Bàn về sự lãnh đạo của Đảng
talawas10.4.2006
Nguyễn Kiến Giang (*)
Bài này vốn không phải là bài viết
sẵn. Sau lời phát biểu miệng tại hội thảo của Câu lạc bộ Liên hiệp các
hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam ngày 20.2.1990, tôi được ông Hoàng
Nguyên, chủ nhiệm CLB, đề nghị ghi lại tóm tắt để làm hồ sơ của CLB.
Không ngờ bản ghi này lại được tạp chí Khoa học và Tổ quốc đăng trong số
tháng Tư với bút danh Lương Dân. Một chuyện rắc rối đã xẩy ra. Anh Phạm
Quế Dương, phụ trách biên tập của tạp chí, đã bị gọi tới cơ quan an
ninh “làm việc”. Tôi đến tạp chí gặp anh và nói với anh: “Tôi là ngưòi
viết bài này, nếu có chuyên rắc rối, xin ‘chia lửa’ với tạp chí”. Ý định
khởi tố anh Phạm Quế Dương không thành, có lẽ người ta cân nhắc lại,
thấy lợi bất cập hại. Nhưng tờ tạp chí mới ra đời này đã bị đình bản
mười tháng trời…
Trong các cuộc thảo luận về đề cương Hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng, một trong những vấn đề nổi lên hàng đầu là về vị trí của Đảng trong xã hội. Theo tôi, đó là vấn đề gốc, không giải quyết đúng vấn đề này thì không thể nói tới bất cứ một sự cải thiện đáng kể nào trong quan hệ của Đảng và nhân dân, cũng như không thể nói một cách nghiêm túc tới vấn đề chỉnh đốn bản thân Đảng.
Lâu nay, trong nhận thức và trong thực tiễn mọi mặt đời sống xã hội, sự độc quyền lãnh đạo của Đảng được coi như một nguyên tắc căn bản, bất di bất dịch. Và ngay cả hiện nay, hầu như cũng không thấy ai đặt vấn đề thay thế vai trò lãnh đạo của Đảng bằng một đảng hay một tổ chức chính trị nào khác. Có lẽ không cần phải phân tích dài dòng về cái thực tế tích tụ từ dòng chảy đấu tranh giải phóng diễn ra trên đất nước ta từ hơn 60 năm nay ấy. Nó thường được nói lên bằng mấy tiếng đã trở thành thuộc lòng: sự độc quyền lãnh đạo của Đảng.
Nhưng chính cách nói ấy bao hàm một sự nhận lầm lớn, nguy hại cho chính sự lãnh đạo của Đảng. Nói vắn tắt, sự nhận lầm ấy là ở chỗ biến sự độc quyền lãnh đạo của Đảng từ một sự lựa chọn lịch sử khách quan của nhân dân thành một sự áp đặt ý chí chủ quan của Đảng.
Xin nói rõ hơn. Vào cuối những năm 20 – đầu những năm 30, trong các giai cấp xã hội ở nước ta, giai cấp vô sản tỏ ra có khả năng hơn cả về lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội. Và người tiêu biểu cho giai cấp vô sản là Đảng cộng sản. Các chính Đảng tư sản dân tộc và tiểu tư sản lần lượt hoặc thỏa hiệp với kẻ thù, hoặc thất bại không gượng dậy nổi. Trong khi đó, Đảng cộng sản, bằng những chủ trương cách mạng triệt để, bằng những sách lược thích hợp và bằng cả tấm gương anh dũng hy sinh của mình, đã dần dần tập hợp được quần chúng nhân dân ngày càng đông đo dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Sự thật lịch sử ấy không thể nào bác bỏ được. Việc nhân dân hưởng ứng và nghe theo sự lãnh đạo của Đảng trong hơn một nửa thế kỷ qua là sự lựa chọn của nhân dân. Sự độc quyền lãnh đạo của Đảng trong cách mạng đã hình thành một cách khách quan như thế.
Nhưng từ khi Đảng nắm được chính quyền một cách toàn vẹn, lúc đầu ở miền Bắc và sau đó trên cả nước, thì cách hiểu về độc quyền lãnh đạo của Đảng đã biến đổi về tính chất. Từ chỗ là một sự lựa chọn lịch sử khách quan, sự độc quyền lãnh đạo của Đảng dần dần được hiểu và được thực hiện thành sự thống trị tuyệt đối của Đảng trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, có khi cả đời sống cá nhân, thành “Đảng trị” (partocratie), Đảng biến thành “Đảng – Nhà nước”, thành một thứ “siêu nhà nước”, có toàn quyền quyết định tất cả, từ những chủ trương lớn đến những biện pháp thực hiện nhỏ, và mọi người dân chỉ được phép nghĩ theo, nói theo và làm theo những quyết định của Đảng, có khi chỉ là của một cấp lãnh đạo, thậm chí của một cá nhân lãnh đạo nào đó. Mọi ý kiến khác với ý kiến những người lãnh đạo của Đảng bị coi là chống Đảng, mà chống Đảng cũng có nghĩa là chống Nhà nước, chống chế độ, chống cách mạng. Cho đến khi Đảng nhận ra được những sai lầm của mình (triệt để hay không triệt để) thì xã hội đã gánh chịu những hậu quả cay đắng, chưa nói tới một số người phải chịu đựng sự trừng phạt trái pháp luật mà đến nay vẫn chưa giũ bỏ dược hết số phận oan trái của mình.
Khi đường lối, chủ trương của Đảng về cơ bản là đúng, khi đội ngũ đảng viên – tức là những người nhân danh Đảng để lãnh đạo các công dân khác một cách “toàn diện, triệt để” – về cơ bản còn lành mạnh, thì sự độc quyền lãnh đạo của Đảng đã có thể đem lại những hậu quả tiêu cực rồi (và trong thực tế, đã có những trường hợp như vậy). Huống hồ khi đường lối, chủ trương của Đảng không đúng, khi nó lại được những đảng viên thoái hóa, biến chất thực hiện, thì hậu quả thật không lường được. Mà hậu quả nặng nề nhất, tai hại nhất lại là hậu quả mất dần lòng dân mà Đảng phải gánh chịu.
Ở đây, có một mối liên hệ biện chứng được thể hiện rất rõ trong mấy chục năm qua. Khi nào chính bản thân người dân tự mình thừa nhận sự độc quyền lãnh đạo của Đảng, thì khi đó, dù Đảng không tự xưng tên (chẳng hạn trong thời kỳ Việt Minh 1941-1945, hay trong thời kỳ chống Mỹ dưới ngọn cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở miền Nam), người dân vẫn đi theo sự lãnh đạo của Đảng. Trong những trường hợp đó, Đảng có nấp dưới danh nghĩa gì đi nữa, người dân vẫn nhận ra Đảng là lãnh tụ chân chính của mình.
Trái lại, khi Đảng áp đặt ý chí chủ quan của mình lên xã hội, biến độc quyền lãnh đạo thành sự thống trị tuyệt đối của Đảng, thì khi đó người dân dần dần xa cách, không còn tin vào Đảng như trước nữa, và sự độc quyền lãnh đạo của Đảng cũng mất di từ trong lòng dân, một cách khách quan.
Nhưng còn một thứ đặc quyền khác còn nguy hiểm hơn nhiều: đặc quyền tinh thần, độc quyền chân lý. Có thể tính tác hại của đặc quyền vật chất thành những số tiền của mất đi, nhưng không thể nào tính được tác hại của đặc quyền tinh thần của độc quyền chân lý bằng những thước đo sờ thấy. Mà tác hại của thứ đặc quyền này đối với xã hội thì thật ghê gớm. Một chủ trương phiêu lưu về đối nội và đối ngoại có thể bắt xã hội trả giá nặng nề, làm chậm sự phát triển xã hội hàng thập kỷ. Một chủ trương sai, một quan diểm sai dẫn tới chỗ đánh thẳng vào những di sản tốt đẹp của quá khứ, làm cho đời sống hiện tại xuống cấp và phá hoại cả niềm tin của con người vào tương lai, nhiều thế hệ liền phải gánh chịu hậu quả không dễ gì xóa bỏ được.
Và bây giờ, nếu những đặc quyền vật chất ít ra đã bị dần dần hạn chế về mặt công khai, thì đặc quyền tinh thần, độc quyền chân lý vẫn tồn tại dai dẳng, nhân danh lợi ích của đất nước, của chủ nghĩa xã hội, của nhân dân.
Vì vậy, để bảo đảm cho nhân dân thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng (sự độc quyền lãnh đạo của Đảng xét về mặt khách quan), thì không có gì hay hơn bằng việc thủ tiêu càng sớm càng tốt, càng triệt để càng tốt những đặc quyền của Đảng đối với xã hội. Và một lần nữa, không chỉ thủ tiêu những đặc quyền vật chất, mà quan trọng hơn cả, là thủ tiêu đặc quyền tinh thần, độc quyền chân lý.
(Tất nhiên, xã hội vẫn có thể có và cần có những ưu đãi vật chất nào đó đối với những loại lao động đặc biệt có hiệu quả xã hội cao, đối với những bộ phận dân cư chưa đến tuổi lao động hoặc đã mất sức lao động…, nhưng đó không phải là đặc quyền và càng không phải là đặc quyền dành riêng cho đảng viên của Đảng cầm quyền. Cũng tất nhiên, khi những chủ trương của Đảng cầm quyền được các cơ quan đại biểu nhân dân bầu ra một cách thật sự dân chủ chấp nhận và biến thành luật pháp, thì mọi công dân đều phải tuân theo).
Sự lãnh đạo của Đảng chỉ được thừa nhận một cách tự nguyện và đầy đủ khi Đảng thật sự là lãnh tụ trí tuệ (tập hợp được trí tuệ của toàn xã hội), là lãnh tụ chính trị (đưa ra được những đường lối chính sách đúng đắn) và là lãnh tụ đạo đức (nêu gương đời sống lành mạnh) của xã hội. Và làm được như vậy, chắc chắn không có một lực lượng chính trị nào có thể giành mất vai trò lãnh đạo của Đảng.
Từ những phân tích trên đây, xin có mấy kiến nghị cụ thể:
—
* Xem: - Nguyễn Kiến Giang (Wikipedia). - Học giả Nguyễn Kiến Giang (Đàn chim Việt).
- Điều gì làm cho các nước vùng Baltic trở thành đặc biệt, nhất là trong bối cảnh của quá khứ cộng sản?
- Xây bảo tàng như vậy thì cần bao nhiêu tiền và kiếm ở đâu?
- Ở Latvia, giáo viên các trường dành cho học sinh nói tiếng Nga đưa trẻ em đến cái gọi là Tượng đài Chiến thắng và kể cho chúng nghe phiên bản của mình về lịch sử. Giải quyết vấn đề này như thế nào?
- Ông cho rằng ai là những người anh hùng trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản?
Cuộc trò chuyện do nhà báo Ģirts Vikmanis thực hiện
Dịch
qua bản tiếng Nga tại địa chỉ: http://inosmi.ru/sngbaltia/20131030/214334805.html
[1] Ý nói những sự kiện bất ngờ - ND.
Trong các cuộc thảo luận về đề cương Hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng, một trong những vấn đề nổi lên hàng đầu là về vị trí của Đảng trong xã hội. Theo tôi, đó là vấn đề gốc, không giải quyết đúng vấn đề này thì không thể nói tới bất cứ một sự cải thiện đáng kể nào trong quan hệ của Đảng và nhân dân, cũng như không thể nói một cách nghiêm túc tới vấn đề chỉnh đốn bản thân Đảng.
Lâu nay, trong nhận thức và trong thực tiễn mọi mặt đời sống xã hội, sự độc quyền lãnh đạo của Đảng được coi như một nguyên tắc căn bản, bất di bất dịch. Và ngay cả hiện nay, hầu như cũng không thấy ai đặt vấn đề thay thế vai trò lãnh đạo của Đảng bằng một đảng hay một tổ chức chính trị nào khác. Có lẽ không cần phải phân tích dài dòng về cái thực tế tích tụ từ dòng chảy đấu tranh giải phóng diễn ra trên đất nước ta từ hơn 60 năm nay ấy. Nó thường được nói lên bằng mấy tiếng đã trở thành thuộc lòng: sự độc quyền lãnh đạo của Đảng.
Nhưng chính cách nói ấy bao hàm một sự nhận lầm lớn, nguy hại cho chính sự lãnh đạo của Đảng. Nói vắn tắt, sự nhận lầm ấy là ở chỗ biến sự độc quyền lãnh đạo của Đảng từ một sự lựa chọn lịch sử khách quan của nhân dân thành một sự áp đặt ý chí chủ quan của Đảng.
Xin nói rõ hơn. Vào cuối những năm 20 – đầu những năm 30, trong các giai cấp xã hội ở nước ta, giai cấp vô sản tỏ ra có khả năng hơn cả về lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội. Và người tiêu biểu cho giai cấp vô sản là Đảng cộng sản. Các chính Đảng tư sản dân tộc và tiểu tư sản lần lượt hoặc thỏa hiệp với kẻ thù, hoặc thất bại không gượng dậy nổi. Trong khi đó, Đảng cộng sản, bằng những chủ trương cách mạng triệt để, bằng những sách lược thích hợp và bằng cả tấm gương anh dũng hy sinh của mình, đã dần dần tập hợp được quần chúng nhân dân ngày càng đông đo dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Sự thật lịch sử ấy không thể nào bác bỏ được. Việc nhân dân hưởng ứng và nghe theo sự lãnh đạo của Đảng trong hơn một nửa thế kỷ qua là sự lựa chọn của nhân dân. Sự độc quyền lãnh đạo của Đảng trong cách mạng đã hình thành một cách khách quan như thế.
Nhưng từ khi Đảng nắm được chính quyền một cách toàn vẹn, lúc đầu ở miền Bắc và sau đó trên cả nước, thì cách hiểu về độc quyền lãnh đạo của Đảng đã biến đổi về tính chất. Từ chỗ là một sự lựa chọn lịch sử khách quan, sự độc quyền lãnh đạo của Đảng dần dần được hiểu và được thực hiện thành sự thống trị tuyệt đối của Đảng trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, có khi cả đời sống cá nhân, thành “Đảng trị” (partocratie), Đảng biến thành “Đảng – Nhà nước”, thành một thứ “siêu nhà nước”, có toàn quyền quyết định tất cả, từ những chủ trương lớn đến những biện pháp thực hiện nhỏ, và mọi người dân chỉ được phép nghĩ theo, nói theo và làm theo những quyết định của Đảng, có khi chỉ là của một cấp lãnh đạo, thậm chí của một cá nhân lãnh đạo nào đó. Mọi ý kiến khác với ý kiến những người lãnh đạo của Đảng bị coi là chống Đảng, mà chống Đảng cũng có nghĩa là chống Nhà nước, chống chế độ, chống cách mạng. Cho đến khi Đảng nhận ra được những sai lầm của mình (triệt để hay không triệt để) thì xã hội đã gánh chịu những hậu quả cay đắng, chưa nói tới một số người phải chịu đựng sự trừng phạt trái pháp luật mà đến nay vẫn chưa giũ bỏ dược hết số phận oan trái của mình.
Khi đường lối, chủ trương của Đảng về cơ bản là đúng, khi đội ngũ đảng viên – tức là những người nhân danh Đảng để lãnh đạo các công dân khác một cách “toàn diện, triệt để” – về cơ bản còn lành mạnh, thì sự độc quyền lãnh đạo của Đảng đã có thể đem lại những hậu quả tiêu cực rồi (và trong thực tế, đã có những trường hợp như vậy). Huống hồ khi đường lối, chủ trương của Đảng không đúng, khi nó lại được những đảng viên thoái hóa, biến chất thực hiện, thì hậu quả thật không lường được. Mà hậu quả nặng nề nhất, tai hại nhất lại là hậu quả mất dần lòng dân mà Đảng phải gánh chịu.
Ở đây, có một mối liên hệ biện chứng được thể hiện rất rõ trong mấy chục năm qua. Khi nào chính bản thân người dân tự mình thừa nhận sự độc quyền lãnh đạo của Đảng, thì khi đó, dù Đảng không tự xưng tên (chẳng hạn trong thời kỳ Việt Minh 1941-1945, hay trong thời kỳ chống Mỹ dưới ngọn cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở miền Nam), người dân vẫn đi theo sự lãnh đạo của Đảng. Trong những trường hợp đó, Đảng có nấp dưới danh nghĩa gì đi nữa, người dân vẫn nhận ra Đảng là lãnh tụ chân chính của mình.
Trái lại, khi Đảng áp đặt ý chí chủ quan của mình lên xã hội, biến độc quyền lãnh đạo thành sự thống trị tuyệt đối của Đảng, thì khi đó người dân dần dần xa cách, không còn tin vào Đảng như trước nữa, và sự độc quyền lãnh đạo của Đảng cũng mất di từ trong lòng dân, một cách khách quan.
*
Sự thống trị tuyệt đối của Đảng thể
hiện ở chỗ nào? Trước hết, ở những đặc quyền và ở sự độc chiếm của Đảng
và các đảng viên. Tất cả các cơ quan dân cử, các cơ quan lãnh đạo và
quản lý xã hội đều được cấu thành từ đảng viên (tất cả hoặc gần hết).
Phải là đảng viên thì mới có thể giữ những chức vụ lãnh đạo và quản lý
từ trên xuống dưới. Do đó, muốn hưởng những đặc quyền vật chất (lương
bổng cao, phương tiện sinh hoạt tốt, v.v…), phải là đảng viên. Không
phải tất cả những kẻ đặc quyền đặc lợi về vật chất hiện nay đều là đảng
viên, nhưng phải nhận rằng tình trạng đặc quyền đặc lợi của đảng viên có
chức quyền đang nêu gương xấu và tạo cớ cho những kẻ đặc quyền đặc lợi
khác noi theo. Đặc quyền đặc lợi về vật chất, như đã thấy quá rõ, đang
trở thành một thứ ung nhọt phá hủy cơ thể xã hội. Nhưng còn một thứ đặc quyền khác còn nguy hiểm hơn nhiều: đặc quyền tinh thần, độc quyền chân lý. Có thể tính tác hại của đặc quyền vật chất thành những số tiền của mất đi, nhưng không thể nào tính được tác hại của đặc quyền tinh thần của độc quyền chân lý bằng những thước đo sờ thấy. Mà tác hại của thứ đặc quyền này đối với xã hội thì thật ghê gớm. Một chủ trương phiêu lưu về đối nội và đối ngoại có thể bắt xã hội trả giá nặng nề, làm chậm sự phát triển xã hội hàng thập kỷ. Một chủ trương sai, một quan diểm sai dẫn tới chỗ đánh thẳng vào những di sản tốt đẹp của quá khứ, làm cho đời sống hiện tại xuống cấp và phá hoại cả niềm tin của con người vào tương lai, nhiều thế hệ liền phải gánh chịu hậu quả không dễ gì xóa bỏ được.
Và bây giờ, nếu những đặc quyền vật chất ít ra đã bị dần dần hạn chế về mặt công khai, thì đặc quyền tinh thần, độc quyền chân lý vẫn tồn tại dai dẳng, nhân danh lợi ích của đất nước, của chủ nghĩa xã hội, của nhân dân.
Vì vậy, để bảo đảm cho nhân dân thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng (sự độc quyền lãnh đạo của Đảng xét về mặt khách quan), thì không có gì hay hơn bằng việc thủ tiêu càng sớm càng tốt, càng triệt để càng tốt những đặc quyền của Đảng đối với xã hội. Và một lần nữa, không chỉ thủ tiêu những đặc quyền vật chất, mà quan trọng hơn cả, là thủ tiêu đặc quyền tinh thần, độc quyền chân lý.
(Tất nhiên, xã hội vẫn có thể có và cần có những ưu đãi vật chất nào đó đối với những loại lao động đặc biệt có hiệu quả xã hội cao, đối với những bộ phận dân cư chưa đến tuổi lao động hoặc đã mất sức lao động…, nhưng đó không phải là đặc quyền và càng không phải là đặc quyền dành riêng cho đảng viên của Đảng cầm quyền. Cũng tất nhiên, khi những chủ trương của Đảng cầm quyền được các cơ quan đại biểu nhân dân bầu ra một cách thật sự dân chủ chấp nhận và biến thành luật pháp, thì mọi công dân đều phải tuân theo).
Sự lãnh đạo của Đảng chỉ được thừa nhận một cách tự nguyện và đầy đủ khi Đảng thật sự là lãnh tụ trí tuệ (tập hợp được trí tuệ của toàn xã hội), là lãnh tụ chính trị (đưa ra được những đường lối chính sách đúng đắn) và là lãnh tụ đạo đức (nêu gương đời sống lành mạnh) của xã hội. Và làm được như vậy, chắc chắn không có một lực lượng chính trị nào có thể giành mất vai trò lãnh đạo của Đảng.
Từ những phân tích trên đây, xin có mấy kiến nghị cụ thể:
- Xóa bỏ điều 4 trong hiến pháp qui định về mặt pháp lý vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội, để cho các tổ chức Đảng và đảng viên không thể dựa vào ưu thế pháp lý của mình trong sự lãnh đạo, và sự lãnh đạo của Đảng chỉ dựa vào phương pháp thuyết phục. Tất cả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng không mang tính chất bắt buộc đối với các công dân về mặt pháp lý (trừ những trường hợp đã biến thành luật);
- Đảng không độc chiếm các cơ quan dân cử, các cơ quan lãnh đạo và quản lý xã hội; chỉ dành một tỉ lệ không quá 50% thành phần các cơ quan này cho đảng viên, như vậy sẽ tập hợp được những người ngoài Đảng ưu tú vào công việc quản lý đất nước;
- Ban lãnh đạo các cấp, kể cả trung ương, tiến hành những cuộc đối thoại bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau với những người tiêu biểu cho các xu hướng khác nhau trong xã hội, cả với những người có ý kiến ngược với ý kiến của Đảng, không định kiến, không trù dập;
- Tiến hành những cuộc tranh luận công khai trên báo chí về các vấn đề quốc kế dân sinh, không hạn chế tự do tư tưởng, chỉ với điều kiện không trái với hiến pháp và luật pháp được xây dựng thật sự dân chủ;
- Các cơ quan thuộc bộ máy Đảng không được trực tiếp chỉ huy điều hành của những cơ quan, những tổ chức không thuộc hệ thống tổ chức của Đảng (cụ thể: ban tuyên huấn không trực tiếp chỉ huy báo chí, ban tổ chức không được trực tiếp quyết định công việc nhân sự…).
- Cuối cùng, giải quyết tất cả những vụ án oan về tư tưởng và chính trị trước đây, sòng phẳng với những sai lầm của Đảng trong quá khứ; thật sự khôi phục đầy đủ các quyền công dân cho người bị oan ức; thực hiện hòa hợp dân tộc một cách chân thành.
—
* Xem: - Nguyễn Kiến Giang (Wikipedia). - Học giả Nguyễn Kiến Giang (Đàn chim Việt).
Nói thật về chủ nghĩa cộng sản
Phạm Nguyên Trường dịch
Trong thời gian ở thăm
Latvia, ông Lee Edwards, chủ tịch Quỹ tưởng niệm các nạn chân của chủ nghĩa cộng sản, đã dành cho tờ Latvijas Avizeb buổi phỏng vấn
dưới đây. Xin nói thêm rằng tổ chức The Victims of Communism Memorial Foundation (Quỹ tưởng niệm các nạn chân của
chủ nghĩa cộng sản), do ông lãnh đạo, đang quyên góp tiền để dựng ở Washington
đài tưởng niệm các nạn nhân của ý thức hệ cộng sản.
- Các ông có ý định xây dựng một đài tưởng niệm các nạn nhân của chủ
nghĩa cộng sản ở Washington. Tại sao hiện nay đây là công việc quan trọng?
- Chúng ta có thể nói đến
100 triệu nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản trên thế giới. Đây là số liệu từ tác
phẩm của sáu nhà trí thức Pháp, có tên là Chúa
trời đã thua, do nhà xuất bản của Đại học Harvard ấn hành. Bức tường Berlin
sụp đổ cách đây 20 năm, nhiều người nghĩ rằng chủ nghĩa cộng sản đã bị đánh
bại, và chúng ta có thể chắc chắn rằng nó sẽ không bao giờ quay trở lại nữa. Nhưng,
không được quên các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản. Năm 2007, chúng tôi đã
khánh thành bức tượng tưởng niệm các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản tại
Washington. Đây là hình ảnh của Nữ thần dân chủ - một bức tượng như thế đã từng
đứng ở quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Chúng tôi đã tạo ra
một bảo tàng ảo về các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, và vừa mới đây đã viết
xong cuốn sách giáo khoa cho các trường trung học. Quỹ tưởng niệm các nạn chân của chủ
nghĩa cộng sản đang hoạt động trong
lĩnh vực nghiên cứu di sản, nghiên cứu quá khứ, hiện tại và giáo dục. Trên thế
giới vẫn còn năm nước cộng sản, và sự áp bức của các chế độ này cũng vẫn khốc
liệt như trước đây. Về bức tượng, phải nói rằng hàng năm các nhà ngoại giao của
nhiều nước vẫn đến thăm, cả những người đã từng là nạn nhân của chủ nghĩa cộng
sản như người Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và Cuba nữa. Luật về tổ chức của
chúng tôi được thông qua dưới trào của tổng thống Dân chủ, Bill Clinton; còn tượng
đài khánh thành khi tổng thống là người thuộc đảng Cộng hòa, George Walker Bush,
nắm quyền. Một cách nữa để chúng ta tưởng nhớ đến tác hại của chủ nghĩa cộng
sản là huy chương Truman – Reagan, tặng cho những người có thành tích trong sự
nghiệp chống cộng. Tên của huy chương có ý nghĩa biểu tượng vì chiến tranh lạnh
bắt đầu dưới trào đảng viên Dân chủ Harry Truman, còn Ronald Reagan, đảng viên Cộng
hòa, đã làm được rất nhiều trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản. Giải
được trao lần đầu tiên năm 1999, và một trong những người nhận đầu tiên là nhà
lãnh đạo phong trào Sąjūdis, đòi độc lập cho Litva, là ông Vytautas
Landsbergis.
- Điều gì làm cho các nước vùng Baltic trở thành đặc biệt, nhất là trong bối cảnh của quá khứ cộng sản?
- Hoa Kỳ đã có mối liên
hệ đặc biệt với các nước vùng Baltic, khi Liên Xô chiếm những nước này, chúng
tôi không công nhận việc chiếm đóng và sáp nhập đó. Chính phủ Mỹ đã đưa ra
tuyên bố, gọi là tuyên bố Sumner Welles. Trong bảo tàng, chúng tôi phải nói với
mọi người những câu chuyện dễ hiểu, và đối với các nước vùng Baltic thì đấy là phong
trào Cách mạng hát và Con đường Baltic. Tôi đã đến thăm Bảo tàng Chiếm đóng ở
Riga - Ông Nollendorfs đã làm được một
công việc tuyệt vời và chúng tôi cũng sẽ làm như vậy, chúng tôi được bảo tàng
của các bạn khích lệ rất nhiều. Sẽ có những cuộc triển lãm dành cho từng nước, thí
dụ như Nga, Trung Quốc, sẽ một cuộc triển lãm đặc biệt dành cho các nước vùng
Baltic. Ngoài ra còn có một phòng dành tưởng niệm những anh hùng chống cộng nữa.
Chúng tôi có thể dựng trong bảo tàng một trại tù (Gulag) với những chiếc giường
gỗ, và khi có người vào thì nhiệt độ sẽ tự động giảm xuống. Chúng tôi muốn trưng
bày cả những toa tầu dùng để trục xuất người tới Siberia. Chúng tôi cũng muốn
đặt một tháp canh như trên Bức tường Berlin nữa.
- Xây bảo tàng như vậy thì cần bao nhiêu tiền và kiếm ở đâu?
- Theo luật pháp Hoa Kỳ,
chúng ta không thể yêu cầu nhà nước tài trợ cho đài tưởng niệm đó. Đài tưởng
niệm các nạn nhân của vụ diệt chủng người Do Thái (Holocaust) ở Washington cũng
được xây dựng bằng nguồn vốn tư nhân. Vì vậy, chúng tôi hy vọng sẽ được các tổ
chức xã hội hỗ trợ. Có thể chúng tôi sẽ yêu cầu chính phủ Mỹ hỗ trợ địa điểm
đặt đài tưởng niệm, cũng như thu hút tài trợ từ nước ngoài. Hungary đã trích ra
một triệu, chúng tôi sẽ sử dụng để tạo ra một nhóm công tác và cho chiến dịch
quyên góp. Cần tổng cộng 100 triệu USD, một nửa làm bảo tàng, một nửa cho tổ
chức làm công việc giáo dục. Mục tiêu của chúng tôi là bắt đầu xây dựng vào năm
2017, kỷ niệm 100 năm cuộc Cách mạng Bolshevik ở Nga.
- Khổ đau có thể được đo không chỉ bằng số nạn nhân, mà còn có thể đo
bằng kinh tế và xã hội ...
- Chủ nghĩa cộng sản là ngụy
khoa học, được ngụy trang như một hệ thống kinh tế và được thực hiện bằng lực
lượng võ trang. Nó được xây dựng trên nền cát ướt. Chủ nghĩa cộng sản đã gây ra
những hậu quả về chính trị, kinh tế và chiến lược. Không có cộng sản thì chúng
tôi đã không có các cuộc chiến tranh Việt Nam và Triều Tiên rồi. Nếu năm 1939 không
có Hiệp ước Molotov- Ribbentrop thì đã không có Chiến tranh thế giới II. Chúng
ta đang chứng kiến hậu quả kinh tế trong các nước vùng Baltic và Trung Âu - họ
đã bị chủ nghĩa cộng sản hành hạ suốt mấy thập kỉ. Trong khi đó, Tây Âu kinh tế
phát triển tốt hơn. Tất cả những người sống trong thế kỷ XX đều khổ vì chủ
nghĩa cộng sản, và chúng ta phải dạy cho mọi người như thế.
- Tại Latvia, các nhà khoa học đã tính được những thiệt hại do Liên Xô gây ra trong thời kì chiếm đóng. Có nên yêu cầu Nga bồi thường không?
- Tại Latvia, các nhà khoa học đã tính được những thiệt hại do Liên Xô gây ra trong thời kì chiếm đóng. Có nên yêu cầu Nga bồi thường không?
- Tôi không bình luận về
công việc nội bộ của Latvia, đây là vấn đề của nền chính trị địa phương.
- Có thể coi chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản là như nhau không?
- Holocaust là độc ác
nhất. Chủ nghĩa cộng sản - cũng ác, nhưng chủ nghĩa phát xít là sự độc ác đặc
biệt, không thể nào diễn tả nổi. Tôi xin lưu ý rằng Nghị viện châu Âu đã chuẩn
bị một nghị quyết bày tỏ quan điểm chính trị cả về chủ nghĩa phát xít lẫn chủ
nghĩa cộng sản.
- Ở Latvia, giáo viên các trường dành cho học sinh nói tiếng Nga đưa trẻ em đến cái gọi là Tượng đài Chiến thắng và kể cho chúng nghe phiên bản của mình về lịch sử. Giải quyết vấn đề này như thế nào?
- Trong chế độ dân chủ,
không thể cấm người khác nói; nhưng cùng với quyền nói, còn có trách nhiệm nói
sự thật nữa. Bộ Giáo dục, Bộ Quốc phòng và các giáo viên phải làm chuyện này. Nói
rằng Latvia tự nguyện tham gia Liên Xô là không đúng. Những thứ tôi nhìn thấy
trong bảo tàng chiếm đóng là đúng.
- Người Mỹ đương đại theo ông là như thế nào, họ có hiểu về chủ nghĩa
cộng sản và di sản của hệ tư tưởng của nó không?
- Không phải tất cả
người Mỹ đều biết chuyện đó. Khi chúng tôi viết sách cho nhà trường, bao gồm
chủ nghĩa cộng sản của Marx, Mao và cho đến ngày nay, chúng tôi gửi cho giáo
viên khắp cả nước. Họ cảm thấy thú vị. Cần dạy không chỉ học sinh về những vấn
đề của chủ nghĩa cộng sản, mà còn phải dạy cả giáo viên nữa.
- Ông cho rằng ai là những người anh hùng trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản?
- Đó là Vaclav Havel,
Lech Walesa, Andrei Sakharov, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II – đấy là bốn chiến
sĩ tuyệt vời, nhưng còn nhiều người khác nữa.
- Việc bổ nhiệm Karol Wojtyla làm Giáo Hoàng có phải là bước đi mang tính
chiến thuật của Vatican trong cuộc chiến chống chủ nghĩa cộng sản hay không?
- Ngài là một linh mục
và hồng y sống dưới chế độ cộng sản, và đã trải nghiệm tất cả ngay trên cơ thể
của mình. Chuyến đi đầu tiên của Ngài tới Ba Lan sau khi trở thành Giáo Hoàng là
có tính biểu tượng, trong thời gian đó Ngài nhấn mạnh: “Đừng sợ.” Câu nói đó đã
khuyến khích mọi người, phong trào “Đoàn kết” được thành lập. Ba Lan trở thành
tấm gương. Âm mưu ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho thấy ảnh hưởng
chính trị của Ngài lớn đến mức nào.
- Thách thức đối với chủ nghĩa cộng sản hiện
nay là gì?
- Cho đến nay, còn năm
nước cộng sản. Với bốn nước là Lào, Việt Nam, Trung Quốc và Cuba, chúng ta có
thể làm việc: nói về vi phạm nhân quyền và áp dụng những biện pháp trừng phạt
kinh tế. Có thể trao giải thưởng cho các nhà hoạt động. Bắc Triều Tiên là
chuyện khác, đấy là nhà nước toàn trị tách biệt hẳn với thế giới. Thách thức
lớn nhất hiện nay là giáo dục. Nhờ công nghệ hiện đại, nói sự thật dễ dàng hơn trước
rất nhiều. Trang web của chúng tôi có hàng ngàn người đọc, trong đó có người Trung
Quốc, người Việt Nam và người Cuba. Ngay cả Trung Quốc, với 80 triệu đảng viên,
cũng không thể có ảnh hưởng tới toàn bộ dân số là 1,3 tỷ người. Tự do sẽ vượt
qua tất cả.
Cuộc trò chuyện do nhà báo Ģirts Vikmanis thực hiện
Robert Nozick - Vì sao các nhà trí thức phản đối chủ nghĩa tư bản?
Phạm Nguyên Trường dịch
Lời người dịch: Mọi người đều biết rằng các nhà tri thức trên khắp thế giới là một
trong số những người chống chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường quyết liệt
nhất và kiên trì nhất. Các nhà văn, nhà báo, các giáo sư đại học theo đường lối
tả khuynh ở đâu cũng có tỉ lệ rất cao. Robert Nozick, một trong những người cổ
vũ cho chủ nghĩa tự do nổi bật nhất cho rằng nguyên nhân nằm ở hệ thống giáo
dục của nhà trường hiện đại: tạo ra trong các nhà tri thức muốn biến thế giới
thành một lớp học cho tất cả mọi người.
Đáng ngạc nhiên là nhiều trí thức lại có thái
độ phản đối chủ nghĩa tư bản đến như vậy. Các nhóm kinh tế-xã hội khác không có
thái độ phản đối đến như thế. Như vậy là, về mặt thống kê, trí thức là những người bất thường.
Không phải tất cả trí thức đều là “tả
khuynh”. Tương tự như các nhóm khác, ý
kiến của họ phân bố trên toàn bộ đường đồ thị. Nhưng ý kiến của các nhà trí
thức ngả về và nghiêng về phía tả khuynh nhiều hơn.
Với từ trí thức, tôi không có ý nói tất cả
những nhà khoa bảng hoặc những người có trình độ học vấn nhất định nào đó, mà
muốn nói tới những người, trong khi hành nghề, thường phải làm việc với những ý
tưởng được thể hiện bằng lời nói, tạo ra dòng chảy ngôn từ mà những người khác phải
đọc, phải nghe. Những người “thợ rèn chữ” đó gồm các nhà thơ, nhà văn, nhà phê
bình văn học, các nhà báo, và các thày giáo, các giáo sư. Số này không bao gồm những
người sản xuất và truyền tải thông tin đã lượng hóa và toán học hóa (các “thợ
rèn số”) hoặc những người làm việc với phương tiện nghe nhìn như họa sĩ, điêu
khắc gia, quay phim. Khác với các “thợ rèn chữ”, tỉ lệ những người chống lại
chủ nghĩa tư bản làm trong các ngành này không cao như thế. Các “thợ rèn chữ” tập
trung ở những khu vực nghề nghiệp nhất định: Các viện và học viện, các phương
tiện truyền thông, bộ máy hành chính của chính phủ.
Trong xã hội tư bản các “thợ rèn chữ” hoàn toàn
an tâm: họ có quyền tự do đưa ra, tiếp nhận, và tuyên truyền những ý tưởng mới,
có quyền tự do đọc và thảo luận những ý tưởng này. Kỹ năng của họ được trọng
dụng, thu nhập của họ cao hơn mức trung bình. Tại sao não trạng bài tư bản trong
số những người này lại cao như thế? Hơn nữa, một số dữ liệu cho thấy người trí
thức càng giàu có và thành công thì ông ta càng dễ có thái độ phản đối chủ
nghĩa tư bản hơn. Não trạng bài tư bản thường xuất phát từ “nhóm đối lập tả
khuynh”, nhưng không chỉ có thế. Yeats, Eliot và Pound phản đối xã hội thị
trường từ lập trường của cánh hữu.
Sự chống đối chủ nghĩa tư bản của các “thợ
rèn chữ” có ý nghĩa xã hội không nhỏ. Chính họ là những người tạo ra ý tưởng và
hình ảnh của chúng ta về xã hội, họ đưa ra các chính sách cho bộ máy quản lí
lựa chọn. Họ cung cấp cho chúng ta câu chữ để thể hiện, từ tác phẩm chuyên đến khẩu
hiệu. Vì vậy mà sự phản đối của họ có tầm quan trọng, nhất là trong một xã hội
ngày càng phụ thuộc vào việc hình thành và phổ biến thông tin một cách minh
bạch.
Chúng ta có thể thấy hai cách giải thích vì
sao nhiều trí thức phản đối chủ nghĩa tư bản. Cách thứ nhất liên quan tới tác
nhân đặc thù của các nhà trí thức có thái độ bài tư bản. Loại thứ hai liên quan
tới tất cả các nhà trí thức, tức là lực thúc đẩy họ ngả sang quan điểm bài tư
bản. Nó có đẩy một người trí thức cụ thể sang phía bài tư bản hay không còn phụ
thuộc vào các lực lượng khác đang có ảnh hưởng đối với anh ta. Nhưng, gộp lại,
vì nó làm cho thái độ bài tư bản của trí thức cao thêm, kết quả là tác nhân này
sẽ tạo ra tỉ lệ cao các nhà trí thức có thái độ bài tư bản. Lời giải thích của
chúng tôi sẽ thuộc loại thứ hai. Chúng tôi sẽ xác định nhân tố đẩy người trí
thức sang lập trường bài tư bản, nhưng không đảm bảo rằng có thể áp dụng nó cho
từng trường hợp cụ thể.
Giá trị
của của người trí thức
Hiện nay, các nhà trí thức luôn nghĩ rằng họ
là những người có giá trị nhất trong xã hội, là những người có uy tín và quyền
lực cao nhất, những người được tưởng thưởng lớn nhất. Người trí thức cho rằng
họ có quyền như thế. Nhưng, nói chung,
xã hội tư bản không tôn vinh những người trí thức của nó. Ludwig von Mises giải
thích thái độ bất bình đặc biệt của giới trí thức - khác với người công nhân – là
họ giao thiệp với các nhà tư sản thành công và do đó họ lấy những người đó ra so
sánh và cảm thấy nhục nhã khi thấy tình trạng thấp kém hơn của mình. Nhưng,
ngay cả những người trí thức không giao tiếp với các nhà tư sản cũng cảm thấy
bực bội như thế, chỉ giao tiếp không thì chưa đủ, những người dạy các môn thể
thao và dạy múa cho những người giàu có và làm việc với họ không phải là những
người bài tư bản nổi bật.
Thế thì tại sao các trí thức hiện nay cảm
thấy có quyền được hưởng những phần thưởng cao nhất của xã hội và bất mãn khi
họ không nhận được sự tưởng thưởng như thế? Người trí thức cho rằng họ là những
người có giá trị nhất, là những người có công nhất, và xã hội nên tưởng thưởng
cho mọi người phù hợp với giá trị và công lao của họ. Nhưng xã hội tư bản không
làm theo nguyên tắc phân phối “hưởng theo giá trị hay công lao”. Ngoài quà
tặng, tài sản thừa kế, và tiền nhận được từ cờ bạc, vẫn thường xảy ra trong một
xã hội tự do; thị trường trả công cho những người đáp ứng nhu cầu của người
khác được thể hiện trên thương trường, và tiền công phụ thuộc vào nhu cầu và
nguồn cung thay thế lớn đến mức nào. Các doanh nhân và người lao động thất bại
không có thái độ thù địch đối với hệ thống tư bản như các trí thức-“thợ rèn
chữ”. Chính cảm giác về giá trị vượt trội nhưng không được công nhận của mình,
quyền của mình bị phản bội, mới tạo ra thái độ thù nghịch như thế.
Tại sao các trí thức-“thợ rèn chữ” cho rằng
họ là những người có giá trị nhất, và tại sao họ lại cho rằng phải phân phối
theo giá trị? Xin lưu ý: nguyên tắc này không phải là tất yếu. Có những mô hình
phân phối khác đã được đề xuất, trong đó có phân phối cào bằng, phân phối theo
đức hạnh, phân phối theo nhu cầu. Nói cho ngay, thậm chí một xã hội quan tâm tới
công bằng cũng không cần đặt ra mục tiêu là phải có một mô hình phân phối. Công
bằng trong phân phối có thể nằm trong quá trình trao đổi tự nguyện của cải kiếm
được và dịch vụ được thực hiện một cách công chính. Dù kết quả của quá trình đó
có như thế nào thì đấy cũng là kết quả công bằng, nhưng kết quả không cần phải
phù hợp với bất kì mô hình cụ thể nào. Thế thì tại sao các “thợ rèn chữ” lại
coi mình là những người có giá trị nhất và chấp nhận nguyên tắc phân phối theo
giá trị?
Ngay từ khi tư tưởng được ghi chép lại, người
trí thức đã nói với chúng ta rằng công việc của họ là có giá trị nhất. Plato
đánh giá khả năng suy luận cao hơn lòng can đảm và sự khát khao và cho rằng
triết gia phải cai trị; Aristotle cho rằng chiêm nghiệm bằng trí tuệ là hoạt
động cao cả nhất. Không có gì ngạc nhiên là trong những văn bản còn lại đến
thời nay có những đánh giá cao như thế về hoạt động trí tuệ. Nói cho cùng, những
người đưa ra đánh giá, những người ghi chép lại lý do ủng hộ những đánh giá như
thế đều là trí thức cả. Họ tự ca ngợi mình. Những người đánh giá những việc
khác cao hơn tư duy bằng ngôn từ, dù đấy có là săn bắn, quyền lực hay thú vui
xác thịt quanh năm suốt tháng, không bận tâm đến việc ghi chép lại quan điểm
của mình cho hậu thế. Chỉ có các nhà trí thức mới làm ra lý thuyết về việc ai là người cao quý nhất mà thôi.
Cái học của người trí thức
Tác nhân nào làm cho một số trí thức có cảm
giác rằng mình có giá trị cao hơn? Tôi muốn tập trung vào một thiết chế cụ thể:
trường học. Khi kiến thức sách vở ngày càng trở nên quan trọng, việc học tập –
thế hệ trẻ cùng nhau học đọc và học kiến thức sách vở trong nhà trường – trở
thành hiện tượng phổ biến. Bên cạnh gia đình, trường học trở thành tổ chức quan
trọng nhằm định hình thái độ của thế hệ trẻ, và hầu như tất cả những người sau
này trở thành nhà trí thức đều đã từng học tập ở trường. Họ là những người có thành
tích trong học tập. Người ta đem họ ra so sánh với những người khác và được coi
là giỏi hơn. Họ được khen ngợi và được tưởng thưởng, họ là trò cưng của các giáo
viên. Làm sao họ lại có thể coi mình không phải là những người ưu việt cho được?
Lúc nào họ cũng cảm thấy sự khác biệt trong việc xứ lí các ý tưởng, trong việc
mình có khả năng tư duy nhanh nhạy hơn. Nhà trường nói với họ và chỉ cho họ
thấy rằng họ là những người giỏi hơn.
Nhà trường còn thể hiện và qua đó dạy cho học
sinh nguyên tắc khen thưởng theo phẩm chất (trí tuệ). Những người có phẩm chất
trí tuệ cao được khen ngợi, được giáo viên yêu, và được điểm cao nhất. Theo
đánh giá của nhà trường, các học trò thông minh nhất tạo ra tầng lớp thượng
lưu. Dù không nằm trong chương trình giảng dạy chính thức, nhưng các nhà trí
thức đã học được trong nhà trường bài học rằng họ có giá trị cao hơn những
người khác, và giá trị cao đó cho họ quyền được tưởng thưởng cao hơn.
Nhưng xã hội thị trường rộng lớn hơn ngoài
kia lại dạy cho người ta bài học khác. Ở đấy, những phần thưởng lớn nhất không
thuộc về những người nói tài nhất. Ở đấy, các kỹ năng trí tuệ không được đánh
giá cao nhất. Đã học được rằng họ là
những người có giá trị nhất, xứng đáng được tưởng thưởng nhất, có quyền được
tưởng thưởng nhất, làm sao phần đông các nhà trí thức không tức giận xã hội tư
bản, một xã hội đã tước đoạt những thứ họ xứng đáng được hưởng, những thứ mà ưu
thế của họ đã cho họ “quyền” được hưởng? Đáng ngạc nhiên là thái độ thù nghịch
sâu cay và buồn nản của các nhà trí thức đối với xã hội tư bản - dù được che
đậy dưới nhiều lý do thích hợp, thường được họ trình bày một cách công khai –
vẫn tiếp tục tồn tại ngay cả khi những lý do cụ thể đó được chứng minh là không
đúng?
Nói rằng trí thức cảm thấy có quyền nhận
những phần thưởng cao nhất mà xã hội nói chung có thể cung cấp (tài sản, địa
vị…), tôi không có ý cho là trí thức coi những phần thưởng đó là hàng hóa có
giá trị cao nhất. Có thể các nhà khoa bảng đánh giá niềm vui mà hoạt động trí
tuệ mang lại cho mình hay sự kính trọng của các thế hệ sau cao hơn những phần
thưởng kia. Tuy nhiên, họ cũng cảm thấy có quyền được xã hội nói chung đánh giá
cao nhất – cao nhất mà xã hội có thể - mặc dù họ có thể coi phần thưởng cao
nhất đó là không đáng kể. Tôi không có ý nhấn mạnh những phần thưởng sẽ chui vào
hầu bao của người trí thức hay thậm chí tôn trọng cá nhân họ. Tự coi mình là
trí thức, sự kiện là hoạt động trí tuệ không được đánh giá và tưởng thưởng cao
nhất đã làm họ bực bội rồi.
Các nhà khoa bảng muốn toàn bộ xã hội trở
thành một trường học, tương tự như môi trường nơi họ đã thành công đến mức ấy
và được đánh giá cao đến mức ấy. Áp dụng những tiêu chuẩn tưởng thưởng khác với
những tiêu chuẩn trong xã hội, nhà trường chắc chắn sẽ làm cho một số người sau
này cảm thấy mất giá. Những người ở những vị trí cao nhất trong bảng xếp hạng
của nhà trường sẽ cho rằng mình có quyền giữ vị trí hàng đầu - không chỉ trong cái
xã hội nhỏ bé đó mà còn có vị trí cao nhất trong xã hội rộng hơn. Những người
đó sẽ căm thù cái xã hội không cư xử với mình theo đúng ước vọng và quyền mà họ
tự gán cho mình. Như vậy là, hệ thống trường học tạo ra não trạng bài tư bản
trong giới trí thức. Chính xác hơn, nó tạo ra não trạng bài tư bản trong giới
trí thức làm việc với ngôn từ. Tại sao các “thợ rèn số” không có thái độ như
các “thợ rèn chữ”? Tôi ngờ rằng những đứa trẻ sáng dạ trong tính toán - dù cũng
được điểm cao trong các kỳ thi - không được thày giáo chú ý và ưu ái bằng những
em nói tài. Chính khả năng giao tiếp đó mang lại cho các em phần thưởng của
thày giáo, và rõ ràng là chính những phần thưởng này đã tạo ra cảm giác ưu trội
của mình.
Kế hoạch hóa tập trung trong lớp học
Còn một điểm nữa cần nói thêm. Các nhà trí
thức-“thợ rèn chữ” (trong tương lai) thường thành công trong hệ thống trường
học chính thức, nơi những phần thưởng liên quan là do các “cơ quan quyền lực”
của các giáo viên phân phát. Nhưng trong trường còn có hệ thống xã hội phi
chính thức trong lớp học, ngoài hành lang, và trên sân trường, nơi phần thưởng
được phân phối không theo chỉ đạo của cấp trên mà phân phối một cách tự phát,
theo ý thích của các đồng môn. Ở đây các nhà trí thức không thành công đến như
thế.
Vì vậy, không có gì ngạc nhiên là, phân phối
hàng hóa và phần thưởng thông qua một cơ chế do trung ương tổ chức được các nhà
trí thức coi là thích hợp hơn là “tình trạng vô chính phủ và hỗn loạn” của thương
trường. Phân phối trong khuôn khổ hệ thống xã hội xã hội chủ nghĩa kế hoạch tập
trung so với phân phối trong một xã hội tư bản chủ nghĩa cũng tương tự như phân
phối bởi các giáo viên so với phân phối trên sân trường và ngoài hành lang.
Giải thích của chúng tôi không nói các nhà
trí thức (tương lai) chiếm đa số ngay trong tầng lớp thượng lưu của trường.
Nhóm này có thể bao gồm phần lớn là những người có kết quả học tập nổi bật
(nhưng không phải là áp đảo) và biết cách cư xử đúng mực, thích làm người khác
hài lòng, có thái độ thân thiện, đắc nhân tâm, và biết chơi bằng (và tuân theo)
quy tắc. Những học sinh như vậy cũng sẽ được giáo viên đánh giá cao và khen
thưởng và họ cũng sẽ rất thành công trong xã hội. (Và thành công trong hệ thống
xã hội phi chính thức của trường. Cho nên không thể nói những người này có thái
độ đặc biệt đối với các tiêu chuẩn của hệ thống chính thức của trường.) Giải
thích của chúng tôi giả định rằng các nhà trí thức (tương lai) phân bố một cách
bất cân xứng trong nhóm thượng lưu (chính thức) của trường, trong tương lai
chính những người này sẽ cảm thấy mất giá. Hay nói đúng hơn, họ ở trong nhóm có
thể dự đoán trước được tương lai như thế của chính mình. Thái độ thù nghịch sẽ
phát sinh trước khi họ bước vào thế giới rộng lớn hơn và trải nghiệm sự suy
giảm địa vị xã hội thực sự, đấy là lúc người học trò thông minh nhận ra rằng trong
xã hội rộng lớn hơn anh ta (có thể) sẽ không thành công bằng giai đoạn học tập
hiện nay. Hậu quả không dự định trước như thế của nhà trường – não trạng bài tư
bản - tất nhiên, sẽ gia tăng khi học sinh đọc sách của/được giảng dạy bởi các
trí thức có thái độ bài tư bản quyết liệt.
Chắc chắn là, có một số trí thức-“thợ rèn
chữ” khó tính và đấy là những học trò hay thắc mắc và vì vậy mà bị giáo viên
không ưa. Họ có học được bài học rằng người giỏi nhất sẽ được phần thưởng cao
nhất và có nghĩ rằng - mặc kệ thái độ của các thày giáo của họ - mình chính là
những người giỏi nhất và bắt đầu ghét hệ thống phân phối của trường học ngay từ
thuở đầu đời hay không? Rõ ràng là, để trả lời vấn đề này và những vấn đề khác
được đặt ta ở đây, để kiểm tra và chau truốt giả thuyết mà chúng tôi đưa ra, cần
phải có dữ liệu về trải nghiệm trong nhà trường của các tri thức-“thợ rèn chữ”
tương lai.
Nói chung, hầu như sẽ ít người phản đối khi
nói rằng các quy tắc trong trường học sẽ có ảnh hưởng đến niềm tin của người
học sau khi họ đã ra trường. Nói cho cùng, bên cạnh gia đình, trường học là cơ
cấu xã hội quan trọng, nơi các em học hành động, và do đó học tập là giai đoạn chuẩn
bị để họ có thể hoạt động trong xã hội rộng lớn hơn. Không có gì ngạc nhiên là
những người thành công theo quy tắc của trường học sẽ bất mãn với xã hội gắn bó
với những quy tắc khác, tức là những quy tắc không bảo đảm cho họ thành công như
trong trường học. Khi chính họ lại là những người tạo ra bức tranh của xã hội
về chính mình, tạo ra đánh giá của xã hội về chính mình, thì những người bị họ
thôi miên quay ra chống lại xã hội cũng đâu phải là điều đáng ngạc nhiên. Nếu
bạn có trách nhiệm xây dựng xã hội từ con số không, chắc là bạn sẽ thiết kế nó sao
cho các “thợ rèn chữ” - với tất cả các ảnh hưởng của họ - sẽ không bị người ta
nhồi nhét vào đầu thái độ thù địch đối với các quy phạm của xã hội.
Giải thích của chúng tôi về sự mất cân đối
của thái độ bài tư bản trong hàng ngũ trí thức dựa trên khái quát xã hội học hoàn
toàn đáng tin.
Trong một xã hội, nơi mà ngoài gia đình, ngay
từ đầu thế hệ trẻ đã tiếp cận với hệ thống hay tổ chức phân phối phần thưởng
cho những người giỏi nhất trong hệ thống ấy sẽ có xu hướng tiếp thu các quy tắc
của tổ chức này, và hi vọng rằng xã hội rộng lớn ngoài kia cũng sẽ hoạt động
theo những quy tắc đó; họ sẽ cho rằng mình sẽ được chia phần hoặc (ít nhất)
cũng có vị trí phù hợp với những quy tắc này. Hơn nữa, những người nằm trong
tầng lớp thượng lưu trong hệ thống thang bậc của thiết chế đầu tiên mà họ gặp
bên ngoài gia đình rồi sau đó, khi ra ngoài xã hội sẽ bị (hoặc nhìn thấy trước
là sẽ bị) rơi xuống những nấc thang xã hội thấp hơn sẽ - do cảm tưởng về quyền đã
bị mất – ngả sang phía phản đối hệ thống xã hội rộng lớn bên ngoài và có thái
độ thù địch với những quy tắc của nó.
Xin nhớ rằng đây không phải là định luật nhất
thành bất biến. Không phải tất cả những người bị mất địa vị xã hội sẽ quay sang
chống lại hệ thống. Mặc dù mất địa vị xã hội là một tác nhân có thể tạo ra hiệu ứng theo hướng đó, và vì
vậy mà trong một nhóm có đông người, hiệu quả của nó sẽ hiện rõ. Tầng lớp
thượng lưu có thể mất địa vị xã hội bằng những cách khác nhau: họ có thể nhận
được ít hơn nhóm khác hoặc (trong khi không có nhóm nào vươn lên) họ có thể vẫn
nhận như thế nhưng không được nhiều hơn những người mà trước đây bị coi là thấp
kém hơn. Mất địa vị theo kiểu thứ nhất đặc biệt làm người ta đau đớn và bất
bình, còn kiểu thứ hai thì dễ chấp nhận hơn. Nhiều trí thức (nói rằng họ) ủng
hộ quyền bình đẳng trong khi chỉ có một nhóm nhỏ coi mình là “quý tộc” mà thôi.
Như vậy là, giả thuyết của chúng tôi nói rằng việc mất địa vị xã hội theo kiểu
thứ nhất rất dễ gây ra sự oán ghét và lòng thù hận đối với xã hội.
Hệ thống trường học chỉ phổ biến và tưởng thưởng cho một số kỹ năng liên quan đến những
thành công trong tương lai (nói cho cùng, trường học là một thiết chế mang tính
chuyên môn) cho nên hệ thống khen thưởng của nó sẽ khác với hệ thống khen
thưởng của xã hội bên ngoài. Điều này chắc chắn sẽ làm cho một số người – khi
bước ra xã hội – bị mất địa vị xã hội và phải chịu những hậu quả kèm theo của
nó. Trước đó tôi đã nói rằng các nhà trí thức muốn xã hội giống như một trường
học lớn. Giờ đây chúng ta thấy rằng thái độ bất bình là do nhà trường (một hệ
thống xã hội mang tính chuyên môn bên ngoài gia đình, lần đầu tiên con người
tiếp xúc) lại không phải là xã hội thu nhỏ.
Theo cách giải thích của chúng tôi, dường như
có thể dự đoán được rằng các nhà trí thức được học hành có thái độ chống đối xã
hội mà họ đang sống chiếm tỉ lệ cao, dù đấy là xã hội tư bản hay cộng sản thì
cũng thế. (So với các nhóm có địa vị kinh tế-xã hội như nhau thì trong xã hội
tư bản, tỉ lệ những người trí thức có thái độ bài tư bản là cao. Câu hỏi là liệu
tỉ lệ những người trí thức có thái độ thù địch với xã hội (không phải tư bản)
mà họ đang sống có cao như thế hay không). Như vậy, rõ ràng là, chúng ta cần
những dữ liệu nói về thái độ của trí thức trong các nước cộng sản đối với bộ
máy cai trị; những người trí thức này có thái độ thù địch với hệ thống đó hay không?
Cần phải chau truốt giả thuyết của chúng tôi
để không thể áp dụng (hoặc áp dụng được nhưng không chính xác đến mức đó) đối
vợi mọi hình thức xã hội. Có chắc chắn là hệ thống trường học trong tất cả các
xã hội nhất định sẽ tạo ra những người trí thức có thái độ chống đối xã hội khi
họ không nhận được những phần thưởng cao nhất của xã hội hay không? Có lẽ là
không. Xã hội tư bản đặc biệt ở chỗ nó tuyên bố công khai: chỉ có tài năng,
sáng kiến cá nhân, đóng góp của cá nhân mới được tưởng thưởng mà thôi. Người
lớn lên trong xã hội đẳng cấp hay phong kiến cha truyền con nối không nghĩ rằng
tưởng thưởng sẽ hay phải phù hợp với giá trị của cá nhân. Xã hội tư bản chủ
nghĩa chỉ tưởng thưởng cho những người đáp ứng được ước muốn – được thể hiện
trên thương trường - của người khác, phù hợp với đóng góp của người đó vào nền kinh
tế, chứ không phải theo giá trị của cá nhân người đó. Nhưng, nó cũng khá gần
gũi với nguyên tắc tưởng thưởng theo giá trị - giá trị và đóng góp thường liên
quan mật thiết với nhau – nhằm nuôi dưỡng kì vọng do nhà trường tạo ra. Đặc
tính của xã hội rất gần với đặc tính của nhà trường cho nên sự gần gũi mới tạo
ra oán giận. Xã hội tư bản tưởng thưởng cho thành tích của cá nhân hoặc bảo với
họ rằng nó sẽ làm như vậy, vì vậy mà những người trí thức tự coi mình là những
người hoàn hảo nhất, lại là những người cảm thấy cay đắng nhất.
Tôi cho rằng, ở đây còn một tác nhân khác
nữa. Học sinh càng đa dạng thì nhà trường sẽ càng tạo ra thái độ bài tư bản nhiều
hơn. Khi hầu như tất cả những người sẽ thành công về kinh tế trong tương lai
cùng theo học các trường riêng biệt thì người trí thức sẽ không có được thái độ
của những người có ưu thế hơn. Nhưng ngay cả khi nhiều trẻ em của tầng lớp
thượng lưu học tại các trường riêng biệt thì xã hội cởi mở vẫn sẽ có những trường
học khác, trong đó nhiều em học sinh sẽ trở thành những doanh nhân thành đạt về
mặt kinh tế và sau đó các nhà trí thức sẽ bực bội khi nhớ lại rằng họ học giỏi
hơn những đồng môn mà sau này trở thành giàu có hơn và quyền lực hơn. Sự cởi mở
của xã hội còn có một hậu quả khác nữa. Các em học sinh, không chỉ những “thợ
rèn chữ” tương lai mà cả những em khác, sẽ không biết sự nghiệp trong tương lai
của mình sẽ ra sao. Họ có thể có mọi ước mơ. Xã hội đóng, không cho người ta
vươn lên, sẽ bóp chết mọi hi vọng ngay từ trong trứng nước. Trong một xã hội tư
bản cởi mở, các em học sinh sẽ không cam chịu ngay từ đầu những giới hạn của sự
thăng tiến xã hội; dường như xã hội đã nói với họ rằng những người có năng lực nhất
và có giá trị nhất sẽ vươn lên những vị trí cao nhất, còn trường học thì gửi cho
những người có thành tích học tập tốt nhất thông điệp nói rằng họ là những người
được đánh giá cao nhất và xứng đáng được phần thưởng lớn nhất; rồi sau này,
những học sinh được khuyến khích nhất và kì vọng nhất lại thấy những đồng môn
mà họ biết và thấy là kém hơn mình lại thành đạt hơn, giành được những phần
thưởng cao nhất mà đáng lẽ mình phải được hưởng. Có cần ngạc nhiên không khi
những người này có thái độ thù địch với xã hội?
Một vài giả thuyết khác
Như vậy là, chúng ta đã cụ thể hóa được giả
thuyết ở mức độ nào đó. Không phải mọi hệ thống học đường mà hệ thống học đường
trong bối cảnh xã hội cụ thể nào đó mới tạo ra trong các nhà trí thức (thợ rèn
chữ) não trạng bài tư bản mà thôi. Chắc chắn là giả thuyết này cần phải được cụ
thể hóa thêm nữa. Nhưng như thế cũng đủ rồi. Đây là lúc chuyển giả thuyết này
cho các nhà khoa học xã hội, đưa nó khỏi lĩnh vực lí thuyết suông và chuyển cho
những người nghiên cứu với các sự kiện và dữ liệu cụ thể hơn. Nhưng chúng ta vẫn
có thể chỉ ra một số lĩnh vực mà giả thuyết của chúng ta có thể đưa ra những dự
báo và kết quả có thể kiểm chứng được. Trước hết, có thể tiên đoán: hệ thống
trường học của đất nước càng khuyến khích các học sinh tài năng thì càng có
nhiều khả năng là giới trí thức của họ sẽ trở thành những người ta khuynh. (Ví
dụ, nước Pháp.) Thứ hai, những người trí thức trong thời gian học ở trường mà
“chín muộn” sẽ không có cùng não trạng về quyền được hưởng những phần thưởng
cao nhất, vì vậy, tỉ lệ những trí thức “chín muộn” có thái độ bài tư bản sẽ ít
hơn là những người có thành tích cao trong học tập ngay từ những năm đầu đời. Thứ
ba, chúng tôi hạn chế giả thuyết của chúng tôi trong những xã hội (khác với xã
hội đẳng cấp của Ấn Độ), nơi người học trò có thành tích học tập tốt có thể hi
vọng cũng sẽ thành công như thế trong xã hội. Cho đến tận thời gian gần đây, trong
xã hội phương Tây, phụ nữ không có kỳ vọng nhiều như vậy, cho nên chúng ra có
thể cho rằng những học sinh nữ trong tầng lớp thượng lưu ở nhà trường nhưng sau
này bị mất địa vị xã hội sẽ không có thái độ bài tư bản như các nhà trí thức
nam giới. Chúng ta cũng có thể dự đoán rằng, xã hội càng bình đẳng hơn về cơ
hội nghề nghiệp giữa phụ nữ và nam giới thì càng có nhiều nữ trí thức tỏ thái
độ thù nghịch với chủ nghĩa tư bản như các trí thức đàn ông đang làm hiện nay.
Một số độc giả có thể nghi ngờ cách giải
thích về não trạng bài tư bản trong giới trí thức mà chúng tôi vừa đưa ra bên
trên. Dù sao mặc lòng, tôi cho rằng chúng tôi đã định danh được một hiện tượng
quan trọng. Tổng quát xã hội học mà chúng tôi đã nêu ra bằng trực giác hóa ra
là có sức thuyết phục: một cái gì tương tự như thế chắc chắn phải xảy ra trên
thực tế. Một số ảnh hưởng quan trọng nhất định sẽ xuất hiện trong tầng lớp “học
sinh thượng lưu” mà sau này bị mất địa vị xã hội, trong nhóm người này thái độ
đối kháng với xã hội nhất định sẽ xuất hiện. Nếu đấy không phải là thái độ đối
lập cao của các nhà trí thức thì là gì? Chúng tôi bắt đầu với một hiện tượng
khó hiểu, cần giải thích. Tôi cho rằng chúng tôi đã tìm thấy, tác nhân có thể giải
thích – sau khi chúng tôi đã nói một cách rõ ràng), tác nhân này rõ ràng đến
nỗi chúng ta phải tin rằng nó giải thích được một số hiện tượng xảy ra trên
thực tế.
Tác phẩm Anarchy, State, and Utopia
của nhà triết học Robert Nozick, xuất bản năm 1974, củng cố vị trí của chủ
nghĩa tự do trong triết lý chính trị được giới học giả rất coi trọng. Trong tác
phẩm này, Nozick bênh vực “nhà nước tối thiểu” - sau này được gọi là minarchism
- và chỉ ra những biện pháp để nó có thể trở thành “khuôn khổ cho những xã hội
không tưởng.”
Nhưng Nozick không chỉ quan tâm tới lý
thuyết chính trị. Ông đã chú ý tới gần như tất cả các nhánh của triết học trong
những công trình có tính bao quát như Philosophical
Explanations, The Examined Life, and Invariances:
The Structure of the Objective World.
Đã đăng trên Diễn đàn xã hội dân sự
Gabe Collins – Những giới hạn của nhà nước giám sát Trung Quốc
Phạm
Nguyên Trường dịch
Những cuộc tấn công diễn ra
trong thời gian gần đây chỉ ra rằng chỉ dùng đàn áp thì sẽ không thể nào bảo đảm
được một tương lai ổn định. Tình hình bạo lực ở Tân Cương dường như đang xấu đi
một cách đáng kể, mặc dù Bắc Kinh cam kết mạnh mẽ sẽ đổ tiền và nhân lực vào để
xây dựng một bộ máy giám sát toàn diện nhằm ngăn chặn rối loạn xã hội. Hiện hằng
năm Trung Quốc chi tới 111 tỉ USD cho lĩnh vực an nội bộ - nhiều gần bằng ngân
sách quốc phòng năm 2013 - khoảng 114 tỉ USD.
Nhưng năm 2013 lại là một
trong những năm nhiều bạo lực nhất trong suốt thập ki vừa qua ở Tân Cương, một
số dữ liệu cho thấy từ tháng 3 tới nay, ít nhất 189 người - chủ yếu là người
Duy Ngô Nhĩ - đã thiệt mạng trong các cuộc đối đầu đầy bạo lực với lực lượng của
chính phủ, nhiều người khác đã bị thương. Đáng lo ngại hơn, những vấn đề của
Tân Cương dường như đang di căn vào những khu vực khác của Trung Quốc, chính
quyền đã có những cố gắng rất lớn nhằm ngăn chặn hiện tượng này.
Ngày 28 tháng 10, một chiếc
SUV do một người đàn ông Duy Ngô Nhĩ lái, trong đó có hai người trong gia đình,
đã đâm vào đám đông tại Quảng trường Thiên An Môn, giết chết hai khách du lịch.
Những người ngồi trong xe sau đó đã châm lửa tự thiêu. Cuộc tấn công tự sát tại
Quảng trường Thiên An Môn và làn sóng bạo lực đang dâng lên ở Tân Cương cho thấy
rằng, khi đối mặt với kẻ thù đầy quyết tâm, hệ thống giám sát và bộ máy đàn áp được
chỉ đạo chặt chẽ và được rót khá nhiều tiền không có hiệu quả trong việc ngăn
chặn bạo loạn như Bắc Kinh mong muốn.
Thật vậy, chưa đến một tuần
sau vụ khủng bố ở Thiên An Môn, Đảng đã cách chức ủy viên Ủy ban Thường vụ đảng
ủy khu vực của tướng Bành Dũng, tư lệnh quân khu Tân Cương, cho thấy Bắc Kinh phải
hi sinh quan chức cấp cao vì đã để xảy ra những thất bại nghiêm trọng trong
lĩnh vực an ninh. Khủng hoảng lan tràn khắp Tân Cương trong suốt năm nay dường
như làm cho địa vị của tướng Bành [Dũng] yếu đi .
Trước khi nghiên cứu những
tác động mang tính chiến lược của những hạn chế trong việc giám sát, chúng ta
hãy xem qua những thông số của hệ thống hiện thời. Hiện Trung Quốc đang thuê tới
hai triệu người theo dõi Internet để trợ giúp các nhân viên kiểm duyệt chính thức.
Về mặt vật chất, Trung Quốc có một chương trình quốc gia đáng lo ngại, gọi là “Skynet”
(tên này chắc chắn làm những người hâm mộ phim Terminator phiền lòng) nhằm gia
tăng số lượng và khả năng của các camera giám sát.
Bắc Kinh là thành phố đi đầu
trong lĩnh vực này. Đối với những người đi bộ hoặc lái xe ở Bắc Kinh (và người
như thế trong các thành phố khác của Trung Quốc cũng ngày càng gia tăng), câu
thường được người ta nói là “Cười đi, bạn đang được chụp ảnh đấy!” Theo Wu
Hequan, Tổng thư ký của Viện Hàn lâm Trung Quốc Kỹ thuật, Bắc Kinh hiện có ít
nhất 800.000 máy camera quan sát. Như vậy, trong mỗi khu vực nhỏ (một chiều khoảng
270 mét, chiều kia 380 mét) ở Thiên An Môn, người có thể lắp trung bình 60 camera
quan sát.
Trên thực tế, ở những khu vực
chiến lược của thành phố - các đường phố chính, các tòa nhà của chính phủ, và
các danh lam thắng cảnh, như Quảng trường Thiên An Môn - mật độ camera giám sát
cao hơn rất nhiều. Vì vậy, người Duy Ngô Nhĩ, lái xe vào Quảng trường rồi tự
thiêu rất có thể đã đi qua hàng trăm camera quan sát, nếu không nói là nhiều
hơn, trong những cây số cuối cùng của cuộc hành trình của họ. Mặc dù đã vượt
qua bao nhiêu camera, vượt qua những người theo dõi trên mạng, trên điện thoại
và cảnh sát trên đường phố, họ đã không bị phát hiện trước khi tới một trong những
vị trí quan trọng nhất của Đảng cộng sản Trung Quốc, cán chết khách tham quan,
và đốt chiếc SUV – đấy là chiếc Mercedes Benz màu trắng. Nếu chiếc xe mang thêm
chất nổ, hay lao vào khu vực đông người hơn trong thành phố thì tình hình có thể
xấu hơn rất nhiều.
Bắc Kinh đương nhiên cho rằng
hệ thống giám sát đang phát triển của họ là phương tiện đàn áp hữu hiệu các
phong trào ly khai. Tháng 11 năm 2012, báo Telegraph viết rằng các lực lượng an
ninh Trung Quốc có ý định sử dụng một mạng lưới các camera giám sát để giúp chấm
dứt những vụ tự thiêu của những người biểu tình Tây Tạng và cảnh sát có thể có
mặt tại hiện trường trong vòng hai phút sau khi hoạt động không mong muốn được
camera quan sát phát hiện. Trong khi khó tìm được những bài tường thuật công
khai về cách thức sử dụng công nghệ giám sát bằng camera ở Tân Cương thì chúng
ta có thể ghi nhận rằng trong tháng vừa qua chính quyền Trung Quốc đã bắt giữ
ít nhất 139 người ở Tân Cương, cáo buộc họ sử dụng Internet để truyền bá tư tưởng
thánh chiến.
Hiện nay, Trung Quốc có thể
có 30 triệu camera giám sát, được lắp đặt trên khắp cả nước. Các thành phố dường
như đang tìm cách lắp thêm, càng nhanh càng tốt; cùng lúc đó, họ lại đang gia
tăng năng lực của những chiếc camera này. Ví dụ, các thành phố của Trung Quốc
như Đông Quan đang xây dựng hệ thống gọi là “Smart Skynets” nhằm cải thiện khả
năng giám sát.
Những
hàm ý chiến lược
Cuộc tấn công ở Thiên An Môn
có thể sẽ thúc đẩy các cơ quan an ninh Trung Quốc sử dụng cách tiếp cận “chiến
thuật” và đẩy nhanh việc lắp đặt nhiều camera hơn và nâng cấp công nghệ cũng
như khả năng của chúng. Những biện pháp áp dụng có thể sẽ bao gồm đưa thêm vào
hệ thống camera phần mềm nhận dạng mặt người cũng như tích hợp những hệ thống
này với nhau.
Nhưng, nguy cơ thực sự là tập
trung quá nhiều vào các biện pháp an ninh kỹ thuật sẽ không thể tăng cường được
an ninh như Bắc Kinh mong muốn. Thực tế là ngay cả trong các nhà tù với mức độ
an ninh cao trên thế giới, nơi mà hầu như mọi cử động và hoạt động đều được
nhân viên và camera an ninh theo dõi, thế mà ma túy vẫn được đưa vào, vũ khí vẫn
được người ta chế tạo, tù nhân vẫn thường xuyên bị tấn công và thậm chí là bị
giết. Nói ngắn, muốn là có cách, và những hạn chế của công tác giám sát - công
cụ ngăn chặn từ xa – đã nhanh chóng được phơi bày. Ngày càng thấy rõ rằng chính
sách “đánh mạnh” của Bắc Kinh ở Tân Cương đã không đập tan được ý chí kháng chiến
của người Duy Ngô Nhĩ, và trên thực tế nó có thể thực sự làm gia tăng hàng ngũ
những người sẵn sàng công khai thách thức sự thống trị của người Hán trong khu
vực này. Bạo lực đang gia tăng ở Tân Cương cho thấy rằng đối với một số người
Duy Ngô Nhĩ, những bức tường sợ hãi mà Bắc Kinh đã cố gắng thiết lập trong hơn
20 năm qua có thể đang rạn nứt. Nếu đúng như vậy, đây là một vấn đề nghiêm trọng
bởi vì nó có thể báo trước một vòng xoáy: bạo lực thúc đẩy đàn áp và đàn áp gia
tăng thì bạo lực lại gia tăng.
Quân nổi dậy Duy Ngô Nhĩ sẽ
không thể tìm được súng từ những nguồn ở trong nước, nhưng Tân Cương giáp giới
với một số nước vùng Trung Á, biên giới ở đây lại lỏng lẻo, còn vũ khí thì rất
nhiều. Nhưng, một loại vũ khí có khá nhiều trong những khu vực nông nghiệp ở
Tân Cương: phân bón ammonium nitrate, có thể được sử dụng để sản xuất các thiết
bị nổ tự chế đơn giản, sản xuất tại chỗ, thường được các phiến quân Taliban ở
Afghanistan sử dụng. Năng lực của các nước trong khu vực nói chung là thấp, đặc
biệt là Afghanistan và Pakistan, những nước này thậm chí không thể quản lý nổi
công việc nội trị của mình, chứ chưa nói đến an ninh ở vùng biên giới xa xôi. Kết
quả là: Bắc Kinh sẽ buộc phải đầu tư nhiều hơn nhằm đảm bảo an ninh biên giới bên
phía Trung Quốc.
Khu vực giàu tài nguyên ở
Tân Cương cũng g có nguy cơ bị quân nổi dậy tấn công. Quân nổi dậy ở những nước
khác như Colombia, Iraq và Yemen có thói quen nhắm vào các cơ sở hạ tầng năng
lượng. Mạng lưới đường sắt ở Tân Cương, số lượng đường ống dẫn dầu và khí đốt
đang ngày càng gia tăng, và đường dây chuyển tải điện đường dài nhằm cung cấp
điện cho miền Trung và miền Đông Trung Quốc đang được hoạch định, đều là những
hạng mục có thể bị tấn công. Nếu quân nổi dậy quyết định tận dụng những vùng
sâu vùng xa trong tỉnh và những khó khăn trong việc quan sát thường xuyên hàng
trăm cây số những cơ sở hạ tầng quan trọng và bắt đầu tấn công vào đó thì Bắc
Kinh có thể sẽ gặp khó khăn thật sự. Những cuộc tấn công như thế sẽ ngày càng làm
cho nền kinh tế quốc gia gặp khó khăn hơn vì các nhà cung cấp năng lượng ở Tân
Cương càng ngày càng gắn bó sâu sắc hơn với các hộ tiêu dùng nằm ở miền Đông.
Bắc Kinh sẽ không nới lỏng quyền
kiểm soát Tân Cương trong các kịch bản mô tả ở trên, nhưng nguy cơ là họ sẽ phải
dành nhiều nhân lực và kinh phí hơn nhằm duy trì an ninh và quyền kiểm soát – một
vụ “bùng nổ” kéo dài, sẽ biến thành thách thức đối với nền kinh tế của đất nước.
Vì nền kinh tế của đất nước có mức tăng trưởng thấp, dường như Trung Quốc sẽ
ngày càng phải đối mặt với không phải là “súng đọ với bơ” mà còn “súng đọ với
súng” nữa, đấy là khi các cơ an ninh nội bộ tranh giành ngân sách với hoạt động
quân sự hướng ngoại.
Sự bất ổn gia tăng ở Tân
Cương thật sự có ảnh hưởng tới an ninh quốc gia. Trung Quốc có những khu vực
biên giới bất ổn khác như Tây Tạng, ít bạo lực hơn Tân Cương, nhưng vẫn buộc
người ta phải chú ý và thu hút nhiều nguồn lực của các cơ quan an ninh. Nếu Đạt
Lai Lạt Ma mất mà không có người thừa kế thì tình hình có thể trầm trọng thêm.
Quan trọng nhất là, vấn đề mà Bắc Kinh phải xử lí là mấy ngàn ly khai Duy Ngô
Nhĩ thực sự sẵn sàng cầm vũ khí có thể tạo ra những khó khăn kinh tế nghiêm trọng
trong những tháng và những năm tới, kết quả là có thể tạo ra rối loạn xã hội mà
thậm chí bộ máy đàn áp đầy sức mạnh hiện nay cũng không thể ngăn chặn được. Một
số sự kiện có thể dự đoán – thí dụ, một cuộc khủng hoảng nợ hoặc khủng hoảng bất
động sản nghiêm trọng có thể nhanh chóng làm cho nền kinh tế Trung Quốc phải trả
giá. Hơn nữa, một sự kiện nữa có thể dự đoán được là nền kinh tế phức tạp, trị
giá hàng ngàn tỷ USD như của Trung Quốc có khả năng tạo ra những sự kiện theo
kiểu “thiên nga đen”[1], có ảnh hưởng rất tiêu cực.
Nếu hàng chục ngàn máy
camera an ninh, hai triệu màn hình internet, và lực lượng bán quân sự không thể
giải quyết và ngăn chặn được những vấn đề ở Tân Cương, làm sao mà họ đối phó được
với hàng triệu người tức giận do những vấn đề kinh tế gây ra? Khoảng cách giàu
nghèo tạo ra bạo lực ở Tân Cương và những khoảng cách như thế có mặt ở tất cả
những địa phương khác ở Trung Quốc, tạo ra lo ngại về những cuộc tấn công trên
khắp cả nước. Đấy là những nhóm người bất bình nhưng không có tiếng nói trong
lĩnh vực chính trị, họ chuyển sang sử dụng bạo lực, coi đấy là sự xả hơi cho sự
tức giận của họ. Thật vậy, ngày 06 Tháng 11, nhiều quả bom đã phát nổ ở trung
tâm khai thác than của Thái Nguyên, làm một người chết và ít nhất tám người
khác bị thương. Trung Quốc có thể đang nằm trong xu hướng bạo lực di căn có nguồn
gốc từ những vùng biên giới, nơi các dân tộc thiểu số sinh sống, nhưng lại ảnh
hưởng đến lợi ích của người Hán trên khắp cả nước. Nếu Bắc Kinh buộc phải kiểm
soát chặt chẽ hơn việc đi lại của con người, xe cộ, và tiếp cận với hàng hóa sử
dụng cho hai mục đích: phân bón chứa nitrat, và “gánh nặng khủng bố” sẽ có những
ảnh hưởng sâu sắc đối với thương mại và hoạt động kinh tế.
Ban lãnh đạo Trung Quốc
đã tỏ ra tháo vát và có năng lực, nhưng các vấn đề có nguồn gốc từ Tân Cương
ngày càng cho thấy một tương lai mà chỉ đàn áp không thì không đủ. Dường như giải
pháp ngắn hạn của Bắc Kinh là làm mọi việc có thể để khôi phục tăng trưởng,
nhưng những biện pháp tài chính và chính sách cần thiết chỉ đơn giản là làm cho
tiền đặt cược trong tương lai gia tăng mà thôi. Trung Nam Hải đang phải đối mặt
với một gói giải pháp phức tạp và đáng nản khi họ phải vật lộn với tình trạng bất
ổn đang gia tăng ở trong nước.
Gabe
Collins là người đồng sáng lập website ChinaSign Post và cựu chuyên gia phân tích về đầu tư hàng
hóa và cộng tác viên tại US Naval War College's China Maritime Studies
Institute.
[1] Ý nói những sự kiện bất ngờ - ND.
William H. Overholt - Những cuộc cải cách mới ở Trung Quốc: Lí thuyết và thực tiễn
Phạm Nguyên Trường dịch
Ngày 12 tháng 11 vừa
qua, Hội Trung ương III, Khóa XVIII, của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã công bố
một bước ngoặt lớn theo định hướng thị trường: tự do hóa lãi suất và tiền tệ,
cải cách ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước, quyền sở hữu đất đai rõ ràng hơn
cho nông dân và chính sách tốt hơn đối với người di cư vào đô thị.
Cuộc khủng hoảng có thể
xảy ra là nguyên nhân buộc người ta phải có những quyết định mang tính bước
ngoặt như thế. Sự thành công của Trung Quốc chủ yếu là do hàng xuất khẩu giá rẻ
dựa trên lao động với đồng lương chết đói, cơ sở hạ tầng được do các doanh
nghiệp nhà nước xây dựng với nguồn vốn do các ngân hàng tài trợ với lãi suất
thấp, và ngân sách chính phủ thu được từ việc bán đất. Nhưng lao động không còn
rẻ nữa, việc xây dựng những đường kết nối các thành phố lớn tạo điều kiện cho
việc xây dựng trung tâm mua sắm lớn ở các thị trấn nhỏ, và bán đất dựa trên tái
định cư đã đạt tới giới hạn cả về kinh tế lẫn sự chịu đựng của người dân.
Tiền vay với lãi suất
thấp có nguy cơ tạo ra bong bóng tài sản và công suất dư thừa. Nếu không có
thay đổi cơ bản, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm
lại, không có đủ chỗ làm việc mới và không thể có đổi mới, và nổ bong bóng tài
sản.
Giải pháp là thay đổi
nhanh chóng từ mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu sang mô hình tăng trưởng dựa
vào nhu cầu nội địa, từ xây dựng cơ sở hạ tầng sang tiêu dùng, từ các doanh
nghiệp lớn của nhà nước là chính sang các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ, từ
công nghiệp sang dịch vụ, và một cách rộng hơn là từ kiểm soát theo lối hành
chính quan liêu sang kiểm soát của thị trường.
Tất cả các nước thành công ở châu Á cũng đều thực
hiện những chuyển đổi như thế, Hàn Quốc và Đài Loan là các hình mẫu. Nhưng thay
đổi nhanh chóng cũng gây ra nhiều đau đớn. Doanh nghiệp nhà nước sẽ không còn
những khoản vay với lãi suất thấp, không được nhận những khu đất do nhà nước
trợ cấp, không được bảo hộ độc quyền, và không được đặc quyền về trụ sở nữa.
Đảng và bộ máy quan liêu của nhà nước sẽ mất quyền lực (và thu nhập).
Chính quyền địa phương sẽ
gặp nhiều khó khăn. Họ đang có những khoản nợ khổng lồ, chỉ có thể trả được
bằng cách tái định cư và bán đất mà thôi. Đã túng quẫn vì giá bất động sản quá
cao và việc phản đối của người dân trước việc thu hồi đất, bây giờ họ còn phải
đối mặt với lãi suất cao hơn, phải trả thuế bất động sản, người dân có quyền nhiều
hơn, và đòi hỏi phải cung cấp dịch vụ xã hội tốn kém hơn cho người di cư. Sự
tuyệt vọng của các quan chức đầy quyền lực ở địa phương và cán bộ quản lí doanh
nghiệp nhà nước là lực cản mạnh mẽ đối với công cuộc cải cách.
Người ta nói rằng tại
Hội nghị đã diễn ra tranh cãi gay gắt, các nhà lãnh đạo chính trị Trung Quốc
đứng về phía cải cách. Khi được hỏi về sự phản đối trước cuộc họp có ý nghĩa quyết
định, một nhà lập kế hoạch kinh tế cho biết: “Cuối cùng, tất cả các nhà lãnh
đạo của chúng tôi đều hiểu những con số. Hàm ý của những con số là rõ ràng.
"
Văn bản công bố quyết
định Hội nghị trung ương III giống như một bản tuyên bố về các nguyên tắc chung,
làm cho nhiều nhà quan sát lo ngại về việc thiếu chi tiết. Nhưng vai trò của
ĐCSTQ là lãnh đạo chính sách; thi hành quyết định của Đảng là công việc của
chính phủ. Và Hội nghị lần này đã thành lập một nhóm chuyên viên cao cấp nhằm phối
hợp và thi hành các quyết định của mình.
Việc thực hiện sẽ là một
cuộc đấu tranh lâu dài, đôi khi chống đối có thể gay gắt, nhưng những cuộc cải
cách quan trọng thì đã được tiến hành rồi. Kế hoạch năm năm lần thứ XII kêu gọi
tăng lương hàng năm trung bình ít nhất là 13,4%; năm nay, tiền lương đã tăng
với tốc độ trung bình là 18%, mức lương như thế sẽ giết chết các xí nghiệp lạc
hậu hoặc cung lớn hơn cầu. Ngoài ra, chiến dịch chống tham nhũng của chính phủ
nhắm vào một số các nhóm ngành công nghiệp mạnh nhất, thí dụ như dầu khí, làm
suy yếu sức kháng cự cải cách của những ngành này.
Quan trọng nhất là, kết
quả kinh tế đang ngày càng phù hợp hơn với mục tiêu của chính quyền. Dịch vụ đã
có doanh thu và việc làm nhiều hơn so công nghiệp – ví dụ công ty Internet
Alibaba, đang trao quyền cho cả người tiêu dùng và các công ty nhỏ hơn ở mức độ
mà trước đây không thể nào tưởng tượng nổi - và sự tăng trưởng trong thời gian gần
đây là do nhu cầu nội địa chứ không phải là xuất khẩu nữa. Cải cách không còn
là kế hoạch, nó đang được thực hiện rồi.
Việc mở cửa kinh tế sang
các nước vùng Trung Á và ASEAN (đặc biệt với Việt Nam) cũng đang được tích cực triển
khai, và cải cách sẽ cởi mở hơn với thị trường bên ngoài. Quyết định của Hội
nghị trung ương III theo sau việc khánh thành Khu thương mại tự do Thượng Hải, khu
vực này sẽ mở cửa cho những lĩnh vực đầu tư mới của nước ngoài và cho phép các giao
dịch tài chính và lưu chuyển đồng vốn trên cơ sở thị trường tự do hơn. Tự do
hóa việc lưu chuyển đồng vốn được coi là một chính sách quốc gia mà người ta
đang hướng tới, chính sách này đang được đưa vào thông qua những thiết chế đáng
tin cậy ở Thượng Hải.
Về việc buôn bán hàng
hóa, người ta định biến khu vực tự do thương mại mới thành khu vực có thể cạnh
tranh trực tiếp với Singapore và Hồng Kông. Trung Quốc sợ bị phụ thuộc vào
những người trung chuyển, nếu xảy ra xung đột. Đối với các nhà đầu tư nước
ngoài, chính sách này sẽ mở rộng đáng kể cơ hội trong khi giảm bớt quyền kiểm
soát của nước ngoài; ví dụ, các công ty nước ngoài có thể nắm giữ một ít cổ
phần trong lĩnh vực viễn thông, trong khi các công ty nước ngoài có ảnh hưởng
lớn như Monsanto sẽ gặp khó khăn.
Chủ tịch Tập Cận Bình đang
đối mặt với nhiệm vụ chính trị đầy rủi ro, đấy là thúc đẩy chương trình cải
cách của ĐCSTQ trước sức phản đối mạnh mẽ, trong khi nền kinh tế lại đang tăng
trưởng chậm lại. Bằng cách nhấn mạnh quyền kiểm soát của Đảng – trừng trị các
doanh nghiệp nhà nước, trừng trị những người phản đối chính phủ, và những người
chỉ trích trên các phương tiện truyền thông đại chúng và các học viện - Tập Cận
Bình tìm cách tối đa hóa khả năng của mình nhằm áp đặt cải cách kinh tế và giảm
thiểu những nguy từ thách thức của lực lượng bảo thủ.
Đặc biệt là, ông phải
tránh số phận của các nhà lãnh đạo Trung Quốc trước đây như Hồ Diệu Bang và
Triệu Tử Dương, những người đã bị mất chức sau khi nhiều đối thủ của họ tin
rằng cải cách kinh tế và chính trị phá hủy quyền kiểm soát của Đảng. Cho nên,
ít nhất là trong giai đoạn hiện nay, Trung Quốc sẽ tập trung vào làn sóng cải
cách kinh tế, trong khi cải cách chính trị sẽ chủ yếu được giới hạn trong việc tổ
chức lại các cơ quan của chính phủ nhằm tăng cường hiệu quả và gia tăng nỗ lực phòng
chống tham nhũng. (Đã có một số bước tiến về phía cải cách, trong đó có quyết
định không để bộ máy chính trị địa phương kiểm soát các thẩm phán.)
Nhưng Trung Quốc sẽ ngày
càng khó trì hoãn những biện pháp mạnh mẽ hơn nhằm xoa dịu nhu cầu của quần
chúng về lẽ công bằng, trong đó có việc thành lập cơ quan tư pháp độc lập, đấy
cũng là nhu cầu cấp bách không khác gì cải cách cơ cấu kinh tế. Tương tự như
vậy, các nhà lãnh đạo phải hoặc là chấp nhận nhiều thông tin hơn trong quá
trình quản lí hoặc tiến hành những vụ đàn áp tốn kém hơn rất nhiều.
Hy vọng về cải cách
chính trị nằm ở khả năng là trong nhiệm kì thứ hai của Tập Cận Bình các nhà cải
cách như ủy viên Bộ Chính trị Vương Dương (Wang Yang) và Phó chủ tịch Lí Nguyên
Triều (Li Yuanchao) sẽ nằm trong nhóm lãnh đạo cao cấp nhất . Còn hiện nay
Trung Quốc sẽ tập trung vào một làn sóng cải cách kinh tế lớn nữa.
William H.
Overholt cộng tác viên cao cấp tại Fung Global Institute và the Harvard
University Asia Center.
Đã đăng trên diendanxahoidansu.wordpress.com
Nguồn:
http://www.project-syndicate.org/print/william-h--overholt-examines-the-economic-and-political-implications-of-the-chinese-authorities--latest-market-oriented-changes Jonathan Adelman – Tại sao Mĩ vẫn là siêu cường không ai có thể thách thức nổi?
Phạm Nguyên Trường dịch
Những cuộc bàn tán thường xuyên về
sự suy thoái không thể tránh khỏi của Mĩ đã trở thành câu chuyện giao đãi khó
ai bác bỏ được. Mỗi tuần người ta lại thấy có nhiều tin xấu hơn về nước Mĩ,
dường như đấy chính lời là khẳng định khái niệm nói trên. Với một quốc hội chia
rẽ quá mức về mặt đảng phái, chính phủ đóng cửa suốt 16 ngày liền, sự phục hồi
kinh tế diễn ra chậm chạp, và vụ bê bối về gián điệp của Cục an ninh quốc gia,
đất nước này dường như không thể quản lí nổi. Trong một công trình nghiên cứu
trên bình diện quốc tế, người Mĩ đứng thứ 11 trên thang điểm về hạnh phúc và vị
trí đáng xấu hổ là thứ 12 về kinh tế. Một công trình nghiên cứu khác cho thấy
chỉ có 7% học sinh lớp 8 của Mĩ được coi là giỏi về môn toán, trong khi số học
sinh giỏi của Singapore là 47%, Hàn quốc là 48%. Tổng thống Mĩ, theo đánh giá
của tạp chí Forbes thì đứng thứ hai, sau Vladimir Putin.
Nhưng Mĩ vẫn là người lãnh đạo thế giới và dường như sẽ giữ được vị trí đó trong hàng chục năm nữa. Cho đến nay, đây là nước có sức mạnh mềm vĩ đại nhất thế giới. Hàng năm Mĩ tiếp nhận nhiều người nhập cư hơn bất cứ nước nào khác (1 triệu người). Mĩ đứng đầu thế giới về công nghệ cao (Thung lũng Silicon), về tài chính và kinh doanh (Phố Wall), điện ảnh (Hollywood) và giáo dục Đại học (theo đánh giá của trường đại học Giao thông Thượng Hải, Mĩ có 17 trong số 20 trường đại học hàng đầu thế giới). Về thương mại Mĩ cũng là nước đứng đầu thế giới (xuất khẩu nhiều hàng tiêu dùng và sản phẩm công nghệ và nhập khẩu tài nguyên thiên nhiên).
Mĩ tiếp tục là nước dẫn đầu thế giới
về đầu tư trực tiếp của nước ngoài (180 tỉ USD), gần gấp đôi đối thủ mạnh nhất.
Mĩ chi cho quốc phòng tới 560 tỉ USD một năm, và có lực lượng quân sự mạnh nhất
thế giới. Tổng thu nhập quốc dân (16 ngàn tỉ USD) gấp hơn hai lần Trung Quốc Đây
là nước có chế độ dân chủ - trong cái thế giới đầy những nước phi dân chủ hoặc
dân chủ nửa với - vận hành lâu nhất thế giới. Thị trường chứng khoán luôn sôi
động, thể hiện vị trí hàng đầu của Mĩ trong nền kinh tế thế giới.
Ngoài ra, nước nào có thể tranh vị trí lãnh đạo thế giới của Mĩ? Người Âu ư? Người Nhật ư? Người Nga ư? Tỉ lệ thất nghiệp ở EU hiện nay là 12% - ở Hi Lạp và Tây Ban Nha lên đến 26% – còn tăng trưởng kinh tế thì gần như bằng không, dân số tại nhiều nước lại đang suy giảm. Nhật đang khổ vì dân số giảm và đang ngày càng già đi một cách nhanh chóng, không có người nhập cư, chỉ số Nikkei (Nikkei Index) giảm hơn 20.000 điểm so với hồi năm 1988, còn nợ thì công thì bằng 240% tổng sản lượng quốc gia (GNP). Chưa nói tới tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp trong hai thập niên qua. Trong khi Nga có thể được báo chí đưa lên đầu trang nhất vì là nước tổ chức Olympics sắp tới và chứa chấp Edward Snowden, nước này không còn là siêu cường nữa. Thành tích xuất khẩu của Nga chỉ ngang với các nước thuộc Thế giới thứ ba, còn GNP thì ngang Canada, nghĩa là chưa bằng 15% GDP của Mĩ. Nga không có sức mạnh mềm, không có thung lũng Silicon, không có Hollywood, không có Wall Street hay các trường đại học chất lượng cao.
Còn Trung Quốc và Ấn Độ thì sao?
Trong khi cả hai nước này đều có những bước tiến vượt bậc trong mấy chục năm
qua, nhưng họ cũng đang phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng. Trung Quốc
hiện có 650 triệu người nghèo ở nông thôn, GDP bình quân đầu người là 6.100
USD, đứng thứ 87 trên thế giới và chỉ bằng 12% Mĩ. Trung Quốc còn khổ vì nạn
tham nhũng, chế độ độc đảng, thiếu khả năng sáng tạo và sự phân hóa xã hội đến
mức kì quặc. Nạn ô nhiễm không khí, nước và đất mỗi năm giết chết 1,2 triệu
người Trung Quốc. Như các nhà lãnh đạo Trung Quốc thường xuyên thừa nhận, nước
này chưa thể trở thành nhà nước hiện đại trước năm 2050.
Còn Ấn Độ? 830 triệu dân nước này (gần 70% dân số) sống ở vùng nông thôn nghèo khổ. Hơn 160 triệu người Ấn Độ không được tiếp cận với nước sạch, không có điện và hệ thống vệ sinh. Ấn Độ đứng đầu thế giới về số người mù chữ - 35% phụ nữ mù chữ. Không dưới 25% dân số không có điện. Cơ sở hạ tầng của Ấn Độ còn kém, nạn tham nhũng hoành hành, bình quân GDP trên đầu người là 1.500 USD (3% của Mĩ), đứng thứ 138 trên thế giới. Cuối cùng là tốc độ gia tăng dân số cao (mười năm qua tăng thêm 180 triệu người), tương lai của nước này không lấy gì làm sáng sủa.
Như một châm ngôn chính trị cũ đã nói: Không thể thua nếu không có đối thủ. Và hiện nay ở phía cuối chân trời chưa thấy nước nào đủ sức giành hay thậm chí thách thức nước Mĩ – ít nhất lá trong vòng một vài thập kỉ tới.
Đã đăng trên VHNA
Jonathan Adelman là giáo sư thuộc
Viện nghiên cứu quốc tế mang tên Josef Korbel tại đại học Denver (University of
Denver).
SEX chưa rõ nghĩa, các bạn cần FUCK...
- Nguyễn Anh Tuấn
Thời gian qua, xôn xao vụ các sinh viên Học viện Ngân hàng khi chụp ảnh trong Hoàng Thành Thăng Long đã đứng xếp hàng chữ SEX. Cũng không quá ngạc nhiên khi sau đó, dư luận của đất nước vốn tìm kiếm từ khóa “sex” nhiều nhất thế giới này đã ném một núi đá lên đầu các bạn sinh viên. Luận điểm chủ yếu của những người phê phán là (a) Hoàng Thành là nơi linh thiêng, biểu trưng của hồn thiêng sông núi vậy mà (b) các bạn sinh viên lại có hành vi đi ngược lại thuần phong mỹ tục dân tộc gây phản cảm.
Chúng
ta hãy thử tìm hiểu lần lượt từng phần nhỏ a, b của
luận điểm này.
Hoàng Thành là nơi linh thiêng…
Hoàng Thành là nơi sinh sống của vua chúa trong các vương triều
xưa cũ, là biểu tượng quyền lực của chế độ quân
chủ chuyên chế trước đây.
Tính
cách linh thiêng của Hoàng Thành gắn liền với tính cách
linh thiêng của hoàng gia, là một thứ được tạo dựng
trong ý đồ củng cố quyền lực của lực lượng nắm
quyền bằng cách biến nơi sinh sống của mình thành nơi
bái vọng của dân chúng.
Cùng
với sự sụp đổ của chế độ quân chủ ở Việt Nam, Hoàng Thành chỉ còn là một di tích lịch sử, không hơn
không kém.Tiếp tục gán ghép tính cách linh thiêng cho nó
không khác gì công nhận tính cách linh thiêng của hoàng
gia, đồng nghĩa với mong muốn quay trở về nền quân chủ
vốn dĩ chỉ còn là quá vãng ở Việt Nam.
Xếp
hình từ SEX đi ngược lại thuần phong mỹ tục dân tộc
?
Nhiều
người lập luận rằng có một cách dịch khác của từ
sex là “giới tính”, do đó hành vi của các bạn sinh
viên là có thể chấp nhận được. Hẳn họ cũng cảm
thấy có ít nhiều ngụy biện trong lập luận này; và có
lẽ nó phù hợp khi nằm trong phần tranh tụng của một
luật sư ma mãnh nào đó trước tòa, hơn là trong các cuộc
tranh luận chính trị-xã hội nghiêm túc.
Việc
né tránh vấn đề như vậy còn tạo cảm giác là họ
đồng ý với phe phê phán rằng hành vi xếp hình từ SEX
với nghĩa “quan hệ tình dục” trong Hoàng Thành là
không thể chấp nhận được.
Vậy
vấn đề ở đây là, biểu tượng hóa hành vi tính giao
[trong trường hợp này là xếp hình từ SEX] ngược lại
“thuần phong mỹ tục dân tộc” ở chỗ nào?
Việt
Nam là một quốc gia nông nghiệp, nơi mà tín ngưỡng phồn
thực xuất hiện dày đặc từ bắc chí nam. Tín ngưỡng
phồn thực (fertility rite) với các hiện tượng thờ bộ
phân sinh dục nam, nữ (phallicism) và các nghi lễ tái hiện
hành vi tính giao có mặt từ Lễ Linh tinh tình phộc ở
Phú Thọ đến tượng thờ Yoni-Linga (âm hộ, dương vật)
trong các đền đài Chăm ở Thánh địa Mỹ Sơn và các
nhà mồ phơi bày hàng loạt hành vi tính giao của các sắc
dân Tây Nguyên.
Dẫu
không sinh động bằng ông cha, việc xếp hình từ SEX về
bản chất cũng gợi nhắc đến hành vi tính giao; do đó,
cái mà hành vi này không phù hợp không phải là thuần
phong mỹ tục của Việt Nam (quá phù hợp, là đằng khác)
mà là những cái đầu định kiến Nho giáo chẳng biết
từ lúc nào và bằng cách nào ngang nhiên chiếm giữ cái
lệnh bài “văn hóa dân tộc” để phán xét người
khác.
Những
người hay nhân danh “thuần phong mỹ tục dân tộc”
thừa hiểu rằng “thuần phong mỹ tục” không thể lên
tiếng để cãi lại họ. Khi quy cho hành vi của ai đó đi
ngược lại “thuần phong mỹ tục của dân tộc”, họ
ngầm ý rằng quan điểm của họ đại diện cho cái gọi
là “thuần phong mỹ tục” ấy. Từ đó, tiếng nói cá
nhân của họ biến thành tiếng nói dân tộc. Họ trở
thành dân tộc.
Ngôn
ngữ phản ánh tư duy. Ngôn ngữ toàn trị phản ánh tư
duy toàn trị. Có một nhà độc tài tiềm ẩn trong những
người hay nhân danh “thuần phong mỹ tục”, “bản sắc
văn hóa dân tộc”.
Vì
sao PA83 vào cuộc?
Lẽ
thường, vụ việc này chỉ gây ra những tranh cãi trong dư
luận với những khen chê từ góc nhìn của mỗi người
đối với việc biểu tượng hóa hành vi tính giao nơi
công cộng. Tuy nhiên, sự vào cuộc của PA83-Phòng An ninh
Chính trị nội bộ, chỉ dấu những phản ứng của lực
lượng nắm quyền với hiện tượng này.
Đảng
Cộng sản Việt Nam nắm quyền hiện nay luôn tỏ thái độ
“hai mặt” với di sản của chế độ quân chủ trước
đây.
Một
mặt, từ quan điểm giai cấp họ phê phán kịch liệt chế
độ quân chủ, nhằm biện minh cho việc “cướp chính
quyền” (chữ dùng của người cộng sản) năm 1945, từ
đó khẳng định tính chính danh của họ trong việc nắm
giữ quyền lực nhà nước.
Mặt
khác, khi đã có quyền lực trong tay, vì muốn duy trì tâm
lý bái vọng quyền lực nhà nước của người dân (tâm
lý thần dân), họ duy trì tính cách thiêng liêng của các
biểu tượng vương triều xưa cũ. Họ khẳng định Hoàng
Thành, nơi cư trú của giai cấp thống trị mà họ muốn
xóa bỏ, là chốn tôn nghiêm. Họ đóng vai vua cử hành lễ
Tế trời ở Đàn Xã tắc. Họ cầu khấn Thần Nông rồi
xuống ruộng kéo cày trong lễ Tịch điền.
“Hà
Nội là trái tim của cả nước, Ba Đình là trái tim của
Hà Nội”. Ý chí tập trung quyền lực này được củng
cố bằng (1) tạo cảm giác về sự kế thừa quyền lực
từ Hoàng Thành đến Hội trường Ba Đình, Phủ Chủ
tịch, Phủ Thủ tướng cùng nằm trong quần thế Ba Đình
và (2) khẳng định tính tôn nghiêm của các biểu tượng
quyền lực trên.
Do
đó, một cách vô tình, bằng hành vi của mình, các bạn
sinh viên đã giải thiêng một biểu tượng quyền lực và
qua đó thách thức một trong những yếu tố khẳng định
tính chính danh của lực lượng nắm quyền đương thời.
Đó là lý do chính mà cơ quan an ninh chính trị nội địa
phải nhanh chóng vào cuộc, ngăn chặn khả năng lan rộng
của hành vi giải thiêng này.
“Phải
chặn đứng ngay!!! Hôm nay để chúng nó SEX trước Hoàng Thành Thăng Long thì nay mai không biết chừng chúng sẽ
FUCK trước Phủ Chủ tịch, Phủ Thủ tướng, Quốc hội”.
Không quá khó hiểu nếu như có một quan chức tuyên giáo
cấp cao nào đó có suy nghĩ như vậy.
Phản
ứng của Học viện Ngân hàng
Ngay
sau khi vụ việc trở nên ồn ào, Ban Giám hiệu Học viên
Ngân hàng đã lập tức tiến hành kiểm điểm các sinh
viên. Không có thông tin gì về việc liệu có sinh viên
nào chối từ việc kiểm điểm này không?
Tìm
mỏi mắt nhiều lần trong Luật Giáo dục Đại học hiện
hành vẫn không thấy quy định nào để có thể dựa vào
đó cho rằng hành vi của các sinh viên này là sai trái.
Vậy căn cứ vào đâu Học viên này tiến hành kiểm điểm
sinh viên?
Đại
diện nhà trường cho biết: “Nhà trường sẽ có quy chế
xử phạt với sinh viên làm ảnh hưởng uy tín thương
hiệu của Học viện Ngân hàng”.
Phát
biểu trên cho thấy rằng căn cứ hành xử của Học viện
này là dư luận xã hội. Rõ ràng, trong bối cảnh tinh
thần tự trị vẫn còn là một giá trị xa lạ đối với
đại học Việt Nam, Học viện này tỏ ra không chỉ là
con rối của quyền lực chính trị mà tệ hại hơn, còn
bị giật dây bởi dư luận.
Một
trường đại học hành xử tùy tiện vô luật, sẵn sàng
hùa theo dư luận “ném đá” sinh viên của mình thì hẳn
tấm bằng của nó không đáng để các bạn sinh viên chờ
đợi.
Nếu
các bạn sinh viên kể trên đọc được những dòng này,
hi vọng các bạn nghĩ đến khả năng xếp thêm chữ
FUCK, dành tặng cho tất cả, nhất là cho cái phòng PA83
đang muốn đè bẹp quyền tự do biểu đạt của các bạn.
Nhà nước Việt Nam 'giúp' Trung Quốc hại lúa gạo dân Việt
SÀI GÒN (NV)
- Chính quan chức CSVN mà người ta gọi bóng gió là “lợi ích nhóm” bị tố
cáo làm tay sai đắc lực cho Trung Quốc để giết dần mòn giới nông dân và
lúa gạo của Việt Nam.
“Một lý do quan trọng hơn là nhiều quan chức lại đứng đằng sau lưng
những công ty nhập khẩu lúa giống Trung Quốc để kiếm lợi ích cá nhân,
khuyến cáo nông dân nên trồng lúa Trung Quốc không nên trồng giống lúa
Việt Nam.”
Giáo sư Võ Tòng Xuân, một chuyên viên lúa gạo kỳ cựu của Việt Nam, nói
như vậy trong cuộc phỏng vấn của báo Đất Việt hôm Thứ Bảy 30/11/2013.
Như thế, đây là thêm bằng chứng nhà cầm quyền độc tài đảng trị ở Bắc
Kinh như con bạch tuộc khổng lồ với cả trăm cả ngàn cái vòi vươn sang
Việt Nam lũng đoạn tất cả mọi mặt của nền kinh tế và sản xuất của nước
này.
Trong cuộc phỏng vấn của tờ Đất Việt, ông Võ Tòng Xuân cho hay, tuy Việt
Nam là một nước nông nghiệp và lấy trồng lúa làm chính, nhưng khác với
trước kia, từ mấy năm trở lại đây, Trung Quốc khống chế phần lớn từ khâu
sản xuất lúa giống, phân bón, thuốc trừ sâu và cả tiêu thụ gạo.
Tin tức cho hay từ 50% đến 70% nhu cầu lúa giống, phân bón và thuốc trừ
sâu của nông dân Việt Nam đều nhập cảng từ Trung Quốc. Không phải các
chuyên viên Việt Nam không nghiên cứu được lúa giống thích hợp, phẩm
chất cao nhưng có những viên chức nhà nước lại nằm đằng sau việc đốc
thúc người dân sử dụng lúa giống Trung Quốc.
Chính sách “tam nông” của nhà cầm quyền CSVN rầm rộ tuyên truyền mà giới
nông dân Việt Nam chẳng được hưởng gì ngoài sự đói khổ. Nguyên nhân đầu
tiên, theo ông Xuân, là lúa giống của Việt Nam sản xuất không được
quảng cáo “tiếp thị” mạnh bằng giống Trung Quốc, nhưng như trên ông nói,
giống lúa Trung Quốc được tiêu thụ mạnh hơn chỉ vì “được sự hỗ trợ của
chính quyền khuyến khích dân mua giống lúa đó”.
Cánh đồng gieo cấy với lúa giống Trung quốc ở huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa. (Hình: Tuổi Trẻ)
Trong cuộc phỏng vấn, ông Võ Tòng Xuân không nói rõ ra sự “hỗ trợ của
chính quyền” là ai, cơ quan nào, nhưng ngày 23/8/2013 vừa qua, báo Tuổi
Trẻ cho hay Tổng giám đốc Công ty CP Giống cây trồng Nghệ An Nguyễn Ngọc
Dũng nói với ký giả báo này: “Chúng tôi sử dụng loại giống, bộ giống
nào là do hướng dẫn của Sở NN&PTNT.”
Đại đa số nông dân thuộc các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An đã theo lệnh của
nhà cầm quyền mua lúa giống Trung Quốc để trồng chỉ vì chúng cho sản
lượng cao hơn, dù phải mua giá đắt hơn lúa giống nội địa. Trong khi đó,
phẩm chất gạo từ lúa giống Trung Quốc ăn không ngon và hàm lượng dinh
dưỡng thấp, theo bản tin Tuổi Trẻ vừa kể.
Tờ báo này dẫn nguồn tài liệu của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn
nói tỉ lệ lúa giống nông dân mua để trồng có khoảng 65% nhập cảng từ
Trung Quốc.
Tỉ lệ lúa giống đang được sử dụng tại
Việt Nam có tới 65% xuất xứ từ Trung quốc, theo tài liệu của Bộ Nông
Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn. Trung tâm Khuyến nông quốc gia. (Hình đồ
họa: Tuổi Trẻ)
Việt Nam tùy thuộc phần lớn vào nguyên vật liệu của Trung Quốc để gia
công hàng dệt may, giày dép, đồ điện tử xuất cảng. Báo chí trong nước đã
báo động nhiều lần về sự khống chế của nông sản Trung Quốc từ củ hành,
củ gừng đến củ khoai, trái cây, nay thì đến nông sản căn bản là lúa gạo
cũng không thoát bàn tay phương Bắc.
Ở mặt sản xuất thì như thế, theo nhiều bài báo gần đây, có nhiều dấu
hiệu cho thấy thị trường mua bán lúa gạo của Việt Nam cũng ngày càng phụ
thuộc vào thị trường Trung Quốc. Cho đến Tháng 10-2013, trong tổng số
gạo xuất cảng 5.8 triệu tấn, khoảng 3 triệu tấn đã được xuất sang thị
trường Trung Quốc. Trong đó, xuất cảng “chính ngạch” chỉ chiếm 1.8 triệu
tấn, còn xuất “tiểu ngạch” lên tới 1.2 triệu tấn.
Xuất cảng “tiểu ngạch” qua biên giới với các hợp đồng nhỏ lẻ, theo các
nguồn tin, có nhiều thiệt hại cho phía Việt Nam, từ thất thu thuế, đến
giới thương gia trong nước bị ép và bị bỏ ngang hợp đồng mà không hề bị
chế tài, bồi thường. Đến giữa tháng 8, số lượng hợp đồng với tổng số gạo
938,000 tấn đã bị “hủy hợp đồng”, con số do Hiệp Hội Lương Thực quốc
doanh đưa ra, hầu hết là hợp đồng ký với thương lái Trung Quốc.
Cho tới nay, xuất khẩu và thu mua lúa gạo trong nước nằm hầu trong trong
sự thao túng của Tổng Công Ty Lương Thực Miền Nam và Tổng Công Ty Lương
Thực Miền Bắc, tức hai đại công ty quốc doanh với gần 100 công ty con
chân rết của chúng.
Hai đại gia này chỉ tung tiền nhà nước ra mua khi có hợp đồng rồi bán
lại kiếm lời, bất chấp quyền lợi của nông dân. Đã có rất nhiều bài viết
về sự điêu đứng khốn khổ của nông dân trong chính sách độc quyền lúa gạo
của nhà nước.
“Xuất khẩu gạo hiện nay của ta đang đi ngược chiều thế giới, các nước họ
cạnh tranh giá cao với chất lượng gạo tốt, nhưng doanh nghiệp của ta
thì lại đi cạnh tranh giá rẻ, gạo chất lượng thấp. Dù sao doanh nghiệp
vẫn không lỗ, vì anh bán thấp thì mua thấp, thiệt đâu nông dân chịu”.
Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long, nói
trên tờ Đất Việt ngày 11/8/2013. (TN)
Tiền và máu!
Phải chăng đây là một hình thức hợp thức hóa cho những tệ nạn lo lót tiền để khỏi phải đi “nghĩa vụ” cho phường đội, huyện đội và những người trong hội đồng tuyển “nghĩa vụ quân sự” lâu nay, cũng như người ta đã có ý kiến đề xuất cho hợp thức hóa nghề mãi dâm.
Chuyện này hẳn có lợi cho một lớp người có đặc quyền, đặc lợi tham ô có tiền, lớp người làm thương mãi buôn bán, mánh mung trục lợi từ nhân dân, sẽ dùng tiền để che chở cho con cháu họ khỏi ra chiến trường. Số phận “anh hùng” từ nay sẽ dành cho đám quần chúng nghèo hèn, hẩm hiu này, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, không có tiền đóng cho đảng và chính phủ, chỉ có phần máu và thân xác nhỏ nhoi, cống hiến cho tổ quốc thay cho lớp có tiền. Cuối cùng chỉ có nhân dân khốn khổ phải phơi thây, còn nơi ấm cúng và chỗ ngồi tốt lành dành cho con cái đảng.
Dù chính sách của Cộng Sản lâu nay vẫn tìm cách chỉ trích, bôi xấu chế độ tư bản, thực dân xâm lược hay chế độ tự do miền Nam thế nào đi nữa, nhưng đứng trên cương vị của một công dân phục vụ cho tổ quốc, chế độ CSVN hiện nay còn phải mở mắt học hỏi thêm nhiều bài “công dân giáo dục” và đạo làm người của những phe mà họ cho là kẻ thù.
Tôi xin kể chuyện hai gia đình “kẻ thù” điển hình mà có lẽ chiến sử Cộng Sản ghi rõ hơn ai hết về tư cách phục vụ cho tổ quốc của những thanh niên “anh hùng” không hề núp bóng ô dù, không hề có chuyện “hy sinh đời bố, củng cố đời con!”
Chúng ta đã biết mặc dù mang cấp bậc đại tướng trong quân đội Pháp, Jean de Lattre de Tassigny có con trai là Thiếu Úy Bernard, được đưa đến chiến trường Ðông Dương năm 1949, một nơi được xem là có những trận chiến ác liệt, và đã tử trận tại Ninh Bình trong một cuộc tấn công của Việt Minh, năm 1951, khi mới 23 tuổi. Ông nội và cha của Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ John McCain đều từng là đô đốc bốn sao của Hải Quân Hoa Kỳ, nhưng gia đình này không phải là cái dù, để cho Thiếu Tá McCain khỏi phải bay dưới hỏa lực phòng không của Hà Nội và bị bắn rơi năm 1957.
Nhìn về phía VNCH, Ðại Úy Phi Công Phan Quang Tuấn bị bắn rơi tại mặt trận Quảng Trị, trong khi thân phụ ông, Bác Sĩ Phan Quang Ðán, một thời là quốc vụ khanh và bộ trưởng, thừa quyền lực để mang con trai về một nơi an toàn. Phan Xuân Hiệp, sĩ quan Nhảy Dù, rồi Biệt Ðộng Quân, đụng trận, bị thương ở chiến trường Cheo Reo, Phú Bổn, là con trai của con trai Tướng Phan Xuân Nhuận, chỉ huy trưởng BÐQ.
Về phía Cộng Sản miền Bắc, nơi mà “ra ngõ gặp anh hùng,” “danh tướng” Võ Nguyên Giáp, có hai người con trai đều không dính líu gì đến súng đạn. Con trai trưởng tên Võ Ðiện Biên, một cái tên rất “ấn tượng,” sinh năm 1954, nhưng xong trung học phổ thông, khoảng năm 1971, trong khi thanh niên miền Bắc đang đổ máu, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,” ông con này đã được bố gửi sang học ở Học Viện Kỹ Thuật Hàng Không Giucopxki ở Liên Xô.
Học viện này là trung tâm hàng đầu đào tạo cán bộ cho ngành khoa học hàng không và nghiên cứu hàng không vũ trụ. Ra trường, trở về phục vụ cho quân đội, nói cho oai, nhưng lại nằm trong một cái vỏ bọc bằng nhung được gọi là ngành khoa học công nghệ... Bây giờ Võ Ðiện Biên là giám đốc công ty cổ phần Ðông Sơn, chuyên cung cấp các thiết bị máy móc kỹ thuật cho các cơ quan, doanh nghiệp.
Chính vì điều gì cũng nhân danh nhân dân, nhất là nhân dân thuộc loại bần cùng, đói khổ nên nhân dân phải chịu nhận vinh dự chết cho tổ quốc, để những “con ông, cháu cha” những kẻ quyền lực và có tiền ung dung ra ngoại quốc hay được điều động về trung ương, giữ những chức vụ béo bở.
Nếu đóng tiền để khỏi đi lính, thì rồi đây chính phủ sẽ ấn định bao nhiêu cho mỗi người để gọi là đủ: $500, $1,000 hay $10,000 cũng là quá rẻ để nằm trong chăn ấm, nệm êm, tránh được chuyện xa nhà, nỗi nhọc nhằn tập luyện tại quân trường, và những nguy hiểm lúc đất nước có chiến tranh. Chỉ còn lại là đám “nhân dân anh hùng” đi bộ đội cho có cơm ăn và sẵn sàng chết cho đứa có tiền.
Chúng ta thường mỉa mai lên án những lực lượng lính đánh thuê cho một đất nước không phải của mình, như Quân Ðoàn Lê Dương Pháp (FFL) mà toàn bộ binh lính được tuyển mộ từ nước khác, như 400 người Nga đang chiến đấu như lính đánh thuê ở Syria, như Blackwater, đoàn lính đánh thuê thiện chiến của Mỹ...
“Quân đội Cụ Hồ” rồi đây sẽ là một đoàn quân đánh thuê: Không phải là thứ đánh thuê cho một quốc gia khác, mà đây là đánh thuê cho giai cấp, giai cấp bần cố nông đánh thuê cho giai cấp cầm quyền, tư bản, là những kẻ bỏ tiền ra để mua máu người khác thay vì phải đổ máu của mình ra. Những người nghèo không có tiền đóng cho chính phủ sẽ cầm súng đánh thuê cho những kẻ có tiền bỏ ra thuê!
Ðó là “ưu điểm” của chế độ hôm nay: Cái gì cũng có thể bán và không có gì không mua được!
Tạp ghi Huy Phương
“Ưu điểm” của chế độ CHXHCN hôm nay:
Cái gì cũng có thể bán và không có gì không mua được!
Trong nghìn
chuyện quái đản xảy ra ở Việt Nam lâu nay, bây giờ lại có thêm một
chuyện quái đản nữa, là có lẽ rồi đây, thanh niên có thể tránh chuyện đi
lính bằng cách đóng tiền, nói rõ là từ nay thanh niên Việt Nam sẽ góp
đồng tiền thay việc góp máu cho quốc gia. Một trung tướng CSVN, cũng là
dân biểu Quốc Hội, chủ nhiệm Ủy Ban Quốc Phòng-An Ninh, ông Trần Ðình
Nhã, đã có dự thảo như thế để sửa đổi “Luật Nghĩa Vụ Quân Sự”.
|
(Hình minh họa: Vietnam News Agency/AFP/Getty Images)
|
Phải chăng đây là một hình thức hợp thức hóa cho những tệ nạn lo lót tiền để khỏi phải đi “nghĩa vụ” cho phường đội, huyện đội và những người trong hội đồng tuyển “nghĩa vụ quân sự” lâu nay, cũng như người ta đã có ý kiến đề xuất cho hợp thức hóa nghề mãi dâm.
Chuyện này hẳn có lợi cho một lớp người có đặc quyền, đặc lợi tham ô có tiền, lớp người làm thương mãi buôn bán, mánh mung trục lợi từ nhân dân, sẽ dùng tiền để che chở cho con cháu họ khỏi ra chiến trường. Số phận “anh hùng” từ nay sẽ dành cho đám quần chúng nghèo hèn, hẩm hiu này, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, không có tiền đóng cho đảng và chính phủ, chỉ có phần máu và thân xác nhỏ nhoi, cống hiến cho tổ quốc thay cho lớp có tiền. Cuối cùng chỉ có nhân dân khốn khổ phải phơi thây, còn nơi ấm cúng và chỗ ngồi tốt lành dành cho con cái đảng.
Dù chính sách của Cộng Sản lâu nay vẫn tìm cách chỉ trích, bôi xấu chế độ tư bản, thực dân xâm lược hay chế độ tự do miền Nam thế nào đi nữa, nhưng đứng trên cương vị của một công dân phục vụ cho tổ quốc, chế độ CSVN hiện nay còn phải mở mắt học hỏi thêm nhiều bài “công dân giáo dục” và đạo làm người của những phe mà họ cho là kẻ thù.
Tôi xin kể chuyện hai gia đình “kẻ thù” điển hình mà có lẽ chiến sử Cộng Sản ghi rõ hơn ai hết về tư cách phục vụ cho tổ quốc của những thanh niên “anh hùng” không hề núp bóng ô dù, không hề có chuyện “hy sinh đời bố, củng cố đời con!”
Chúng ta đã biết mặc dù mang cấp bậc đại tướng trong quân đội Pháp, Jean de Lattre de Tassigny có con trai là Thiếu Úy Bernard, được đưa đến chiến trường Ðông Dương năm 1949, một nơi được xem là có những trận chiến ác liệt, và đã tử trận tại Ninh Bình trong một cuộc tấn công của Việt Minh, năm 1951, khi mới 23 tuổi. Ông nội và cha của Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ John McCain đều từng là đô đốc bốn sao của Hải Quân Hoa Kỳ, nhưng gia đình này không phải là cái dù, để cho Thiếu Tá McCain khỏi phải bay dưới hỏa lực phòng không của Hà Nội và bị bắn rơi năm 1957.
Nhìn về phía VNCH, Ðại Úy Phi Công Phan Quang Tuấn bị bắn rơi tại mặt trận Quảng Trị, trong khi thân phụ ông, Bác Sĩ Phan Quang Ðán, một thời là quốc vụ khanh và bộ trưởng, thừa quyền lực để mang con trai về một nơi an toàn. Phan Xuân Hiệp, sĩ quan Nhảy Dù, rồi Biệt Ðộng Quân, đụng trận, bị thương ở chiến trường Cheo Reo, Phú Bổn, là con trai của con trai Tướng Phan Xuân Nhuận, chỉ huy trưởng BÐQ.
Về phía Cộng Sản miền Bắc, nơi mà “ra ngõ gặp anh hùng,” “danh tướng” Võ Nguyên Giáp, có hai người con trai đều không dính líu gì đến súng đạn. Con trai trưởng tên Võ Ðiện Biên, một cái tên rất “ấn tượng,” sinh năm 1954, nhưng xong trung học phổ thông, khoảng năm 1971, trong khi thanh niên miền Bắc đang đổ máu, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,” ông con này đã được bố gửi sang học ở Học Viện Kỹ Thuật Hàng Không Giucopxki ở Liên Xô.
Học viện này là trung tâm hàng đầu đào tạo cán bộ cho ngành khoa học hàng không và nghiên cứu hàng không vũ trụ. Ra trường, trở về phục vụ cho quân đội, nói cho oai, nhưng lại nằm trong một cái vỏ bọc bằng nhung được gọi là ngành khoa học công nghệ... Bây giờ Võ Ðiện Biên là giám đốc công ty cổ phần Ðông Sơn, chuyên cung cấp các thiết bị máy móc kỹ thuật cho các cơ quan, doanh nghiệp.
Con trai út là Võ Hồng Nam (1956), tốt nghiệp Ðại Học
Bách Khoa, hiện là giám đốc công ty cổ phần máy tính truyền thông Hồng
Nam. Năm 1984, ông Võ Hồng Nam sang Hungary làm thực tập sinh kỹ sư công
nghệ ở liên hiệp vi điện tử MEV, Buddapest, rồi kỹ sư lập trình ở viện
nghiên cứu máy tính và tự động hóa Buddapest. Về nước, ông trở thành
giám đốc công ty này, một doanh nghiệp làm ăn phát đạt.
Chính vì điều gì cũng nhân danh nhân dân, nhất là nhân dân thuộc loại bần cùng, đói khổ nên nhân dân phải chịu nhận vinh dự chết cho tổ quốc, để những “con ông, cháu cha” những kẻ quyền lực và có tiền ung dung ra ngoại quốc hay được điều động về trung ương, giữ những chức vụ béo bở.
Nếu đóng tiền để khỏi đi lính, thì rồi đây chính phủ sẽ ấn định bao nhiêu cho mỗi người để gọi là đủ: $500, $1,000 hay $10,000 cũng là quá rẻ để nằm trong chăn ấm, nệm êm, tránh được chuyện xa nhà, nỗi nhọc nhằn tập luyện tại quân trường, và những nguy hiểm lúc đất nước có chiến tranh. Chỉ còn lại là đám “nhân dân anh hùng” đi bộ đội cho có cơm ăn và sẵn sàng chết cho đứa có tiền.
Chúng ta thường mỉa mai lên án những lực lượng lính đánh thuê cho một đất nước không phải của mình, như Quân Ðoàn Lê Dương Pháp (FFL) mà toàn bộ binh lính được tuyển mộ từ nước khác, như 400 người Nga đang chiến đấu như lính đánh thuê ở Syria, như Blackwater, đoàn lính đánh thuê thiện chiến của Mỹ...
“Quân đội Cụ Hồ” rồi đây sẽ là một đoàn quân đánh thuê: Không phải là thứ đánh thuê cho một quốc gia khác, mà đây là đánh thuê cho giai cấp, giai cấp bần cố nông đánh thuê cho giai cấp cầm quyền, tư bản, là những kẻ bỏ tiền ra để mua máu người khác thay vì phải đổ máu của mình ra. Những người nghèo không có tiền đóng cho chính phủ sẽ cầm súng đánh thuê cho những kẻ có tiền bỏ ra thuê!
Ðó là “ưu điểm” của chế độ hôm nay: Cái gì cũng có thể bán và không có gì không mua được!
Hiến pháp sửa đổi: Trò hề kệch cỡm
Lê Thiên (Danlambao) - Đầu
năm 2013, giữa lúc cao trào góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992 đang sôi nổi,
tôi đã gióng lên tiếng nói thô thiển của mình trong tư cách là một người
dân Việt Nam. Bài “Tôi góp ý về Hiến Pháp 1992”
bày tỏ nỗi ưu tư của mình về hiểm họa mất nước xuất phát từ cái trò hề
“sửa đổi Hiến Pháp” mà giới cầm quyền CSVN đã dựng lên. Ở đầu bài viết
ấy người viết xác định “Tôi không góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992, mà góp ý về Hiến pháp 1992”, đồng thời tự nguyện đứng về phía Nguyễn Đắc Kiên mà nói với nhà cầm quyền đảng CSVN rằng: Không
có chuyện sửa đổi Hiếp pháp mà chỉ có việc triệt tiêu Hiến pháp 1992,
vô hiệu hóa nó hoàn toàn vì sự sống còn của Dân tộc và Tổ quốc Việt Nam.
Những trò ma mãnh của nhà cầm quyền CSVN đã bộc lộ qua vở diễn “bấm nút”
kệch cỡm ngày 28/11/2013 tại nơi hội họp của các quan chức Cộng sản núp
dưới cái nhãn “quốc hội” với kết quả 486/488, tức 97,59% đồng thuận cho
bản Hiến Pháp “sửa đổi”, càng khiến lòng dân thêm sôi sục. Đã vậy, khi
Nguyễn Sinh Hùng, người đứng đầu đảng hội ngụy danh quốc hội hí hửng gọi
đó là “thời khắc lịch sử” thì lòng dân càng uất nghẹn. Rồi, khi nghe
đám truyền thông “luồn” đảng bốc thơm “chiến thắng vô tiền khoáng hậu”
thì thật khó ai có thể nhịn nôn! Cụ thể, báo Tầm Nhìn ngày 30/11/2013
vung vít: “Kỳ họp lịch sử với hơn 30 ngày làm việc liên tục, dài nhất từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XIII đã khép lại, kết thúc thành công toàn bộ chương trình nghị sự trong tiếng vỗ tay vang dội của các đại biểu Quốc hội, trong niềm hân hoan, phấn khởi và tin tưởng của đồng bào, chiến sỹ, cử tri cả nước”.
Huênh hoang thế chưa đủ, tác giả bài báo còn tung cao những con số kỳ diệu của đảng ta lên tận cõi trời xanh: “Với 32 ngày làm việc, nhưng có thể nói, thời khắc đáng nhớ nhất, tập trung và hồi hộp nhất lại là 60 giây
– thời lượng để các đại biểu của nhân dân bấm nút thể hiện chính kiến
trước văn kiện chính trị - pháp lý tối quan trọng của quốc gia. Một phút ngắn ngủi ấy cũng là giây phút làm nên thành công lớn nhất của kỳ họp và đưa cả nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XIII vào lịch sử lập hiến của đất nước với bản Hiến pháp đầu tiên của thế kỷ 21”.
Những điều trên đây thôi thúc kẻ hèn này không ngần ngại lặp lại một lần
nữa những gì mình đã trình bày cách đây 7-8 tháng, mong quý độc giả
cùng chia sẻ.
Tôi góp ý về Hiến Pháp 1992
Tôi không góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992, mà góp ý về Hiến pháp 1992.
Là hạt cát trong sa mạc, vô cùng nhỏ bé, mất hút giữa đồi cát mênh mông,
tôi chẳng là gì cả so với bất cứ ai là người Việt Nam, trừ tập đoàn
CSVN, những kẻ sính nhân danh Việt Nam bằng môi mép nhưng mất căn tính
Việt Nam từ gốc rễ do tâm bệnh tôn thờ chủ nghĩa cộng sản, thứ chủ nghĩa
đã bị nhân loại tống khứ ra khỏi dòng sinh hoạt xã hội.
Với tinh thần tự nguyện và ý thức về trách nhiệm của một kẻ dân dã quê
mùa đối với quốc gia dân tộc, trong phạm vi hiểu biết giới hạn của mình,
tôi tôn vinh những quan điểm mà nhà báo trẻ Nguyễn Đắc Kiên đã can đảm
nêu lên trong “Vài Lời” của anh với Tổng Bí thư CSVN
Nguyễn Phú Trọng. Tôi trọng vọng anh Kiên và đứng về phía anh mà nói với
nhà cầm quyền đảng CSVN rằng: Không có chuyện sửa đổi Hiếp pháp
mà chỉ có việc triệt tiêu Hiến pháp 1992, vô hiệu hóa nó hoàn toàn vì sự
sống còn của Dân tộc và Tổ quốc Việt Nam.
Dứt khoát nó – cái mạo danh Hiến pháp ấy – không bao giờ là tiếng nói
của dân, không hề thể hiện ý chí của nhân dân trong nước. Nó chưa phải
và không bao giờ là Hiến pháp của dân, do dân, vì dân và cho dân. Thực
chất nó chỉ là công cụ trấn áp dân, là thòng lọng siết cổ dân, bóp nghẹt
tiếng nói của dân, giẫm đạp quyền tự do sinh sống của dân, đặc biệt là
quyền làm người và quyền làm công dân bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ quốc gia chống họa xâm lăng từ phương bắc. Nó là đảng pháp (như
Gs Tương Lai nói), đảng pháp chống dân, phản dân, hại dân, siết cổ dân
và giết dân!
Bọn người luôn vỗ ngực tự phong là “đỉnh cao trí tuệ” nào có bao giờ
biết nghe ai, có bao giờ cần ai góp ý điều gì cho sản phẩm họ đã thai
nghén và đẻ ra để bảo vệ họ? Người dân Việt Nam đã bao nhiêu lần mắc mưu
góp công, góp sức, góp vàng, góp bạc và cả góp ý cho họ, nhưng luôn
luôn được đáp trả bằng sự dối trá, lừa phỉnh, lật lọng, phản trắc, sách
nhiễu, đàn áp, giết hại…!
Thực tế, từ trước đến nay, với đảng CSVN, góp ý phải được hiểu là “đồng
ý”, là “hoàn toàn nhất trí”! Đã có những mẫu in sẵn, công an và cán bộ
đảng mang xuống tận hạ tầng và người dân chỉ việc ký tên vào, hoặc cán
bộ sẽ ký thay cho! Bằng không thì là phản động, là chống phá! Từ đó,
đương nhiên con số nhân dân đồng thuận với ý đảng sẽ chiếm phần trăm
tuyệt đối! Hàng triệu người đồng thuận!!!??? Kết quả ấy không thể đảo
ngược! Điều 4 Hiến pháp đại thắng: đảng lãnh đạo!
Nhưng người dân Việt Nam ngày nay không dễ bị lừa phỉnh và chịu sự hăm
dọa mãi như trước nữa. Đảng “ta” chớ tưởng bở! Những trò ma mãnh đã bị
lật tẩy! Người dân, dù biết góp ý ngược với ý đảng sẽ bị quy kết đủ thứ
tội, vẫn hăm hở tham gia góp ý… trái chiều! Ý đảng chưa bao giờ là lòng
dân, nhưng có một thời dân bị mũi súng chọc vào mồm, đành câm lặng. Bây
giờ là lúc nhân dân bộc lộ “lòng dân chống ý đảng!” Không lưỡng lự e dè gì nữa!
Sự hăng hái của người dân trong quyết tâm tự mình nói lên tiếng nói của
mình được tỏ rõ bằng việc ký tên vào ba văn kiện mang tính lịch sử, là:
(1) Bản Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992 của các Nhân sĩ & Trí
thức; (2) Bản Tuyên bố của những công dân tự do; và (3) Thư góp ý của
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam!
Ký tên như vậy, người dân Việt Nam không mơ CSVN đón nhận sự góp ý của
mình, mà chỉ có ý mạnh dạn bày tỏ ý chí QUYẾT KHÔNG với CSVN! KHÔNG CHẤP
NHẬN QUYỀN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CSVN TRÊN CẢ DÂN LẪN QUÂN CŨNG NHƯ TRONG
MỌI VẤN ĐỀ ĐẤT NƯỚC! Nghĩa là mọi sinh hoạt chính trị, văn hóa, xã hội,
quân sự, kinh tế trong nước phải thuộc về dân, là của dân, để phục vụ
cho dân và vì lợi ích của toàn dân, chứ không lệ thuộc bất cứ đảng phái
kể cả cái đảng độc quyền độc trị – đảng CS!
Các nhà lãnh đạo cao cấp các tôn giáo lớn trong nước gồm Phật Giáo, Công
Giáo, Hòa Hảo Phật Giáo, Tin Lành… cùng các nhân sĩ, trí thức, cựu viên
chức đảng và nhà nước CSVN đều kiên quyết đòi hỏi xóa bỏ điều 4 Hiến
pháp và các điều khoản khác mang tính độc đảng độc tài độc trị. Việc làm
này càng bị nhà cầm quyền CSVN ra sức đánh phá, người dân càng háo hức
gia nhập hàng ngũ chung lòng chung tiếng đấu tranh!
Ba tài liệu nói trên sẽ bị xuyên tạc! Song tin chắc cây cứng đứng đầu
gió, và những tài liệu ấy sẽ có giá trị trường tồn để vào một lúc nào đó
sẽ trở thành bản án hùng hồn tố cáo tội ác của chế độ CS.
Yêu cầu trước tiên ngay bây giờ là tập đoàn CSVN hãy lập tức trả về cho nhân dân mọi danh nghĩa nhân dân họ đã tiếm dụng: Chính quyền nhân dân! Quân đội nhân dân! Công an nhân dân! Và mọi thứ nhân dân khác… Nhân dân không phải là lớp ngụy trang để cho CSVN dùng như vải thưa che mắt thánh hầu đánh lại nhân dân!
Mạo danh “nhân dân” để đảng đè lên nhân dân, đó là một cuộc hiếp dâm nhân dân man rợ nhất, một cuộc hiếp dâm tập thể, một kiểu bề hội đồng có tổ chức của những tên chuyên cưỡng dâm đê tiện, tồi bại nhất của lịch sử loài người từ cổ chí kim.
Trong tư cách là những chủ thể tạo thành quốc gia, nhân dân phải có thực
quyền chứ không phải là thứ “chủ” hư danh cúi đầu phó mặc cho bọn kiêu
đảng ngồi bên trên hống hách cai trị… dưới cái nhãn dân làm chủ – đảng lãnh đạo! Dân làm chủ! Khẩu hiệu bịp bợm ấy trơ trẽn lắm, lố bịch lắm rồi! Dẹp bỏ nó ngay bây giờ cũng là đã quá muộn đấy!
Hiến pháp phải là của dân, do dân, cho dân và vì dân, cho nên chỉ có một
thứ Hiến pháp được toàn dân đồng thuận làHiến pháp từ một Nghị hội lập
hiến do dân bầu ra, trực tiếp, bằng một cuộc phổ thông đầu phiếu hoàn
toàn tự do dân chủ, không bị chi phối, dàn dựng, khống chế hay thống
lĩnh bởi bất cứ âm mưu nào hay bởi thế lực độc quyền, độc đoán, độc đảng
nào.
Nhân dân Việt Nam có rất nhiều lý do chính đáng để phủ nhận cái gọi là
Hiến pháp 1992. Xin đan cử một số lý do mà tác giả Vũ Ngọc Yên đã liệt
kê trên Bauxite Việt Nam ngày 20/3/2013 qua bài “Phân tích và nhận xét dự thảo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” như sau:
- Nhà nước CHXHCN do đảng CSVN thành lập, tức nhà nước ấy không phải là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
- Đảng độc quyền lãnh đạo đất nước và ý thức hệ: Ý thức hệ cộng
sản tự nó là một hệ tư tưởng vừa không tưởng, vừa dối trá, vừa gian
hiểm. Chẳng những nó tự mâu thuẫn với chính nó mà còn gây mâu thuẫn xung
đột giữa các tầng lớp xã hội để bọn chủ mưu hưởng lợi từ những mâu
thuẫn xung đốt ấy.
- Không tam quyền phân lập, vì nếu CSVN chấp nhận tam quyền phân lập thì quyền độc tôn độc đảng ắt sẽ tự phá sản.
- Quốc hội thiếu thực quyền. Trên thực tế, quốc hội dưới chính
thể CS chưa bao giờ là quốc hội của nhân dân, mà là quốc hội đảng trị.
Quốc hội ấy không có thực quyền, chứ không phải thiếu thực quyền.
- Biến quân đội, công an, hệ thống hành chánh nhà nước thành công cụ của đảng.
- Hiến định hóa Mặt trận tổ quốc: Cái gọi là Mặt trận Tổ quốc không phục vụ Tổ quốc mà là phục vụ đảng, nó do đảng sai khiến.
- Thiếu cơ chế đảm bảo nhân quyền và dân quyền. Quyền làm dân và quyền làm người bị chà đạp; những người đấu tranh bảo vệ nhân quyền và dân quyền đều bị đàn áp dã man.
Tuy nhiên, ngoài những lý do rất chính đáng trên cùng nhiều lý do khác,
còn một lý do nữa khiến nhân dân Việt Nam không thể nào chấp nhận Hiến
pháp 1992 của đảng CSVN dù là có sửa đổi vá víu: Nhà cầm quyền CSVN trải
qua nhiều thời kỳ khác nhau mạo danh Hiến pháp để bán nước cho Tàu Cộng
và đàn áp người dân yêu nước đấu tranh bảo vệ Tổ quốc chống lại bá
quyền Bắc Kinh xâm phạm lãnh thổ và lãnh hải quốc gia Việt Nam.
Hoạt động bán nước được tiến hành có mưu lược, có tính toán liên tục từ
khi đảng CSVN nhảy ra tranh giành quyền lực với các chính đảng quốc gia
yêu nước, nhưng nổi rõ nhất là từ Hội nghị Genève năm 1954 mà kết quả là
bản Hiệp định do CSVN ký với thực dân Pháp chia đôi đất nước Việt Nam
dưới bàn tay phù thủy của Trung Cộng vì quyền lợi của chính họ chứ không
phải vì Việt Nam, như các quan chức CSVN thú nhận sau này. Trong khi
VNCH mạnh mẽ chống đối việc chia đôi lãnh thổ quốc gia bằng cách không
ký tên và bản Hiệp định!
Từ năm 1956 Ung Văn Khiêm, Thứ trưởng Ngoại giao của nước VNDCCH (Bắc
Việt) đã vâng lệnh Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, đi đến Bắc Kinh đóng
vai tiền trạm, cho rằng TC có chủ quyền trên các đảo Tây Sa-Nam Sa mà
thực chất chính là Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam. Hai năm sau, Phạm
Văn Đồng chính thức công nhận chủ quyền ấy thuộc về TC bằng một văn tự
có tên là Công hàm – Công hàm Phạm Văn Đồng 1958. Phạm Văn Đồng bấy giờ
là Thủ Tướng Chính phủ VNDCCH dưới quyền lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp
của Hồ Chí Minh, Chủ Tịch kiêm Tổng Bí Thư đảng CSVN, kiêm Chủ tịch Nhà
nước VNDCCH.
Công hàm 1958 tạo “cơ sở pháp lý” cho Tàu Cộng đánh chiếm Hoàng Sa năm
1974, và cũng là điểm khởi đầu cho những hành động bán nước Việt Nam cho
Trung Cộng liên tục và trắng trợn sau đó cho đến hôm nay mà ai theo dõi
tin tức thời sự cũng đều thấy rõ.
Cộng sản Việt Nam càng cố tình lấp liếm cái Công hàm 1958, thì cái tội
bán nước của tập đoàn CSVN do Hồ Chí Minh đứng đầu càng lộ rõ không
những ở trong nước mà cả trên các diễn đàn tranh luận hay hội thảo quốc
tế.
Chuyện mới xảy ra ngày 13-15/3/2013 thật là chuyện đại ô nhục cho dân
tộc Việt Nam! Những ngày này, tại thành phố New York, Hoa Kỳ, một cuộc
Hội thảo về Biển Đông được diễn ra do Hội Châu Á (Asia Society) và
Trường Hành chính công Lý Quang Diệu thuộc Đại học Quốc gia Singapore
(NUS) phối hợp tổ chức. Đai diện nhiều quốc gia có dính líu tới Biển
Đông đều tham dự, trong đó phía Trung Quốc có Tướng Zhu Chenghu. Phía
Việt Nam thì do Nguyễn Thị Lan Anh,Phó trưởng khoa Luật quốc tế thuộc
Học viện Ngoại giao và Nguyễn Thị Thanh Hà, Vụ trưởng Vụ Luật pháp và
Điều ước quốc tế thuộc Bộ Ngoại giao tham dự.
Tại cuộc Hội thảo, đại diện phía CSVN nêu ra rằng, nhiều lần Việt Nam tỏ
rõ “thiện chí” đề nghị phía Trung Quốc cùng ngồi lại thương thảo với
Việt Nam, nhưng phía Trung Quốc luôn luôn từ chối. Tướng Trung cộng Zhu
Chenghu bèn phản pháo: “Tây Sa thuộc Trung Quốc theo công hàm của Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng viết
cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai vào năm 1958, công nhận Hoàng
Sa-Trường Sa thuộc Trung Quốc… Giấy trắng mực đen – White paper and
black ink!!!” White paper and black ink là nguyên văn câu nói từ
miệng tướng Trung Cộng, chứ chẳng có ai đặt điều bịa chuyện gì cả! Công
hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng! Rõ ràng lắm! Hết chối cãi!
Phía Trung Cộng lại nhấn mạnh: “Nếu nhà nước Việt Nam không coi
lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17 (miền Nam) là phân nửa quốc gia của mình
thì mới xem lại giá trị công hàm!”
Một chi tiết đáng ghi nhận là CSVN từ trong nước tỏ ra “quan tâm theo
dõi” cuộc Hội thảo Biển đông tại New York ngày 13-15/3/2013 nói trên,
nhưng trớ trêu thay! Bản tin của Thông tấn xã Nhà nước CSVN (TTXVN)
chẳng có lấy một chữ, một lời đá động tới điều tướng Tàu Zhu Chenghu nêu
ra và cũng chẳng dám đưa hình ảnh minh họa phía đại diện Việt Nam đã
lúng túng lảng tránh như thế nào trước lời cáo buộc của Trung Cộng.
Càng xấu hổ hơn nữa là sau đó các báo luồng đảng trong nước (như Thanh
Niên, Đất Việt, Vietnamnet…) xúm nhau theo lệnh đảng, sao y bản tin của
TTX/CSVN để tung hỏa mù đánh lừa nhân dân, đánh bóng “thành quả xuất sắc
của đảng ta”. Trong khi nếu chịu khó vào net tìm Asia Society, chúng ta
sẽ không thể nào ngăn được lòng căm phẫn khi xem đoạn video về cuộc Hội
thảo, nhất là khi chiêm ngưỡng cái dung nhan đối thoại hùng hổ của tên
tướng Trung Cộng và gương mặt trơ trẽn ngượng chín của hai phụ nữ đại
diện phía CSVN lúc mà tên tướng Tàu mang cái Công hàm 1958 và tên của
Phạm Văn Đồng ra mà nhục mạ Việt Nam! Uất nghẹn dâng trào!
Trong trách nhiệm đối ngoại, trả lời như thế nào, đối đáp như thế nào
với luận điệu của TC, đó là việc của nhà cầm quyền CSVN với đàn anh của
họ. Nhưng đối với dân tộc Việt Nam, nếu CSVN “coi lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17 là phân nửa quốc gia của mình”
vào thời điểm Phạm Văn Đồng ký Công hàm 1958 thì rõ ràng đảng CSVN đã
bán nước có văn tự – giấy trắng mực đen (white paper and black ink, như
Zhu Chenghu nói).
Còn như ngược lại, “nếu nhà nước Việt Nam không coi lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17 (miền Nam) là phân nửa quốc gia của mình” thì
cả đảng CSVN lẫn đảng CSTQ đều là quân xâm lược, quân ăn cướp! Cả CSVN
lẫn CSTQ phải hoàn trả tức khắc cái gì của Miền Nam Việt Nam cho chính
chủ của Miền Nam Việt Nam! Tuy nhiên, phía CS Bắc Việt buộc phải hoàn
trả trước, chính chủ của Miền Nam Việt Nam mới có thể yêu cầu LHQ can
thiệp, buộc TC rút khỏi những vùng đất đai, biển đảo chúng đã cưỡng đoạt
của Việt Nam qua sự thỏa hiệp, đồng tình và cả tự nguyện dâng hiến từ
phía CSVN bằng Công hàm, bằng Hiệp định (Hiệp định biên giới Việt Hoa,
Hiệp định lãnh hải phía bắc…). Và từ đó, một quốc gia Việt Nam thống
nhất hình thành: thống nhất về mặt lãnh thổ lẫn ý chí, lập trường quốc
gia dân tộc và đường hướng xây dựng tự do, độc lập, dân chủ, công bằng
xã hội và phú cường.
Một đảng buôn dân bán nước trắng trợn! Một đảng hà khắc ác độc với dân
trong khi cúi luồn bưng bợ lũ xâm lăng! Một đảng mồm loa mép giải “dân
là gốc”, nhưng tay thì vung đao, mã tấu, dùi cui và súng đạn nhắm thẳng
vào đầu dân! Đảng ấy chẳng những hoàn toàn không có quyền lẫn tư cách
lãnh đạo nhân dân, mà còn đáng phải bị lôi ra tòa công lý xử tội trước
nhân dân!
Một đảng mang đầy tội ác với dân với nước như vậy, thì cái Hiến pháp do
họ chế ra là cái giống gì nếu không là sản phẩm của tội ác? “Hiến pháp”
đó là căn nguyên của bạo lực, bạo hành và là mầm mống gây nên xáo trộn
trên mọi lãnh vực đời sống nhân dân. Nó là bản luật gốc đẻ ra cả một rừng luật chỉ với mục đích để đảng sử dụng luật rừng đánh vào dân!
Hiến pháp ấy phải giải trừ nó, phải triệt tiêu nó ngay, nếu chúng ta muốn nước Việt Nam tồn tại, dân tộc Việt Nam sống còn!
30/3/2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét