXH Phan Đắc liền phán “chú bỏ qua các tình tiết bình thường đi, tập trung xoáy xâu vào những yếu tố éo le, có thế mới thu hút được từ thiện của bạn đọc”. Và thế là một kịch bản được dựng lên trong đầu Ngọc Hậu, để thuyết phục bạn đọc hơn nữa, Đức Hải còn cử cả Đức Trọng (phòng truyền hình) về “hỗ trợ” để dàn dựng một clip “thực tế” cuộc sống hàng ngày của các em.

Chỉ bằng vài câu nói với cậu bé Nguyễn Thành Tươi (13 tuổi): “Cháu bảo mấy đứa em nghe lời các chú để quay phim, mấy chú bảo gì thì làm nấy, rồi các cháu sẽ có rất nhiều quà, tiền, thoải mái chơi điện tử!”. Đầu óc mấy đứa trẻ non nớt, chỉ nghe lời hứa hẹn “sẽ có nhiều quà, tiền” từ giọng ngọt như mía lùi của Ngọc Hậu thế là ngoan ngoãn làm dàn “diễn viên” bất đắc dĩ.

Độc giả có thể xem “tác phẩm” của Ngọc Hậu từ đầu đến cuối về hoàn cảnh các em Ngọc Hậu đều nhắc đi nhắc lại những “manh mối” có được từ những người không tên, không tuổi trong vai trò “hàng xóm”, lặp đi lặp lại những manh mối “những người hàng xóm nói…”, “nhiều người hàng xóm cho biết…”, “một người hàng xóm nói…”, “một người ở gần nhà cho biết…”,… mà tay phóng viên này tự nghĩ ra mà không hề đưa các tình tiết đã tìm hiểu được về hoàn cảnh thật sự của gia đình, cuộc sống hàng ngày của các em thông qua chính quyền, cơ quan đoàn thể địa phương. Một “kịch bản hoàn hảo”, nâng mức đau thương xé lòng đến cùng cực được phóng viên báo Tuổi trẻ Ngọc Hậu dựng lên về 5 đứa trẻ phải tự cưu mang nhau bằng cái nghề “bắt bọ cạp”… với vô số tình tiết vô lý mà đa số độc giả với tâm lý người Việt Nam khi đã động lòng trắc ẩn, đã bị báo Tuổi trẻ lừa một cách ngoạn mục.
Bài phóng sự trên báo Tuổi trẻ số ra ngày 1/12/2013 đem lại "doanh số từ thiện" cho báo Tuổi trẻ hơn 2 tỉ đồng

Một sự thật khác mà ngay cả BBT báo Tuổi trẻ cũng không biết (?!), Cũng như nhiều phóng viên của báo Tuổi trẻ, Lâm Ngọc Hậu còn có bút danh khác là Lê Phong (Dòng đời) để “thâm canh” kiếm thêm nhuận bút cho một số tờ báo khác (như Vũ Toàn Trưởng đại diện báo Tuổi trẻ tại Nghệ An). Sau khi làm xong phóng sự về 5 đứa trẻ cho tờ Tuổi trẻ, Ngọc Hậu còn lặn lội quay trở lại để chụp thêm vài tấm ảnh với bố cục khác. Vẫn cùng một nội dung đó, Ngọc Hậu thêm chút ít gia vị để biến thành bài “Cuộc sống khốn cùng của 5 đứa trẻ săn tìm bọ cạp mưu sinh” để hơn 1 tháng sau đăng trên báo Dân Việt.

Không như nhiều lần thành công khác, bài phóng sự lấy nước mắt độc giả lần này Ngọc Hậu đã dùng quá nhiều “thủ pháp” đến mức chính quyền đoàn thể địa phương phải lên tiếng. Sự thật là đây, liên hệ với bà Lương Thanh Kỳ (chủ tịch Hội chữ thập đỏ huyện Định Quán, điện thoại: 0917634979), bà cho biết: “Toàn bộ thông tin mà báo Tuổi trẻ đưa về trường hợp đáng thương của năm anh em mồ côi cha mẹ, đi bắt bò cạp sống qua ngày là hoàn toàn sai sự thật!”. Bà nói rõ:

- “Sự thật không như báo Tuổi trẻ đã nói, thật ra 5 đứa nó vẫn có cha mẹ đầy đủ chứ không bị mất tích hay bỏ rơi gì cả. Có một thời gian, ba của những đứa trẻ vi phạm pháp luật nên trốn tránh và mẹ chúng đi làm xa nên có gửi chúng cho các anh chị em ruột của mình chăm sóc (cô, dì, chú, bác bên ngoại của 5 đứa trẻ). Hôm các phóng viên đến có lẽ là họ đi đâu đó rồi chứ sự thật không như bài báo đã nói” (bà Lương Thanh Kỳ không biết rằng vì phóng viên báo tuổi trẻ ranh ma cố tình chọn thời điểm không người lớn đi làm mưu sinh để dễ bề tác nghiệp phục vụ cho mưu đồ kiếm tiền từ thiện của bạn đọc).

- Về nhân thân và tình cảnh cha mẹ cũng như cuộc sống vất vả của 5 đứa trẻ, bà nói: “Nói thẳng ra, đây là gia đình ham chơi hơn ham làm nên chuyện kinh tế gặp khó khăn là vấn đề thấy trước mặt. Chị Phượng (mẹ ruột của 5 anh em đề cập trong bài) thường đi làm xa và gửi gắm các con cho nhà ngoại, các cô dì (anh chị của chị Phượng) trông coi giúp. Bọn trẻ đi bắt bò cạp không phải để mua cơm mua gạo chi hết. Chúng bị nghiện game online nên tự đi bắt bò cạp, kiếm tiền chơi game ở trên mạng thôi. Điển hình là có hôm, sau giờ làm việc chính tôi đã đến nhà quan sát tình hình để lấy thông tin bổ sung hồ sơ gia đình nghèo cho các cháu, thì các cháu đi chơi game từ 4h30 chiều đến tận tối vẫn chưa về. Ngoài ra, địa phương cũng có hỗ trợ gạo, thức ăn cho các hộ khó khăn và cũng quan tâm đến các em đầy đủ chứ không phải bỏ mặc như thông tin báo Tuổi trẻ đã nói

- Khi được hỏi về sự xác nhận của ông Lê Văn Tư, chủ tịch Hội khuyến học xã Phú Tân trong bài báo. Bà Kỳ cũng chia sẻ: “Anh Tư vừa bị kiểm điểm vì việc này. Bản thân tôi cũng bị cấp trên gọi lên họp khẩn cấp. Thật ra anh Tư cũng chỉ muốn giúp bọn nhỏ thêm cái ăn cái mặc nhưng cái sai của anh là cung cấp thông tin không chính xác dẫn đến hậu quả nghiêm trọng là rất nhiều người hảo tâm gửi tiền về giúp đỡ, nhưng không hề biết được sự thật là mình đã bị báo Tuổi trẻ lừa”.

Bà Lương Thanh Kỳ (điện thoại: 0917634979): “Toàn bộ thông tin mà báo Tuổi trẻ đưa về trường hợp đáng thương của năm anh em mồ côi cha mẹ, đi bắt bò cạp sống qua ngày là hoàn toàn sai sự thật!”

Trong cuộc sống còn nhiều những mảnh đời bất hạnh, cần được trợ giúp của xã hội, nhưng cách mà báo Tuổi trẻ nhiều lần dựng chuyện, lừa dối bạn đọc một cách vô đạo đức để làm phồng thêm ngân sách “từ thiện” của tờ báo này rồi lấy tiền gửi ngân hàng nhằm kiếm chác riêng là điều không thể chấp nhận. 

© Người Trong Cuộc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét