Lãnh đạo VN: Vì sao nhiều nhưng không manh, mới nhưng vẫn cũ?
Xung quanh sự kiện này có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng ý kiến chung nhất cho rằng cách bổ nhiệm lãnh đạo như vậy "chỉ có ở Việt Nam" - đất nước mà lúc nào cũng ở "thời kỳ quá độ" mãi mê tìm tòi khám phá những điều mà nhân loại đã đi qua rồi! Đó cũng là lý do tại sao Đảng, Chính phủ và Quốc hội liên tục kêu gọi "cải cách hành chính"và "tinh giản biên chế"..., nhưng đội ngũ công chức không ngừng tăng với tốc độ nhanh hơn tốc độ phát triển kinh tế; tại các lễ hội, phần giới thiệu danh sách đại biểu thường dài đến sốt ruột!
Sở dĩ việc bổ nhiệm cùng lúc 2 phó Thủ
tướng mới được dư luận hoan nghênh trước hết là vì người Việt Nam đã quá
thất vọng với giới lãnh đạo già nua bảo thủ và giờ đây rất sẵn lòng
chào đón những gương mặt trẽ hơn. Tuy nhiên, đó là thứ tình cảm nhất
thời khiến người ta quên đi những điều kiện khác mà Việt Nam đang rất
cần, đó là tầm nhìn và bản lĩnh độc lập của người lãnh dạo. Thực tế thế
giới cho thấy không phải độ tuổi trẻ hay già mà tầm nhìn và bản lĩnh độc
lập mới là yếu tố cần thiết nhất của một nhà lãnh đạo. Ở nhiều nước, kể
cả các nước phát triển, độ tuổi lãnh đạo có thể rất trẻ nhưng cũng có
thể khá già dặn (như Lý Quang Diệu của Singapore, Đặng Tiểu Bình của
Trung Quốc v.v...) vì ở đó người ta căn cứ vào bản lĩnh và tầm nhìn để
lựa chọn lãnh đạo. Tất nhiên tầm nhìn cần được thể hiện công khai, tốt
hơn hết là bằng cương lĩnh và chương trình hành động cụ thể, đủ sức
thuyết phục trước công chúng. Đó cũng là thước đo để đánh giá công tác
trong suốt nhiệm kỳ của nhà lãnh đạo. Người lãnh đạo ngoài việc tuân thủ
nguyên tắc công tác và nghĩa vụ đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích
cá nhân, điều quan trọng là phải tỏ rõ bản lĩnh và lập trường riêng của
mình nhằm đảm bảo thục hiện cương lĩnh hành động đã cam kết. Trong
trường hợp cảm thấy không đủ sức thực hiện hoặc bị người khác ép buộc từ
bỏ chính kiến của mình thì bản thân họ sẽ tự nguyện từ chức mà không
cần đợi hết nhiệm kỳ. Ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Đức, Pháp v.v...việc từ
chức hoặc bị cách chức là hoàn toàn bình thường nhằm đảm bảo hoạt động
của guồng máy và vì lợi ích của quốc gia. Đó là một đặc điểm của phong
cách lãnh đạo trong thế giới hiện đại.
Tiếc rằng điều này chưa có và có lẽ còn
lâu mới có trong nền chính trường Việt Nam-nơi sản sinh ra khái niệm
"lãnh đạo tập thể" gây nhiều tranh cãi. Tâm lý "kéo áo nhau" cùng lên,
cùng xuống... cũng là một đặc thù của nền chính trị Việt Nam. Còn nhớ sự
kiện giữa nhiệm kỳ Đại hội Đảng lần thứ 8, hàng loạt lãnh đạo chủ
chốt đã cùng nhau nghĩ hưu tạo ra một sự "hụt hẩng" không cần thiết,
trong đó sự ra đi của ông Võ Văn Kiệt được cho là một sự thiệt thòi" cho
đất nước. Như một biện pháp vớt vát người ta đã cho ra đời quy chế "cố
vấn" khiến cho cơ chế lãnh đạo càng thêm rườm rà. Đó chỉ là một trong
những biểu hiện của cung cách lãnh đạo lạc hậu tại đất nước này. Nghe
nói trong quá trình họp Quốc hội vừa qua đã có ý kiến đề nghị 2 vị Phó
Thủ tướng được đề cử trình bày chương trình hành động..., nhưng không
hiểu vì lý do nào, đến nay vẫn chưa thấy gì ngoài những lời phát biểu
chung chung. Đây chính là một lổ hổng trong quy trình lựa chọn và đề
bạt cán bộ ở Việt Nam như nó vốn dĩ vẫn thế. Vẫn biết, nếu xét từng cá
nhận lãnh đạo Việt Nam không thiếu người tài và bản lĩnh, nhưng tiếc
thay họ không được tạo điều kiện để thể hiện một cách công khai trước
công chúng, do đó sau khi nhận nhiệm mới vụ họ thường dễ trở nên tự mãn,
tự phụ và xa dần với quần chúng nhân dân, thậm chí trở nên quan cách,
độc đoán. Không có cương lĩnh hành động từ trước, họ thường lúng túng và
dẽ bị ảnh hưởng, thậm chí bị thao túng bởi giới lãnh đạo đàng anh. Là
thiểu số mới lên họ dẽ bị rơi vào thế "thiểu số phải phục tùng đa số".
Rốt cuộc họ chỉ còn cách lựa chọn, một là chịu "bị đồng hóa" bởi ê kíp
cũ, hai là bị loại bỏ giữa chừng, ba là "bị liệt vị" không thể phát huy
được gì trong một guồng máy tập thể đã an bài. Nhiều người hẳn còn nhớ
trường hợp cố Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã
bị "loại bỏ" như thế nào trước sức ép của các thế lực "thù trong giặc
ngoài" vào những 1980. Ngay cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp nổi tiếng về
phong cách và bản lĩnh cũng đã từng là nạn nhân trong nhiều năm liền.
Rất nhiều trường hợp người tài đức đã "biến mất" trong quá trình vận
hành nền chính trị của đất nước này. Thực tế cho thấy không chỉ bản thân
họ bị "ngã ngựa giữa dòng" và sự nghiệp của đất nước cũng bị ảnh hưởng.
Sự thật phủ phàng và trớ trêu đến nỗi nhiều người đã rút ra bài học
rằng muốn làm nên sự nghiệp lớn trước hết hãy biết bảo vệ mình...bằng
cách dĩ hòa vi quý (!). Nhưng thực ra đó chỉ là cách ngụy biện thuận
tiện nhất đối với những kẻ cơ hội chờ thời. Liệu đất nước này có thể cải
cách và phát triển với một đội ngủ quan chức với quan niệm đầy thực
dụng như vậy không?
Thiết nghĩ, điều Việt Nam đang thiếu hiện nay không chỉ là lãnh đạo trẻ mà là lãnh đạo có bản lĩnh và tầm nhìn với phong cách hiện đại. Họ phải là người dám nghĩ dám làm và dám chịu trách nhiệm. Chí có những lãnh đạo như thế mới có thể công phá vào cái lô cốt được xây bằng thứ vật liệu của sự dối trá và mị dân cùng những khái niệm mơ hồ như "lãnh đạo tập thể", "nguyên tắc cấp dưới phục tùng cấp trên", "đấu tranh phê và tự phê" v.v... Khi nào còn thiếu vắng những lãnh đạo như thế thì chưa thể hy vọng đất nước ra khỏi tình trạng trì trệ và bảo thủ đã ăn sâu bám rể trong trong thời gian dài./.
Hội nghị “Ủy ban Đàn Két Công giáo” sắp tới: Sẽ nhiều trò vui
Theo
lịch trình thì đại hội VI của Ủy ban “đàn két” như người dân ở đây vẫn
gọi sẽ diễn ra trong 2 ngày 19 và 20-11-2013 tại Nhà hát Âu Cơ. Không
biết do ngầm phản kháng lại dư luận cho rằng mấy vị tham gia Ủy ban
“đàn két” chẳng phải người mà là ngợm, là vật
nên giấy mời họp lần này in hẳn hai chữ “người” (xem ảnh). Theo logic
thì hai lần phủ định là lần khẳng định. Không biết hai lần khảng định
như giấy mời có được thành phủ định không? Ban tổ chức lại chọn Trung
tâm nghệ thuật Âu Cơ ở số 8 Huỳnh Thúc Kháng để diễn đại hội. Quả thật ý
nghĩa và người ta hy vọng sẽ có nhiều trò hay.
Trước
hết là về nhân sự. Năm ngoái, linh mục Nguyễn Công Danh- Chủ tịch cái
Ủy ban “đàn két” này nói rằng không thể để cái tổ chức này thành hội
người siêu cao tuổi được. Linh mục, tu sĩ nào quá 75 tuổi, giáo dân nào
quá 70 tuổi thì nghỉ đi cho người trẻ tham gia. Nhưng khi Tòa TGM Sài
Gòn cho cả linh mục Nguyễn Công Danh và Phan Khắc Từ nghỉ coi xứ thì các
vị lại có vẻ “ buồn” và muốn tiếp tục đóng góp cho “đàn két” vì sưu tập
chưa đủ bộ huân chương mặc dù các cụ lẩm cẩm quá rồi.
Một
GSTS đi dự hội thảo do Ủy ban “đàn két” tổ chức ở Đà Nẵng hồi tháng
6-2013 kể rằng, cụ Danh đọc ba lần diễn văn khai mạc mới đúng. Lúc đầu
cụ đọc bản bế mạc, người ta bảo đã khai mạc đâu, cụ lại lôi tờ khác ra
đọc, lại là hội nghị hôm sau, cuối cùng phải một người lên đưa tờ khai
mạc cụ mới đọc đúng. Khổ nỗi đám văn phòng soạn sẵn nhưng đưa cho cụ cả
tập nên cụ nhầm. Hôm đại hội “đàn két” ở Sài Gòn, các cụ yếu lắm, phải
hai người đi hai bên đỡ nhưng các cụ vẫn giữ ghế. Hội trường nhao nhao:
già quá rồi hơn 80 rồi nghỉ đi cho người khác làm. Nhưng khổ, các cụ lại
nặng tai có nghe thấy dân tình phản đối đâu?
Mặt
trận Trung ương cũng chán các cụ quá rồi vì mấy lần đưa các cụ ứng cử
Quốc hội khóa 12, 13 cũng trượt cả nên lần này dự định thay. Ông Phó Chủ
tịch Mặt trận Trung ương Lê Bá Trình vận động cụ Dương Phú Oanh ( linh
mục hưu trí của Hưng Hóa) làm chủ tịch, linh mục Trần Xuân Mạnh (Thanh
Hóa) làm Tổng thư ký. Các cụ Danh, Từ nghe tin liền phản đối tận Trung
ương: Các vị làm thế là can thiệp vào công việc nội bộ của chúng tôi.
Một cán bộ văn phòng Ủy ban “đàn két” do ông Vũ Trọng Kim đưa về nhẹ
nhàng bảo: Thế ai cho tiền, cho xe các cụ?
Các
cụ hầm hàm bảo: Chúng tôi sẽ khiếu nại lên Ban Bí thư. Sáng ngày
11-11-2013, cụ Danh, cụ Từ vẫn chủ trì họp báo về đại hội. Cụ Thiện Cẩm (
dòng Đa minh) vẫn nói: Ủy ban này thì ông Danh là ngôi Cha, ông Từ là
ngôi Hai còn tôi là ngôi Ba. Bây giờ cụ Thiện Cẩm bị bệnh teo não rồi,
đi đại hội cũng chịu, chỉ còn 2 ngôi mà đang có nguy cơ bị cho lướt ván.
Cụ Oanh muốn làm Chủ tịch nhưng sợ truyền hình bêu mặt, thế thì Nhà
nước bỏ tiền ra áo gấm đi đêm sao nên nhà nước chọn phương án khác nghe
nói sẽ bí mật đến phút chót nhưng khi Mặt trận Trung ương cử người đi
vận động thì chủ tịch mới sẽ là linh mục Nguyễn Văn Hậu (hưu trí của Bà
Rịa Vũng Tàu), còn Tổng thư ký là linh mục Trần Xuân Mạnh.
Các cụ Danh, Từ nghe tin liền phản đối tận Trung ương: Các vị làm thế là can thiệp vào công việc nội bộ của chúng tôi. Một cán bộ văn phòng Ủy ban “đàn két” do ông Vũ Trọng Kim đưa về nhẹ nhàng bảo: Thế ai cho tiền, cho xe các cụ?
Tại văn phòng Ủy ban “đàn két”
này cũng rất nhiều chuyện. Ông Lâm Văn Cách – Phó Chủ tịch Thường trực
thì mâu thuẫn gay gắt với ông Trần Văn Khánh – người của ông Phó Chủ
tịch Mặt trận Trung ương Vũ Trọng Kim đưa về. Ông Cách tố cáo, văn phòng
Công giáo mà tòan quân vô đạo. Ông tố ông Khánh 10 tội mà nếu là dân
thường chắc phải ra tòa nhưng ông Khánh vẫn lên chức chánh văn phòng,
Tổng biên tập trang tin của Ủy ban. Ông Cách cú lên nhất “lành làm gảo
mẻ làm muôi” nên kiên quyết không cho ông Khánh vào Ban Thường trực. Ông
Khánh cũng tố lại ông Cách nên cả hai ông đều rớt võ đài.
Ban
tổ chức in chương trình là sáng ngày 19 vào chào Đức TGM Hà Nội, nhưng
Tòa TGM báo rằng ngài bận không tiếp được. Ban tổ chức nhờ hẳn ông Chủ
tịch Ủy ban Mặt trận Trung ương là Ủy viên Bộ chính trị Nguyễn Thiện
Nhân can thiệp. Tòa TGM Hà Nội vẫn cáo bận, không tiếp.
Cơ
quan ngôn luận của “đàn két” là báo Người Công giáo Việt Nam và trang
tin vừa đăng bài của tác giả Lê Thị Cúc- cán bộ văn phòng “đàn két” về
việc khẳng định tướng Giáp là thánh nay đã được hưởng nhan thánh Chúa.
Người ta lấy làm lạ đây là giáo lý của “đàn két” vì ai cũng biết ông
Giáo là vô thần, đảng viên cộng sản luôn chống tôn giáo thì làm sao là
thánh được.
Ngày
khai mạc có chương trình đoàn đại biểu giáo dân Hà Nôi chúc mừng đại
hội. Lại Ủy ban “đàn két” Hà Nội được giao tìm kiếm người. Trưởng đoàn
được cụ Oanh và Mặt trận Hà Nội nhất trí cử là bà Đỗ Thị Thái, đảng viên
nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận huyện Thường Tín vừa nghỉ hưu nay đưa sang
làm Phó Chủ tịch “đàn két” Hà Nội và định tiến cử vào Đoàn Chủ tịch “
đàn két” Trung ương. Giáo dân Hà Nội rất bất bình vì bà Thái đâu có là
người Công giáo. Bà lấy chồng là Thượng tá công an không làm phép cưới,
con cái cũng không ai theo đạo, bản thân bà cũng không giữ đạo bao giờ
làm sao có thể thay mặt giáo dân Hà Nội được. Không biết xứ La Phù và
Tòa TGM Hà Nội có ra thông báo như TGM Bắc Ninh khẳng định Bắc Ninh
không có linh mục Nguyễn Quốc Hiếu ở “đàn két” Bắc Ninh là Hà Nội
không có giáo dân nào là Đỗ Thị Thái không?
Đại
hội lần này “đàn két” cũng muốn bành trướng thành 3 cấp nhưng lo sợ tốn
tiền quá nên Trung ương không duyệt, đành phải 2 cấp như hiện nay thôi.
Chỉ còn mấy ngày nữa đại hội “đàn két” nhưng ở đây còn có nhiều trò hay nữa, mời bà con tiếp tục theo dõi.
Hà Nội, 14/11/2013
Thanh Hà
Tướng đi đêm | |
---|---|
|
Contributed by: Admin |
Views: 42.069
Trần Nhu Tặng bà Bích Hà, phu nhân Đại tướng Võ Nguyên Giáp. GS Nguyễn văn Canh: Nhà văn Trần Nhu là Giáo sư sử học tại Hà Nội. Ông vượt biển từ Hải Phòng, sang Hồng Kông, rồi vào tị nạn tại Hoa Kỳ năm 1981. Tác phẩm mới nhất của ông là Tinh Thần Phật Giáo VN Nhập Thế ( 2005). Ngày 19 tháng 5, trong khi mọi người đang uống rượu sâm-banh ở dinh Chủ tịch mừng sinh nhật bác Hồ, thì ở nhà riêng, Lê Đức Thọ gọi điện thoại cho em ruột của y là Mai Chí , Đại tướng ngành Công an, bộ trưởng Bộ Nội Vụ, yêu cầu hắn liên lạc với tướng Võ Nguyên Giáp, về việc chuẩn bị đi sứ sang nước Tầu. Trong khi Giáp đang điên đầu về cái chết của hai viên Đại tướng là Lê Trọng Tấn, và Hoàng Văn Thái, cùng với việc mật vụ của anh em Thọ bắt bớ hàng loạt các sĩ quan cao cấp trong Bộ Quốc Phòng, Bộ Tổng Tham Mưu. Tinh thần tướng Giáp xuống thấp một cách tệ hại. Mấy đêm qua ông không ngủ. Ông lấy thuốc an thần uống một liều cực nặng "ba viên" định vào giường nghỉ, thì lại có tiếng chuông điện thoại reo rát tai. Ông cầm ống nghẹ Đầu bên kia, vẫn giọng nói quen thuộc. Mặc dù biết nó đấy! Ông vẫn hỏi: - Ai? Xin cho biết quý danh? Đầu bên kia: - A lộ.. Kính chào Đại tướng, tôi Mai Chí Thọ đây. - À! Ra ông Bộ trưởng. - Đại tướng khỏe chứ? - Vẫn thường thôi. - Tôi có việc cần muốn thảo luận với Đại tướng. - Có việc gì, xin ông cứ nói thẳng? - Vâng, thưa Đại tướng: theo yêu cầu của Bộ Chính Trị, muốn Đại tướng qua thăm hữu nghị Bắc Kinh, nhân dịp họ tổ chức Thế Vận Hội Á Châu. - Ồ! Xin lỗi ngài Bộ trưởng. Tôi hiểu rồi. Xin ông thứ lỗi cho. Tôi không thể đi đâu trong lúc này. Nhưng tôi muốn biết đây là ý kiến của Bộ Chính Trị, hay của ông Lê Đức Thọ? Mai Chí, dịu giọng xuống: - Thưa Đại tướng, đây là vấn đề chung của Đảng. - Nhưng tôi muốn biết ai đề xuất ra sáng kiến này? Đầu bên kia: - Dĩ nhiên ông Thọ. Giọng bực dọc, Giáp nói: - Liệu có điều gì xảo trá trong đề nghị đó không? Mai Chí phân bua: - Thưa Đại tướng, tôi không nghĩ như vậy. Đó là sáng kiến xây dựng. Giáp chua cay: - Tất cả sáng kiến của ông Thọ đều hay. Những gì ông ta làm từ trước đến nay đều tốt. Tôi thành thật khen ngợi ông Thọ. Tôi không có sáng kiến về ngoại giao. Nhưng tôi không thể tuân lệnh ông ta trong việc đi Bắc Kinh. Tôi nghĩ, việc quan hệ với họ lúc này không thuận lợi, không đẹp, và không quan trọng. - Thưa Đại tướng! Quan hệ với Bắc Kinh thời điểm này có một tầm quan trọng thiết yếu hơn với các quốc gia khác. Và Đại tướng nên hiểu rằng trước sau ông Thọ và tôi đều một lòng vì đảng, vì dân. Tôi tin ông Thọ cũng như tôi, không có động cơ nào khác, ngoài việc phục vụ quyền lợi chung của Đảng. Nỗi lo lắng duy nhất của ông ấy là sự tồn tại của chế độ. Giáp cũng xuống giọng: - Người Tầu đâu có ưa gì tôi. Nên quan hệ với họ rất khó khăn. Họ còn cay cú về cuộc chiến tranh ở Căm-Bốt, và cuộc xung đột với ta, ở biên giới mấy năm trước. Mai Chí: - Tôi nghĩ, dĩ vãng và hiện tại luôn luôn khác nhau, nó phải biến chuyển theo con đường của nó, theo đà của nó đến các mục tiêu, trên nguyên tắc mở đường cho việc bình thường quan hệ ngoại giao giữa hai đảng trước kia căng thẳng. Và nhân đây tôi cũng cho Đại tướng biết: ông Thọ vừa đi Moscow về nói cho tôi hay. Nội bộ Điện Kremlin có thay đổi khi Gorbachev lên nắm quyền. Tay này giọng điệu y hệt Khruchev, cũng điên cuồng chống Stalin. Và có vẻ nguy hiểm hơn nhiều trong quan hệ đối ngoại, và đối nội. Nên việc gây dựng ý nghĩa quyền lợi chung giữa ta và Trung Quốc có thể lập lại quan hệ thân hữu càng sớm càng tốt, càng có lợi. Tôi mong Đại tướng chia xẻ nhận định này, trách nhiệm đặt lên vai Đại tướng rất lớn, trách nhiệm trước Đảng, trách nhiệm trước lịch sử. Vậy một cử chỉ hòa giải trong chuyến đi của Đại tướng là một bước ngoặt có ý nghĩa... - Tôi đã nghỉ hưu. Tôi không đại diện cho Đảng, Chính Phủ, Quân đội cũng không. Tôi không hiểu sao tôi phải đi Bắc Kinh? Tôi không thể... Tôi không muốn. Giáp nói chậm. - Ông Thọ và Bộ Chính Trị đều biết khó khăn... Nhưng Đảng không cần gì khác, ngoài sự có mặt của Đại Tướng trong Đoàn Thể Dục Thể Thao của ta đi dự Thế Vận Hội Á Châu. - Thế thì cần gì đến tôi. Giáp nói. Mai Chí: - Không, theo ông Thọ cho biết; nhân dịp này Đại tướng có thể gặp gỡ một số yếu nhân trong Chính trị Bộ Trung Quốc. Chuyến đi này rất quan trọng. Đảng khẩn thiết yêu cầu Đại tướng đị - Cụ thể về vấn đề gì? Giáp hỏi. - Đề nghị hợp tác... bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. - Tôi thấy rất gay go. Mai Chí: - Họ đã nhắn tin... và chìa tay... Ông Thọ đã bắt được tín hiệu... rất tốt đối với tình thế hiện nay, hơn nữa nó cũng nằm trong lĩnh vực quan tâm hàng đầu của Đảng. Võ Nguyên Giáp: - Tôi là tướng! Khó nói chuyện với họ về những vấn đề tế nhị như thế. Nhưng tôi biết một người có thể làm được. Ông ta thừa uy tín, có khả năng. Đó là Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Mai Chí xỗ sàng: - Vô tích sự! Ông ta mù lòa, đui điếc, nói năng lẩm cẩm quá đáng rồi, để ông ấy đi, ông ấy sẽ bán cả nước. - Vậy thì, ông Đỗ Mười, là hợp lý nhất. - Lại càng tệ hơn. Không thể được, hắn điên nặng, ai chẳng biết. Vẻ khó chịu, thay đổi hẳn thái độ. Mai Chí nói xẵng giọng như ra lệnh: - Đại tướng phải đi. Tôi nói vắn tắt, thẳng thừng như vậy đó. Ông Thọ bảo thế. Hắn nhấn mạnh. - Tôi cũng cho ông và ông Thọ biết. Tôi không đi đâu cả. Mai Chí phớt tỉnh hỏi lại: - Đại tướng có muốn trực tiếp gặp ông Thọ không? Và có yêu cầu giúp đỡ gì trong chuyến đi Bắc Kinh sắp tới không? - Đã nói, tôi không đi. Mai Chí: - Xin ngài lưu ý. Đây là chỉ thị của ông Thọ. Không có viện dẫn lý do gì hết. Việc đã sắp xếp như vậy rồi. * Ý muốn sắt đá của Thọ được áp dụng trên tất cả bình diện cả về đời sống tư riêng của các ủy viên trung ương Đảng! Và độc quyền đàn áp chính trị là một phương thức để giữ quyền hành và duy trì trật tự trong Đảng. Về phương diện đặc biệt này, Thọ khác với Mafia, Mafia chỉ ở mức độ nào đó thôi chớ không phải tuyệt đối. Võ Nguyên Giáp, hiểu lệnh của Thọ, tức là luật, nếu từ chối y sẽ lãnh đủ... Giáp bị kẹt và hết cách thoát, y ấp úng. Sự tự tín của y đã tan biến đi đâu mất rất nhanh và giọng nói của y tự nhiên thiếu hẳn âm thanh quyết liệt: - Anh nói với ông Thọ. Tôi cần thời gian suy nghĩ. Tôi chưa thể đi. - Nếu vậy thì Đại tướng cần phải gặp ngay ông Thọ. - Thôi được, để tôi sẽ gặp ngay ông ấy, nói chuyện. - Tôi đề nghị, thứ ba tuần tới, Đại tướng gặp ông Thọ, ở Trụ sở Đảng số 4 Nguyễn Đức Cảnh. - Tôi không muốn đến Trụ sở Đảng - Thế ở đâu? Mai hỏi. - Nếu ông Thọ, vui lòng đến nhà tôi, hoặc tôi thân hành đến nhà ông ấy cũng được. - Tôi sẽ làm theo lời yêu cầu của ngài, nói lại việc này với ông Thọ. Giáp chưa biết có nên nói gì thêm, thì đầu bên kia gác máy. * Trước khi tướng Giáp ra xe đi đến nhà Thọ, cả nhà như giữ một sự im lặng dày đặc. Vợ ông bà Bích Hà, cuối cùng thốt lên lời cảnh cáo, là phải hết sức cẩn thận khi nói chuyện với Thọ. Và nhớ đừng có nhận lời đi Bắc Kinh, nó sẽ làm nhục ông đấy. - Bà yên tâm đi. Ông nói: - Tôi sẽ không đi đâu hết. Tôi sẽ... - Thì tôi bảo ông phải cẩn trọng, mà bao nhiêu lần nó làm nhục ông rồi! Nhưng những cái nhục đó cũng không đáng kể đâu. - Thì cái nhục gì đáng kể, bà nói tôi nghe ? - Không những nhục mà còn là tội tầy đình. - Tội gì ? - Tôi hỏi ông, việc để mất Hoàng Sa, Trường Sa không phải trách nhiệm của ông sao ? - Không. - Thế ông làm tướng để làm gì ? Và còn những ai trách nhiệm nữa ? - Bà không biết việc này, chính cụ Hồ khi họp Bộ Chính Trị vào ngày mùng 7 tháng 9 năm 58 bàn về vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa, cụ nói: "Các đồng chí Trung Quốc đã giúp ta từ đầu đến cuối cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi là nhờ ở họ. Nay họ muốn một vài hòn đảo nhỏ, sao có thể từ chối ? Vả lại, mảnh đất hoang dã ấy chẳng có gì ngoài cứt chim..." - Đồ ngu, tôi muốn ỉa vào mặt nó, nợ thì trả, còn đất đai sông núi tổ tiên ta đổ xương máu ra để bảo vệ, gìn giữ. Không một cá nhân nào, một tập đoàn đảng phái nào có quyền sang nhượng cho nước ngoài. Sử ghi: "Năm 1470, tình hình biên giới Tầu-Việt có phần căng thẳng. Vua Lê thánh Tông cho hội quân ở Lục Đầu Giang để biểu dương sức mạnh quân sự. Vua tuyên bố đanh thép: Thiên Nam vạn cổ hà sơn tại. (Trời Nam ngàn năm núi sông vẫn còn) Và đến năm 1473, trong lời dụ quan Thái Bảo Kiểm Dương với Lê Cảnh Huy được cử tiếp sứ Tầu. Vua còn tỏ ra cương quyết hơn nữa: "Các ngươi nên nhớ rằng, một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ. Ngươi phải cương quyết tranh biện. Chớ có cho giặc lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc, trình bày rõ điều hơn lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước sông, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc thì phải tru di.*" Đó là sử Việt, sử Tầu. Ngày xưa cũng ghi. Mạo Đốn cướp chính quyền, tự lập nước Đông Hồ ở phía đông, nước Nguyệt Thị ở phía tây Hung Nô đều tương đối lớn mạnh, vua Đông Hồ sau khi nghe Mạo Đốn giết cha tự lập, đã cử sứ giả nói với Mạo Đốn: muốn được ngựa Thiên lý của Đầu Mán. Mạo Đốn và quần thần họp nhau thương nghị việc này. Các quần thần nói: "Thiên lý mã là ngựa quý của Hung Nô, không thể chọ" Trái ngược lại, Mao Đốn nói: "Vì cớ gì lại yêu một con ngựa hơn một nước láng giềng ?" Thế rồi liền đem Thiên lý mã biếu cho vua Đông Hồ. Vua Đông Hồ cho rằng Mạo Đốn sợ sệt Đông Hồ. Không lâu lại gửi sứ giả tới nói với Mạo Đốn, muốn được người vợ yêu của Mạo Đốn là nàng Át Thị. Mạo Đốn lại triệu tập quần thần tới thương nghị. Các quần thần đều phẫn nộ, bực tức vô cùng nói: "Đông Hồ vô đạo, ngông cuồng muốn cướp vợ yêu của Đan Vu tạ Xin cho được tấn công đánh nước chúng." Mạo Đốn lại nói: "Vì cớ gì mà lại yêu một người đàn bà hơn một nước láng giềng." Nói xong liền đem Át Thị dâng lên cho vua Đông Hồ. Vua Đông Hồ càng thêm kiêu ngạo, cảm thấy Hung Nô nhu nhược đáng khinh. Do đó, không ngừng xâm phạm ở phía tây. Lúc đó, giữa Đông Hồ và Hung Nô có một "mảnh đất bỏ hoang" ước khoảng hơn một ngàn dặm, cả hai bên đều không có sự quản lý thực tế. Vua Đông Hồ lại sai sứ giả đến nói với Mạo Đốn: "Mảnh đất bỏ hoang này, Hung Nô các người cũng chẳng có năng lực khống chế, ta muốn chiếm giữ nó." Mạo Đốn lại trưng cầu ý kiến quần thần. Có người chủ trương không cho. Có người cho rằng: "Mảnh đất bỏ hoang đó bỏ đi chẳng có tác dụng gì, cho Đông Hồ cũng được." Mạo Đốn bỗng nhiên vô cùng bực tức nói: " Ngựa quý có thể cho, gái đẹp có thể dâng. Còn đất đai là nền tảng của quốc gia, sao lại có thể cho nước khác được ?" Tức thì đem toàn bộ số đại thần cho rằng nên biếu "mảnh đất bỏ đi" cho Đông Hồ, lôi ra chém đầu hết. Ông thấy chưa ? Chuyện "mảnh đất bỏ đi" đâu khác việc dâng đảo Hoàng Sa, Trường Sa chúng nó đều đáng đem chém hết. Người Tầu đâu chỉ muốn một vài hòn đảo. Họ muốn cả nước ta. - Xin bà nói nhỏ, đủ nghe thôi. Nguy hiểm quá. - Chúng mày làm cách mạng mà không chịu xem sử. Cả ông nữa. Tôi kể cho mà nghe: Ngày xưa sử Tầu có ghi, - Thôi! Tôi mệt muốn chết, trong mấy đêm qua tôi không ngủ. Nói thế là đủ rồi. Một sự căng thẳng dâng lên trong lòng bà. Lại càng căng thẳng hơn nữa, khi xe ông rời nhà. Lúc ấy là vào khoảng 10 giờ sáng thứ ba. Có thể hơn thế một chút. Chiếc xe hơi ZIS đạn bắn không thủng của Liên Xô chế tạo đã đưa tướng Giáp đến nhà Thọ. Trong khi đó vợ ông nằm soài giữa giường. Hơi thở đứt quãng, nói một mình: "Tôi không thể sống nổi nữa rồi. Mất mặt quá! Không chịu được." Nhưng bà tự tử, các con sống thế nào? Tình trạng sức khỏe không đến nỗi. Điều đau đớn nhất cho bà là cảm thấy nhục nhã và mất mặt! Mà tự tử thì chẳng hay ho gì. Ưu tư đến suốt ngày hôm ấy bà cứ nằm riết trên giường. Đương nhiên là chờ ông về. * Có tiếng động cơ xe hơi ở đằng sau nhà. Thọ bảo tên cận vệ: - Có tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm tao. Lập tức cửa được mở ra bởi một vệ sĩ, có đôi mắt cú vọ, và đôi lông mày của một tên giết mướn. Thọ đứng đón Giáp ở ngoài bao lơn. Giáp cười, nhưng cái cười gượng gạo, cười không có nội dung, không có phương hướng. Cái cười vớ vẩn, phó mặc số phận. Sắc mặt âm thầm ủ dột cùng với nỗi căm giận sâu kín. Thọ cũng cười, cái cười nham hiểm chết người. Hắn chìa tay ra: - Hân hạnh, rất hân hạnh được Đại tướng chiếu cố đến nhà thăm tôi. Tướng Giáp ngắt lời: - Tôi đến đây với danh nghĩa cá nhân, trái với những gì ông có thể nghĩ. Bởi tôi đã hồi hưu không còn chút quyền gì trong Đảng, cũng không có ai ủy nhiệm. Vẫn cái tật, chỉ tay lên trán, nụ cười nửa miệng, Thọ nói: - Thì ta hãy ngồi với nhau nói chuyện đã nào, mà bà nhà và Đại tướng vui khỏe chứ? - Không được vui lắm. Thưa ông Thọ. Nhất là đối với ông, Vợ con tôi đã bị đe dọa rồi đấy. - Không. Tôi không nghĩ thế. Thọ nói. Giáp cắt ngang: - Thì thằng Võ Điện Biên nhà tôi, học ở Đông Đức, cứ bị sứ quán gọi lên hỏi hoài! Còn con Võ Thị Hòa Bình học ở Ba Lan cũng bị mật vụ hỏi thăm thường xuyên, là thế nào? - Ông hiểu nhầm rồi. Thọ nói: - Cuộc điều tra do Tòa Đại Sứ của ta ở Đông Đức, với các sinh viên du học là chuyện bình thường. Luật pháp có trừ ai đâu. Ông không thấy cả con gái của Tổng Bí Thư Lê Duẩn, cũng phải chịu kỷ luật đó sao? Người nào việc ấy, nhiệm vụ của họ mà! Nếu như cháu không có chi sai phạm, mà tôi nghe các anh bên đó báo cáo. Thằng Võ Điện Biên con ông học rất khá, nó giữ kỷ luật tốt, không sai phạm gì ráo. Chắc là không xảy ra chuyện gì đâu. Là tôi hy vọng thế. Ông cứ yên tâm đi. Còn cháu Võ Thị Hòa Bình học ở Ba Lan, hiện nay thì cháu chỉ bị canh chừng thôi. Chứng cớ là họ đã theo dõi bắt được quả tang nó buôn lậu vàng và dollars. Ngày kia hay ngày mốt thì ông bà sẽ đón cháu ở phi trường Nội Bài. Nhưng nếu ông bà không làm gì thì chúng sẽ được về nhà. Sự im lặng của ông bà là cách tốt nhất bảo vệ cho cháu. Và nhân đây tôi cũng nói để ông biết luôn. Con gái lớn của ông Võ Thị Hồng Anh, học ở Nga, nó học thì rất khá đấy. Nhưng hồ sơ cũng không được ngon lành lắm đâu "liên lạc với người phương Tây". Những chữ này quá độc. Có thể là CIA.. Một vài phút căng thẳng im lặng trôi qua. Thọ nói tiếp: - Tôi có thể bỏ qua tất cả những chuyện đó, nếu... Tôi sẽ bảo họ trông nom các con ông một cách an toàn, trừ ra có việc gì mà tôi "không được biết", "câu này cực nguy hiểm" lỡ chúng nó giết rồi mới báo cáo thì sao? Nghĩa là tiền trảm hậu tấu. Cái cảm giác không rõ ràng, không chắc chắn là điều đáng sợ nhất với tình trạng của các con ông hiện giờ..." Còn với ông không dính dáng tí gì vào chuyện con ông sai phạm, thanh danh của ông ở trên mọi sự hiểu lầm. Nhưng vì một lẽ hoàn cảnh rất rõ ràng, mà các đồng chí ở nước ngoài phải lập hồ sợ Đó là chuyện tối thiểu phải làm, rõ ràng là như thế. Tôi rất tiếc... Hắn nói như thầy giáo dậy toán cho học trò lười thâm căn cố đế. Trong khi Thọ nói, Giáp lo sợ con gái lớn của ông có thể bị bắt cóc, thủ tiêu trên đất Nga bất cứ lúc nào. Mà chẳng phải sự lo xa của tướng Giáp là quá đáng đâu. Khi Thọ nhắc tới con gái Lê Duẩn, là Lê Vũ Anh, đã chết thảm thương. Chuyện này Giáp biết, mà có gì đâu. Chỉ vì Lê Vũ Anh lấy viện sĩ hàn lâm khoa học Maslov Liên Xộ Lê Vũ Anh đã bị chính Lê Đức Thọ cho tay chân của y ở Mạc Tư Khoa thủ tiêu, mặc dù Lê Vũ Anh lúc đó đã có ba con với Maslov. Chuyện này, Lê Đức Thọ có đặt điều kiện với Lê Duẩn: Một là tiếp tục ngôi ghế Tổng Bí Thự Hai là về hưu non để con gái được sống. Lê Duẩn đã ưng thuận điều kiện thứ nhất, nghĩa là thà để mất con, chứ không để mất chức Tổng Bí Thự Cũng nên nhớ rằng ở cái thời đại Bréjnev - Lê Duẩn, "quan hệ anh em" giữa các nước cùng mang họ Mác-Lê, như Liên Xô, Trung Quốc, Albanie, VN, Bắc Hàn, không được phép lấy nhau. Những cuộc hôn nhân hỗn hợp bị nghiêm cấm tuyệt đối. Mặc dù luật pháp các nước không có ghi thành văn bản, chỉ có sự trao đổi bằng mồm giữa các lãnh tụ. Nhưng nó đã trở thành luật, một thứ luật quái gở. Chính con gái Tổng Bí Thư chết vì thứ luật đó và còn biết bao thảm kịch không tên đã xảy ra đối với các du học sinh khác nữa chứ. Những chuyện này Giáp hiểu rất rõ. Và ông càng lo cho con gái ông trên đất Ngạ Chưa hết, lại còn đứa con gái út đang học ở Ba Lan bị quy kết tội buôn lậu. Ông hình dung thấy nó đang đứng sau những song sắt nhà tù. Mặt ông bỗng chốc nặng trĩu oán hờn, cam chịu. Phải nuốt những viên thuốc và thấy quả thật là quá đắng. Giọng uất hận, ông nói: - Tôi thấy chẳng có một bằng chứng nào về con tôi có liên lạc với người phương Tây và đứa khác thì buôn lậu cả. Nhưng tôi biết chắc trong cả hai vụ này, chúng đều có một cái âm mưu gì xấu ngầm trong đó. Thọ lại cười, nụ cười cá sấu: - Bên tòa Đại Sứ, họ có gửi cho tôi bản "thú tội" của chính tay các cháu viết. Ông nghĩ sao? - Cái đó, đối với bọn mật vụ có khó khăn gì? Nên bằng chứng nào của ông dẫn ra, tôi cũng không tin. Tôi biết các con tôi trong trắng, vô tội. Giáp nói: - Nhưng đây lại là sự thật. Một trăm phần trăm. Thọ vừa nói tay vừa rút ngăn kéo bàn lấy ra một bản tự thú của Võ Thị Hòa Bình, chìa về phía trước mặt Giáp: - Ông coi đây này, rõ ràng tôi đã nói với ông. Giáp giả bộ không hiểu thế là nghĩa lý gì! Có thể thấy rõ ràng, ánh mắt của người bị hạ nhục, chứa sự phẫn uất, hận thù, ông cúi mặt lặng thinh. * Lại một sự trớ trêu nữa. Ngay trong khi hai người nói chuyện. Chuông điện thoại cứ réo. - A lộ.. Ai đấy? Thọ hỏi. - Thưa anh lớn, tôi Nguyễn Khiêm Đại Sứ ở Moscow đây. - Có việc gì gấp đấy anh Khiêm? - Thưa anh lớn. Có một vài trường đại học Mỹ, họ mời Tiến Sĩ Vật Lý địa cầu Võ Thị Hồng Anh qua Hoa Kỳ. - Về việc gì? - Thưa anh chưa rõ. Vậy xin anh cho chỉ thị... - Tối nay tôi trao đổi lại với anh được chứ? - Dạ, dạ thưa anh được ạ. - Tôi sẽ gọi lại. Thọ đặt máy xuống ngay. Chuyện phone rất bình thường. Nhưng cái điều bất bình thường hơn là Giáp có mặt ở đây ngay lúc này. Thật là quỷ mới biết được những phù phép trong bụng dạ hắn. Ôi! Lại một sự ngẫu nhiên đầy bi kịch. Lại một sự trùng hợp nữa chăng? Không. Tất cả đã được sắp xếp có chủ ý. * Nghe Thọ với Khiêm, nói chuyện về Võ Thị Hồng Anh, Tướng Giáp ngồi như phỗng. Đôi mắt sếch lờ đờ bất động, như mắt lợn luộc. Cái vụ này với vụ con gái út ở Ba Lan dường như hai đòn quá nặng, quá hiểm giáng xuống cùng một lúc. Ông đã mất tinh thần, trong khi đó, đôi mắt mầu lục của Thọ cắm phập vào mắt ông! Mỉa mai, ngạo nghễ, diễu cợt. Như thể nói rằng - Mày có chịu nổi đòn phép của tao chưa? Và dường như muốn để cho Giáp thấm nhuần bài học, Thọ bỏ lửng câu chuyện rắc rối ở đó... Hắn nói: - Ông hiểu, tôi mời ông đến đây không vì những chuyện riêng tư vụn vặt, mà muốn bàn với ông câu chuyện quốc sự trọng đại kiạ Chắc thằng Mai Chí nhà tôi nó đã thưa với ông rồi. Nhưng tôi rất tiếc là ông có ý định từ chối chuyện này. - Thế ông có chuyện gì cần đến tôi nào? Giáp hỏi. - Tôi muốn đề nghị ông cùng tham gia phái đoàn của Đảng công du Bắc Kinh. Giáp lắc đầu: - Việc đó bây giờ hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Tôi đã nghỉ hưu mà. Thọ cắt ngang: - Thực ra ông cũng như tôi - Tuy rằng chính thức là đang nghỉ hưu đó - Nhưng không dừng được. Thế nào thỉnh thoảng cũng phải làm một việc gì. Mà chúng ta không được quên rằng sự lựa chọn của chúng ta trong công vụ không thể nào theo quy luật chung, cũng không có thành vấn đề giữa người tại chức, và người đã hồi hưu, người "tốt" có năng lực, có uy tín, chức vụ. - Tôi còn chức vụ gì đâu? Giáp nói. - Thì ông đã từng đội ba cái mũ lớn: mũ thứ nhất Đại tướng Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng, mũ thứ nhì Đại tướng Tổng Quân Ủy, mũ thứ ba Phó Thủ tướng Thứ Nhất, và... - Chuyện đó xưa rồi. Tôi nghĩ rằng chưa có lúc nào, tôi lại có ý nghĩ là mình sẽ hấp dẫn lôi cuốn, vào việc làm một sứ thần. Nhất là đối với Bắc Kinh. Trong trường hợp này có vẻ hài hước hơn hết cả. Những chuyện ông ép tôi làm như Chủ tịch Ủy Ban Sinh Đẻ Có Kế Hoạch trước kia, nay lại là Sứ thần gần như ngoài giới hạn, ý nghĩ của tôi. - Đại tướng sai rồi - Giọng Thọ lớn hơn - Chuyện này có gì là hài hước đâu! Cũng không phải là chuyện vượt qua hàng rào sắt của nhà binh. Ông không thể nói là ông chỉ làm một việc độc nhất trên đời là đánh giặc. Ông phải nghĩ đến quyền lợi chung. - Quyền lợi gì? Giáp hỏi. Thọ: - Tôi đang nghĩ đến một sự móc nối lại quan hệ giữa hai đảng Trung Quốc và ta. Chúng ta phải cải thiện tình thế, nếu không sẽ bị mắc kẹt, nhân đây tôi cũng cho ông hay: tháng trước tôi đi Moscow mười ngày, gặp Gorbachev hai lần. Ông ta đưa ra những đề nghị cải cách ngược đời xa lạ với đường lối của Đảng từ xưa đến nay. Thật nguy hiểm không thể chấp nhận được. - Những đề nghị gì? Có quan hệ đến Đảng ta, ông cho tôi hay? - Gorbachev đề nghị một cuộc cải cách chính trị sâu rộng trong quốc gia, một quốc gia hoàn toàn mới mẻ. Kiểu chế độ Tổng Thống ở Mỹ. Đảng CS chỉ giữ sự lãnh đạo ý thức hệ, còn quyền điều hành quốc gia thuộc về chính phủ. Ông ta đưa ra hai khẩu hiệu chiến lược: thứ nhất "Perestroika" (tái sắp xếp), thứ hai "Glasnost" (cởi mở). Nếu "tái sắp xếp", thật rùng rợn... còn Glasnost "cởi mở" đất rung chuyển... Hiện ông ta đang vận động trong Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CS Liên Xô và cả các lãnh tụ đảng ở Đông Âu nữa. Tôi lo ngại một sự bất trắc có thể xẩy ra, nguy hại cho Đảng; trong đó có tôi và ông, nên chúng ta bằng mọi giá phải nối lại quan hệ với Bắc Kinh. Tôi hiểu rằng khó khăn đấy. Vì họ còn căm giận ta vì nhiều chuyện lắm, nhất là trận chiến hồi năm 79. Tất nhiên không có vấn đề là những thù hằn, mâu thuẫn ấy cứ vĩnh viễn ở mãi một chỗ, trong một tình thế đổi khác. Thật ra trong lúc này và trong tương lai, tôi chỉ nhìn thẳng vào khả năng: yêu cầu hợp tác giữa hai Đảng CSVN và Trung Quốc, tiếp tục bảo vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa và tập trung mọi nỗ lực vào việc bảo vệ hai đảng. Nhưng tiếp tục một cách tuyệt đối bí mật. Trong khi đó ta theo dõi các biến cố ở Nga Sô để kịp thời ứng đối. Vì thế tôi đã chỉ thị cho Hồng Hà tham dự vào cuộc hội kiến giữa đại diện hai đảng ở Tòa Đại Sứ của họ ở Công Gộ Cuộc gặp gỡ diễn ra không đến nỗi tệ quá. Vì họ tỏ ra hòa giải với ta, hai bên đều nhất trí về tình hình ở Nga. Và nhiệm vụ của hai Đảng, nghĩa là quan điểm gần như giống nhau, trên phương diện đó tôi nghĩ là cần phải hợp tác với họ, càng sớm càng tốt. Một lần nữa, vấn đề không phải hoàn toàn phụ thuộc ở phương diện nhà nước, mà ở diện quyền lợi chung giữa hai Đảng có hay không? Nếu có sự giúp đỡ của Đảng CS Trung Quốc, chúng ta có thể chống lại những đe dọa của phương Tây. Chúng ta phải tin ở phương diện đó. Chúng ta bất đồng với họ trên nhiều phương diện. Nhưng cái gì chúng ta làm được lúc này và trong tương lai là sự ủng hộ trong bóng tối của họ. Vì họ cùng một lập trường tư tưởng Marxism Leninism như ta, nên việc lập lại quan hệ thân hữu với họ là cần thiết. Họ có thể yểm trợ giúp đỡ những nước xã hội chủ nghĩa nếu quyền lợi của họ bị đe dọa. Tôi tin như vậy. * Thọ còn tiếp tục tuôn ra cho tướng Giáp nghe những bài học lịch sử trang nghiêm.. Là nói về bộ mặt thì có cái vẻ trang nghiêm ấy - Nhưng đôi mắt thì vẫn tiếp tục biểu hiện của kẻ cả. Như muốn nói rằng "để xem mày chịu đựng được tao đến đâu nào?". * Thọ biết tỏng vợ chồng Giáp rất lo cho mấy đứa con. Sẵn trong tay thanh bảo kiếm, hắn đi những đường rất hiểm độc. Lấy các con của tướng Giáp làm điều kiện mặc cả với Giáp trong chuyến đi đêm với Bắc Kinh. Nên các con của ông đã trở thành con tin trong tay trùm Mafia Lê Đức Thọ, để nó xỏ mũi ông, mà ông đâu còn lựa chọn nào khác, đành buộc lòng nhận lời thằng Thọ qua Bắc Triều, để cứu lấy các con. Tuy nhiên, bệnh ngoan cố còn nặng. Ông phản ứng một cách yếu ớt: - Tôi đề nghị ông, cử Đỗ Mười đi Bắc Kinh thương thuyết chuyện này là hợp lý nhất. Thọ ngừng lại, mắt nhìn chằm chằm vào mặt Giáp: - Có thể là ông Đỗ Mười, đã hoàn toàn bị rối loạn thần kinh. Và như thế thì khá phiền toái. Trong hoàn cảnh này chính ông phải đứng ra đảm nhận nhiệm vụ đó mới được. - Thế trong Đảng không còn ai đi được nữa à? Giáp hỏi Thọ. - Ông không phải là người vô danh, đối với Bắc Kinh, mà là người có đủ tầm vóc nói chuyện với họ. - Tôi sẽ làm theo lệnh của ông. Trong lúc tôi chưa biết những động cơ chính trị của họ. Như thế có lợi gì? - Tôi sẽ có những tư liệu mới nhất để ông tham khảo... Giáp: - Tôi cần biết tới điểm nào chắc của yếu tố về vị trí của người sẽ đối thoại với tôi. Các thể thức trao đổi. Ngoại giao cần thiết ở một thế lực thăng bằng tế nhị. Nếu họ đưa ra một nhân vật tầm thường để tiếp tôi thì còn gì là thể diện quốc gia? - Về phương diện này, các liên lạc quốc tế trước kia cũng như bây giờ giống nhau. Ngay hồi năm 79, sau khi hai bên ngừng bắn, khi tình hình còn căng thẳng họ cũng cử những đại diện ngang cấp để điều đình với ta. Ông khỏi phải lo chuyện ấy. - Nhưng khi đó chúng ta có hỗ trợ bởi các lời nói mạnh mẽ bằng những hành động mạnh của người Nga. Còn bây giờ sau ta không có ai, thì không thể thảo luận trên bình diện ngang nhau với giới lãnh đạo Bắc Kinh, nếu không có hậu thuẫn. - Moscow vẫn bên cạnh chúng ta, ông yên tâm đi, còn nói về nội bộ chính trị ở Nga - là tôi lo xa thế thôi. Hơn nữa ông phải nên biết rằng đây là cuộc "đi đêm" - chúng ta phải chọn phương cách ngoại giao thầm lặng để có thể rút mà không sợ mất mặt. Nghĩa là "bí mật" trong các cuộc thương thuyết không thể để một tiếng sủa của báo chí ngoại quốc. Lẽ dĩ nhiên nó là một mánh khóe hữu ích trong tất cả các cuộc thương thuyết, và cũng là một nguyên tắc sơ đẳng của chiến lược chính trị để đạt mục đích. Như trong cuộc chiến tranh chống Mỹ-Ngụy, mục tiêu của ta là "thắng trận toàn diện" vô điều kiện. Và chiến lược của ta lúc đó là dùng và phối hợp tất cả phương tiện để đạt mục đích - Khi ta yếu, làm cho người khác tưởng rằng mình mạnh là chiến lược tốt. Ngược lại khi ta mạnh, làm cho người khác tưởng rằng yếu là chiến lược không tốt có thể gây những sai lầm nguy hiểm về tính toán của kẻ thù của mình. Hội nghị Paris năm 73, giữa tôi và Kissinger đã đi đêm một tính toán sai lầm loại đó của Hoa Kỳ. Về phương diện này, tôi đã suy luận kinh nghiệm cá nhân của người từng họp kín với Kissinger, ngoại trưởng của Tổng Thống Nixon. Ông ta cũng đã từng "đi đêm" qua Bắc Kinh để thương thuyết với kẻ thù... Và kết quả của mối liên hệ giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc ra sao thì ông đã thấy... Nên tôi có thể nói với ông rằng. Bí mật là điều kiện tiên quyết để giải quyết các vấn đề quốc tế. Với chúng ta "bí mật" là đặc biệt cần thiết trong sự giao tiếp với Bắc Kinh. * Thọ "giảng đạo" nghệ thuật ngoại giao ban đêm. Giáp nhìn nhận rằng y có lý, mà Thọ là sản phẩm của mối liên kết các nguyên tắc bí mật từ trước đến nay. Và nắm quyền lực tuyệt đối. Tuy y không làm vuạ Nhưng biết cách cai trị, quyền hành được sử dụng một cách khéo léo. Còn tướng Giáp, ông không sợ mất phẩm cách. Nhưng không được vui, trước những phiền toái. Có khi cay đắng và có khi căng thẳng. Ông cũng không khóc, không tiếc gì cho ông. Ông có đau khổ chăng? Đồng hồ của thời gian lại bước thụt lùi... Ông vẫn cố gắng một cách tuyệt vọng làm được chừng nào hay chừng ấy công việc Thọ giao, mặc dù ông không có cảm tình với Bắc Kinh. * Vài phút im lặng trôi qua. Giáp hỏi: - Thế phái đoàn của ta gồm những ai? - Càng ít càng tốt. Thọ trả lời. - Tôi không được thạo tiếng Tầu, cần một phiên dịch của Bộ Ngoại Giao. Thọ thong thả bảo: - Ông không cần thông dịch của Bộ Ngoại giao. Đã có Hoàng Văn Hoan ở đó. Ta coi hắn như người đồng chí xưa... một trong những người được Bắc Kinh cưng và tín nhiệm nhất. Tôi hài lòng. Và ông có thể nói chuyện tự do. Khi mà chúng ta chấp nhận Hoan, chúng ta giành được yếu tố quan trọng, như thế lợi nhiều cho sự giao thiệp của tạ. Cùng trong trường hợp này nếu để một thông dịch viên không có lợi. Còn chuyện phản đảng của Hoan, coi như chuyện đã rồi. Giản dị vì lẽ chúng ta phải hết sức khéo léo nên muốn hữu hiệu, lẽ cố nhiên phải ngăn cản sự khó chịu nho nhỏ với kẻ thù quyền thế, nên chúng ta tỏ thái độ hoan nghênh sự có mặt của Hoan. Và không kết tội nữa. Khi có nhu cầu... Ông có thể hành động như một người giảng hòa với sự ủng hộ của tôi, luôn luôn tỏ ra ý giảng hòa thật rộng rãi và dù Hoan có tội với Đảng. Cũng phải "giữ ý tứ" theo phép lịch sự. Về phương diện này ông gánh một trách nhiệm lớn. * Đề nghị của Thọ, làm Giáp kinh ngạc, mà Thọ có lý. Hoan là đồng chí xưa, là Ủy viên Bộ Chính Trị - Chủ Tịch Quốc Hội - Đại Sứ của Hà Nội ở Bắc Kinh suốt tám năm. Sau bị cánh Thọ Duẩn chèn ép phải bỏ chạy qua Bắc Kinh, được Bắc Kinh o bế dùng làm lá bài của họ. Trong cây bài này có tính toán... kẻ lật qua người lật lại. Đây là một khúc quanh chính trị. Nhưng chỉ một tiếng của vụ Hoan - Giáp gặp nhau mà lộ ra thì Giáp cháy, Bắc Kinh cũng chẳng đẹp gì. Cuộc giao hảo này sẽ bị khinh bỉ và xấu. Bởi Bộ Chính Trị cơ quan tối cao của Đảng "nghi kỵ" Hoan. Thật khổ cho Đảng lẫn nhà nước. Những thổ lộ về ngoại giao, an ninh quốc gia chẳng ai biết, trừ Lê Đức Thọ. Ông ta khéo lèo lái, khéo dàn cảnh, khéo chọn người. * Cuối cùng họ đã thỏa thuận với nhau một cách lạ thường. Giáp nói: - Thôi! Tôi sẽ đi. Nhưng tôi có thể nói thành thực với ông được không, ông Thọ? Vẻ khoái chí, hài hước, Thọ nói: - Xin Đại tướng, đừng mất công như thế làm gì! Ngài cứ việc nói những điều ngài nghĩ. Tôi trước sau vẫn giữ cảm tình với ngài. Và nếu tôi có cam kết với ngài điều gì. Chẳng hạn như cho cháu Võ Thị Hồng Anh đi Hoa Kỳ, thì tôi có thể giữ được những lời cam kết đó. Thọ cười một cách có vẻ tế nhị, tướng Giáp gật đầu: - Trước tiên, tôi muốn nói, từ khi nắm chức vụ Trưởng ban Tổ Chức Trung Ương Đảng, Ông đã tiến hành mọi công việc với một bàn tay bậc thày. Tôi chắc là tài năng của ông ngang hàng với tổ sư phù thủy. Còn tay chân của ông thì Mafia còn phải gọi bằng cụ. Vì vậy ông không có vấn đề gì để phải lo về phía Đảng hay chánh quyền phản đối những việc ông làm. - Tôi đã làm những gì? Ông kể tôi coi? Thọ hỏi. - Chẳng hạn như việc bắt giữ các tướng Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang, bộ trưởng Ung Văn Khiêm hồi năm 1963 khi ông thân Tầu, khi ông thân Nga. Bây giờ để làm vui Bắc Kinh ông hạ thủ những người có ý định cản ông. Mới đây ông hại hai tướng Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn cùng một loạt các sĩ quan cao cấp trong quân đội. Tôi hỏi ông: tại sao chúng ta phải mất công để loại ra ngoài những phần tử trung kiên, ưu tú nhất của Đảng? - Thì có nghĩa là những phần tử ưu tú ấy, chắc chắn đã thấy và có thể nghe một điều gì đó, của ai đó... mà lẽ ra họ không được nghe. Tôi nói có rõ không? Thọ nhấn mạnh. Và thế là chúng ta thử hỏi cái việc phải loại bỏ ấy là cái gì? Cực chẳng đã, chúng ta phải lấy những bức hình của Mao Trạch Đông, treo lên bàn thờ từng nhà mỗi gia VN. Việc này lầm lỗi đầu tiên tại ông HCM! Chứ không phải thằng Thọ này! Chính ông ta rước voi về dầy mả tổ. Việc này từ Đảng đến dân ai cũng biết. Ông Hồ lấy tư tưởng Mao Trạch Đông, làm kim chỉ nam. Ông còn trách gì tôi? Ông có nhớ báo cáo chính trị, do ông Hồ đọc ở chiến khu Việt Bắc năm 1951 không? Giáp ngồi yên lặng vì Thọ nói đúng chính xác. Mà sự thực trong cương lĩnh của đại hội đảng CSVN lần thứ II ơ ở chiến khu Việt Bắc năm 1951, HCM đã lấy "tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam". Lúc đó cả đảng mừng. Nhưng không lâu họ tỏ ra nghi ngại, và phải trả giá mắc hơn hết trong lịch sử. Nó là một quyết định đường lối chính sách đưa đến hậu quả tai hại cho cả dân tộc. Do sự hiểu biết các thực tế lịch sử của ông ta không được thấu đáo. Nên bản cương lĩnh đó trở thành một bi kịch cho cả dân tộc VN. Một bi kịch tủi nhục về sự lệ thuộc tư tưởng không được xã hội lịch sử tha thứ. Về điểm này tướng Giáp hơi u mệ Hay là ông mải trận mạc, hoặc là... Nên ông vẫn hỏi Thọ: - Thế ai đã mời cố vấn Tầu sang nước ta chỉ đạo cách mạng Cải Cách ruộng đất? -Cũng chính ông ta. Chuyện ấy rõ như ban ngày. Không tốn một que diêm cũng rõ. Mặc dù biết việc dâng Hoàng Sa do HCM, Giáp vẫn hỏi: - Thế việc dâng đảo Trường Sa cho Bắc Kinh, ông Hồ có thuận không? Thọ cười, rõ ràng y đã trở lại như cũ rồi, độc ác bí mật như quỷ. Hắn nói: - Trước khi Phạm Văn Đồng qua Bắc Kinh dâng những hòn đảo này, có một cuộc họp hẹp. Ông Hồ nói: Trung Quốc giúp chúng ta cuộc kháng chiến chống Pháp chín (9) năm ròng về đủ mọi phương diện. Họ viện trợ cho chúng ta từ cây kim, sợi chỉ, trang bị quân đội ta từ đầu tới chân: mũ Trung Quốc, quần áo Trung Quốc, giầy Trung Quốc, ... Bây giờ kháng chiến thắng lợi, họ muốn một vài hòn đảo nhỏ, lẽ nào ta từ chối. Khi ông Hồ phát biểu như vậy, không có ai phản ứng gì. Tôi nhớ trong đó có Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Và có mặt cả ông trong cuộc họp đó. Ông tắt máy... nghĩa là tán thành rồi còn gì? Đến năm 1963, tôi lại hỏi ông ta về chuyện dâng cho Bắc Kinh những hòn đảo đó. Ông Hồ bảo: Về phương diện ngoại giao, cũng như trong các địa hạt khác trong đời sống, người ta chỉ có được những gì mình cần bằng cách cho kẻ khác những gì họ muốn. Cái sự nhượng bộ của Phạm Văn Đồng trước kia chứng tỏ sự thiện chí của Đảng tạ Trung Quốc đã viện trợ cho ta hàng tỷ dollars trong cuộc kháng chiến chống Pháp, anh biết đấy. Tôi bảo thẳng vào mặt ông ta có thằng Chính ngồi đó. Trung Quốc họ muốn cả nước VN này, chứ không phải chỉ vài hòn đảo, nên nợ có thể trả, chứ đất không nhượng đất. Việc làm của ông và Đồng là khờ khạo và nguy hiểm. Ông ta im lặng, còn thằng Chinh thì lảng đị Tôi nghĩ, nếu muốn nói chuyện quá khứ, nên để dịp khác, tôi sẽ hầu chuyện ông. Còn lúc này tôi khuyên ông nên tỉnh dưỡng để chuẩn bị cho thật tốt chuyến đi này. Cả Đảng chờ đợi sự thành công của ông. Mà ông nhớ cho tôi điều này "giữa đồng chí với nhau không cần thương nhau, chỉ cần dùng lẫn nhau". Nên thư trình bày dưới khía cạnh càng đẹp càng tốt, nhấn mạnh các hy vọng nối lại tình hữu nghị anh em, đưa đến cho hai đảng sự nhất trí... Và sẽ đi đêm cam kết, bảo vệ quyền lợi chung. Và luôn nhớ, ta phải thắng bớt cái bực tức quá khứ. Giáp nói: - Tôi chẳng có hứng thú gì về chuyến đi ấy. Nhưng tôi sẽ làm hết mình. Thọ khuyến khích: - "Tiếp tục tranh đấu" bảo vệ Đảng. Hãy khỏe, không phải lo chuyện các cháu nữa. Thọ nói, tay nắm chặt tay Giáp. * Biết mình không còn lựa chọn nào khác, phải nhận lời Thọ đi sứ Bắc Kinh. Ông bỗng liên tưởng đến cảnh cố vấn của cụ Mao năm nào, ngồi dựa lưng vào ghế bành lớn, ưỡn bụng ra phía trước, gác đại cả hai chân lên mặt bàn, tay cầm ly rượu Mao Đài, nhổ đờm ào ào xuống thảm, để phán bảo các cán bộ cao cấp của Đảng, hồi cải cách ruộng đất, mà ngay cả những vị bự trong Bộ Chính Trị, đến cả HCM cũng không một người nào dám hé răng, mặc dù biết họ nói càn, làm ẩu, ấy là lúc tình hữu nghị giữa hai đảng còn êm thắm, mặn nồng. Chứ như bây giờ chắc phải tệ hơn thế nhiều. Ông biết rằng Bắc Kinh sẽ làm nhục ông, mà cảnh ngộ của ông thật bi ai! Lúc này không bạn bè, không một người thân, chỉ toàn những cái gai chọc vào đôi mắt, đám tướng lãnh cũ trung thành, kẻ thì chết, người bị Thọ bức tử, kẻ đi tù, bọn còn lại thì quay quắt từng giờ: rõ ràng là chuyện của cơn ác mộng. Con cái bị đe dọa, bản thân ông thì bị Thọ giam lỏng trong dinh. Lòng ông căm giận vô cùng. * Chiếc xe hơi đã đưa Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến nhà của Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng Lê Đức Thọ. Lại đưa ông về nhà. Đại tướng có quyền được hưởng sự đưa đón của ba người. Một tài xế, hai cận vệ ngồi kèm sát hai bên ghế sau. Cả ba tên đó, đều là mật vụ của Thọ. Khi ông bước vào trong nhà. Vợ ông, bà Bích Hà, vẻ mặt lo âu, phiền não hỏi: - Thế nào hở ông? - Tôi phải đi Bắc Kinh chứ còn sao nữa! Nghe ông nói "phải đi" Bắc Kinh, mồm bà há hốc ra, người ngồi chết cứng trong chiếc ghế phô tơi. Hai tay run lẩy bẩy, bà gào: - Điếm nhục quá ông ơi! Sao ông nói không đi cơ mà? - Bà muốn các con chết sao? Không ai nói nữa. Căn phòng trở lại im lặng. Để cố định thần lại, tướng Giáp đi lại trong phòng như người đang bị một cơn giận đẩy lên làm cho nghẹt thở và ông tướng đang có những ý muốn liều trút bom lên đầu thằng Thọ. Cứ mỗi phút trôi qua, mạch tim ông lại chạy nhanh hơn và đã tiến đến một nhịp đập kỷ lục. Vì tức giận. * Ông rất có thể, trong lúc còn chưa quá trễ. Xây dựng tiếp một kế hoạch huyền thoại nào đó, bất ngờ tấn công vào sào huyệt của thằng Thọ, trước khi nó về chầu Karl Marx. Nhưng mà ở tình thế này thì chịu! Bởi ông bất lực không điều binh khiển tướng được nữa rồi. Thời của ông đã qua rồi. Ông hồi tưởng lại mới ngày nào, năm nào, rừng người tụ tập ở quảng trường Ba Đình đông như kiến cỏ, tiếng quân nhạc vang lừng, cờ xí rợp trời. Các lãnh tụ đứng trên lễ đài vẫy tay chào. Ông đi xe mui trần duyệt đoàn quân danh dự, dưới trướng của ông có hàng triệu lính. Nay không còn gì. Ông đã bị nghỉ hưu. Nhưng vốn giầu óc mộng mị, ông ước có một toán quân cảm tử, mượn tạm của Diêm Vương. Nhưng dễ gì Diêm Vương cho mượn, hay là cầu xin Thượng Đế cho một đội quân cứu thế, mới có thể tiêu diệt được thằng Thọ. Chuyện này lại càng khó xảy ra, đối với một vị tướng vô thần. Còn việc tính đến chuyện liên lạc với tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn ở dưới Âm Phủ, mộ một bọn lính biệt kích đánh thuê, lựa trong số những tay thiện xạ nhất thế giới Âm Phủ, kèm với một toán đặc công, một là bắn chết thằng Thọ, hai là bắt sống nó để ông xử tội. Sự mạo hiểm này hoàn toàn không thể chấp nhận được. Với lại làm sao việc đi mộ một bọn lính biệt kích, đặc công như vậy, ở dưới đó mà lại không làm tung tóe cả tin tức lên trên thế gian, lộ ra sẽ làm nguy hại đến cả tính mệnh của vợ con. Những ý nghĩ của Đại tướng, đại khái cũng ngộ nghĩnh như vậy. Giải pháp thứ ba! Tấn công can thiệp của ngoại bang ử Người ta không có thì giờ! Vả lại họ đâu có biết tình cảnh của ông! Hoặc là họ cũng cóc cần đến ông già trên tám chục tuổi, để đóng những tấn tuồng mới. Nên ông cứ phải ở mãi cái thế quy hàng thằng Thọ. Chịu nhận mọi điều kiện theo ý của nó. Đây là cái giá vô liêm sỉ và đắt nhất, mà các vở đã được dựng lên và thực hiện gần như đủ lịch sự. Vì ông là vị Đại tướng đáng kính, tuy bị Mafia trấn lột hết quyền lực đến mức độ cuối cùng. Nhưng trong vòng vài phút đồng hồ ngồi trên xe ông như chết lịm đị Câm lặng. Kẹt cứng dưới con mắt canh chừng nghiêm ngặt của bọn mật vụ, với danh nghĩa những tên cận vệ bảo vệ cho ông. Và rồi đột nhiên, bất thần một tia chớp chói lòa vụt qua trong những tế bào chất xám của ông! Chưa phải là thời điểm tổng phản công. Chưa phải là lúc tiêu diệt chúng nó, mà bây giờ phải làm lại từ đầu và theo đuổi nó đến kỳ cùng. Nếu còn sống được đến năm 2000 lúc đó sẽ thấy rõ ai thắng ai! Tôi thừa nhận, con đường Đại tướng đi là chính đáng. Nhưng không có nội công, ngoại kích, thì dù là một vị Thống Soái tài ba lỗi lạc, như ông vẫn lâm vào cảnh đơn thương độc mã, mà ngay khi ông mới rỉ tai vài tướng về ý nghĩ diệt thằng Thọ của ông. Như vậy chưa kịp hành động, thì bọn mật vụ của Thọ đã ra tay trước, bắt bớ tống giam hàng loạt, nhanh và gọn hơn cả quỷ sứ Diêm Vương. Với khẩu hiệu "bắt nhầm ngàn người chứ không để bỏ sót một người", nên dù kế hoạch, chiến lược, chiến thuật của Đại tướng có hay như binh pháp của Tôn Tử, thì cuối cùng những mầm mống ông reo vẫn bị sói hùm dọn sạch. Thất bại. Và thất bại! Tuy nhiên, ông không chịu dừng lại. Không tỏ ra "thối chí ngã lòng" mặc dù thế cô, thấm thía nỗi cô đơn. Ông vẫn tiếp tục. Nhưng thử hỏi: Đại tướng còn bao nhiêu thời gian để làm việc ấy? Khi tuổi đời ông đã tám mươi hai? Trần Nhu * Đại Việt Sử Ký Toàn Th ư, trang 719 - Tập II Ghi chú: Bạn đọc thân mến, Truyện "Tướng Đi Đêm" là một chương trong số 27 chương của cuốn tiểu thuyết lịch sử Ngôi Sao Sáng Mafia, viết về những hoạt động trong bóng tối của Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức trung ương Đảng và guồng máy mật vụ do y điều khiển. Tôi viết xong năm 1993 nhưng chưa kịp xuất bản thì gặp nghịch cảnh trong gia đình. Bỏ thất lạc, chỉ còn lại vài chương, tôi nhận thấy vẫn có ích cho bạn đọc, nên phóng lên mạng, ai muốn in ấn, đều được khuyến khích. |
Hồi ký Trần Quang Cơ - Chương 15
15. AI LÀ NGƯỜI ĐÁNG LÝ RA PHẢI NHỚ DAI ?
Sau cuộc gặp cấp cao ở Thành Đô, yêu
sách chính của Trung Quốc đối với ta trong vấn đề Campuchia tập trung
chủ yếu vào việc đòi ta thực hiện thoả thuận Thành Đô, tác động với
PhnomPenh theo hướng: “nhận bầu Sihanouk làm chủ tịch SNC gồm 13
thành viên của 4 bên Campuchia; chấp nhận văn kiện của 5 nước
thường trực Hội đồng Bảo an về vấn đề Campuchia.
6 giờ sáng ngày 9.9.90, đại sứ Trung
Quốc đến Ban Đối ngoại (chứ không đến Bộ Ngoại giao) gặp Hồng Hà trao
thông điệp báo các bên Campuchia sẽ họp ngày 10.9 tại Jakarta để bàn
việc lập SNC và nhấn mạnh yêu cầu Việt Nam tác động theo hướng đã thỏa
thuận tại Thành Đô. Ngay sau đó BCT đã họp trao đổi về thông điệp đó và
quyết định cử tôi đi Jakarta. Trong cuộc họp này BCT đã quyết định từ
nay các tiếp xúc đối ngoại về mặt Nhà nước đều phải qua Bộ Ngoại Giao
và phải báo cáo với anh Thạch và bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh (?) vì
cách làm của đại sứ Trung Quốc phớt lờ Bộ Ngoại Giao một cách quá lộ
liễu.
Trưa ngày 9.9.90 tôi cùng anh Huỳnh
Anh Dũng đáp máy bay qua đường Bangkok sang thủ đô Inđônêxia để theo
dõi cuộc họp của các bên Campuchia bàn về việc thành lập SNC. Không có
“cẩm nang” nào kèm theo chỉ thị đó cả, chỉ có lời dặn ngắn gọn của TBT
Nguyễn Văn Linh là cố lập được SNC.
Chiều tối 10.9.90, vừa chân ướt chân
ráo từ sân bay về đến sứ quán ta ở Jakarta, tôi đã nhận được một cú
điện thoại từ sứ quán Trung Quốc gọi tới. Trương Thanh gọi điện thoại
đến nói là chào trước khi rời Jakarta và cảm ơn tôi đã tác động tích
cực khiến cho cuộc họp các bên Campuchia này đạt được một số kết quả
(!). Tôi trả lời là tôi không dám nhận sự biểu dương đó, nếu như cuộc
họp kết quả tốt thì đó là do thiện chí của Nhà nước Campuchia.
Chả là lúc tôi xuống sân bay Jakarta
cũng là lúc cuộc họp giữa các bên Campuchia vừa bế mạc sau khi đã thoả
thuận lập SNC gồm 12 thành viên, chức chủ tịch còn để trống và tuần tới
sẽ họp phiên đầu tại Bangkok để giải quyết nốt vấn đề chủ tịch SNC. Bản
tuyên bố chung của cuộc họp có ghi “Các bên Campuchia chấp
nhận toàn bộ văn kiện khung của P5 làm cơ sở để giải quyết
cuộc xung đột Campuchia”. Tôi nghĩ rằng Bộ Chính trị bảo tôi
sang Jakarta có thể là một động tác sách lược để tỏ ra với Trung Quốc
là ta tích cực thực hiện thoả thuận Thành Đô. Còn Trương Thanh gọi điện
cảm ơn tôi thực ra cũng là một sự vỗ về của Trung Quốc để khuyến khích
tôi tiếp tục cố gắng thực hiện thoả thuận Thành Đô ! Nhưng sự khuyến
khích đó lại có tác dụng trái ngược lại, làm thức tỉnh cái con người
bướng bỉnh trong tôi. Từ đầu, tôi và số anh em chuyên nghiên cứu vấn đề
Campuchia và quan hệ với Trung Quốc trong Bộ Ngoại Giao đã rất không
thông với thoả thuận Thành Đô vì nhiều lẽ, nay tôi càng thấy mình không
thể hành động trái với điều mình cho là lẽ phải.
Ngày 13.9.90 tôi lại được trong nước
chỉ thị đi thẳng từ Jakarta sang Bangkok để theo dõi phiên họp đầu tiên
của SNC ở đó. Sáng 14.9.90 Bí thư thường trực Bộ Ngoại Giao Thái Kasem
mời tôi tới Bộ Ngoại giao Thái Lan nói chuyện. Chủ
đề câu chuyện vẫn là vấn đề Campuchia. Kasem hỏi dò tôi về thoả thuận
giữa Việt Nam và Trung Quốc về cơ chế SNC. Tôi trả lời đó chỉ là những
tin đồn không căn cứ, không nên tin. Trưa hôm đó, Sok An, thứ trưởng
ngoại giao Campuchia, tìm đến gặp tôi. Anh hỏi ý kiến về cuộc họp SNC ở
Bankok sắp tới, thái độ ta nên như thế nào nếu đối phương đòi đưa
Sihanouk làm chủ tịch SNC và là thành viên thứ 13 cuả SNC ? Tôi gợi ý
cần giữ vững nguyên tắc hai bên ngang nhau. Để thiện chí, một lần nữa,
ta có thể nhận cho đối phương thêm một người nhưng bên ta cũng phải
thêm một người (mỗi bên 7 người). Không 12 thì 14 chứ không nhận 13.
Sau đó tôi lại được anh Sok An cho biết là Kraisak, con trai Thủ tướng
Chatichai và là thành viên trong nhóm cố vấn của Thủ tướng Thái, đã bảo
anh rằng ông ta được Bộ Ngoại giao Thái thông báo là Việt Nam cũng ủng
hộ việc lập SNC với 13 thành viên do Sihanouk đứng đầu. Tôi nói với Sok
An đấy là điều bịa đặt và tôi sẽ gặp Kraisak dể nói lại. Chiều hôm khi
gặp Kraisak, tôi nói khá thẳng rằng: “Không thể coi ông
Sihanouk là ông chủ ở Campuchia, là vua trên tất cả. Vấn đề thành phần
cũng như chức chủ tịch SNC phải do người Campuchia quyết định. Việt Nam
và Trung Quốc không có quyền bỏ phiếu về vấn đề đó”.
Sau đó Kraisak kể lại cả cho Kasem. Kết quả là cuộc họp SNC phiên đầu
tiên 17.9.90 tại Bangkok đã tan vỡ vì Hunxen không chấp nhận công thức
“6+2+2+2+1”, cự tuyệt bầu Sihanouk làm chủ tịch với tư cách là thành
viên thứ 13 của SNC. Hẳn Trung Quốc đã gắn trách nhiệm hoặc ít ra cũng
là một phần trách nhiệm về thất bại đó cho tôi.
Hạ tuần tháng 9.90, Trung Quốc đón Phó
Thủ tướng Võ Nguyên Giáp thăm Trung Quốc và dự lễ khai mạc Á Vận Hội
(ASIAD) 11 với tư cách là “khách mời đặc biệt của Chính phủ Trung Quốc”
(tuy nhiên báo chí Trung Quốc vẫn đưa tin việc Trung Quốc mời Võ Nguyên
Giáp là thể theo yêu cầu của ta, dù rằng ngày 4.9.90 khi tiếp đoàn cấp
cao của ta ở Thành Đô chính Giang Trạch Dân đã nói sẽ mời anh Giáp dự
khai mạc ASIAD như một cử chỉ thiện chí của họ). Ngày 24.9.90 khi tiếp
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thủ tướng Lý Bằng có nói: “Sau cuộc
gặp cấp cao ở Thành Đô, cuộc họp Jakarta kết quả tốt, đã ra được tuyên
bố SNC 13 người. Song đến khi họp SNC ở Bangkok thì không tốt. Xin nói
thẳng thắn với đồng chí là chúng tôi thấy Thứ trưởng Trần Quang Cơ có
tác dụng xấu trong việc này. Khi Kasem hỏi có phải thực sự giữa Việt
Nam và Trung Quốc đã đi đến thoả thuận lập SNC gồm 13 người hay không?
Trần Quang Cơ đã đáp rằng hoàn toàn không có việc đó; đó hoàn toàn là
những điều dối trá. Chúng tôi không biết tại sao Thứ trưởng Trần Quang
Cơ lại nói những lời như vậy, hoàn toàn truyền đạt thông tin không đúng
đắn”. Anh Giáp đáp: “Khi về tôi sẽ hỏi lại về phát
biểu của đồng chí Cơ. Nếu có như vậy thì đây không phải là ý kiến của
Trung ương chúng tôi. Tôi không biết việc này vì tôi không phụ trách
công tác ngoại giao”.
Tiện đây tôi thấy cũng nên ghi lại một
chuyện có thể giúp cho chúng ta hiểu thêm đặc điểm của người Trung
Quốc: sau khi đến Bắc Kinh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có đề nghị gặp một
số tướng lĩnh trong quân đội Trung Quốc như Dương Đắc Chí (Dương là
tổng chỉ huy cuộc chiến tranh đánh Việt Nam năm 1979). Nhưng Dương nói
một cách bực tức: “Đời nào tôi lại gặp ông ta. Mộ của các cán
bộ chiến sĩ còn chưa xanh cỏ !”. Ngày 1.10.90 Dương cùng một
số tướng lĩnh khác còn gọi điện thoại thăm hỏi động viên sĩ quan binh
lính ở Vân Nam, Quảng Tây. Nhà văn quân đội Lý Tôn Bảo tác giả cuốn “Vòng
hoa dưới chân núi cao” viết về cuộc tấn công vào Việt Nam
tháng 2.79, phát biểu: “Xem tin Lý Bằng tiếp Võ Nguyên Giáp mà
trong lòng tôi cảm thấy bứt rứt. Giờ đây chúng ta phải xem xét lại xem
có gây ra cuộc chiến tranh đó không? Chẳng những phần lớn sĩ quan binh
lính dưới đơn vị không thông ngay cả một số tướng lĩnh cao cấp cũng
không thông nổi”.
Tư liệu trên đây tôi lấy ở bài “Võ
Nguyên Giáp thăm Bắc Kinh gây chấn động” của Quan Nghiệp
Thành đăng trên báo “Tranh Minh” xuất bản ở Hồng Kông tháng 11.90. Từ
đó đến nay, tôi vẫn phân vân là giữa người Việt Nam và người Trung Quốc
đáng lý ra ai là người phải nhớ dai hơn về sự kiện tháng 2.79 ?
Lê Đức Thọ: Tội Phạm Chiến Tranh
Trần Nhu
Có nhiều bạn hỏi về Ban Tổ Chức
Trung Ương Đảng của ông Lê đức Thọ. Nhân buổi phỏng vấn của anh Tường
Thắng về vấn đề này, tôi xin trích dẫn một số trang trong cuốn "Tinh
Thần Phật Giáo Nhập Thế" (Chương 2 " Phật Giáo Miền Bắc bị triệt tiêu
dưới chế độ Hồ chí Minh" Tập I - Nguồn Sống, 2005).
Đến
đây cũng xin mở ngoặc nói qua về nhân vật Lê Đức Thọ. Chúng ta cũng
không nên quên rằng tên tuổi của Lê Đức Thọ được cả thế giới biết đến từ
khi có hội nghị Paris. Hình ảnh Lê Đức Thọ được sánh ngang với Henry
Kissenger trên các tờ báo lớn và được in trong những cuốn tự điển bách
khoa ở các mục danh nhân thế giới như Socrate, Michel-Ange, Descartes,
Beethoven, Pasteur, Einstein de Broglie, Churchill, Chaplin, W. Disney,
Montessori, Faulkner, B. Russell, Eisenhower vân vân. Họ là những người
có công lớn với nhân loại. nhưng Lê Đức Thọ là một trong số những nhân
vật vĩ đại đó sao? Người ta nêu tiểu sử tóm tắt của Thọ và nhấn mạnh về
công trạng tìm kiến hoà bình cho cuộc chiến tranh Việt Nam trong cuộc
hoà đàm Ba Lê với ngoại trưởng Hoa kỳ Henry Kissenger và cả hai được
trao giải thưởng Nobel hoà bình.
Thật mỉa mai cay đắng, đáng xấu
hổ làm sao? Một tên tội phạm chiến tranh lại được giải thưởng Nobel hoà
bình! Sự kiện rõ ràng mà cả đảng cộng sản Việt Nam đều biết là Thọ và
Duẩn chủ động đưa quân vào cưỡng chiếm miền Nam. Tiếp sau đó đưa
200.000 quân Việt Nam vào chiếm Campuchia và ở lì đất Chùa Tháp 10 năm.
Liên minh Thọ Duẫn chủ trương cuộc xâm lăng này; trong đó Thọ vừa là kẻ
khởi xướng, vừa là kẻ thực hiện. Đó là một cuộc chiến tranh không tuyên
bố vì quốc hội không được hỏi ý kiến về cuộc chiến tranh này. Quốc hội
là "cơ quan quyền lực tối cao của quốc gia". Theo lẽ thường là như vậy,
nhưng ở Việt Nam nó chẳng có quyền gì cả. Quốc hội do đảng nặn ra, là
tay sai của đảng. Các phần tử trong quốc hội cộng sản là một bọn ngu
đần, mang đầu óc nô lệ, cứ cúi đầu khép nép như một bầy đầy tớ ngoan
trước ông chủ.
Nên cần phải minh định rằng cuộc chiến tranh ở Campuchia là cuộc
chiến tranh của đảng Cộng sản Việt Nam, không phải là cuộc chiến tranh
của nhân dân Việt Nam.
Cuộc phưu lưu quân sự được tiến hành theo ý
riêng và chỉ đạo của Lê Đức Thọ, làm cho khoảng trên 52.000 lính Việt
Nam chết trận, 20.000 lính bị thương, chẳng những thế nó còn làm cho
dân tộc Việt Nam bị nhục nhã trước thế giới trong bộ mặt kẻ xâm lăng,
bị tẩy chay, bị trừng phạt (cấm vận).
Thọ đáng nhẽ ra phải ra
đứng trước vành móng ngựa toà án quốc tế về tội phạm chiến tranh. Thọ
không những chỉ gây tang tóc cho nhân dân Việt Nam, mà y còn gây ra cảnh
nồi da sáo thịt trong đảng Cộng sản Việt Nam, với cái chiêu bài chống
chủ nghĩa xét lại. Việc Thọ làm nhiều người biết là sai quấy, nhưng ai
mà dám cả gan phê bình Thọ. Hơn nữa, vào thời điểm ấy, chiến dịch thanh
trừng, với danh nghĩa là bài trừ các tổ chức phản cách mạng và nhóm xét
lại đang diễn ra. Thiếu tướng Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang, Vũ
Đình Huỳnh đệ nhất bí thư của Hồ Chí Minh vân vân... họ là những người
cộng sản không làm điều gì sai trái với Đảng cả, và hiển nhiên không
phải thành phần chống đảng, họ bị mật vụ của Thọ bắt giữ, nhưng không
một ai lên tiếng bênh vực họ, kể cả Hồ Chí Minh, ra mặt bênh vực. Làm
như vậy, chẳng khác nào lạy ông tôi ở bụi này: tôi là thành phần xét
lại đây.
Tâm tư các đảng viên cộng sản hoang mang từ ngày cải
cách ruộng đất, nên thường khi gặp sự trái tai, họ chỉ còn biết im lặng
hay làm ngơ cho vì sự sống còn của bản thân, gia đình, họ buộc phải nói
dối. Đó là phương cách duy nhất để giữ nồi cơm và mạng sống, vì thế họ
cân nhắc kỹ lưỡng, không có lựa chọn nào khác. Cái mũ phản động, chống
đảng, gián điệp đến ngày nay đảng cộng sản vẫn còn giữ thói quen chụp
mũ nhiều trí thức yêu nước chỉ vì nói khác đảng. "U tối" tương ứng với
"tàn bạo", "văn minh" tương ứngvới "trí tuệ", nền dân chủ tương ứng với
kiến thức khoa học, kỹ thuật. Chủ nghĩa Lê-nin, chế độ cộng sản kiểu
Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh tương ứng với kiến thức xã hội phong
kiến lạc hậu. Chính sự thiếu kiến thức này xô đẩy họ vào con đường
chuyên chế tàn bạo. Chế độ cộng sản hà khắc hơn ở các xứ kém mở mang,
trình độ dân trí thấp, lạc hậu, nghèo đói. Xét về đại thể giữa trình độ
phát triển và trình độ dân trí như ở Ba Lan, Đức, Tiệp Khắc chẳng hạn
và so sánh với Tầu, Việt Nam, Cao Miên, Bắc hàn, thì Ba Lan, Tiệp Khắc,
Đức có một truyền thống tranh đấu cho tự do trong lòng dân chúng, và
kinh tế cũng mở mang sớm, tân tiến hơn, vì thế ít hà khắc.
Những
yếu tố trên tạo thành căn bản xã hội, và ta không lấy làm ngạc nhiên
khi thấy uy quyền của các cá nhân lãnh tụ cộng sản ở các xứ kém phát
triển kinh tế, nổi bật hơn ở các nước văn minh. Ở những xứ này, sự sùng
bái cá nhân còn tệ hơn cả thời kỳ phong kiến, và bạo lực thường được
dùng để đề cao các lãnh tụ. Họ cho rằng chỉ có súng và nhà tù mới ngăn
chặn được các cá nhân khỏi bị các tư tưởng, khuynh hướng khác chi phối.
Nên họ chủ trương sử dụng vũ lực với dân chúng. Như người luyện thú
vật, dùng roi vọt, cùm xích để uốn nắn, rèn luyện phẩm cách công dân.
Chính quyền phải luôn luôn cầm sẵn mã tấu trong tay, hơi có nghi ngờ là
phạt ngay và phạt không nương tay. Nhưng bất đồng tư tưởng tuyệt đối
không được dung thứ. Không một ai được công khai ngờ vực cái định chế
hiện hữu, những ý kiến bất đồng bị dìm ngày càng sâu. Nhân cách cũng
như sự dồn nén tâm lý sẽ dẫn đến sự huỷ hoại đời sống tâm linh rất nặng
nề bởi các mâu thuẫn được giải quyết bằng súng và nhà tù. Họ không chỉ
giới hạn vào những biểu thức diệt ngầm "đóng cửa" bảo nhau bằng súng.
Họ
tự mình đặt ra những luật lệ và cưỡng bách dân thi hành các điều khoản
bằng hình thức các sắc luật và nghị định, nghị quyết của Ban chấp hành
trung ương đảng, Bộ chính trị. Tuyệt nhiên không có các cuộc tranh
luận, bàn cãi trong đảng, cũng như quốc hội, chính phủ, các cơ quan công
quyền, các ngành. Tất cả các phương tiện đời sống quốc gia, dân tộc
đều bị ràng buộc vào một mối giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, nếp sinh
hoạt đều trong một chiều hướng qui định. Bộ chính trị ôm đồm tất cả
toàn bộhoạt động xã hội, mà cái "trục" của nó là "Ban tổ chức trung
ương đảng". Nơi đây mới chính là trung tâm quyền lực tối cao, một thứ
quyền lực ngầm, một thứ quyền lực ghê gớm, được gọi không quá đáng là
mafia.
Nó tác oai, tác quái trong mấy thập niên qua, nhưng vẫn
giấu mặt. Nó kiểm soát cả đảng, chính phủ lẫn quốc hội, quân đội, công
an, mật vụ. Nó nắm toàn quyền sinh sát, giải giới bất cứ thành viên nào
trong đảng và chính phủ, quốc hội, các tướng lãnh cao cấp trong Bộ quốc
phòng, Bộ tổng tham mưu, nếu nó muốn. Nó hạ bệ, hoặc đưa ai lên chức vụ
Tổng bí thư, chủ tịch nhà nước, đại tướng tổng tư lệnh, nếu nó muốn.
Nó vượt trội tất cả các loại mafia ở các xứ khác ở chỗ nó nắm chính
quyền, quân đội, công an trong tay, còn mafia ở các nước Phương Tây như
Ý, Mỹ... chỉ là thứ quyền lực gia đình, phe nhóm, ảnh hưởng chi phối
phần nào chính phủ của nước họ mà thôi. Đằng này nó nắm quyền lực tuyệt
đối, nó hoạt động chính trị và can thiệp vào công quyền, nhưng bí mật
kín đáo.
Bạn có thể đặt câu hỏi: Nó là gì mà ghê gớm thế? Xin tạm thưa rằng
nó gồm một số ban bệ, mà không mấy người biết đến, như Ban kiểm tra
trung ương đảng thời Lê Đức Thọ do Trần Quyết làm trưởng ban, Ban nội
chính trung ương đảng do Hoàng Thao làm trưởng ban, Ban bảo vệ bộ chính
trị do xếp Nguyễn Đình Hưởng, Ban chỉ đạo trung ương đảng do xếp lớn
Nguyễn Đức Tâm, còn Ban bảo vệ đảng đứng đầu là Nguyễn Trung Thành, Cục
chính trị trung ương đảng: ông Kim Chi, quan lớn có bóng không có
hình.
Nhưng tất cả những kẻ đứng đầu các tổ chức ngầm đan chéo trên cũng
chỉ là những chuyên viên của các bộ môn trong ngành mật vụ giúp việc cho
trưởng ban tổ chức trung ương đảng Lê Đức Thọ mà thôi.
Nhiệm vụ
của nó là thường xuyên theo dõi, giám sát chặt chẽ các ủy viên trung
ương đảng, thẩm tra các ủy viên Bộ chính trị, xem xét về mặt chính trị,
tư tưởng của các cán bộ dự kiến bầu vào Ban chấp hành trung ương đảng,
Bộ chính trị, và kiện toàn bộ máy đảng, bộ máy nhà nước, tổ chức chỉ đạo
quốc hội, các cơ quan nhà nước, tổ chức chỉ đạo các đoàn thể ngoại vi
như Mặt trận Tổ quốc, Ban tôn giáo; đặc biệt là kiểm soát, giám sát chặt
chẽ quân đội từ Bộ quốc phòng, Bộ tổng tham mưu đến các quân khu, sư
đoàn, trung đoàn đều có Ban bảo vệ cục chính trị đặt dưới quyền chỉ đạo
của cục an ninh Bộ nội vụ.
Chính cục này theo lệnh của Thọ đã
cho mật vụ giết đại tướng Hoàng Văn Thái vào khoảng 1986, và năm sau
lại giết đại tướng Lê Trọng Tấn, đồng thời bắt hàng loạt các sĩ quan cao
cấp trong Bộ quốc phòng. Đó là các đại tá Lê Minh Nghĩa, chánh văn
phòng đại tá Đỗ Đức Kiên, cục trưởng cục tác chiến, đại tá Lê Trọng
Nghĩa, cục trưởng cục quân báo vân vân... Họ đã bị bắt trước khi Thọ cử
Văn Tiến Dũng vào thay thế chỗ của tướng Hoàng Văn Thái. Những việc
này làm cho các tướng lãnh trong quân đội lo âu, các vị trong Ban chấp
hành trung ương đảng thì hốt hoảng, bồn chồn.
Trong quân đội cộng sản, ngành an ninh rất quan trọng.
Nhiệm
vụ của ngành bảo vệ là đảm bảo sự trung thành tuyệt đối của các tướng
lãnh sĩ quan trong quân đội đối với đảng, theo dõi, điều tra, phát hiện
những 'đồng chí' không thông suốt với đường lối, chủ trương của đảng.
Quyền lực của ngành bảo vệ rất lớn, nghĩa là quyền sinh sát đối với sinh
mạng chính trị các tướng lãnh. Lên voi xuống chó cũng do nó, mà bản
thân nó không hề thuộc hệ thống quân đội, không một chức phận trong
quân đội. Nó cũng không có chức vụ trong đảng, chính phủ, nhưng lại nắm
thực quyền trong mọi lĩnh vực, chính trị, quân sự, ngoại giao, xã hội...
Nó là một tổ chức vô danh của những kẻ vô danh cấu kết với nhau trong
bóng tối, sử dụng bạo lực dưới dạng khủng bố ngầm, trấn áp, núp sau cái
bình phong đảng, chính phủ, quốc hội, rút ruột, rút gan của dân, tài
sản của đất nước ở nhiều mức độ, bằng nhiều phương pháp, qua nhiều hình
thức khác nhau...
Quả thực, những cái tên như Nguyễn Thanh Bình,
Nguyễn Đức Tâm, Nguyễn Trung Thành, Trần Quyết, Hoàng Thao, Nguyễn Đình
Hưởng trong bao nhiêu năm qua, ngay đối với các ủy viên trung ương đảng
cũng mù mịt không mấy ai biết họ là ai, các công chức cao cấp của
chính phủ, các tướng lãnh trong quân đội thì hoàn toàn mù tịt.
Thực ra, chúng là những tên mafia được Thọ "sáng tạo" theo kiểu mới,
siêu hơn cả mật vụ, dưới quyền điều khiển, chỉ đạo của ông trùm mafia
Lê Đức Thọ. Cái tên của ông không nổi bật như Tổng bí thư Lê Duẩn,
Trường Chinh, hay chủ tịch nhà nước Tôn Đức Thắng, Nguyễn Lương Bằng, Võ
Chí Công, hoặc đại tướng Bộ trưởng quốc phòng Võ Nguyên Giáp.
Vì
thế, có lẽ nhiều người hiểu lầm, hoặc bị làm cho hiểu lầm bởi nó là
một thứ siêu quyền lực, một thứ vua không ngai, ngự trị trên tất cả, nằm
trong lòng đảng, lớn mạnh dần trong bóng tối, chế tạo ra đảng, dàn
dựng ra chính phủ, quốc hội, toà án. Nói một cách chính xác, Ban tổ chức
trung ương đảng là nơi ráp nối, kiến lập bộ máy đảng lẫn chính quyền.
Tìm
hiểu về Ban tổ chức trung ương đảng, ta thấy từ một cơ quan mang tính
chất sự vụ, làm công việc thống kê cán bộ đảng với Lê Văn Lương. Trái
lại, Ban tổ chức trung ương đảng trong tay Thọ nó nhanh chóng trở thành
một tổ chức mafia, để nuôi dưỡng một trung tâm quyền lực mới quy tụ
những người thân tín với Thọ. Đây hẳn là một sự sáng tạo vĩ đại. Ai bảo
cộng sản Việt Nam không có sáng kiến phát minh? Y kiểm soát trung ương
đảng chặt chẽ đến độ không có một giọt nước nào rớt vào trong đó.
Kỹ
thuật: Khi các bộ phận rời ráp vào nhau phải vừa vặn khít khao như tay
thợ mộc lành nghề đóng đồ, hay một kiến trúc sư biết tổng hợp các vật
liệu rời rạc thành một công trình xây dựng, như gỗ, gạch, xi-măng, sắt
thép thành một ngôi nhà. Nguyên vật liệu là những con người biến chế
thành những khối thép, những đinh ốc, những bánh xe siết chặt lấy nhau
trong cái bộ máy cơ khí vô hồn, kẻ nào lệch lạc ra ngoài, lập tức bị
nghiền nát ngay không thương tiếc, từ trên xuống dưới, các bộ phận tự
động kiểm soát lẫn nhau, và nhịp nhàng với cái hệ thống xã hội, mà mọi
thành phần được móc nối với nhau một cách chặt chẽ khăng khít vào các
khuôn mẫu. Sát nhập các tư duy, các tác phong riêng rẽ vào một biểu
tượng của một đường lối chính trị, trong đó sự rèn luyện tư tưởng chiếm
chỗ lớn nhất, tạo thành một căn bản của thể chế hiện hữu, mà giá trị
duy nhất cần giành giữ là bảo vệ đảng, tức nhóm mafia. Nhóm này chủ
trương xây dựng nền chuyên chính của đảng cộng sản bằng bạo lực và
khủng bố, xây dựng quyền lực cá nhân quan liêu không giới hạn, đặt nền
dân chủ và luật pháp xuống dưới chân họ, thay thế tôn giáo bằng ý thức
hệ vô thần, thúc đẩy đấu tranh giai cấp, kích động hận thù giai cấp bất
tận.
Trong một guồng máy chế tạo phức tạp và rộng lớn như
vậy, người chỉ huy việc điều khiển, kiểm soát có nhiệm vụ trực tiếp
thanh tra từng bộ phận một cách liên tục thường xuyên. Nhưng vấn đề đại
cương vừa kể trên cần phải có một sự kiểm soát chặt chẽ hữu hiệu để
guồng máy có thể hoạt động, và trong việc hoạch định những đầu mối phải
ăn khớp với nhau, và phải có một sợi dây xích đặc biệt để cột chặt tất
cả vào một đầu mối. Nghĩa là các đồ vật, vật liệu lắp ráp không thể
tuột khỏi tay viên kỹ sư chế tạo ra nó là trưởng ban tổ chức trung ương
Lê Đức Thọ. Ông là vua của đảng, là cha đẻ của các tổ chức công an,
mật vụ. Thọ rất yêu quái, trong bộ chính trị, ông ta chẳng có thiện cảm
với ai trừ Lê Duẩn, còn ác cảm thì hầu như cả trong đảng lẫn chính
quyền và quân đội. Ta nên hiểu đối với Lê Đức Thọ các phương tiện cần
được sử dụng để đạt mục đích duy nhất là quyền lực cá nhân. Trong máu
huyết của ông ta, có lẽ có một sự pha trộn giữa "gấu" và "sói" chứ chả
có tí hơi hướm người chút nào cả.
Cũng nên biết thêm rằng tổ chức
của Thọ không chỉ nắm lý lịch đảng viên, mà nó còn nắm cả cán bộ chính
quyền từ cấp cao nhất đến hạng thấp nhất theo hệ thống dọc xuyên suốt.
Mọi cá nhân chỉ còn là một cơ phận nhỏ trong guồng máy lớn. Cơ phận đó
tốt, thì cả guồng mày hoạt động tốt. Những cơ phận này chỉ cần một cử
chỉ khác thường, một tiếng than vãn, thì liền bị ném ra ngoài ngay
không thương tiếc. Nhiều người chống cộng khờ khạo nghĩ rằng quyền
quyết định của đảng là tối hậu, là tổng bí thư; người ta quên rằng trên
đảng, trên tổng bí thư còn có một vị hoàng đế nữa, một lãnh tụ quyền
uy tối thượng nữa, có quyền kỷ luật bất cứ ai, kể cả tổng bí thư đến các
uỷ viên bộ chính trị, và là tác giả của nhiều chiến dịch quân sự, và
tranh đấu để thanh lọc nội bộ đảng là Lê Đức Thọ. Ông ta tuy không tuyên
bố là hoàng đế, nhưng uy danh của ông chẳng kém gì hoàng đế. Là trưởng
ban tổ chức trung ương đảng, Thọ có trách nhiệm cắt cử các vệ sĩ, các y
sĩ, các nhân viên phục vụ cho các yếu nhân cao cấp của đảng, nên Thọ
dùng lính cận vệ và tất cả nhân viên phục vụ này làm công cụ do thám.
Nhưng, nhân viên ấy không phải chỉ có việc báo cáo tình trạng sức khoẻ,
mà còn bao gồm cả những hành vi, tư tưởng của các vị đó, qua hệ thống
này các cán bộ chóp bu đến các tướng lãnh cao cấp đều bị mật vụ của Thọ
giám sát thường xuyên. Nhất cử nhất động, mật vụ đều ghi lại hết, dù
việc lớn việc nhỏ đều phải báo cáo cho Thọ để ghi vào hồ sơ. Do đó, Thọ
nắm chắc trong tay vận mạng của họ, không những vậy mà cả gia đình vợ
con đều nằm trong tầm kiểm soát của Thọ, thí dụ như trường hợp đại
tướng Võ Nguyên Giáp có mấy đứa con học ở nước ngoài đều bị mật vụ của
Thọ chiếu cố tận tình, như Võ Điên Biên học ở Đông Đức, Võ Thị Hoà Bình
học ở Ba Lan, Võ Thị Hồng Anh học ở Nga. Do những hệ luỵ này mà tướng
Giáp phải trả giá quá đắt. Chúng ta cũng biết con gái của tổng bí thư Lê
Duẩn là Lê Vũ Anh, học ở Nga, vì lấy viên sĩ hàn lâm học Maslov, mặc
dù đã có ba con với nhau, vẫn bị mật vụ của Thọ giết chết một cách rất
thảm chỉ vì cái luật quái gở cấm các sinh viên không được lấy người
nước ngoài. Luật này không thành văn, mà chỉ là luật miệng giữa các
lãnh tụ với nhau.
Mật vụ của Thọ như con bạch tuộc, có trăm ngàn cái vòi,
không chỉ cuộn chặt người trong nước, mà còn vươn vòi của nó ra cái
cái sứ quán nước ngoài...
Trên đây là sơ lược một số nét về con
người được giải thưởng Nobel hoà bình, người viết hy vọng sẽ phục vụ
bạn đọc chuyện này ở một số cuốn sách khác. Vậy xin tạm đóng ngoặc ở
đây.
Cũng nên biết thêm rằng tổ chức của Thọ không chỉ nắm lý lịch đảng viên, mà nó còn nắm cả cán bộ chính quyền từ cấp cao nhất đến hạng thấp nhất theo hệ thống dọc xuyên suốt. Mọi cá nhân chỉ còn là một cơ phận nhỏ trong guồng máy lớn. Cơ phận đó tốt, thì cả guồng mày hoạt động tốt. Những cơ phận này chỉ cần một cử chỉ khác thường, một tiếng than vãn, thì liền bị ném ra ngoài ngay không thương tiếc. Nhiều người chống cộng khờ khạo nghĩ rằng quyền quyết định của đảng là tối hậu, là tổng bí thư; người ta quên rằng trên đảng, trên tổng bí thư còn có một vị hoàng đế nữa, một lãnh tụ quyền uy tối thượng nữa, có quyền kỷ luật bất cứ ai, kể cả tổng bí thư đến các uỷ viên bộ chính trị, và là tác giả của nhiều chiến dịch quân sự, và tranh đấu để thanh lọc nội bộ đảng là Lê Đức Thọ. Ông ta tuy không tuyên bố là hoàng đế, nhưng uy danh của ông chẳng kém gì hoàng đế. Là trưởng ban tổ chức trung ương đảng, Thọ có trách nhiệm cắt cử các vệ sĩ, các y sĩ, các nhân viên phục vụ cho các yếu nhân cao cấp của đảng, nên Thọ dùng lính cận vệ và tất cả nhân viên phục vụ này làm công cụ do thám. Nhưng, nhân viên ấy không phải chỉ có việc báo cáo tình trạng sức khoẻ, mà còn bao gồm cả những hành vi, tư tưởng của các vị đó, qua hệ thống này các cán bộ chóp bu đến các tướng lãnh cao cấp đều bị mật vụ của Thọ giám sát thường xuyên. Nhất cử nhất động, mật vụ đều ghi lại hết, dù việc lớn việc nhỏ đều phải báo cáo cho Thọ để ghi vào hồ sơ. Do đó, Thọ nắm chắc trong tay vận mạng của họ, không những vậy mà cả gia đình vợ con đều nằm trong tầm kiểm soát của Thọ, thí dụ như trường hợp đại tướng Võ Nguyên Giáp có mấy đứa con học ở nước ngoài đều bị mật vụ của Thọ chiếu cố tận tình, như Võ Điên Biên học ở Đông Đức, Võ Thị Hoà Bình học ở Ba Lan, Võ Thị Hồng Anh học ở Nga. Do những hệ luỵ này mà tướng Giáp phải trả giá quá đắt. Chúng ta cũng biết con gái của tổng bí thư Lê Duẩn là Lê Vũ Anh, học ở Nga, vì lấy viên sĩ hàn lâm học Maslov, mặc dù đã có ba con với nhau, vẫn bị mật vụ của Thọ giết chết một cách rất thảm chỉ vì cái luật quái gở cấm các sinh viên không được lấy người nước ngoài. Luật này không thành văn, mà chỉ là luật miệng giữa các lãnh tụ với nhau.
Trên đây là sơ lược một số nét về con người được giải thưởng Nobel hoà bình, người viết hy vọng sẽ phục vụ bạn đọc chuyện này ở một số cuốn sách khác. Vậy xin tạm đóng ngoặc ở đây.
Não phẳng mà nổ tận trời - "Thư ký của cụ Đồng bắt 7 tướng Đại Hàn"
Báo Tiền Phong giới thiệu: Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của đồng chí Lê Đức Thọ (10-10-1911 - 10-10-2011), Tiền Phong trân trọng giới thiệu bài viết của tác giả Trần Tam Giáp, nguyên thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, xung quanh một số cuộc trao đổi giữa đồng chí Lê Đức Thọ (lúc đó là Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) với Thủ tướng Phạm Văn Đồng về một số vấn đề đối ngoại.
Moá! anh Kạo giật cả mình khi xem đoạn nài:
Theo Thợ cạo được biết lính Đại Hàn tham chiến ở Việt Nam chỉ có 3 đơn vị là Sư đoàn bộ binh Mãnh Hổ, Sư đoàn bộ binh Bạch Mã và Lữ đoàn lính thủy đánh bộ Thanh Long hoạt động từ Khánh Hoà ra đến Quảng Nam.
- Hai sư đoàn có 2 ông thiếu tướng chỉ huy, mấy ông ý ở tận sở chỉ huy a lô chỉ chỏ lính oánh nhau chứ đâu ra trận. Đại Hàn sở trường là phục kích, thỉnh thoảng đi càn quanh căn cứ, giao tranh với Việt Công không nhiều, thường là cấp đại đội trở xuống, chưa bao giờ tham gia chiến dịch lớn nào có dấu ấn trong chiến tranh Việt Nam.
- Không thể có tình huống tướng đi trực thăng thị sát mặt trận bị bắn hạ rồi bắt sống vì quân ĐH hoạt động vùng đồng bằng ven biển Miền Trung, phòng không VC không dễ ăn. Giả như máy bay trúng đạn có rơi, nó sẽ băm nát khu vục xung quanh, làm sao tiếp cận để bắt tướng được.
- Còn cho đặc công bò vào cắt rào đột nhập căn cứ, với bọn Mỹ hay VNCH thì hoạ may, riêng ĐH đừng có mơ, nó phòng thủ bằng cách ủi sạch bong xung quanh, đào hào sâu, rào chục lớp kẽm gai mìn lựu đạn, chó mèo chưa chắc đã lọt vào được nói chi người.
Bắt được một tướng của đối phương đã là quý thế mà ngài thơ ký của cụ Đồng móc đâu ra 7 tướng Đại Hàn bị bắt rồi trao trả tù binh dzậy? Sợ mấy ông giúp việc cho các cụ thiệt, báo với chả chí tàn là chiện tào lao xì pộp mà cũng đăng!
Vì sao Tiến sĩ đạo văn Hoàng Xuân Quế kiện Bộ trưởng Phạm Vũ Luận ra Tòa?
Chu Mộng Long
– Vì sao kẻ đạo văn Hoàng Xuân Quế lại khởi kiện Bộ trưởng Phạm Vũ Luận
ra Tòa? Vì lẽ đơn giản, Quế không còn gì để mất. Và vì không còn gì để
mất, Quế sẽ làm cho nhiều người khác phải bị mất như mình.
Bị dí vào chân tường, Quế phải làm gì đó để chứng minh Quế còn có… bộ răng!?
Trước,
Quế đang có tất cả. Nhờ có Hiệu trưởng Nguyễn Văn Nam đỡ đầu, Quế có
được bằng Tiến sĩ, rồi Quế có được hàm Phó giáo sư, nhảy phốc lên Trưởng
Khoa rồi Viện phó Viện Tài chính Ngân hàng nhờ tài năng… ăn cắp. Ở các
cương vị ấy, Quế đã sai phạm như Hiệu trưởng Nam từng sai phạm (Tại đậy).
Quế là chuyên gia làm tiền, thấy tiền không ham mới là chuyện lạ. Nếu
không bị đòn thù của nguyên Hiệu trưởng Nam, Quế có thể đã ung dung lên
Viện trưởng, rồi có khi đắc thắng bắc thang lên tận nơi cao nhất của lò
sản xuất và thu gom tiền như các tiền bối của Quế đã làm trong vụ lũng
đoạn Ngân hàng???
Bây giờ,… Quế mất hết. Mất trắng như Quế phải mất!
Ô hô, thương thay! Tiếc cho cây Quế giữa rừng…
Quế
quyết kiện, sau khi Quế ôm đầu gối nghĩ, mục đích không đòi bằng, đòi
chức. Quế đòi kẻ khác phải bị mất như mình theo cái vòng oan oan tương
báo!
Người
bị mất trước tiên phải là GS. Nguyễn Văn Nam, nguyên Hiệu trưởng Đại
học Kinh tế Quốc dân, nguyên chủ tịch Hội đồng của luận án mà trò Quế đã
ăn cắp từ 10 năm trước, lại là người thầy sau 10 năm đứng ra tố cáo trò
Quế đạo văn. Nhưng với thầy Nam, trò Quế quên rằng, Nam tố cáo Quế cũng
trong tình trạng không còn gì để mất, vì trước đó chính Quế thừa cơ cấu
kết với đồng đảng phản bội thầy mình, hè nhau ném Nam rơi bịch từ ghế
Hiệu trưởng xuống bùn đen?!
Các
đối tượng khác chưa bị mất gì đến lúc cũng phải bị mất, nếu không đứng
ra đỡ đạn cho Quế. Đó chính là người hướng dẫn và những thành viên còn
lại của Hội đồng từng bỏ phiếu xuất sắc cho luận án ăn cắp để khuyến
khích… sự ăn cắp. Những người ấy xem ra toàn là cộm cán, nguyên vụ
trưởng này, vụ phó kia của ngành Tài chính Ngân hàng… nhưng rất tiếc đa
số đều đã nghỉ hưu! Mà đã nghỉ hưu thì có đem ra kỉ luật cũng hoàn toàn
vô nghĩa!
Vậy
là Bộ Giáo dục & Đào tạo phải bị mất cái gì đó chứ, danh dự chẳng
hạn? Quế tính rồi, Quế lí sự cùn rằng, bằng Tiến sĩ của Quế do Bộ cấp,
Bộ thu hồi tức là Bộ tự phủ nhận chính mình??? Vị Luật sư (tại chức?)
của Quế cũng nghĩ thế. Nếu không truy cứu được Bộ thì Quế phải đòi hỏi
sự công bằng, rằng thì là, theo Quế biết, ở cái ngành giáo dục của xứ sở
này có cả vạn đứa đạo văn chứ đâu riêng Quế, sao Bộ không nhổ đến tận
gốc mà cứ nhè tóc Quế mà nhổ?
Quế trông trẻ vậy mà cay, không gái… thì cũng thuộc trai… già mồm!
Quế
tự biết, có bắt thang lên kiện trời thì Quế vẫn bị mất bằng, mất chức,
vì sự thật đã được minh chứng mười mươi. Không phải 1 lần mà 2 lần ăn
cắp: lần
1 Quế ăn cắp 33% một luận án tiến sĩ; lần 2, chỉ cho có 10 ngày đối
phó, hơn nữa cái đầu Quế không nghĩ ra gì hơn nên Quế túng thế làm liều,
Quế cuỗm luôn 45 trang của 2 luận văn thạc sĩ nữa độn vào để lấp liếm! Thế là Quế phải đeo 2 lần mo cau, nhưng không sao, mặt Quế thêm dày ra, còn gì để sợ!
Biết
là kiện cái… đầu gối, nhưng Quế vẫn kiện, kiện cho lòi ra những thứ
khác. Quế ở trong chăn, Quế biết bao nhiêu rận của ngành đào tạo mà Quế
từng đứng đầu. Cái ngành làm tiền mà lị! Làm tiền bằng mọi giá. Trên là
loại cán bộ lũng đoạn Ngân hàng, dưới là hạng giảng viên tìm mọi cách
bốc hốt sinh viên nghèo túng…
Còn
nhớ, tại Trường Đại học Quy Nhơn, năm 2007, liên doanh Hiệu trưởng Trần
Tín Kiệt – Nguyễn Văn Nam đã tuyển sinh ngành Kinh tế đầu tư vượt chỉ
tiêu gần gấp 4 lần (326/90) để hốt tiền, trong đó có rất nhiều con em
lãnh đạo gửi gắm, học xong một năm theo hệ liên kết tại Quy Nhơn, năm
sau số con em lãnh đạo ấy được “rửa điểm” để chính thức chuyển ra Hà Nội
học tiếp, một số còn lại Kiệt cho lưu ban để… phi tang! (Xem Kết luận Thanh tra số
327/KL-BGDĐT do Thứ trưởng Bành Tiến Long kí ngày 28 tháng 7 năm 2008
về sai phạm của Đại học Quy Nhơn, dù lấp liếm nhiều nội dung nhưng vẫn
lồ lộ nội dung này!). Lưu ban một lớp 31 em, toàn là con em nhà nghèo
khổ, oan thấu tận trời xanh!
Cũng
cần nói thêm, cái Khoa Tài chính Ngân hàng của Trường Đại học Quy Nhơn
chính là con đẻ của cái Trường Kinh tế quốc dân (tư bản hoang dã hóa)
nổi tiếng này. Nó cũng đã học tập và làm theo gương các sự phụ của nó để
không hổ danh là đồ đệ trung thành của bổn phái!
Cái
khác nhau giữa vụ án Trần Tín Kiệt của Đại học Quy Nhơn với vụ Nguyễn
Văn Nam của Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội là, ở đây nhân dân chúng tôi
đấu tranh bằng bàn tay sạch, còn ngoài kia các quan chức đấu đá nhau
bằng những bàn tay bẩn. Vì sạch, nên Trường Đại học Quy Nhơn dễ đi vào
ổn định và phát triển trên nền tảng một nhiệm kì dân chủ thật sự. Còn
một khi đã bẩn thì nó chỉ thay kẻ độc tài này thành kẻ độc tài khác,
chúng đánh nhau, trả thù nhau khốc liệt, tung tóe và hôi thối nồng nặc
đến tận trời xanh!
Chuyện Nam hay Quế chỉ là cái sảy nảy cái ung, đến lúc mọi thứ sẽ vỡ ra, rữa thối, không thể bưng bít che đậy mãi!
Nghe
tin Tòa án Hà Nội đã thụ lí đơn của Quế, Bộ trưởng Luận bình thản trả
lời, đó là điều bình thường của Nhà nước pháp quyền. Nhưng Bộ cũng đừng
quên rằng, sự hư hỏng và đấu đá nội bộ của Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân có phần lỗi của Bộ: lỗi của nền giáo dục buông thả, chạy theo đồng
tiền một cách man dã, lỗi của một thời lợi dụng chức vụ quyền hạn bao
che, dung túng cho tiêu cực; kể cả hiện thời, ngay trong vụ Đại học Kinh
tế quốc dân vừa qua, dù Bộ đã ra tay xử lí tiêu cực nhưng không rốt
ráo, nếu không nói đó chỉ là một sự minh họa cho cuộc cải cách nửa vời!
Tôi
tin, bây giờ thì có lẽ Bộ trưởng Luận đã hiểu, nói ra bọn dân chủ cực
đoan lợi dụng chống phá, chứ sự mục rữa của nền giáo dục ta là có thật!
May mà số ít nhà giáo chúng tôi còn vững niềm tin chống chèo, nếu không nó đã đổ từ lâu!
Tham khảo thêm tại: http://hoangxuanque.blogspot.com/
Các
Quyết định chuyển ngành học, cho lưu ban một cách ngang ngược để phi
tang và đơn kêu cứu của sinh viên gửi lên mục tham kiến Bộ trưởng Nguyễn
Thiện Nhân trên trang web của Bộ, nhưng cho đến giờ vẫn chìm trong im
lặng:
CỨ XẢ HẾT VÀO NHÂN DÂN ĐI
Saturday, November 16, 2013
Từ Huế vào Bình Định ngập trắng trong lũ.
Lũ trời 1, lũ do xả nước từ các đập thủy điện lên 2, 3.
Thủy điện là của ai? Của các doanh nghiệp.
Khi phát điện thu tiền từ ai? Từ nhân dân.
Tới khi lũ thì xả nguy hiểm về a? Về nhân dân.
Xả đồng loạt cả 15 đập thủy điện, xả hết lên đầu nhân dân 15 mối nguy hại, mặc người chết, mặc nhà trôi, nhà ngập, mặc cầu gãy, đường đứt. mặc mùa màng.
Mấy năm qua, 15 nhà máy thủy điện này thu lợi nhuận không bằng tí ti cái mất mát vô cùng vô tận của nhân dân, của nhà nước.
Nhưng cái lợi nhuận ấy là của chúng nó- nhóm lợi ích.
Mất mát to lớn là của nhân dân.
Vài lời như thế để thấy, hậu quả của chúng nó vẫn sẽ tiếp tục xả vào nhiều năm nữa, nhiều thế hệ nữa.
Cho nên, Bộ trưởng Bộ công thương Vũ Huy Hoàng đã không thể trả lời một cách rõ ràng những chất vấn của đại biểu về các dự án thủy điện đã được chính Bộ này cấp phép hoặc duyệt cấp phép, khiến đại biểu quốc hội đã phải kêu lên: Tôi không hiểu Bộ trưởng nói gì. Không hiểu vì Bộ trưởng sẽ nói gì khi vây quanh ông là những nhóm lợi ích, vây quanh ông là những hồ sơ dự án thủy điện, mà hồ sơ nào cũng rành rọt, thảnh thót, toen hoét, nhoen nhoét những trang đánh giá tác hại môi trường và cấp thẩm định của các Bộ, trong đó có Bộ ông đều phê chuẩn: Tốt tốt tốt.
Tốt như thế, mạ mình ngày xưa hay nói lái: Tốt làm là táp....L.
Bực và căm phẫn.
--------------------------
Một nhân dân bé nhỏ, chỉ còn tài sản này đây, con chó nhỏ, những kẻ nằm trong " phe thủy điện" sẽ nghĩ sao?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét