Trần Quốc Vượng - Nước ta không cần chữ "Đấu", mà cần chữ "Hòa": HÒA BÌNH, HÒA HỢP, HÒA THUẬN, HÒA GIẢI
Trần Quốc Vượng
Theo blog Nguyễn Hồng Kiên
Tạm bỏ qua một bên mọi sự "giải thích", nào đổ tội cho phong kiến đế quốc, thực dân, bành trướng, thiên tai, địch họa, chiến tranh, cách mạng; nào viện dẫn sai lầm chủ quan của những người cầm nắm vận mệnh quốc gia mấy chục năm qua, v.v... tình trạng ấy là không bình thường, gây nên một bức xúc tâm lý, một nỗi đau thân thể, một nhức nhối thân xác và tâm linh, buộc KẺ SĨ và NGƯỜI DÂN, vừa gian khổ kiếm sống, vừa suy nghĩ đêm ngày, tìm cách khắc phục và vượt qua tình trạng tủi nhục này...
Có ĐỘC LẬP rồi chăng, nhưng hoạ LỆ THUỘC vẫn luôn luôn mai phục, cả về mô hình chính trị và sự phát triển kinh tế...
Có THỐNG NHẤT rồi chăng, nhưng mầm CHIA RẼ mọc rễ sâu xa, nào Bắc / Nam, nào Cộng sản / không Cộng sản...
Điều chắc chắn, là NHÂN DÂN chưa có HẠNH PHÚC, TỰ DO thực sự.
Với biết bao hệ lụy của một cuộc chiến kéo dài, buộc ràng tới 3 thế hệ người Việt Nam (và rất nhiều quốc gia liên đới), lạ một điều (mà sao lại là lạ nhỉ?), là từ "người thua" đến "kẻ thắng", giờ đây, ai ai cũng mang một mặc cảm hoành đoạt (complexe de frustration), nói nôm na mà MẤT MÁT.
Trước hết là NGƯỜI DÂN THƯỜNG.
Người ra đi hàng triệu, bỏ xác ngoài biển khơi hàng ngàn, vạn, biết bao em gái ta, chị ta, cả mẹ ta nữa... bị kẻ hải tặc khốn kiếp dày vò làm nhục!
Chưa nói đến của cải, ai còn sống thì đều cảm thấy mất quê hương!
Người ở lại, hàng chục triệu nông dân bỗng dưng cảm thấy mất đất, không có quyền tự do hành xử trên "mảnh đất ông bà", trong khuôn viên do chính tay mình tạo dựng; hàng triệu công nhân mất việc, thất nghiệp hay bị kém sử dụng (sous-emploi), sống ngất ngư, lây lất qua ngày...
Trí thức, thì tản mác, bị lãng phí thảm hại, trừ một số rất ít kẻ xu thời (đời nào chẳng có?), người nào cũng cảm thấy mất tự do tư tưởng và sáng tạo.
Một tình trạng như thế, chỉ có lợi cho lũ gian manh. Một cuộc "đổi đời" kỳ cục như thế, mà nếu cứ nhất định muốn gọi nó, muốn gọi đó, là "cách mạng", thì là một cuộc cách mạng đã mất phương hướng. Phương hướng là cái tiêu ngữ trên mỗi đầu trang giấy, từ sau Tháng Tám 1945: ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC.
Cho nên phải nghĩ lại, phải bình tâm mà nghĩ lại, nói theo thời thượng từ giữa thập kỷ 80, là phải ĐỔI MỚI TƯ DUY.
Tư duy là công việc của mỗi CON NGƯỜI, vì về bản chất, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức và vì có tư duy, có ý thức mà được / phải có quyền tự do lựa chọn mô hình hành động, cho chính mình (tự do cá nhân), cho chính cộng đồng mình (nhà mình, làng mình, nước mình...) và phải / được chịu trách nhiệm về chính sự lựa chọn đó.
Tôi rất thân và rất quí Nguyễn Huy Thiệp, hẳn thế, nhưng chính vì thế mà tôi không thể nào đồng ý với anh khi anh trả lời phỏng vấn báo Libération là "Tôi đã sống như một con thú". Con thú làm sao mà biết viết, biết in "Tướng về hưu", "Phẩm tiết"...?
Lẽ tất nhiên là tôi hiểu cái "ý tại ngôn ngoại" của anh: Cái mặt bằng kinh tế xã hội của một Việt Nam hiện nay trên đó "anh phải sống", sự ràng buộc của "cơ chế"? v.v...
Tôi nhớ lại, ngày 12/01/1983, trong buổi họp kỷ niệm 40 năm ra đời "Đề cương Văn hoá Việt Nam", ông Trường Chinh (tác giả chính của cái "Đề cương" đó) đã nói với các "nhà khoa học xã hội" Việt Nam: "Nếu không có một điều kiện tối thiểu về vật chất để sinh sống thì con người có thể trở thành con thú! "
Điều đó chẳng có gì mới lạ, vì bằng kinh nghiệm nghiệm sinh, nhiều nhà trí thức chúng tôi đã nghĩ và nói thế từ lâu. Điều mới và lạ, là cho đến tận lúc ấy, một vị lãnh đạo cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam mới nói ra như thế!
Mà con người, nhất là người trí thức Việt Nam, đâu chỉ đói rét vì miếng cơm manh áo? Đói tự do tư tưởng cũng có thể trở thành con thú!
Vì con thú, như con trâu, con bò, dù có no cỏ thì cũng chỉ biết theo đuôi! Theo đuôi con đầu đàn!
Bao năm qua, có biết bao con người Việt Nam chỉ biết theo đuổi kẻ cầm quyền, hoặc khốn khổ thay, là chỉ được theo đuôi người lãnh đạo và lại được "khen" là "có ý thức tổ chức, kỷ luật" và vì vậy được vào Đảng, được "đề bạt" làm kẻ "cầm quyền" bậc sơ trung cấp, để, nói cho cùng, cũng chỉ thành kẻ "chấp hành", "thừa hành", nhưng có được chút "quyền": Dối trên và nịnh trên, lừa dưới và nạt dưới!
Tôi nhớ lại, khoảng mười năm trước đây, một người học trò và là bạn trẻ của tôi, trước khi đi Nga làm luận án Phó tiến sĩ sử học, trong buổi "tiệc bia" tiễn biệt thầy trò, bè bạn, đã ngỏ với tôi lời "khuyên" tâm sự: - Nếu như thày mà cũng "đầu hàng cơ chế" nữa là bọn em mất nhờ đấy!
Anh ấy ở Nga 4 năm, về nước với bằng xanh phó tiến sĩ, thẻ đỏ đảng viên và, gia nhập "cơ chế", trở thành "người lãnh đạo" của tôi hôm nay! Tôi chẳng buồn mà cũng chẳng vui. Tôi chọn lựa cho mình một hướng đi: Gia nhập "Câu lạc bộ những người thích đùa". Tôi thường nói đùa như người Hà Nội vẫn thường đùa, anh ấy: - Cậu là đảng viên nhưng mà tốt!,
Câu nói đùa, mà "nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào" và hơn nữa, với câu nói ấy, có thể bị "quy chụp" là "phản động".
Tôi có một anh bạn, phải nói là rất thân, học với nhau từ thuở "hàn vi", lại cũng làm việc dưới một mái trường Đại học trên ba chục năm trường, cùng "leo thang" rất chậm, từ "tập sự trợ lý" đến full professor, chair-department. Anh là con "quan lớn", em của "nguỵ lớn" nhưng "có đức có tài", được chọn làm "hàng mẫu không bán - kiểu như ông Bùi Tín vừa làm ồn ào giới truyền thông một dạo, nhưng khác ông ta là cho đến nay anh không gửi "kiến nghị" kiến nghiếc gì, nói năng với TRÊN, với DUỚI bao giờ cũng "chừng mực", chẳng "theo đuôi" mà cũng chẳng là "dissident" của chế độ.
Anh thường bảo tôi: Thì về cơ bản cũng nghĩ như cậu thôi. Nhưng cậu thông cảm, mỗi người một tính một nết, một hoàn cảnh. Cậu "thành phần tốt", ăn nói táo tợn thì quá lắm người ta chỉ bảo cậu là "bất mãn cá nhân" thôi. Tớ "thành phần xấu", ăn nói bằng 1/10 cậu thôi cũng đủ bị "quy" là "phản ứng giai cấp" rồi!
O.K.! Anh cứ sống kiểu anh, tôi cứ sống kiểu tôi. Chỉ có mỗi một điều thôi, là vì vậy và vì nhiều lý do sâu xa khác nữa, nên nước ta chỉ có những nhà trí thức (intellectuals) chứ không có giới trí thức (intelligentsia).
Vậy thua thiệt thì Dân ráng chịu!
Bi kịch, nỗi bất hạnh của trí thức Việt Nam, của nước Việt Nam là ở đó...
Xem chừng bà con Việt kiều, nhất là anh chị em "trí thức", bực mình với ông lắm.
Tôi là "trí thức" ở trong nước, ở Hà Nội nữa, nghe những lời lẽ ấy "quen tai" rồi. Cũng ông ấy, lúc còn làm "Bí thư thành uỷ" Hà Nội, khi thấy báo "Quân Đội Nhân Dân" 1987 công bố "Bức thư ngỏ gửi ông chủ tịch thành phố Hà Nội" của tôi, nói về việc "Phá hoại các di tích lịch sử của Thủ đô" đã cho triệu tôi lên trụ sở Thành uỷ và "thân mật" bảo ban 2 điều:
- Nếu anh là công nhân, anh nói (nôm na, tục tằn) kiểu đó tôi còn hiểu được, đằng này anh là giáo sư, là trí thức, sao lại nói (nôm na, "toạc móng heo, treo móng giò") kiểu đó?
- Nếu anh nói thế, "tôi" thì "tôi" nghe được, nhưng những "người khác", họ không nghe được! Từ nay anh nên "thay đổi" cái "giọng nói" của anh đi!
Tôi cũng "trả lại ông" 2 điều:
- Đảng bảo: "Trí thức là của Công Nông và cũng là Công Nông", vậy nếu công nhân - theo ông - nói được như vậy thì trí thức cũng nói được như vậy. Có gì (theo ông) là khác nhau giữa giọng "trí thức" và giọng "công nhân"?
- Ông không khác gì người khác. Nếu theo ông, ông "nghe được" vậy thì người khác cũng phải nghe được. Vậy tôi chả việc gì phải "đổi giọng" cả!
Thực ra, tôi biết thừa cái "giọng tôi" chính ông nghe không được nên ông mới "góp ý" cho tôi, nhưng ông lại cố tình đổ cho là người khác nghe không được. Hơn nữa ông lại cố tách "tôi" ra khỏi công nhân, "đề cao" tôi là "trí thức", để chỉ cốt răn dạy tôi: Với vị thế của anh, anh không được ăn nói với chúng tôi (những nhà lãnh đạo) bằng cái giọng như vậy!
Bà xã tôi lúc ấy còn sống và là giáo viên trường Trung học Trưng Vương nổi danh ở Hà Nội - nghe tin tôi được / bị phải gọi lên thành uỷ, lấy làm lo lắng lắm, bảo tôi ("giọng" bà ấy bao giờ cũng vậy, con gái nhà "tư sản Hà Nội" mà): - Anh lên đấy, liệu mà ăn mà nói! Anh có sao, chỉ khổ vợ con! Chùa Một Cột có bị phá để làm Bảo tàng Lăng Bác, nếu có hại thì hại cả nước, đâu dính gì đến riêng anh mà anh cứ "la làng" lên, một con én chẳng làm nổi mùa xuân, "ăn cái giải gì" mà cứ nói, chỉ khổ vào thân; có cái giấy Úc mời sang kỷ niệm 200 năm nước "nó" đấy, khéo các "bố" ấy lại không cho đi, vợ con lại mất nhờ.
Ôi, làm "thằng người Việt Nam", làm "trí thức Việt Nam" biết bao là "hệ luỵ".
Khổ vậy đó, Cho nên giáo sư Alexander Woodside, từ góc trời tây bắc của xứ tuyết Canada mới hạ một câu về cách mạng Việt Nam: "The spiritual and cultural milieu from which the vietnamese revolution sprang was both confucian and comunist" (Cái môi trường tâm linh và văn hoá mà từ đấy cách mạng Việt Nam phóng tới là cả Khổng Nho và Cộng sản).
Ông đi làm chuyên gia ở Tây Phi, thương một người con gái Hà Nội nhà nghèo vì chiến tranh mà lưu lạc mãi sang tận bờ sông Niger. Ông quyết đưa người phụ nữ bất hạnh đó trở về Tổ quốc chỉ bằng cách kết hôn với nhau, dù ông biết trước rằng hành động dấn thân ấy ông sẽ phải về nước trước thời hạn.
Và cho đến 25 năm sau, ông không bao giờ được ra nước ngoài, dù ông, không có bất cứ một hành vi gì phạm pháp. Cái án được phán quyết không theo "Luật hôn nhân và gia đình" của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành năm 1960, mà là theo đạo lý hủ Nho.
Về nước năm 1965, qua ngã Moscow, ông dừng chân ở đó 5 ngày, về Hà Nội gặp tôi ở quán cà phê Sính, ông rỉ tai tôi: "Chế độ Xô Viết không thể nào viable" (nguyên văn có nghĩa: không thể "thọ" được).
Đấy là lời tiên tri đúng trước 1/4 thế kỷ!
Vì sao NƯỚC và ĐẢNG có những người trí thức giỏi đến thế mà bây giờ cả NƯỚC, cả ĐẢNG đều lâm vào tình huống "khủng hoảng toàn diện"?
Từ năm 1965, cứ mỗi lần nghe thấy lời khuyến dụ tôi vào Đảng, ông lại bảo tôi: - Tùy ông đấy, nhưng... nếu ông có vào thì đừng để người ta đuổi ông ra! Ông biết kỷ luật của Đảng ông là "kỷ luật sắt" mà tôi thì ông cũng biết quá rõ tôi là người "tự do", tính ưa phóng khoáng, là người "bất cơ" (không chịu ràng buộc) theo chữ dùng để đánh giá mình của nhà sử gia họ Tư Mã bên Tàu!
Tôi hỏi ý kiến ông về tính chất Cách mạng Việt Nam. Ông trả lời: Cụ Hồ bảo nước mình là một nước nông nghiệp, dân tộc mình là một dân tộc nông dân. Cứ đấy mà suy, thì cuộc "Cách mạng" bây giờ hẳn vẫn là một cuộc khởi nghĩa nông dân.
Khác chăng là trước, khởi nghĩa nông dân do một số nhà nho xuất thân nông dân như Quận He, như Cao Bá Quát cầm đầu, bây giờ là do những người cộng sản cũng xuất thân ở nông thôn và có căn tính nhà nho, như cụ Hồ, như ông Trường Chinh... lãnh đạo. Ông đọc bài ông Nguyễn Khắc Viện rồi chứ, "Confucianisme et Marxisme" (La Pensée, No 105, Octobre 1962). Ông Viện là cộng sản và là con cụ nghè Nguyễn Khắc Niệm đấy!
Đầu thế kỷ XX, trong xã hội yêu nước vẫn âm ỉ một chủ nghĩa yêu nước xóm làng (village patriotism, chữ của Alexander Woodside). Yêu nước chống Pháp kiểu Nho của cụ Phan Bội Châu thất bại ở 2 thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Và dòng trí thức Nho gia tàn lụi.
Một số con cháu nhà Nho, một số con cháu nông dân, một số con cháu nhà công thương mới trở thành lớp trí thức Tây học. Một số ấy chấp nhận le fait colonial và trở thành công chức cho Tây, như ông cụ ông là kỹ sư canh nông, như ông cụ tôi là bác sĩ...
Một số khác, yêu nước hơn, mong áp dụng ở Việt Nam những lý tưởng Mác-Lê thế kỷ XIX. Cái chủ nghĩa quốc gia của kiểu tư sản mà ông Nguyễn Thái Học, ông Xứ Nhu, kể cả cậu ruột ông đã khởi xướng ở Việt Nam Quốc dân đảng thì đã bị thực dân vùi dập khủng bố tan hoang từ thập kỷ 30. Còn lại cái chủ nghĩa quốc tế của Mác-Lê mà Nguyễn Ái Quốc và những nhà cộng sản mang về áp dụng vào một xã hội nông dân châu Á nghèo khổ, khác hẳn cơ địa xã hội tư sản Tây Âu, nơi hình thành chủ nghĩa Marxisme. Người cộng sản Việt Nam có căn tính nông dân - Nho giáo đã gần Dân hơn người tiểu tư sản Tây học ở thành thị. Họ đã vận động và tổ chức được phong trào nông dân và toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật, làm cách mạng tháng Tám thành công. Kháng chiến là sự nối dài của Cách mạng tháng Tám.
Kháng chiến đã thắng lợi. Chủ nghĩa thực dân phương Tây đã bị hóa giải.
Ở đầu thập kỷ 20, trong một bài viết, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cái chủ nghĩa ĐẠI ĐỒNG của Khổng Nho ấy rất gần với chủ nghĩa Cộng sản.
Alexander Woodside nhận xét: Ông Mao phê phán rất dữ dằn Khổng Nho còn ông Hồ rất nhẹ nhàng với Nho Khổng.
Xây "đời sống mới" năm 1946, ông Hồ nêu khẩu hiệu của Nho Khổng: CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH CHÍ CÔNG VÔ TƯ. Dạy đạo đức cho cán bộ, ông Hồ lấy câu Nho Tống: "Tiên ưu hậu lạc". Về giáo dục xã hội, ông cũng dùng câu có sẵn của Khổng Mạnh, đại loại như "Bất hoạn bần nhi hoạn bất quân..." (Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng...) hay là "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người", v.v... và v.v...
Đến di chúc, ông cũng đưa vào một câu trích dẫn của Đỗ Phủ đời Đường: "Nhân sinh thất thập cổ lai hy". Thơ chữ Hán của ông, có nhiều câu, ý phỏng theo Đường thi...
Nhưng cái mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Stalin hay kiểu Mao (Staline Mao hoá) dù đã ít nhiều Hồ hoá, Việt Nam hoá cũng tỏ ra không thành công trước thực tiễn "bướng bỉnh" của một nước Việt Nam nhỏ bé - tiểu nông.
Người Cộng sản Việt Nam đã lầm khi tưởng rằng dù với cơ cấu kỹ thuật cũ, ít thay đổi, cứ làm đại việc công hữu hoá (quốc hữu hoá, tập thể hoá, hợp tác hoá...) thì vẫn xoá bỏ được áp bức bóc lột, cải tạo xã hổi chủ nghĩa thành công. Hoá ra là một công thức đơn giản hơn:
CÔNG HỮU HOÁ + CHUYÊN CHÍNH (VÔ SẢN) = (QUÁ ĐỘ sang) CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Tôi và ông Từ Chi bàn mãi về chuyện này. Sau thời công xã nguyên thuỷ, chế độ áp bức bóc lột đầu tiên nảy sinh ở đất Việt với chế độ "thủ lĩnh địa phương", lang đạo, phìa tạo (tiếng Anh tạm dịch là local chieftains) khi ruộng đất còn gần như y nguyên là "của công", nhưng "dân đen" là tiểu nông tản mạn, còn thủ lĩnh giữ quyền "thế tập" theo dòng máu.
Dân gian nói giản dị:
Trống làng ai đánh thì thùng
Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng!
Thì giờ đây, ruộng hợp tác, của kho hợp tác, bọn bí thư, chủ nhiệm, kiểm soát đều ở trong một cơ sở Đảng chuyên chính, chúng sẽ "vẫy vùng" thành riêng thôi!
Ba năm liền từ 1976 đến 1979, tôi đi Định Công (Thanh Hoá), ngày- khảo cổ, đêm- khảo kim. Và 3 ngày liền cuối năm 79, tôi thuyết trình trước Tỉnh ủy Thanh Hóa về sự phá sản của mô hình làng Định Công (người ta tuyên bố "Định Công hóa" toàn tỉnh Thanh Hóa, với bài báo tràng giang "Bài học Định Công" của Bí thư Trung ương Tố Hữu). Thính giả cứ bỏ dần trước sự "vắng mặt" của Bí thư, Phó bí thư Tỉnh uỷ (người ta phải "nhìn Trên" để định thế ứng xử). Còn một ông thường vụ phụ trách tuyên huấn kiên trì nghe 3 ngày, để sau này khi Định Công phá sản hoàn toàn, đã khoa trương tuyên bố, chứng tỏ ta đây sáng suốt hơn các nhà lãnh đạo khác:
- "Lúc bấy giờ (79), ai dám nghe Trần Quốc Vượng nói, ngoài tôi?" (ông ấy bây giờ là Bí thư Đảng uỷ Bộ Văn hoá - Thông tin).
Năm 1982 tôi đi Liên Xô thuyết trình khoa học. Bài viết của tôi bằng tiếng Việt, Dương Tường dịch sang tiếng Anh, Từ Chi dịch sang tiếng Pháp, bà Nona Nguyễn Tài Cẩn dịch sang tiếng Nga. Bà Nona bảo: Bài của anh hay lắm, nhưng thuyết trình ở Paris thì hợp hơn, nói với trí thức nước tôi (Liên Xô), họ không hoan nghênh đâu! Mà quả nhiên!
Về nước, tôi briefing cho bạn bè nghe về Liên Xô và nói lén qua hơi men: "Dứt khoát hỏng!" Và đấy là lần duy nhất tôi "được" đi Liên Xô. Đầu năm 1983, giáo sư Phạm Huy Thông cho đăng bài của tôi lên trang đầu Tập san Khảo cổ học. Đảng uỷ Uỷ ban Khoa học Xã hội viết bản báo cáo dài lên ban Tuyên huấn Trung ương quy kết tôi 4 tội:
- Chống chủ nghĩa Mác-Lê: vì tôi bảo: Công hữu hoá có thể đẻ ra bóc lột.
- Chống công nghiệp hoá: vì tôi bảo: Nông nghiệp phải / còn là mặt trận sản xuất hàng đầu.
- Chống đấu tranh giai cấp: vì tôi bảo: Nông dân khởi nghĩa (ngay cả ăn cướp) cũng không đánh vào người làng, mà chủ yếu đi cướp nơi khác và đánh vào Quan.
- Chống chuyên chính vô sản: vì tôi bảo: Chuyên quyền đẻ ra tham nhũng.
Vụ án "văn tự" này kéo dài 3 năm, không có kết luận. Ba năm tôi được "ngồi nhà", khỏi đi Tây và nói tiếng Tây! Cuối năm 1986, khi Đại hội VI đảng Cộng sản Việt Nam kết luận lại trong nghị quyết là Nông nghiệp là "mặt trận hàng đầu", giáo sư Phạm mỉa mai ở trụ sở Uỷ ban Khoa học Xã hội: Thế bây giờ Đảng uỷ đúng hay Trần Quốc Vượng đúng?
Nhưng "nỗi ám ảnh của quá khứ" vẫn không tha người làm Sử như tôi (mà nói theo nhà Phật thì kiếp này còn là "quả" của kiếp trước kia mà). Năm 1985, nhân năm "quốc tế người già", ông Nguyễn Hữu Thọ nhờ người nói tôi viết bài "Truyền thống người già Việt Nam". Báo Đại Đoàn Kết của ông không "đoàn kết" nổi bài của tôi, tôi nhờ báo Tổ Quốc của ông Nguyễn Xiển đăng dùm. Rồi năm 1986 có hội Khoẻ Phù Đổng của đoàn Thanh Niên, ông Bí thư Thanh Niên nhờ tôi viết bài "Phù Đổng khoẻ". Mùa hè nóng bỏng 86, trước Đại hội VI 5 tháng, ông Bí thư Trung ương Đảng phụ trách tư tưởng H.T. đem hai bài của tôi ra "chửi bới" giữa Hội nghị mở rộng Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam, đề bạt Nguyễn Khắc Viện, Trần Quốc Vượng, Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng là 4 trí thức chống đối.
Ông Giàu, thầy học cũ của tôi, đâm thư kiện. Ông H.T. biên thư trả lời (tôi còn giữ làm "chứng từ thanh toán") bảo: Tôi không động đến anh, tôi chỉ động đến Trần Quốc Vượng, vì anh ta viết "Các vua Trần nhường ngôi" ám chỉ đòi chúng tôi rút lui, và viết "Thánh Gióng bay lên trời" ám thị chúng tôi đánh giặc xong còn cứ ngồi lại giành quyền vị...!
Khốn khổ, vì sao các ông ấy cứ "mỗi lời là một vận vào khó nghe" như vậy? Hay là tại dân gian "nói cạnh" các cụ: Có tật giật mình?
Ở trong NHÀ thì có thỏi GIA TRƯỞNG, tuy tâm niệm "con hơn cha là nhà có phúc" mà vẫn không thích "ngựa non háu đá", "trứng khôn hơn vịt".
Ở trong LÀNG thì có nạn CƯỜNG HÀO, với tinh thần ngôi thứ, chiếu trên, chiếu dưới, "miếng giữa làng hơn sàng xó bếp".
Ở trong VÙNG thì có nạn SỨ QUÂN, thủ lĩnh vùng thích "nghênh ngang một cõi", gặp dịp là sẵn sàng "rạch đôi sơn hà".
Ở cả NƯỚC thì có nạn QUAN LIÊU, quan tham nhũng, tân quan tân chính sách, luật không bằng lệ, kiện thì cứ kiện nhưng "chờ được vạ má đã sưng", nên chỉ cứng đầu thì dại, "không ngoan" nhất là "luồn cúi". Và trí thức "lớn" thì cũng tự an ủi "gặp thời thế thế thời phải thế".
Vì ngoài thì "bế môn toả cảng", trong thì "chuyên quyền độc đoán", cho nên sĩ khí ắt phải bạc nhược.
Thế giới giờ đây thay đổi đã nhiều. Song, trong nước mình thì chưa đổi được bao nhiêu. "Nỗi ám ảnh của Quá khứ" vẫn còn đè nặng.
Tóm một chữ thì không phải là chữ "ĐẤU" mà là chữ "HÒA": HÒA BÌNH, HÒA HỢP, HÒA THUẬN, HÒA GIẢI...
Chẳng những NHÂN HÒA mà cả NHIÊN HÒA (hoà hợp với thiên nhiên, tự nhiên)
"Hoà nhi bất đồng"... mong lắm thay!
Cornell 01/5/1991
Trích: NỖI ÁM ẢNH CỦA QUÁ KHỨ (Trong Cõi - Bài số 17, nxb Trăm Hoa, New York 1993, trang 272-282)
Hiến Pháp 2013, một văn bản vô giá trị (Việt Hoàng)
Việt Hoàng
“…Tuy
nhiên, qua sự kiện này, tôi cho rằng đảng cộng sản Việt Nam đã thành
thật hơn với bản thân mình. Họ ít nhất cũng đã dám chuyển tải một thông
điệp rất rõ ràng đến người dân Việt Nam và đặc biệt là với trí thức Việt
Nam rằng: “Chúng tao là thế đó, chúng mày làm gì được chúng tao”!...”
Đúng
như dư luận Việt Nam dự đoán, Hiến Pháp 1992 (sửa đổi) đã được tuyệt
đại đa số các đại biểu quốc hội bấm nút nhất trí thông qua trong một
ngày “lịch sử” với 97,59% số đại biểu tán thành, ngày 28/11/2013. Có ý
kiến cho rằng chưa chắc bản Hiến Pháp 2013 sẽ được thông qua vì rằng:
Nếu quyền lực từ nay trở đi chỉ thuộc về một người duy nhất là “chủ tịch
nước” thì cán cân cân bằng giữa các nhóm lợi ích tại Việt Nam, mà bốn
nhóm lợi ích lớn nhất do “tứ trụ triều đình” đang nắm giữ sẽ bị phá vỡ.
Thứ hai, nếu không như thế thì có nghĩa là người giữ chức vụ “chủ tịch
nước” trong tương lai sẽ là người do Bắc Kinh lựa chọn. Điều này có
nghĩa là Việt Nam đã mất chủ quyền hoàn toàn về tay Trung Quốc.
Thật
lòng mà nói, tôi tin rằng bản Hiến Pháp 2013 sẽ được thông qua một cách
dễ dàng. Vì nhìn thấy nguy cơ xâu xé bạo loạn có thể xảy ra sau này,
con người có chút lương tri không nghĩ rằng đảng cộng sản Việt nam có
thể làm những điều tệ hại đến như vậy. Với tôi và những người đã sống
dưới chế độ này thì tất cả đều hiểu rằng không có gì mà đảng cộng sản
không dám làm, miễn là duy trì được sự cầm quyền vô thời hạn cho họ.
Tuy
nhiên, qua sự kiện này, tôi cho rằng đảng cộng sản Việt Nam đã thành
thật hơn với bản thân mình. Họ ít nhất cũng đã dám chuyển tải một thông
điệp rất rõ ràng đến người dân Việt Nam và đặc biệt là với trí thức Việt
Nam rằng: “Chúng tao là thế đó, chúng mày làm gì được chúng tao”! Nếu
tôi là ông Nguyễn Phú Trọng thì trong bản sửa đổi Hiến Pháp lần này tôi
sẽ công nhận tất cả những gì mà giới bất đồng chính kiến Việt Nam yêu
cầu, ví dụ: Đa Đảng, tam quyền phân lập, tự do báo chí, tự do ngôn luận,
tự do bầu cử, tự do cho xã hội dân sự.v.v. Chỉ cần thêm một câu “theo
qui định của pháp luật” là đủ.
Nhiều
người Việt Nam cho rằng bản Hiến Pháp năm 1946 là “chuẩn nhất” và các
lần sửa đổi Hiến Pháp sau này ( 5 lần) là không theo kịp “tinh thần” của
bản Hiến Pháp năm 1946? Theo tôi thì đây là “những người thích đùa”.
Bản Hiến Pháp 1946 ra đời khi Việt Nam vừa mới giành được độc lập và
chính phủ khi đó là một chính phủ đa đảng với sự góp mặt của các đảng
đối lập như Việt Quốc (Việt Nam Quốc Dân Đảng) và Việt Cách (Việt Nam
Cách mệnh Đồng minh Hội). Trong “chính phủ Liên hiệp” này thì hai đảng
đối lập lớn nhất là Việt Quốc và Việt Cách đã dành được 70 ghế trong
Quốc hội và bốn bộ là: Ngoại giao, Kinh tế, Xã hội và Canh nông. Tuy
nhiên sau vụ án do Việt Minh tạo dựng là vụ Ôn Như Hầu thì Việt Minh
(tiền thân của đảng cộng sản Việt Nam) đã xóa sổ và tiêu diệt hoàn toàn
hai đảng đối lập này. Hiến Pháp 1946, với tất cả những lời lẽ tốt đẹp
cũng đã mất hết tác dụng từ đó.
Không
chỉ với hiến pháp 1946 mà với tất cả những Công Ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia ký kết sau này cũng chỉ là trò ma giáo. Ký cho vui vậy thôi
chứ có bao giờ họ thực thi theo những gì đã cam kết đâu? Ví dụ như bản
Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền. Đây là một văn bản quan trọng, là “tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người”
được Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10/12/1948 tại Paris,
Pháp với 30 điều. Trong điều khoản cuối cùng của bản Tuyên ngôn có viết "Không
được phép diễn giải bất kỳ điều khoản nào trong Bản tuyên ngôn này theo
hướng ngầm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hay cá nhân nào được
quyền tham gia vào bất kỳ hoạt động nào hay thực hiện bất kỳ hành vi nào
nhằm phá hoạibất kỳ quyền và tự do nào nêu trong Bản tuyên ngôn này".
Đảng cộng sản Việt Nam luôn đưa ra chiêu bài là “không được can thiệp
vào công việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền” để tránh né thực thi
các điều khoản đã ký kết trong Công ước quốc tế này.
Hiến Pháp 1946 cũng vậy, nó có đầy đủ các tiêu chuẩn của một nhà nước dân chủ và pháp quyền như điều 69: “Công
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin;
có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật…” Thế nhưng đã 68 năm trôi qua các quyền cơ bản của người dân Việt Nam như quyền “tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền hội họp, lập hội, biểu tình…” vẫn chưa được thực thi vì “quy định của pháp luật” vẫn chưa có.
Giả
sử bây giờ quốc hội Việt Nam có sửa đổi Hiến pháp 2013 thành Hiếp pháp
1946 thì kết quả cũng không có gì thay đổi. Mọi chuyện vẫn cứ “vũ như
cẩn”. Ông Nguyễn Gia Kiểng, vốn là một người rất ôn hòa cũng đã đau đớn
thốt lên rằng “Đảng cộng sản tuyên chiến với dân tộc và nhục mạ trí
thức”. Thực tình thì 68 năm nay đảng vẫn thế, vẫn cứ nhục mạ trí thức và
tuyên chiến với cả dân tộc Việt Nam mà có ai làm được gì họ đâu?
Có
lẽ đã đến lúc, giới trí thức Việt Nam cần làm một cái gì đó thiết thực
hơn là chuyện viết kiến nghị để khỏi tủi hổ là giới trí thức. Đảng cộng
sản Việt Nam đã quá coi thường người dân và giới trí thức tinh hoa Việt
Nam qua việc khẳng định một cách ngạo mạn rằng họ sẽ là người cai trị
vĩnh viễn đất nước này, bất chấp người dân Việt Nam khổ cực ra sao.
Nói
“không” với bản bản Hiếp Pháp này là điều đương nhiên, tuy thế vẫn chưa
đủ. Giới trí thức tinh hoa Việt Nam cần có một thái độ dứt khoát với
bản hiến pháp hoàn toàn vô giá trị này.
Việt Hoàng
Nắm bắt trúng hay lại bỏ qua?
Một
nhà nước dân chủ tiến bộ, là quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng hệ
thống luật pháp ‘thượng tôn pháp luật’. Các cường quốc về kinh tế, quân
sự, văn hóa cũng đều là cường quốc của nền dân chủ.
Trong ngôn ngữ diễn đạt, bổn phận là điều mà mỗi cá nhân hoặc một tập thể phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình, là quyết định cuối cùng trong lựa chọn và hành động. Bổn phận cũng thường được dùng trong các tình huống mà công việc phải làm theo tính chất đạo lí.
Bổn phận và nhân – quả
Bổn phận cũng là một khía cạnh đặc trưng của đạo đức, quá trình nhận thức của con người về nghĩa vụ phải làm, nhằm bảo vệ những giá trị cuộc sống của bản thân, gia đình, tình bạn, hoặc rộng hơn là các giá trị truyền thống của dân tộc, như lãnh thổ, văn hóa, tâm linh.... Là kết quả giáo dục về nhân cách, đạo đức, từ gia đình, nhà trường và xã hội.
Ngày nay sự hội nhập ngày càng sâu rộng về kinh tế, văn hóa và các hệ tư
tưởng, luôn là thách thức với sự bảo tồn các giá trị truyền thống của
mỗi dân tộc, cho thấy việc giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội,
là yếu tố quyết định tới nhận thức, về bổn phận của mỗi con người.
Đối với mỗi cá nhân, khi đã qua tuổi vị thành niên thì bổn phận đã được diễn đạt bằng một từ khác, đó là ‘trách nhiệm’. Trách nhiệm là thể hiện của lòng tự trọng (-liêm sỉ) của một con người. Như vậy trách nhiệm là một ‘từ ngữ’ nặng nề nhất, mà con người chúng ta, ai cũng phải gánh vác trên người. Nói một người có trách nhiệm, là ý nói rằng; đó là người có ‘liêm sỉ’, có lòng tự trọng, không tranh công, không đổ lỗi.
Trách nhiệm còn là truyền thống, là đạo lý làm người, là niềm vinh quang. Nhưng ngược lại, nó cũng luôn khiến nhiều người sợ hãi, trốn tránh. Bởi vậy nó cũng được khởi đầu bằng tự giác/ tự nhận đến thiết chế/ qui định.
“Quốc gia hưng vong, sĩ phu hữu trách”, là tinh thần tự giác xả thân vì nghĩa lớn, vì quốc gia, dân tộc, là khí phách của các thế hệ con dân nhất là các ‘nhân sĩ, trí thức’ đất Việt. Trong sự thăng trầm của lịch sử dân tộc, là sự hưng thịnh suy vong của các của các triều đại phong kiến, vượt qua sự ấm- lạnh của ‘quan trường’, rất nhiều người đã đi vào sử xanh, bởi nhân dân luôn công bằng, luôn biết tôn vinh những người làm tròn trách nhiệm với hậu thế, với non sông đất nước.
Rất nhiều con dân Đất Việt từ những ‘sĩ phu’ đến người lính áo vải đã chiến đấu, và đã ngã xuống nơi biên giới, nơi hải đảo xa xôi bảo vệ ‘từng tấc đất của ông cha’, và họ mãi mãi đi vào đời sống tâm linh của dân tộc, được nhân dân kính trọng lập đền thờ, được lịch sử ‘lưu danh’ trở thành tấm gương sáng cho hậu thế học tập và noi theo.
Ngược lại những kẻ quyền cao chức trọng, đắc ý một thời nhưng làm nhiều việc ác, xuất phát từ những tâm địa đen tối, lịch sử cũng ghi nhận bằng luật đời; luật nhân – quả, mà nói theo cách dân gian “ đời có vay có trả” “ đời cha ăn mặn, đời con khát nước”.
Những người này thường bị dân chúng trừng phạt và sỉ nhục. Có rất nhiều kẻ gian ác từ trong dân gian, đến những việc hại dân, hại nước, khi bị dân chúng nổi giận, giết chết, thân xác bị bêu rếu để làm gương. Sự trừng phạt của dân chúng còn kéo dài, tới đời con, cháu, của kẻ gian ác, tất cả đều được người dân ghi nhớ, truyền miệng và nguyền rủa cho tới tận bây giờ.
...Trách nhiệm trong thiết chế
Ngay trong chế độ quân chủ, trách nhiệm cũng đã được thiết chế - luật vua, phép nước. Quan án sát ở địa phương, đã được nhà vua ‘ban’ cho gươm ‘tiền trảm, hậu tấu’. Nhưng nếu lạm sát người vô tội thì đó cũng lại là lưỡi gươm ‘tự xử’. Đại tướng cầm quân ra trận có thể bất tuân lệnh vua; nhưng ‘quân thua, chém tướng’, cùng với ‘đại ân’ của vua là trách nhiệm đối với sinh mạng của binh sĩ, với sự hưng vong của đất nước.
Tiến bộ của một thể chế dân chủ, là quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng hệ thống luật pháp. Bắt đầu là việc xây dựng bản hiến pháp, đó là bộ luật gốc, từ đó các bộ luật khác cũng được xây dựng trên cở của hiến pháp (cành – nhánh). Trong đó về cơ bản, mọi thành viên trong một xã hội kết nối với nhau bằng những mối quan hệ, đó chính là trách nhiệm.
Tuy nhiên trách nhiệm cũng được hiểu khác nhau ở các nền văn minh, nhưng một điều chắc chắn: Trách nhiệm là một từ không thể thiếu vắng trong bất kỳ bộ luật nào của các nhà nước dân chủ.
Một hệ thống luật- pháp khoa học là khi nhìn vào nó mỗi một cá nhân trong hệ thống chính quyền, luôn thấy rõ quyền hạn và trách nhiệm (nghĩa vụ-công-tội) của mỗi cá nhân, nhất là trong điều hành quản lý xã hội.
Những tháng ngày cuối năm nay, với bầu không khí như thường niên là ngành ngành, nhà nhà “ nô nức” vinh danh, ghi nhận công lao, thành tích cho các cá nhân, tập thể, bằng các danh hiệu, giải thưởng ‘tiên tiến’, ‘xuất sắc’, ‘ưu tú’, ‘trong sạch, vững mạnh’... Nhưng, sau vụ việc thẩm mỹ viện Cát Tường ‘ mang tính cá biệt, bất ngờ, bất thường’, lại cho thấy rõ hơn một thực tiễn rất chua chát của nền hành chính nước ta.
Bởi
sau tất cả các cuộc họp của các cấp chính quyền, không có quan chức nào
tự nhận trách nhiệm (tội) về mình trong quản lý, cũng không qui (xác
định) được cá nhân nào là người phải chịu trách nhiệm trong quản lý. Nó
hoàn toàn trái ngược với việc xác định trách nhiệm (công) sẽ rất nhiều
người tự nhận.
Có những vấn nạn được xác định là quốc nạn, đe dọa tới sự tồn vong của chế độ như tham nhũng, không hề mang tính cá biệt, bất ngờ, bất thường, và đã có cả một bộ luật riêng biệt phòng chống quốc nạn này. Việc giám sát thực hiện pháp luật nói chung, tham nhũng nói riêng có trong rất nhiều luật, thậm chí quy định này cũng có trong cả điều lệ, của các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội. Nhưng trong thực tiễn, công tác chống tham nhũng được đánh giá là không hiệu quả. Tham nhũng vẫn được nhận định là phát triển ngày càng tinh vi hơn.
Ngược lại chỉ có “cá biệt, bất ngờ, bất thường”, khi xét xử án tham nhũng gần đây. Nếu không kể tới vụ Vina khủng, ‘có tỉnh hai năm xử chín bị cáo thì tám bị cáo là án treo’. (http://m.vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/150357/xu-9-nguoi-toi-tham-nhung-thi-8-huong-an-treo.html). Thậm chí cá biệt, bất ngờ, bất thường hơn như vụ án tham nhũng tại Viện Nội tiết Trung ương, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Xuyên còn ký văn bản gửi cơ quan công an ‘xin tội’ cho các bị can (http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Bo-Y-te-xin-toi-cho-cac-bi-can-nhu-the-nao/313074.gd).
Vụ việc ‘khuất tất về tài chính ở Bệnh viện đa khoa thành phố Bắc Giang - dùng hơn 1,5 tỉ đồng tiền của nhà nước chi bù đắp cho sai phạm của một số cá nhân? Và câu nói của ông Nguyễn Văn Chiến – Chánh Thanh tra Sở Y tế Bắc Giang khi trả lời phóng viên: “Bây giờ nó là như thế! Hỏi tôi tôi biết hỏi ai?” có thể xếp vào hàng “danh ngôn vô trách nhiệm” hay không(?!). Chưa rõ vụ việc này có bị “chìm xuồng” hay không? Nhưng Sở Y tế Bắc Giang đã điều đề bạt, bổ nhiệm giám đốc của bệnh viện này lên vị trí khác.
Chỉ có số phận của những người đã dấn thân trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, là không còn cá biệt, bất ngờ, bất thường. Nó (số phận của họ) đã được đúc kết trong câu thành ngữ mới ‘đấu tranh- tránh đâu’, lan truyền trong dân gian, trở thành “tôn chỉ” cho cuộc sống nhiều người ‘dĩ hòa, vi quý’.
Bởi giờ đây, tham nhũng đã có tên gọi khác cũng khá “hợp pháp” đó là ‘lợi ích nhóm’ nhưng thực chất là các ‘băng nhóm’ tội phạm tham nhũng. Nhiều người dấn thân chống tham nhũng, cũng đã phải hứng chịu ‘đòn thù’ của các băng nhóm này. Như mới đây là vụ việc dược sĩ Trần Thị Kiều Oanh - ‘sau vinh danh là đổi việc'.
Phòng chống tham nhũng là trách nhiệm của toàn dân, nhưng không phòng chống được tham nhũng, để quốc nạn này vẫn tồn tại, phát triển thì không thể tìm được ai là người phải chịu trách nhiệm, và phải phải chịu trách nhiệm như thế nào còn ... chưa rõ qui định.
Luật pháp (kỷ cương, phép nước) với những qui định thiếu ‘nghiêm – minh’, chính là điều lý giải cho việc phòng, chống tham nhũng, ở nước ta chưa thành công.
Vụ án oan 10 năm về trước của ông Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang), và những hé lộ nhiều vụ án oan sai khác trên khắp cả nước, đẩy nhiều gia đình rơi vào cảnh ‘cửa tan, nhà nát’ như các báo chí đưa tin gần đây, đã mở ra nghi án ‘nhục hình, ép cung’ của các cơ quan điều tra. Trong xét xử, tòa án các cấp cũng đã bỏ qua những chứng cứ vô tội của người dân, cũng mở ra nghi vấn “án bỏ túi”. Cho thấy những qui định về quyền công dân, đã không được các cơ quan bảo vệ pháp luật tôn trọng và bảo vệ đúng mức, trong suốt quá trình điều tra xét xử.
Chính vì vậy, vấn đề quyền và trách nhiệm của công dân nói chung, đặc biệt là trách nhiệm của các cá nhân đang giữ trọng trách trong hệ thống hành pháp và tư pháp, đột ngột/bất ngờ trở nên ‘nóng bỏng’ trong đời sống chính trị nước ta; từ các kỳ họp quốc hội (nghị trường ) đến các phương tiện truyền thông.
Một nhà nước dân chủ tiến bộ, là quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng hệ thống luật pháp ‘thượng tôn pháp luật’. Các cường quốc về kinh tế, quân sự, văn hóa cũng đều là cường quốc của nền dân chủ.
Thông qua Hiến pháp lần này cũng sẽ là cơ hội để mở ra những thay đổi mới.
Nắm bắt trúng, hay lại bỏ qua? Nguyễn Văn Soạn
Trong ngôn ngữ diễn đạt, bổn phận là điều mà mỗi cá nhân hoặc một tập thể phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình, là quyết định cuối cùng trong lựa chọn và hành động. Bổn phận cũng thường được dùng trong các tình huống mà công việc phải làm theo tính chất đạo lí.
Bổn phận và nhân – quả
Bổn phận cũng là một khía cạnh đặc trưng của đạo đức, quá trình nhận thức của con người về nghĩa vụ phải làm, nhằm bảo vệ những giá trị cuộc sống của bản thân, gia đình, tình bạn, hoặc rộng hơn là các giá trị truyền thống của dân tộc, như lãnh thổ, văn hóa, tâm linh.... Là kết quả giáo dục về nhân cách, đạo đức, từ gia đình, nhà trường và xã hội.
Đối với mỗi cá nhân, khi đã qua tuổi vị thành niên thì bổn phận đã được diễn đạt bằng một từ khác, đó là ‘trách nhiệm’. Trách nhiệm là thể hiện của lòng tự trọng (-liêm sỉ) của một con người. Như vậy trách nhiệm là một ‘từ ngữ’ nặng nề nhất, mà con người chúng ta, ai cũng phải gánh vác trên người. Nói một người có trách nhiệm, là ý nói rằng; đó là người có ‘liêm sỉ’, có lòng tự trọng, không tranh công, không đổ lỗi.
Trách nhiệm còn là truyền thống, là đạo lý làm người, là niềm vinh quang. Nhưng ngược lại, nó cũng luôn khiến nhiều người sợ hãi, trốn tránh. Bởi vậy nó cũng được khởi đầu bằng tự giác/ tự nhận đến thiết chế/ qui định.
“Quốc gia hưng vong, sĩ phu hữu trách”, là tinh thần tự giác xả thân vì nghĩa lớn, vì quốc gia, dân tộc, là khí phách của các thế hệ con dân nhất là các ‘nhân sĩ, trí thức’ đất Việt. Trong sự thăng trầm của lịch sử dân tộc, là sự hưng thịnh suy vong của các của các triều đại phong kiến, vượt qua sự ấm- lạnh của ‘quan trường’, rất nhiều người đã đi vào sử xanh, bởi nhân dân luôn công bằng, luôn biết tôn vinh những người làm tròn trách nhiệm với hậu thế, với non sông đất nước.
Rất nhiều con dân Đất Việt từ những ‘sĩ phu’ đến người lính áo vải đã chiến đấu, và đã ngã xuống nơi biên giới, nơi hải đảo xa xôi bảo vệ ‘từng tấc đất của ông cha’, và họ mãi mãi đi vào đời sống tâm linh của dân tộc, được nhân dân kính trọng lập đền thờ, được lịch sử ‘lưu danh’ trở thành tấm gương sáng cho hậu thế học tập và noi theo.
Ngược lại những kẻ quyền cao chức trọng, đắc ý một thời nhưng làm nhiều việc ác, xuất phát từ những tâm địa đen tối, lịch sử cũng ghi nhận bằng luật đời; luật nhân – quả, mà nói theo cách dân gian “ đời có vay có trả” “ đời cha ăn mặn, đời con khát nước”.
Những người này thường bị dân chúng trừng phạt và sỉ nhục. Có rất nhiều kẻ gian ác từ trong dân gian, đến những việc hại dân, hại nước, khi bị dân chúng nổi giận, giết chết, thân xác bị bêu rếu để làm gương. Sự trừng phạt của dân chúng còn kéo dài, tới đời con, cháu, của kẻ gian ác, tất cả đều được người dân ghi nhớ, truyền miệng và nguyền rủa cho tới tận bây giờ.
...Trách nhiệm trong thiết chế
Ngay trong chế độ quân chủ, trách nhiệm cũng đã được thiết chế - luật vua, phép nước. Quan án sát ở địa phương, đã được nhà vua ‘ban’ cho gươm ‘tiền trảm, hậu tấu’. Nhưng nếu lạm sát người vô tội thì đó cũng lại là lưỡi gươm ‘tự xử’. Đại tướng cầm quân ra trận có thể bất tuân lệnh vua; nhưng ‘quân thua, chém tướng’, cùng với ‘đại ân’ của vua là trách nhiệm đối với sinh mạng của binh sĩ, với sự hưng vong của đất nước.
Tiến bộ của một thể chế dân chủ, là quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng hệ thống luật pháp. Bắt đầu là việc xây dựng bản hiến pháp, đó là bộ luật gốc, từ đó các bộ luật khác cũng được xây dựng trên cở của hiến pháp (cành – nhánh). Trong đó về cơ bản, mọi thành viên trong một xã hội kết nối với nhau bằng những mối quan hệ, đó chính là trách nhiệm.
Tuy nhiên trách nhiệm cũng được hiểu khác nhau ở các nền văn minh, nhưng một điều chắc chắn: Trách nhiệm là một từ không thể thiếu vắng trong bất kỳ bộ luật nào của các nhà nước dân chủ.
Một hệ thống luật- pháp khoa học là khi nhìn vào nó mỗi một cá nhân trong hệ thống chính quyền, luôn thấy rõ quyền hạn và trách nhiệm (nghĩa vụ-công-tội) của mỗi cá nhân, nhất là trong điều hành quản lý xã hội.
Những tháng ngày cuối năm nay, với bầu không khí như thường niên là ngành ngành, nhà nhà “ nô nức” vinh danh, ghi nhận công lao, thành tích cho các cá nhân, tập thể, bằng các danh hiệu, giải thưởng ‘tiên tiến’, ‘xuất sắc’, ‘ưu tú’, ‘trong sạch, vững mạnh’... Nhưng, sau vụ việc thẩm mỹ viện Cát Tường ‘ mang tính cá biệt, bất ngờ, bất thường’, lại cho thấy rõ hơn một thực tiễn rất chua chát của nền hành chính nước ta.
Vụ thẩm mỹ viện Cát Tường khiến dư luận bàng hoàng |
Có những vấn nạn được xác định là quốc nạn, đe dọa tới sự tồn vong của chế độ như tham nhũng, không hề mang tính cá biệt, bất ngờ, bất thường, và đã có cả một bộ luật riêng biệt phòng chống quốc nạn này. Việc giám sát thực hiện pháp luật nói chung, tham nhũng nói riêng có trong rất nhiều luật, thậm chí quy định này cũng có trong cả điều lệ, của các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội. Nhưng trong thực tiễn, công tác chống tham nhũng được đánh giá là không hiệu quả. Tham nhũng vẫn được nhận định là phát triển ngày càng tinh vi hơn.
Ngược lại chỉ có “cá biệt, bất ngờ, bất thường”, khi xét xử án tham nhũng gần đây. Nếu không kể tới vụ Vina khủng, ‘có tỉnh hai năm xử chín bị cáo thì tám bị cáo là án treo’. (http://m.vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/150357/xu-9-nguoi-toi-tham-nhung-thi-8-huong-an-treo.html). Thậm chí cá biệt, bất ngờ, bất thường hơn như vụ án tham nhũng tại Viện Nội tiết Trung ương, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Xuyên còn ký văn bản gửi cơ quan công an ‘xin tội’ cho các bị can (http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Bo-Y-te-xin-toi-cho-cac-bi-can-nhu-the-nao/313074.gd).
Vụ việc ‘khuất tất về tài chính ở Bệnh viện đa khoa thành phố Bắc Giang - dùng hơn 1,5 tỉ đồng tiền của nhà nước chi bù đắp cho sai phạm của một số cá nhân? Và câu nói của ông Nguyễn Văn Chiến – Chánh Thanh tra Sở Y tế Bắc Giang khi trả lời phóng viên: “Bây giờ nó là như thế! Hỏi tôi tôi biết hỏi ai?” có thể xếp vào hàng “danh ngôn vô trách nhiệm” hay không(?!). Chưa rõ vụ việc này có bị “chìm xuồng” hay không? Nhưng Sở Y tế Bắc Giang đã điều đề bạt, bổ nhiệm giám đốc của bệnh viện này lên vị trí khác.
Chỉ có số phận của những người đã dấn thân trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, là không còn cá biệt, bất ngờ, bất thường. Nó (số phận của họ) đã được đúc kết trong câu thành ngữ mới ‘đấu tranh- tránh đâu’, lan truyền trong dân gian, trở thành “tôn chỉ” cho cuộc sống nhiều người ‘dĩ hòa, vi quý’.
Bởi giờ đây, tham nhũng đã có tên gọi khác cũng khá “hợp pháp” đó là ‘lợi ích nhóm’ nhưng thực chất là các ‘băng nhóm’ tội phạm tham nhũng. Nhiều người dấn thân chống tham nhũng, cũng đã phải hứng chịu ‘đòn thù’ của các băng nhóm này. Như mới đây là vụ việc dược sĩ Trần Thị Kiều Oanh - ‘sau vinh danh là đổi việc'.
Phòng chống tham nhũng là trách nhiệm của toàn dân, nhưng không phòng chống được tham nhũng, để quốc nạn này vẫn tồn tại, phát triển thì không thể tìm được ai là người phải chịu trách nhiệm, và phải phải chịu trách nhiệm như thế nào còn ... chưa rõ qui định.
Luật pháp (kỷ cương, phép nước) với những qui định thiếu ‘nghiêm – minh’, chính là điều lý giải cho việc phòng, chống tham nhũng, ở nước ta chưa thành công.
Vụ án oan 10 năm về trước của ông Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang), và những hé lộ nhiều vụ án oan sai khác trên khắp cả nước, đẩy nhiều gia đình rơi vào cảnh ‘cửa tan, nhà nát’ như các báo chí đưa tin gần đây, đã mở ra nghi án ‘nhục hình, ép cung’ của các cơ quan điều tra. Trong xét xử, tòa án các cấp cũng đã bỏ qua những chứng cứ vô tội của người dân, cũng mở ra nghi vấn “án bỏ túi”. Cho thấy những qui định về quyền công dân, đã không được các cơ quan bảo vệ pháp luật tôn trọng và bảo vệ đúng mức, trong suốt quá trình điều tra xét xử.
Chính vì vậy, vấn đề quyền và trách nhiệm của công dân nói chung, đặc biệt là trách nhiệm của các cá nhân đang giữ trọng trách trong hệ thống hành pháp và tư pháp, đột ngột/bất ngờ trở nên ‘nóng bỏng’ trong đời sống chính trị nước ta; từ các kỳ họp quốc hội (nghị trường ) đến các phương tiện truyền thông.
Một nhà nước dân chủ tiến bộ, là quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng hệ thống luật pháp ‘thượng tôn pháp luật’. Các cường quốc về kinh tế, quân sự, văn hóa cũng đều là cường quốc của nền dân chủ.
Thông qua Hiến pháp lần này cũng sẽ là cơ hội để mở ra những thay đổi mới.
Nắm bắt trúng, hay lại bỏ qua? Nguyễn Văn Soạn
CÁC ÔNG TIÊU TIỀN CỦA DÂN THÌ PHẢI CÔNG KHAI CHO DÂN BIẾT
Kỳ họp mới nhất vừa rồi, trước tin đồn là mỗi ngày chi hết 1 tỉ đồng, chủ nhiệm văn phòng đã đứng ra bác bỏ và nói rằng chi hết 1 tỷ đồng cho mỗi ngày là không có cơ sở. Tuy nhiên, ông ta vẫn không cho biết con số chính thức là bao nhiêu với lý do là chưa quyết toán. Nhưng chi phí cho kỳ họp lần trước cũng không thấy công bố. Và hầu như tất cả các kỳ họp trước đó trong vòng 20 năm trở lại đây cũng chưa hề được công khai chi phí. Người dân hoàn toàn mờ mịt.
Xin thưa, các ông đang tiêu vào từng đồng thuế của dân nên mọi chi tiêu của từng ông trong 500 ông đại biểu phải được báo cáo ra cho dân biết.
Các ông ở xa đi máy bay đến Hà Nội theo hạng vé nào, hạng VIP hay hạng thường?
Các ông ở khách sạn loại nào, giá phòng ra sao?
Các ông ăn uống theo tiêu chuẩn gì?
Chi phí phòng họp bao nhiêu?
Chi phí bảo vệ và phục vụ thế nào?
Tóm lại là tất cả mọi chi tiêu do ngân sách chi trả cho từng ông phải được công khai cụ thể.
Ông chủ nhiệm văn phòng Quốc hội giải thích rằng: Kỳ họp vừa rồi mỗi ngày chưa hết 1 tỉ đồng là do hội trường của bộ Quốc Phòng cho mượn không tính tiền và việc bảo vệ có lực lượng công an phụ trách nên không tốn kém bao nhiêu. Xin thưa với ông, hội trường bộ Quốc Phòng hoạt động cũng từ tiền thuế của dân, lực lượng công an bảo vệ, không kể tiền bồi dưỡng trong những ngày Quốc hội họp thì cũng sống từ lương của ngân sách...Chẳng có thứ tiền gì các ông tiêu tốn cho những ngày họp hành lại không từ tiền thuế của dân. Do vậy việc cho "dân biết, dân bàn, dân kiểm tra" theo khẩu hiệu mà các ông đang hô là điều bắt buộc.
Nói đến xã hội dân sự, nhiều người, đặc biệt về phía chính quyền cứ tưởng như là cái gì ghê gướm lắm. Thực ra đó là sự hiểu biết và thực hiện những quyền hạn mà người dân có, theo quy định của pháp luật. Một chính quyền thực sự của dân, vì dân thì phải biết phát huy những quyền hạn đó của người dân chứ không phải làm ngược lại để dễ bưng bít, dễ cai trị...tất nhiên sẽ dễ dẫn đến vô vàn tiêu cực.
Biết về chi phí cho từng đại biểu quộc hội trong thời gian họp là quyền hạn của tất cả người dân.
HNC
Dân 90 triệu ai người lớn ?
* Ts. TÔ VĂN TRƯỜNG
Trước
hết, tôi phải xin lỗi cụ Tản Đà khi chọn tiêu đề bài viết này để
tưởng nhớ đến một tâm hồn, một tài thơ Việt Nam núi Tản sông Đà,
ngập tràn lãng mạn, ngập tràn thơ, nhiều khi hóm hỉnh sâu
xa đầy gợi mở, thấm đượm yêu nước và tình người, biết bao
thương xót.
“Dân hai nhăm triệu ai người lớn
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con “
Thời cụ Tản
Đà, nước ta còn dưới ách nô lệ thực dân Pháp không có công dân mà chỉ
có “dân đen” như Nguyễn Trãi nói, lại lo không biết “bức dư đồ rách ai
bồi” nên Tản Đà mới mong mỏi trong số 25 triệu đồng bào, ai là người có
chí lớn, đủ tài lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập cho đất nước. Cụ
xót thương nước có bốn ngàn năm lịch sử mà dân vẫn còn trong vòng phong
kiến tối tăm, chưa được khai trí về kiến thức văn minh của nền tự do
dân chủ, nên so với trình độ dân trí ở các nước thì vẫn như là đứa trẻ
nít.
Trên mạng xã hội, nhiều bài viết phản ánh Nghị trường Quốc hội mới diễn ra nhiều câu nói ấn tượng nổi tiếng và kết
quả bấm nút cuối cùng về Hiến pháp và Luật đất đai sửa đổi như dấu chấm
than về vận nước! Chẳng cần chờ đến hậu thế mà ngay thế hệ ngày nay cũng đủ trí tuệ, để soi xét, đánh giá. Những người tỉnh táo không thất vọng vì có kỳ vọng đâu mà thất vọng!
Người ta nhận xét, Quốc hội Việt Nam như sân khấu, nhiều
diễn viên không vượt qua được chính mình. Lúc này, lại nhớ đến mấy câu
thơ từ thời sinh viên (thập niên 60) khi đi tham gia biểu diễn văn nghệ ở
khoa:
“Đóng kịch phải hóa trang
Tô đỏ đôi môi tô đen đôi mắt
Bắt đêm đen thức dạy làm ngày
Cười lúc đau nước mắt nước vui
Sân khấu và cuộc đời
Cánh gà là khoảng cách”
Nhà viết kịch nổi tiếng đi trước thời đại từ thập niên 80, Lưu Quang Vũ để lại nhiều dấu ấn cũng
một phần nhờ dàn diễn viên giỏi tay nghề và đầy bản lĩnh “thổi hồn”
hàng chục vở diễn đi vào lòng người như : Tôi và chúng ta; Hồn Trương Ba
da hàng thit; Ông không phải là bố tôi; Mùa hạ cuối cùng vv… Trong vở
kịch “Lời thề thứ 9” tác giả Lưu Quang Vũ để cho nhân vật anh lính Đôn
sứt tiến đến đứng trước mặt khán giả dõng dạc, khảng khái tuyên bố trong
tiếng vỗ tay vang dội của người xem “Nhân dân ta rất anh hùng nhưng thật ra hèn lắm”.
Câu nói của người lính trên kịch trường Việt Nam đã 30 năm, lại
làm chúng ta nhớ đến Shakespeare nhà viết kịch nổi tiếng trên thế giới
người Anh ở thế kỷ 16 (thời kỳ phục hưng) đã để cho nhân vật Hamlet có
câu nói bất hủ cho đến tận ngày nay ”To be or not to be” có nghĩa là
“tồn tại hay không tồn tại”.
Nhìn lại sự
phát triển của đất nước, ta hãy lấy Đại Hàn Dân Quốc làm so sánh. Sau
chiến tranh thế giới, Hàn Quốc nghèo nàn, lệ thuộc và độc tài, không
được tôn trọng cho lắm nên gọi là Nam Triều Tiên – như chế độ Sài gòn
cùng thời, thậm chí nghèo hơn Hòn Ngọc Viễn Đông. Người độc tài khét
tiếng bị ghét bỏ và bị ám sát lần lượt cả vợ trước, chồng sau là Tổng
thống Pak Chung-hee (tại vị 1963-1979). Ông ta từng ra lịnh đàn áp, bắn
chết hơn 3.000 sinh viên biểu tình ở Quang Du và bắt kết án tử hình lãnh
tụ đối lập Kim Dae-jung (sau này làm Tổng thống do dân bầu)..
Tội ác của Pak
Chung-hee là độc tài, thảm sát sinh viên nhưng có công lớn đưa kinh
tế đất nước hóa Rồng nhờ động lực là các Chebol và xác lập nền pháp trị
làm nền tảng cho dân chủ đa nguyên đa đảng – một chỉ dấu của chế độ
chính trị văn minh bền vững. Một đất nước còn tệ hơn Nam Việt Nam cùng
thời, vậy mà nay kinh tế Hàn Quốc đứng hạng 11 trên thế giới, cạnh tranh
qua mặt Nhật Bản về thị trường, thị phần ô tô, điện tử và một phần công
nghệ đóng tàu thật đáng khâm phục.
Hay hơn nữa là
con gái nhà độc tài Pak Chung-hee, nay là Tổng thống Pak Geum-hye
(2/2013) lại thắng áp đảo trong cuộc bỏ phiếu dân chủ cạnh tranh giữa
các đảng phái. Ánh hào quang hiện tại soi sáng lịch sử nghèo nàn, độc
tài, đen tối để lộ ra một Đại Hàn Dân Quốc như ta thấy làm thế giới phải
ngả mũ thán phục.
Còn Việt Nam
ta lịch sử oai hùng trước chiến tranh thế giới, sau 1975 là” trái tim và
lương tâm thời đại”. Vậy mà ta, nay lại hạng trên dưới 100 trong số hơn
190 quốc gia và vùng lãnh thổ. Xin vay, bám bầu vú viện trợ ODA sử dụng
không hiệu quả, chỉ số ICOR cao ngất ngưởng nhất khu vực, để lại khoản
nợ khổng lồ cho con cháu, trong khi giáo dục xuống cấp, tham nhũng tràn
lan, lòng người ly tán, có đau và nhục không chứ ?!. Vậy thì không ai
lớn và trẻ con mãi (chứ không phải trẻ mãi – thanh xuân – không già) là
đúng quá rồi!
Bây giờ dân 90 triệu rồi, so ra dân trí cao hơn thời xưa nhưng chí khí lại thụt lùi, quan trí tụt hậu so với thế hệ vàng Hồ Chí Minh, không chịu làm theo lời dạy của Người: “Dân chủ là để cho người dân được mở miệng”.
Chỉ riêng
chuyện đất đai, nhiều người đã nói mãi, nói rất đúng về khái niệm mơ hồ
sở hữu toàn dân chỉ là kẽ hở cho nhóm lợi ích, là nguyên nhân chủ yếu
khiếu kiện gây bất ổn xã hội bấy lâu nay nhưng rồi đa số đại biểu Quốc
hội, cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước vẫn phải bấm nút theo hướng
đã được “chỉ tay”! Trong
phạm trù sở hữu được nêu ra, nên chăng ta cứ nôm na hóa vấn đề như câu
cửa miệng, dân giã thường đặt ra để cân nhắc, đắn đo, suy xét : “Ai nắm
đằng chuôi “. Và, thế là rõ ngay cái thế : Ai sẽ “đứt tay” khi cái “chuôi” ngọ nguậy?!
Trong
lịch sử, chế độ quân chủ coi đất là của Thiên tử. Chế độ ấy gần như
không lúc nào yên được vì người nông dân (nông nô) không ngày
nào được ổn định trên mảnh đất mà mình canh tác (vì chủ đất thu hồi –
lấy lại lúc nào không biết). Và chế độ quân chủ độc tài vĩnh viễn bị xóa
bỏ. Chế độ tư bản, khởi đầu từ Hoàng đế Napoleon: Nông dân có quyền làm
chủ đất. Ngày nay, nhân dân Pháp vẫn còn thỉnh thoảng hô: “Hoàng đế
muôn năm!”. Vậy là sao? Chế độ công hữu đất đai dưới các chế độ gọi là
Xã hội Chủ nghĩa chưa thấy ở đâu mà yên. Hơn chục nước XHCN đã không
tồn tại, chỉ duy nhất còn vài nước “lai lai” kinh tế thị trường mà sở
hữu đất đai thì là của Nhà nước (còn công là của cá nhân) như Trung Quốc
và Việt Nam ta.
Người ta
thường nói đất nước suy thoái cần phải chấn hưng. Từ chấn hưng phong
phú, giàu ý nghĩa. Trong “chấn hưng”, có cải cách, có đổi
mới, có khôi phục, có bảo tồn, có phát triển. Chấn hưng đấ́t
nước là chấn hưng những gì? Thế giới thường nói: tăng trưởng
kinh tế, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Nước ta đã bổ sung:
Mở mang văn hoá, chấn hưng giáo dục, và phát triển con người.
Tiếc thay,
cũng như cảm thán của cụ Tản Đà năm xưa, ngày nay 90 triệu dân muốn chấn
hưng đất nước nhưng lĩnh vực quan trọng quyết định là chế độ
xã hội, thể chế chính trị, và chống tham nhũng thì ngay cả các
đại biểu Quốc hội cũng chưa được nói, được viết và được làm có
hiệu quả như cần có.
Lâu rồi, đã có lần người viết bài này đưa ra nhận xét, nhìn ra thế giới, chúng ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm thành công của các con Rồng Châu Á là nhờ :
Thứ nhất,
có một người đứng đầu là bậc hiền tài giầu tài năng đức độ, không bị
lực cản kìm hãm hoặc hạn chế, mà có tổ chức và cơ chế thuận lợi để phát
huy hết tài năng, đức độ làm giầu, làm đẹp, giữ vững và mở mang đất nước.
Thứ hai, cần có nguồn nhân lực gồm
những cán bộ hành chính biết quản lý Nhà nước pháp quyền hiện đại có
hiệu lực và hiệu quả cao. Những doanh nhân biết kinh doanh tại các doanh
nghiệp công và tư đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao cho bản thân, cho
doanh nghiệp và cho đất nước. Các nhà khoa học,
ban đầu biết lựa chọn, tiếp thu, vận dụng tốt các thành tựu khoa học và
công nghệ tiên tiến trên thế giới, tiếp đó biết tiến lên sáng tạo thành
tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của chính nước nhà.
Thứ ba,
có một dân tộc với một sự thông minh và tài năng được đào tạo, bồi
dưỡng bởi một nền giáo dục quốc dân hiện đại có chất lượng cao.
Ngày nay, ngẫm suy bài hockinh nghiệm hóa Rồng của các nước và 2 câu thơ nói trên của cụ Tản Đà chỉ biết cảm thán: ... "Không may thay cho nước ta”!
TVT
(Tác giả gửi bài đến BVB)
Dưới chế độ độc tài
Hoàng Ngọc Tuấn gửi RFA từ Sydney
2013-12-02
2013-12-02
Eduardo Galeano, nhà văn Uruguay, là một trong những nhà văn phản
kháng mà tôi yêu thích nhất. Ông đã quan sát và mô tả bản chất của chế
độ độc tài bằng một ngòi bút rất sắc bén và thâm thúy. Tôi xin trích
dịch và giới thiệu đến độc giả một số đoản văn của Eduardo Galeano mà
tôi tin rằng, khi đọc, đa số người Việt Nam hôm nay đều lập tức có cảm
tưởng rằng đây là những gì đang diễn ra trên đất nước Việt Nam. Xin mời
mọi người cùng đọc.
Trước hết là một đoản văn về thân phận của người dân bị đè bẹp dưới chế độ độc tài:
NHỮNG KẺ-KHÔNG-LÀ-AI-CẢ
Những con rận mơ sẽ mua được một con chó để sở hữu, và những kẻ-không-là-ai-cả mơ sẽ thoát khỏi sự nghèo khổ: vào cái ngày kỳ diệu ấy, vận may sẽ bất ngờ đổ mưa xuống cuộc sống của họ — mưa như trút những thùng nước lớn. Nhưng vận may chẳng hề đổ mưa hôm qua, hôm nay, ngày mai, hay bao giờ cả. Thậm chí nó chẳng hề ban phát một cơn mưa phùn nhè nhẹ, bất kể những kẻ-không-là-ai-cả đã nỗ lực nhọc nhằn đến chừng nào để triệu thỉnh nó. Ngay cả khi họ cảm thấy bàn tay trái của họ nhột nhạt, hay họ tỉnh giấc vào buổi sáng vì cảm thấy bàn chân bên phải được ai đánh thức, hay họ thay những cái chổi để bắt đầu một năm mới.
Những kẻ-không-là-ai-cả: không là con cháu của ai cả, không là sở hữu chủ của cái gì cả. Những kẻ-không-là-ai-cả: những kẻ không nhân thân, những kẻ không tiểu sử, chạy như những con thỏ, chết giữa dòng đời, bị bạc đãi bằng mọi cách:
Họ không là gì cả, chỉ có thể là.
Họ không nói ngôn ngữ nào cả, chỉ nói tiếng lóng.
Họ không có tôn giáo nào cả, chỉ có sự mê tín.
Họ không sáng tạo nghệ thuật, chỉ làm những đồ thủ công.
Họ không có văn hoá, chỉ có tập quán.
Họ không phải là những con người, chỉ là sức người. Họ không có mặt, chỉ có tay.
Họ không có tên gọi, chỉ có những con số.
Họ không xuất hiện trong sử ký của thế giới, chỉ được liệt kê trong bản tin hình sự trên những tờ báo địa phương.
Những kẻ-không-là-ai-cả, họ còn rẻ hơn viên đạn giết chết họ.
HỆ THỐNG / 1
Các nhà chức trách không thi hành chức trách.
Các nhà chính trị phát ngôn nhưng không nói bất kỳ điều gì.
Cử tri chỉ bỏ phiếu nhưng không chọn lựa.
Giới truyền thông đưa tin bịa đặt.
Các nhà trường dạy sự ngu dốt.
Các quan toà trừng phạt những nạn nhân.
Quân đội tuyên chiến với nhân dân của chính mình.
Công an không chống tội ác vì chính họ quá bận bịu gây tội ác.
Những sự phá sản thì được công hữu hoá, nhưng những lợi tức thì được tư hữu hoá.
Tiền bạc thì tự do hơn nhân dân.
Nhân dân làm đầy tớ cho mọi sự.
HỆ THỐNG / 2
Đây là thời của loài kỳ nhông: không ai dạy bảo chúng ta về lòng nhân đạo nhiều bằng những con thú ấy.
Những kẻ chuyên che đậy thì được sùng bái, văn hoá của chiếc mặt nạ thì được tôn vinh. Người ta nói thứ ngôn ngữ hai mặt của những nghệ sĩ giả trang. Ngôn ngữ hai mặt, phán đoán hai mặt, đạo đức hai mặt: một thứ đạo đức cho lời nói, một thứ đạo đức cho hành động. Thứ đạo đức cho hành động thì được gọi là chủ nghĩa hiện thực.
Quy luật của hiện thực là quy luật của quyền lực. Để cho hiện thực không có vẻ phi hiện thực, nhà cầm quyền bảo chúng ta rằng đạo đức phải là vô đạo đức.
HỆ THỐNG / 3
Nếu anh không lanh lẹ, anh sẽ chết. Anh bị bắt buộc phải làm một kẻ lừa đảo hay một kẻ bị lừa đảo, một kẻ láo khoét hay nạn nhân của sự láo khoét. Đây là thời của những ý nghĩ: "việc gì tôi phải lưu tâm đến điều đó, tôi làm được gì cho điều đó, đừng dính vào, hãy tìm cơ hội tốt nhất." Đây là thời của những kẻ lường gạt: sản phẩm thì vô dụng, óc sáng tạo thì vô ích, lao động thì vô giá trị...
NHỮNG TỘI LỖI
Guồng máy ấy sách nhiễu những người trẻ tuổi; nó cầm tù, nó tra tấn, nó giết chóc. Họ là bằng chứng của sự quan trọng của nó. Nó vất họ ra ngoài: nó bán họ như bán thịt người, nó bán sức lao động của họ với giá rẻ mạt ra ngoại quốc.
Guồng máy vô sinh thù ghét bất cứ thứ gì vươn lên và chuyển động. Nó chỉ có thể làm nhân lên những ngục tù và nghĩa địa. Nó chỉ có thể tạo ra những tù nhân và những xác chết, những tên tình báo và những viên công an, những kẻ ăn mày và những người lưu vong.
Trẻ là một tội ác. Hiện thực khởi động mỗi ngày vào lúc rạng đông; lịch sử cũng vậy, nó tái sinh vào mỗi buổi sáng. Đó là lý do tại sao hiện thực và lịch sử bị cấm đoán.
NHỮNG CÁI CHUỒNG
Mỗi tháng lại có thêm một nhà tù. Đó là cái mà các kinh tế gia gọi là Kế Hoạch Phát Triển.
Thế còn những cái chuồng vô hình? Những bản tường trình chính thức nào hay những văn kiện đối kháng nào ghi nhận những tù nhân của sự sợ hãi? Sợ mất việc làm, sợ không kiếm được việc làm; sợ nói, sợ nghe, sợ đọc. Trong đất nước câm nín, một tia sáng từ ánh mắt có thể khiến người ta vào trại tập trung.
Chế độ kiểm duyệt giành thắng lợi khi mỗi công dân răm rắp tự kiểm duyệt ngôn từ và hành động của mình.
Nhà nước độc tài sử dụng những đồn lính, những đồn công an, những toa xe lửa cũ, những con tàu hoang phế để nhốt những người tù. Thế còn căn nhà của mỗi người? Chứ không phải mỗi căn nhà là một nơi giam giữ hay sao?
NHỮNG ĐIỀU ÁC
Bảng liệt kê những vụ tra tấn, giết và thủ tiêu không thể kể hết những điều ác của một chế độ độc tài. Guồng máy huấn luyện cho bạn quen với thói ích kỷ và dối trá. Đoàn kết là một tội lỗi. Guồng máy khải thắng: người ta sợ nói, sợ nhìn nhau. Không ai muốn gặp ai nữa. Khi có một người nào đó bắt gặp đôi mắt của bạn và không nhìn đi chỗ khác, bạn nghĩ: “Gã này sẽ bắt ta.” Thủ trưởng nói với nhân viên, cũng là bạn của hắn: “Tôi phải báo cáo bạn. Họ đòi những danh sách. Tôi phải giao cho họ một cái tên người. Tha lỗi cho tôi, nếu được.”
Tại sao việc đánh thuốc độc để sát hại tâm hồn không được ghi vào biên niên ký của sự bạo động?
NHỮNG KỸ THUẬT
Một người bị tử hình có thể gây xôn xao dư luận thế giới, nhưng hàng ngàn người mất tích thì chỉ gây nên sự hoang mang. Gia đình và thân nhân phải trải qua những hiểm nguy để tìm kiếm vô vọng từ nhà giam này đến nhà giam khác, từ đồn lính này đến đồn lính khác, trong khi đó thì những tử thi bị rữa nát trong rừng và trong những bãi đổ rác. Kỹ thuật của sự thủ tiêu không tạo ra những thánh tử đạo và những tù nhân. Những xác người bị mặt đất nuốt chửng, còn chính quyền thì rửa tay sạch sẽ: không có tội ác nào để tường thuật, và không có gì để mất công giải thích. Mỗi người chết thì phải chịu chết nhiều lần, và cuối cùng chỉ để lại một đám sương mù của nỗi kinh hoàng và một sự hoang mang trong tâm hồn.
LƯU VONG
I
Những chiếc thuyền ra đi chở đầy những người trẻ tuổi thoát khỏi ngục tù, sự chết và cái đói. Sống là nguy hiểm; trốn thoát là một tội lỗi; ăn là một phép lạ.
Nhưng còn có bao nhiêu người lưu vong ngay trong đường biên giới của tổ quốc mình? Có bản thống kê nào đếm những người bị đuổi việc và bị bắt buộc phải câm nín? Sự hy vọng là tội ác lớn hơn những hành động khác, chứ không phải sao?
Chế độ độc tài là một sự ô nhục biến thành tập quán, một guồng máy làm cho bạn điếc và câm, không còn biết nghe, không còn biết nói, và mù loà trước những gì bị cấm nhìn thấy.
Cái chết đầu tiên vì sự tra tấn đã gây nên dư luận xôn xao trong cả nước. Cái chết thứ mười vì bị tra tấn chỉ được báo chí tường thuật sơ sài. Cái chết thứ năm mươi được xem là “bình thường”.
Guồng máy dạy cho nhân dân chấp nhận sự kinh khủng cũng giống như cách người ta làm quen với độ lạnh của mùa đông.
II
Guồng máy dạy rằng bất cứ ai chống lại nó thì đều là kẻ thù của tổ quốc. Chống lại sự bất công là một tội ác đối với tổ quốc.
Ta là tổ quốc, guồng máy nói. Trại tập trung này là tổ quốc: đống rác thối tha này, miền đất hoang phế này.
Bất cứ ai tin rằng đất nước của mình là ngôi nhà của mọi người thì bị ném ra khỏi ngôi nhà đó.
Tôi đặc biệt lưu ý đến đoản văn LƯU VONG II của Eduardo Galeano. Qua đoản văn này, ông lật tẩy một trò điêu trá của chế độ độc tài: nó luôn luôn tự đồng hoá chính nó với "tổ quốc". Bất cứ ai phê phán chế độ, hay chống lại những sự sai lầm và tội ác của chế độ, thì đều bị kết án là "chống lại tổ quốc"!
Suốt mấy mươi năm qua, chế độ Cộng Sản ở Việt Nam luôn sử dụng trò điêu trá này và luôn ra sức tẩy não thế hệ trẻ và nhồi nhét vào đầu óc họ cái ý tưởng rằng "chế độ Cộng Sản" là "tổ quốc". Thế nhưng, chỉ cần giở bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Das Manifest der Kommunistischen Partei, 1848) ra xem "Phần II: Những người vô sản và những người cộng sản" (II. Proletarier und Kommunisten), thì ai cũng có thể thấy rằng Marx và Engels đã khẳng định: "bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị" (daß der erste Schritt in der Arbeiterrevolution die Erhebung des Proletariats zur herrschenden Klasse), và nhấn mạnh: "Công nhân không có tổ quốc" (Die Arbeiter haben kein Vaterland).
Khi những kẻ thống trị của một chế độ lại chính là những kẻ "không có tổ quốc", thì cái trò đồng hoá chế độ với "tổ quốc" là một trò điêu trá lố bịch nhất dưới ánh mặt trời, và trò điêu trá này chỉ có thể đánh lừa được những con cừu đã bị tẩy não.
Trước hết là một đoản văn về thân phận của người dân bị đè bẹp dưới chế độ độc tài:
NHỮNG KẺ-KHÔNG-LÀ-AI-CẢ
Những con rận mơ sẽ mua được một con chó để sở hữu, và những kẻ-không-là-ai-cả mơ sẽ thoát khỏi sự nghèo khổ: vào cái ngày kỳ diệu ấy, vận may sẽ bất ngờ đổ mưa xuống cuộc sống của họ — mưa như trút những thùng nước lớn. Nhưng vận may chẳng hề đổ mưa hôm qua, hôm nay, ngày mai, hay bao giờ cả. Thậm chí nó chẳng hề ban phát một cơn mưa phùn nhè nhẹ, bất kể những kẻ-không-là-ai-cả đã nỗ lực nhọc nhằn đến chừng nào để triệu thỉnh nó. Ngay cả khi họ cảm thấy bàn tay trái của họ nhột nhạt, hay họ tỉnh giấc vào buổi sáng vì cảm thấy bàn chân bên phải được ai đánh thức, hay họ thay những cái chổi để bắt đầu một năm mới.
Những kẻ-không-là-ai-cả: không là con cháu của ai cả, không là sở hữu chủ của cái gì cả. Những kẻ-không-là-ai-cả: những kẻ không nhân thân, những kẻ không tiểu sử, chạy như những con thỏ, chết giữa dòng đời, bị bạc đãi bằng mọi cách:
Họ không là gì cả, chỉ có thể là.
Họ không nói ngôn ngữ nào cả, chỉ nói tiếng lóng.
Họ không có tôn giáo nào cả, chỉ có sự mê tín.
Họ không sáng tạo nghệ thuật, chỉ làm những đồ thủ công.
Họ không có văn hoá, chỉ có tập quán.
Họ không phải là những con người, chỉ là sức người. Họ không có mặt, chỉ có tay.
Họ không có tên gọi, chỉ có những con số.
Họ không xuất hiện trong sử ký của thế giới, chỉ được liệt kê trong bản tin hình sự trên những tờ báo địa phương.
Những kẻ-không-là-ai-cả, họ còn rẻ hơn viên đạn giết chết họ.
***
Tiếp theo là những đoản văn về tình trạng chính trị và xã hội của một đất nước dưới chế độ độc tài:HỆ THỐNG / 1
Các nhà chức trách không thi hành chức trách.
Các nhà chính trị phát ngôn nhưng không nói bất kỳ điều gì.
Cử tri chỉ bỏ phiếu nhưng không chọn lựa.
Giới truyền thông đưa tin bịa đặt.
Các nhà trường dạy sự ngu dốt.
Các quan toà trừng phạt những nạn nhân.
Quân đội tuyên chiến với nhân dân của chính mình.
Công an không chống tội ác vì chính họ quá bận bịu gây tội ác.
Những sự phá sản thì được công hữu hoá, nhưng những lợi tức thì được tư hữu hoá.
Tiền bạc thì tự do hơn nhân dân.
Nhân dân làm đầy tớ cho mọi sự.
HỆ THỐNG / 2
Đây là thời của loài kỳ nhông: không ai dạy bảo chúng ta về lòng nhân đạo nhiều bằng những con thú ấy.
Những kẻ chuyên che đậy thì được sùng bái, văn hoá của chiếc mặt nạ thì được tôn vinh. Người ta nói thứ ngôn ngữ hai mặt của những nghệ sĩ giả trang. Ngôn ngữ hai mặt, phán đoán hai mặt, đạo đức hai mặt: một thứ đạo đức cho lời nói, một thứ đạo đức cho hành động. Thứ đạo đức cho hành động thì được gọi là chủ nghĩa hiện thực.
Quy luật của hiện thực là quy luật của quyền lực. Để cho hiện thực không có vẻ phi hiện thực, nhà cầm quyền bảo chúng ta rằng đạo đức phải là vô đạo đức.
HỆ THỐNG / 3
Nếu anh không lanh lẹ, anh sẽ chết. Anh bị bắt buộc phải làm một kẻ lừa đảo hay một kẻ bị lừa đảo, một kẻ láo khoét hay nạn nhân của sự láo khoét. Đây là thời của những ý nghĩ: "việc gì tôi phải lưu tâm đến điều đó, tôi làm được gì cho điều đó, đừng dính vào, hãy tìm cơ hội tốt nhất." Đây là thời của những kẻ lường gạt: sản phẩm thì vô dụng, óc sáng tạo thì vô ích, lao động thì vô giá trị...
NHỮNG TỘI LỖI
Guồng máy ấy sách nhiễu những người trẻ tuổi; nó cầm tù, nó tra tấn, nó giết chóc. Họ là bằng chứng của sự quan trọng của nó. Nó vất họ ra ngoài: nó bán họ như bán thịt người, nó bán sức lao động của họ với giá rẻ mạt ra ngoại quốc.
Guồng máy vô sinh thù ghét bất cứ thứ gì vươn lên và chuyển động. Nó chỉ có thể làm nhân lên những ngục tù và nghĩa địa. Nó chỉ có thể tạo ra những tù nhân và những xác chết, những tên tình báo và những viên công an, những kẻ ăn mày và những người lưu vong.
Trẻ là một tội ác. Hiện thực khởi động mỗi ngày vào lúc rạng đông; lịch sử cũng vậy, nó tái sinh vào mỗi buổi sáng. Đó là lý do tại sao hiện thực và lịch sử bị cấm đoán.
NHỮNG CÁI CHUỒNG
Mỗi tháng lại có thêm một nhà tù. Đó là cái mà các kinh tế gia gọi là Kế Hoạch Phát Triển.
Thế còn những cái chuồng vô hình? Những bản tường trình chính thức nào hay những văn kiện đối kháng nào ghi nhận những tù nhân của sự sợ hãi? Sợ mất việc làm, sợ không kiếm được việc làm; sợ nói, sợ nghe, sợ đọc. Trong đất nước câm nín, một tia sáng từ ánh mắt có thể khiến người ta vào trại tập trung.
Chế độ kiểm duyệt giành thắng lợi khi mỗi công dân răm rắp tự kiểm duyệt ngôn từ và hành động của mình.
Nhà nước độc tài sử dụng những đồn lính, những đồn công an, những toa xe lửa cũ, những con tàu hoang phế để nhốt những người tù. Thế còn căn nhà của mỗi người? Chứ không phải mỗi căn nhà là một nơi giam giữ hay sao?
NHỮNG ĐIỀU ÁC
Bảng liệt kê những vụ tra tấn, giết và thủ tiêu không thể kể hết những điều ác của một chế độ độc tài. Guồng máy huấn luyện cho bạn quen với thói ích kỷ và dối trá. Đoàn kết là một tội lỗi. Guồng máy khải thắng: người ta sợ nói, sợ nhìn nhau. Không ai muốn gặp ai nữa. Khi có một người nào đó bắt gặp đôi mắt của bạn và không nhìn đi chỗ khác, bạn nghĩ: “Gã này sẽ bắt ta.” Thủ trưởng nói với nhân viên, cũng là bạn của hắn: “Tôi phải báo cáo bạn. Họ đòi những danh sách. Tôi phải giao cho họ một cái tên người. Tha lỗi cho tôi, nếu được.”
Tại sao việc đánh thuốc độc để sát hại tâm hồn không được ghi vào biên niên ký của sự bạo động?
NHỮNG KỸ THUẬT
Một người bị tử hình có thể gây xôn xao dư luận thế giới, nhưng hàng ngàn người mất tích thì chỉ gây nên sự hoang mang. Gia đình và thân nhân phải trải qua những hiểm nguy để tìm kiếm vô vọng từ nhà giam này đến nhà giam khác, từ đồn lính này đến đồn lính khác, trong khi đó thì những tử thi bị rữa nát trong rừng và trong những bãi đổ rác. Kỹ thuật của sự thủ tiêu không tạo ra những thánh tử đạo và những tù nhân. Những xác người bị mặt đất nuốt chửng, còn chính quyền thì rửa tay sạch sẽ: không có tội ác nào để tường thuật, và không có gì để mất công giải thích. Mỗi người chết thì phải chịu chết nhiều lần, và cuối cùng chỉ để lại một đám sương mù của nỗi kinh hoàng và một sự hoang mang trong tâm hồn.
LƯU VONG
I
Những chiếc thuyền ra đi chở đầy những người trẻ tuổi thoát khỏi ngục tù, sự chết và cái đói. Sống là nguy hiểm; trốn thoát là một tội lỗi; ăn là một phép lạ.
Nhưng còn có bao nhiêu người lưu vong ngay trong đường biên giới của tổ quốc mình? Có bản thống kê nào đếm những người bị đuổi việc và bị bắt buộc phải câm nín? Sự hy vọng là tội ác lớn hơn những hành động khác, chứ không phải sao?
Chế độ độc tài là một sự ô nhục biến thành tập quán, một guồng máy làm cho bạn điếc và câm, không còn biết nghe, không còn biết nói, và mù loà trước những gì bị cấm nhìn thấy.
Cái chết đầu tiên vì sự tra tấn đã gây nên dư luận xôn xao trong cả nước. Cái chết thứ mười vì bị tra tấn chỉ được báo chí tường thuật sơ sài. Cái chết thứ năm mươi được xem là “bình thường”.
Guồng máy dạy cho nhân dân chấp nhận sự kinh khủng cũng giống như cách người ta làm quen với độ lạnh của mùa đông.
II
Guồng máy dạy rằng bất cứ ai chống lại nó thì đều là kẻ thù của tổ quốc. Chống lại sự bất công là một tội ác đối với tổ quốc.
Ta là tổ quốc, guồng máy nói. Trại tập trung này là tổ quốc: đống rác thối tha này, miền đất hoang phế này.
Bất cứ ai tin rằng đất nước của mình là ngôi nhà của mọi người thì bị ném ra khỏi ngôi nhà đó.
Tôi đặc biệt lưu ý đến đoản văn LƯU VONG II của Eduardo Galeano. Qua đoản văn này, ông lật tẩy một trò điêu trá của chế độ độc tài: nó luôn luôn tự đồng hoá chính nó với "tổ quốc". Bất cứ ai phê phán chế độ, hay chống lại những sự sai lầm và tội ác của chế độ, thì đều bị kết án là "chống lại tổ quốc"!
Suốt mấy mươi năm qua, chế độ Cộng Sản ở Việt Nam luôn sử dụng trò điêu trá này và luôn ra sức tẩy não thế hệ trẻ và nhồi nhét vào đầu óc họ cái ý tưởng rằng "chế độ Cộng Sản" là "tổ quốc". Thế nhưng, chỉ cần giở bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Das Manifest der Kommunistischen Partei, 1848) ra xem "Phần II: Những người vô sản và những người cộng sản" (II. Proletarier und Kommunisten), thì ai cũng có thể thấy rằng Marx và Engels đã khẳng định: "bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị" (daß der erste Schritt in der Arbeiterrevolution die Erhebung des Proletariats zur herrschenden Klasse), và nhấn mạnh: "Công nhân không có tổ quốc" (Die Arbeiter haben kein Vaterland).
Khi những kẻ thống trị của một chế độ lại chính là những kẻ "không có tổ quốc", thì cái trò đồng hoá chế độ với "tổ quốc" là một trò điêu trá lố bịch nhất dưới ánh mặt trời, và trò điêu trá này chỉ có thể đánh lừa được những con cừu đã bị tẩy não.
Hoàng Ngọc-Tuấn (Sydney, Australia)
*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét