Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2013

Cần chấm dứt bịp dân & Quyền lực là gì?

Nguyễn Quang Duy - Cần chấm dứt bịp dân.


Không biết bên trong Hội Nghị 8 chuyện gì đã xảy ra? Chỉ biết sau đó Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng biểu lộ ý tưởng phải kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội dù “…xây dựng chủ nghĩa xã hội còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hòan thiện ở Việt Nam hay chưa.”

Khi ý tưởng của ông Trọng còn đang được bàn tán xôi nổi lại xuất hiện 3 Youtube các lời phát biểu của Giáo sư Trần Phương góp ý cho Hội thảo Văn kiện Đại hội lần thứ XI tổ chức vào khỏang tháng 10-2010. Được biết Giáo sư Trần Phương nguyên Phó thủ tướng và hiện là Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, chính ông Phương đã đặt vấn đề đến hết thế kỷ này không biết đã hình dung được chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam hay chưa.

Mục đích của Giáo sư Trần Phương là khuyến cáo đảng Cộng sản đừng tiếp tục bịp dân, cần đoạn tuyệt với chủ nghĩa xã hội Marx Lenin để theo con đường kinh tế thị trường, thực hiện xã hội dân sự, dân chủ và pháp quyền.

Chỉ Là Bịp Dân

Giáo sư Trần Phương cho biết tất cả những dự báo của Marx về chủ nghĩa xã hội và về chủ nghĩa cộng sản là sai. Chủ nghĩa xã hội mà ông Marx dự kiến là xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản, lấy chế độ công hữu làm nền tảng, thu hẹp và xóa dần cái kinh tế tư nhân và thị trường tự do, rồi phân phối theo lao động nhằm thực hiện công bằng xã hội đều chỉ là ảo tưởng. Thực tế đã chứng minh nó sai. Vì nó sai nên sau 70 năm xây dựng tại Liên Xô, người dân nước này đã dứt khoát từ bỏ nó.

Trong trường hợp Việt Nam nó cũng đã thất bại. Giáo Sư Phương cho biết: “Thất bại thì rõ ràng rồi! nói chế độ công hữu, thì chế độ công hữu làm mất động lực của xã hội, phải trở lại chế độ tư hữu đấy. Nói là chuyên chính vô sản, thì phải trở lại chế độ dân chủ đấy. Nói là phải kế hoạch hóa tập trung, cuối cùng phải trở lại kinh tế thị trường đấy. Đó là một sự thất bại rõ ràng rồi, thế thì nói cái gì đây? Cho nên, nói chủ nghĩa Marx-Lenin là nền tảng tư tưởng của đảng ta, thì tôi không hiểu, xác định nền tảng tư tưởng, thì cái gì là nền tảng, còn cái gì không là nền tảng?”

Ông Phương còn cho biết “Ngay Đại Hội X, tôi đã phát biểu thẳng với các anh lãnh đạo rồi. Tôi nói là, định hướng xã hội chủ nghĩa là cái gì, phải ghi ra. Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta tiến tới là cái gì, phải ghi ra. Nhưng mà một câu thách đố đơn giản như vậy mà họ không làm nổi”.

Ông Phương kết luận khái niệm chủ nghĩa xã hội được đưa ra chỉ để bịp thiên hạ: “Thật ra mà nói, chúng ta nói và chúng ta biết là chúng ta bịp người khác. Đến tôi bây giờ, tôi cũng không biết cái chủ nghĩa xã hội mà chúng ta sẽ đi là cái chủ nghĩa xã hội gì đây?”

Về Cương lĩnh của đảng Cộng sản, Giáo Sư Trần Phương nhận xét: “Cương lĩnh tức là cái đảng này phải tiến lên đến đâu, nó đi theo con đường nào. Thế mà cương lĩnh, nói chủ nghĩa Marx – Lenin, thì chủ nghĩa Marx – Lenin có điều đúng và có điều sai, nhất là những dự đoán của Marx và Lenin về cái gọi là chủ nghĩa xã hội, sai rồi, mà rõ ràng là thực thi 70 năm đã thất bại rồi… Cho nên tôi đề nghị là nếu muốn trung thực thì cái cương lĩnh đó phải xác định cái định hướng xã hội chủ nghĩa là cái gì? Mà cái chủ nghĩa xã hội theo đuổi, nó sẽ là cái gì.”

Giáo Sư Trần Phương tiếp tục nhận định vì không có nền tảng tư tửơng nên đảng Cộng sản chẳng đưa ra được chiến lược xây dựng công bằng xã hội nào. Theo ông Phương, Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp, đến trên 70 phần trăm dân số sống tại nông thôn, đảng Cộng sản lại không mấy ngó ngàng đến nông dân và nông thôn. Bởi thế nông thôn xưa đã nghèo và lạc hậu nay vẫn thế. Thậm chí còn tệ hại hơn xưa.

Chủ Nghĩa Xã Hội mang mầu sắc Trung Quốc

Mặc dù nhận định đảng Cộng sản không tư tưởng, không hướng đi, không biết đang làm điều gì, chỉ nói để bịp người dân. Trong ba bài phát biểu Giáo Sư Trần Phương không nhắc đến lý do đảng Cộng sản vẫn tiếp tục tồn tại là nhờ dựa vào mô hình tư bản nhà nước.

Nhà nước nắm cả độc quyền kinh tế lẫn chính trị, tận khai tài nguyên và nhân lực gia tăng xuất cảng chiếm thị trường thế giới. Bởi thế tất cả những sai lầm của mô hình nhà nước tư bản nói trên, như bóc lột nhân công, cướp đất nông dân, tham nhũng, cửa quyền, bất công và bạo lọan xã hội, thì cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều đã bộc lộ nguyên hình.

Trung Quốc là một nước lớn và đảng Cộng sản Trung Quốc biết rõ tại sao họ áp dụng mô hình này, bởi thế khi mô hình được áp dụng vào Việt Nam nó lại bộc lộ những yếu điểm của đảng Cộng sản Việt Nam. Thí dụ trong khi cán cân thương mãi quốc tế Trung Quốc bội thu và trở thành người chủ nợ lớn nhất thế giới, thì ngược lại Việt Nam bội chi và nợ nần thế giới ngày càng chồng chất.

Biết rõ nhưng yếu điểm của mô hình đang đeo đuổi, Hội nghị trung ương 3 khóa 18 của đảng Cộng sản Trung Quốc, Tổng bí thư Tập Cận Bình cho biết “những sai trái trong hệ thống và cơ chế phải bị loại bỏ”. Theo hãng Reuters đưa tin: "Vấn đề cốt lõi là cần làm rõ mối quan hệ giữa chính phủ và thị trường, cho phép thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực và cải thiện vai trò của chính phủ".

Những lĩnh vực sẽ phải cải cách mạnh mẽ, gồm thủ tục hành chính, các ngành công nghiệp độc quyền, đất đai, hệ thống thuế và tài chính, quản lý tài sản nhà nước, chính sách mở cửa và cải cách. Theo đó, chính phủ sẽ sử dụng các công cụ thuế và tài chính để giám sát thị trường ở tầm vĩ mô.
Trong khi ấy, đảng Cộng sản Việt Nam lại vẫn chưa chấp nhận những sai trái trong hệ thống và cơ chế, vẫn tiếp tục lừa bịp người dân phải kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội lấy chủ nghĩa Marx Lenin làm nền tảng.

Cuộc Đấu Tranh Tư Tưởng

Những lời phát biểu của Giáo Sư Trần Phương phần nào xác nhân một cuộc đấu tranh tư tưởng bên trong và bên trên của đảng Cộng sản đang xảy ra và dường như cuộc đấu tranh này đã bước sang một giai đọan mới.

Ngày 9-11-2013 vừa qua, phát biểu trong Ngày Pháp luật Việt Nam, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố: “Hiến pháp năm 1946 thấm đẫm tư tưởng dân chủ pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh, coi trọng các giá trị quyền con người, quyền công dân, đã trở thành tiền đề pháp lý đặc biệt quan trọng cho việc thiết lập một chính quyền dân chủ, mạnh mẽ và sáng suốt”. Ông cho biết “Nhà nước phải được tổ chức, hoạt động theo Hiến pháp, pháp luật và phải được kiểm soát bằng chính Hiến pháp và pháp luật”.

Các phát biểu trích dẫn bên trên rõ ràng mâu thuẫn với tuyên bố của ông Nguyễn Phú Trọng “Hiến Pháp là văn kiện chính trị pháp lý quan trọng vào bậc nhất sau Cương Lĩnh của đảng” . Và thật vô cùng phũ phàng khi một đảng với Cương Lĩnh chỉ gồm những điều bịp bợm lại áp đặt như Hiến Pháp một quốc gia.

Mô Hình Tự Do Dân Chủ Xã Hội

Trong bài phát biểu, Giáo sư Trần Phương cho biết: “Nói là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà ông cóc hiểu dân chủ xã hội chủ nghĩa khác cái dân chủ tư sản là cái gì! Trong khi đó ông mời hết các cái thằng luật gia của chủ nghĩa tư bản nó đến nó dạy ông.” Giới trí thức Hà Nội như Giáo Sư Trần Phương đến nay chỉ thảo luận quanh hai từ “dân chủ”. Thực ra chính tự do, và nhất là tự do chính trị, mới chính là động lực phát triển quốc gia.

Giáo sư Phương cũng nhắc đến hai quốc gia Thụy Điển và Na Uy, hai nước Bắc Âu thường được giới trí thức Hà Nội xem như mô hình thành công của chủ nghĩa xã hội dân chủ.

Trong bài “Tù Mù Về Chủ Nghĩa Marx” người viết đã giải thích các quốc gia Bắc Âu là những quốc gia tự do. Họ đều là những quốc gia tự do và dân chủ nhất trên thế giới. Các đảng dân chủ xã hội tại các quốc gia Bắc Âu không theo bất cứ một chủ thuyết nào, họ chỉ theo khuynh hướng xã hội và sử dụng đấu tranh nghị trường thực hiện xã hội tự do dân chủ công bằng và bình đẳng.

Chính nhờ hệ thống đa đảng, cương lĩnh của các đảng dân chủ xã hội Bắc Âu đã phải tự thay đổi để thích ứng với hòan cảnh chính trị. Thí dụ các đảng dân chủ xã hội từ các đảng của tầng lớp công nhân, ngày nay đã điều chỉnh và trở thành đảng của tòan dân, hay phải ủng hộ các cải cách vi mô, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tạo cạnh tranh và hiệu quả cho nền kinh tế quốc gia.

Chính nhờ sự ưu việt của mô hình tự do dân chủ, càng ngày càng nhiều quốc gia trên thế giới trở thành các quốc gia tự do. Các quốc gia tự do thì càng ngày càng trở nên tự do hơn. Thế giới đang trở thành một thế giới tự do.

Việt Nam Cũng Sẽ Tự Do

Trở lại trường hợp Việt Nam, gần đây khi sang Hoa Kỳ hai ông Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn Dũng đã cam kết tôn trọng nhân quyền trong đó có quyền chính trị và bảo đảm thị trường kinh tế tự do, để được cứu xét tham gia Hiệp định Thương mại Xuyên Thái Bình Dương.

Ngày 12-11-2013, Việt Nam lần đầu tiên có ghế trong Hội đồng Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Phó Thủ Tướng kiêm Ngoại trưởng Phạm Bình Minh hứa sẽ "thực hiện tốt các nghĩa vụ và cam kết của một quốc gia thành viên Hội đồng Nhân quyền và thành viên Liên Hiệp Quốc".

Chúng ta có thể không tin vào những lời hứa hẹn của giới cầm quyền cộng sản, nhưng những lời hứa của ba ông Sang, Dũng và Minh cho thấy Việt Nam không còn con đường khác hơn con đường tự do. Việc chúng ta có thể làm là một mặt thúc đẩy họ phải thực hiện các cam kết quốc tế. Nếu họ không làm chúng ta cần tích cực tố cáo họ cũng chỉ bịp dân.

Ngược lại, trong một thế giới với một hệ thống thông tin mở, mọi thông tin đều được nhanh chóng phổ biến đến mọi tầng lớp xã hội, thì các khẩu hiệu tiến lên chủ nghĩa xã hội kiểu Marx – Lenin của Tổng Bí Thư đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng đều chỉ là bịp bợm và cần phải chấm dứt.
Tự Do, dân chủ, đa nguyên, đa đảng tự nó cũng không thể mang lại công bằng và bình đẳng cho toàn dân.

Muốn ở cuối thế kỷ này đất nước chúng ta có thể đạt được những tiêu chuẩn công bằng và bình đẳng xã hội như các quốc gia Bắc Âu thì những người theo khuynh hướng xã hội vừa phải nỗ lực xây dựng tự do dân chủ, vừa phải không ngừng đấu tranh cải thiện đời sống tinh thần và vật chất của các tầng lớp nông dân, công nhân, sắc tộc thiểu số và dân nghèo thành thị.

Xã hội công bằng không phải tự nó có được hay do ban bố của giới chức cầm quyền, mà có được từ quá trình đấu tranh nghị viện thông qua các chính sách an sinh xã hội.

Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
14-11-2013

1- GS Trần Phương chính thức phát biểu tạ Hà nội: Chủ Nghĩa Xã Hội được đưa ra chỉ để bịp thiên hạ !
http://www.youtube.com/watch?v=MaZIjlOLWKo&feature=youtu.be

2- GS Trần Phương tuyên bố: Chủ nghĩa Xã hội đã thất bại! Chủ nghĩa Cộng sản là ảo tưởng !
http://www.youtube.com/watch?v=3BhkOu_4TtU (Preview)

3- GS Trần Phương xác định: "CHÚNG TA TỰ LỪA DỐI CHÚNG TA VÀ CHÚNG TA LỪA DỐI NGƯỜI KHÁC" (Phần cuối)
http://www.youtube.com/watch?v=mlaPA606M-c

Quyền lực là gì?

Trong bài “Viện Khổng Tử và quyền lực mềm của Trung Quốc”, tôi có nhắc đến khái niệm quyền lực mềm. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, cũng có nhiều người bàn đến quyền lực mềm. Vậy, chúng ta thử tìm hiểu một chút về khái niệm này, đặc biệt trong hoàn cảnh chính trị đối nội Việt Nam, xem sao.

Nhưng trước khi tìm hiểu về quyền lực mềm, chúng ta cần tìm hiểu một khái niệm khác, rộng hơn và cũng căn bản hơn: quyền lực.

Quyền lực là gì?

Tò mò, tôi thử mở các cuốn từ điển tiếng Việt ra xem.

Từ điển của Thanh Nghị cho quyền lực là “quyền hành và thế lực”; tìm chữ “thế lực”, thấy định nghĩa là “quyền lực, quyền hành”: Như không. Nhìn ngược lên chữ “quyền hành”, thấy định nghĩa là “quyền có thể thi hành được nhiều việc”; tìm chữ “thi hành”, lại thấy giải thích là “đưa ra làm thực sự”. Tôi đâm ra hoang mang: Nếu trọng tâm của quyền lực nằm ở việc “thi hành” thì những kẻ bị sai khiến để làm một việc gì đó có khi lại có nhiều quyền lực hơn chính người ra lệnh chăng?


Trong từ điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, chữ “quyền lực” được xem là đồng nghĩa với chữ “quyền bính”; xem chữ “quyền bính”, lại thấy định nghĩa là: “Quyền định đoạt, sai sử mọi việc”. Quyền định đoạt và sai sử? – Được. Nhưng tại sao phải là “mọi việc”. Ở Mỹ, trong tháng 9 và tháng 10 vừa rồi, Tổng thống Barack Obama không thể “định đoạt” được về mức nợ trần cũng như mức chi tiêu của chính phủ và cũng không thể “sai sử” các nghị sĩ và dân biểu thuộc đảng Cộng Hòa thông qua ngân sách do ông đề nghị. Vậy ông không có quyền lực ư?

Trong từ điển của Văn Tân, chữ quyền lực được giải thích là “sức mạnh mà mọi người phải tuân theo trong hành động”. Ồ, tại sao lại phải là “mọi người”? Ngay cả Obama cũng không thể có thứ sức mạnh mà “mọi người” phải tuân theo, ví dụ, các chánh án sẽ không thèm nghe lời ông khi xét xử một tội phạm nào đó; các nhà báo sẽ không thèm nghe lời ông khi tường thuật hay bình luận về một sự kiện nào đó; các thầy cô giáo sẽ không thèm nghe lời ông khi giảng dạy một vấn đề nào đó; các bác sĩ sẽ không thèm nghe lời ông khi định bệnh và cho toa cho một bệnh nhân nào đó; các chính trị gia thuộc đảng Cộng Hòa thường xuyên cãi vã và chống đối lại ông mọi chuyện, vậy ông không có quyền lực ư?

Hoàng Phê thì định nghĩa quyền lực là “quyền định đoạt mọi công việc quan trọng về mặt chính trị và sức mạnh để bảo đảm việc thực hiện quyền ấy”. Tại sao lại phải giới hạn “về mặt chính trị”? Một chánh án không có quyền lực sao? Một vị tướng khi điều binh ra trận không có quyền lực ư? Một tổng giám đốc một cơ sở kỹ thuật, thương mại và/hoặc truyền thông, ví dụ Bill Gates, chủ tịch của Microsoft hay Rupert Murdoch, chủ tịch News Corporation, không có quyền lực ư? Xin lưu ý là trong các bảng xếp hạng những người có quyền lực nhất trên thế giới trong năm, ngoài một số nguyên thủ các quốc gia lớn, người ta còn thấy tên của nhiều người thuộc các lãnh vực ngoài chính trị, ví dụ, Đức Giáo hoàng hay các chủ tịch và tổng giám đốc điều hành của các công ty thương mại tư nhân, từ Microsoft đến Wal-Mart Stores, Amazon.com, Google, Apple, Facebook, New Corp, New York Times Co., v.v.. Thậm chí, họ còn chiếm vị trí cao hơn hẳn nguyên thủ của nhiều quốc gia trên thế giới, ví dụ, hơn toàn bộ các nhân vật chóp bu trong guồng máy lãnh đạo đảng và nhà nước tại Việt Nam.

Bốn cuốn từ điển thuộc loại nổi tiếng nhất của Việt Nam: Không có định nghĩa nào đúng cả.

Cũng không lạ. Ở Việt Nam, ngày xưa, dường như người ta không có ý niệm về quyền lực. Tất cả các cuốn từ điển xuất hiện trước thế kỷ 20 đều không có chữ “quyền lực”. Trong Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes, xuất bản năm 1651, chỉ có chữ “quyền” với nghĩa là chức vị, chức quan. Trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của, xuất bản năm 1895, chỉ có các chữ “quyền chức”, “quyền hành”, “quyền quý”, “quyền thế”, chứ không có chữ “quyền lực”: Dường như, với người xưa, quyền lực chỉ là thuộc tính của chức tước trong hệ thống chính trị phong kiến (do đó, có tính dòng dõi, từ đó, nảy ra ra các chữ “quyền thế” hay “thế lực”). Cách nhìn ấy, trong thời đại ngày nay, trở thành lạc hậu và quá đơn giản. Cái sai của những người làm từ điển xuất phát từ sự lạc hậu và đơn giản ấy.

Trong tiếng Anh, chữ “power” có hàng chục nghĩa khác nhau, nhưng phần lớn các nhà nghiên cứu về chính trị học đều chọn định nghĩa này: đó là khả năng làm thay đổi cách hành xử của người khác để đạt được những gì mình muốn. Trong định nghĩa ấy, có hai yếu tố quan trọng: một, làm thay đổi cách hành xử của người khác; và hai, đạt được điều mình muốn. Không đạt được điều mình muốn, chỉ đạt được điều người khác muốn: Không phải là quyền lực. Chỉ thay đổi chính mình nhưng không làm thay đổi người khác: Không phải là quyền lực. Ai cũng tham sống sợ chết, nhưng một người chỉ huy, giữa trận địa, có thể bắt các người lính phải “thay đổi” tâm lý thường tình ấy để xông thẳng về phía quân thù, quyết giành được chiến thắng dù có khi phải hy sinh mạng sống của chính mình: người chỉ huy ấy có quyền lực. Ai cũng tham lam, làm được bao nhiêu muốn giữ và hưởng hết bấy nhiêu, một người lãnh tụ bắt họ phải “thay đổi” tâm lý ấy và đóng thuế, thậm chí, với một mức thuế thật cao: vị lãnh tụ ấy có quyền lực.

Từ cách hiểu chung ấy về khái niệm quyền lực, nhiều lý thuyết gia khai triển vấn đề theo nhiều chiều hướng khác nhau.

Karl Marx nhìn quyền lực không phải từ cấp độ cá nhân mà từ cấp độ hệ thống chính trị, giai cấp xã hội và quan hệ sản xuất; ở đó, quyền lực chỉ đong đưa theo hai chiều: hoặc thống trị hoặc bị trị với một vùng giao thoa nhỏ và đầy bấp bênh của một số lực lượng được xem là “liên minh”.

Max Weber lại nhìn quyền lực từ cấp độ cá nhân: Đó là khả năng kiểm soát tài nguyên, biến cố và người khác để thực hiện hoài bão của mình, bất chấp những sự phản đối hay phản kháng của một số người nào đó.

Michel Foucault lại nhìn quyền lực ở góc độ khác: Theo ông, quyền lực không nằm ở cá nhân hay giai cấp mà chủ yếu ở kiến thức, diễn ngôn (discourse) và cái ông gọi là “các chế độ chân lý” (regimes of truth) được hiểu là hệ thống những niềm tin và những quy phạm được chấp nhận và được chia sẻ để mọi người, theo đó, phân biệt cái đúng và cái sai, cái thật và cái giả, đánh giá mọi việc và quyết định những gì mình nên làm, có thể làm hoặc phải làm. Theo ý nghĩa đó, quyền lực trở thành một thứ siêu quyền lực (metapower): Nó ở khắp nơi; nó đến từ khắp nơi; nó phân tán hơn là tập trung; nó nhập thân hơn là bị/được chiếm hữu; nó không giới hạn trong lãnh vực kinh tế (như Marx nói) hay chính trị (như Weber tin tưởng) mà còn ở hệ thống giáo dục, truyền thông, khoa học và đặc biệt, ý thức hệ; nó không phải chỉ có tính chất cưỡng chế hay tiêu cực mà còn là một sự cần thiết, một động lực năng sản và tích cực trong xã hội.

Về phương diện lý thuyết, khái niệm quyền lực có thể rất đa dạng, nhưng về phương diện thực tế, nó thường được chia, một cách đơn giản nhất, thành hai hướng chính: quyền lực tuyệt đối và quyền lực tương đối.

Trong thời hiện đại, đặc biệt trong thế kỷ 20 vừa qua, chỉ có hai chế độ công khai chủ trương và cổ vũ cho kiểu quyền lực tuyệt đối: chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít. Hai chế độ này tự xem là kẻ thù không đội trời chung của nhau: Với chủ nghĩa cộng sản, kẻ thù chính là chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa phát xít; với chủ nghĩa phát xít, kẻ thù chính là người Do Thái và chủ nghĩa cộng sản. Thế nhưng, trên thực tế, giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít lại có rất nhiều điểm tương đồng. Cả hai đều có tính chất toàn trị, đều muốn kiểm soát không những hoạt động mà còn cả trong cách suy nghĩ và tình cảm của con người. Cả hai đều siết chặt hệ thống kiểm duyệt trong mọi phương tiện truyền thông đại chúng. Cả hai đều thích sử dụng bạo lực và khủng bố để uy hiếp tinh thần dân chúng và để triệt hạ mọi sự bất đồng chính kiến. Cả hai đều ưu tiên phát triển quân sự, dùng quân sự như một nguồn sức mạnh chính để duy trì chế độ. Cả hai đều giành quyền quản lý kinh tế vào trong tay nhà nước. Và cả hai, trên danh nghĩa, đề cao chủ nghĩa quốc tế, nhưng tự bản chất, đều mang tính chất dân tộc chủ nghĩa cực đoan.

Trong khi đó, hầu hết các chế độ dân chủ đều thừa nhận loại quyền lực tương đối và hầu hết các nhà nghiên cứu hiện nay đều cho quyền lực, ít nhất là ở thời hiện đại đều có tính chất tương đối.

Trong quan hệ quốc tế, Trung Quốc có quyền lực đối với Việt Nam nhưng lại không có quyền lực đối với các nước Tây phương; Mỹ có quyền lực với rất nhiều nước Tây phương nhưng lại không có quyền lực để buộc Iran và Bắc Hàn từ bỏ tham vọng chế tạo vũ khí hạt nhân.

Về phương diện đối nội, ở Mỹ, Tổng thống Barack Obama chỉ có quyền lực trong thế giới công quyền: Đối với đời sống riêng tư của các công dân, ông hoàn toàn bất lực. Ngay trong thế giới công quyền, ông cũng không thể can thiệp vào các quyết định của ngành tư pháp hay một phần lập pháp, cái phần do đảng đối lập lãnh đạo; ông cũng không thể can thiệp được vào sinh hoạt chính trị hay guồng máy hành chính ở các tiểu bang hay thành phố.

Trong lãnh vực tín ngưỡng, trong giáo hội Công giáo, Đức Giáo Hoàng là người có quyền lực cao nhất, nhưng ông cũng chỉ có quyền lực trong nội bộ giáo hội Công giáo; và trong nội bộ giáo hội Công giáo, ông cũng chỉ có quyền lực trong các vấn đề thuộc tín lý, chính sách và tổ chức: Ông không hề có quyền lực trong lãnh vực nghề nghiệp hay đời sống riêng tư của các tín đồ, chẳng hạn.

Trong lãnh vực luật pháp, một vị chánh án, khi ngồi trước tòa, là người đầy quyền lực, nhưng khi phiên tòa chấm dứt, bước ra ngoài bãi đậu xe hay về nhà riêng, lại là một người bình thường như bao nhiêu người bình thường khác.

Tính tương đối dẫn đến một đặc điểm khác của quyền lực: tính tình thái (situational). Ở Úc, phần lớn người dân đều biết chuyện Thủ tướng Bob Hawke, lúc còn tại vị, nhận được giấy phạt từ cảnh sát về việc ông không thắt nịt an toàn khi ngồi trên xe hơi. Dĩ nhiên, ông phải nộp phạt. Bình thường, trong chính phủ, ông là người có nhiều quyền lực nhất, nhưng trong trường hợp này, viên cảnh sát, kẻ quyết định phạt ông, lại là người có nhiều quyền lực hơn ông.

Lúc bà Julia Gillard còn làm Thủ tướng (2010-2013), tôi gặp bà khá nhiều lần trong quán cà phê. Trong các cuộc họp Nội Các, bà là người đầy quyền lực, có thể nói là quyền lực nhất trong việc quyết định các chính sách của chính phủ, những chính sách có thể làm thay đổi cuộc sống của dân Úc và diện mạo của cả nước Úc. Đứng trước Quốc Hội, đối diện với phe đối lập, quyền lực của bà bị giảm xuống ít nhất là một nửa: Bà chỉ còn quyền lực của lý trí và của tài hùng biện để thuyết phục chứ không còn quyền lực hành chính để ra lệnh nữa. Còn trong quán cà phê, bà chỉ là một khách hàng. Như bao nhiêu khách hàng khác. Bà cũng phải xếp hàng. Bà cũng phải chờ đợi. Cuối cùng, bà phải trả tiền cho ly cà phê bà uống.

Ở Libya, Muammar Gaddafi, từ năm 1969 đến giữa năm 2011, là người có quyền lực gần như tuyệt đối, nhưng vào ngày 20 tháng 10 năm 2011, khi ông phải chui vào ống cống để trốn và sau đó, bị bắt, đối diện với những lực lượng chống đối, ông không còn chút quyền lực nào cả.

Ở Việt Nam, đảng Cộng sản, do thế độc quyền lãnh đạo được ghi nhận trong Hiến pháp, không những có quyền lực nhất mà còn là tổ chức duy nhất có quyền lực. Họ có quyền bắt bớ và bỏ tù bất cứ người nào họ không thích. Không có tội, họ vẽ ra tội, từ chuyện trốn thuế đến chuyện “hai cái bao cao su đã qua sử dụng”. Có vẻ như họ có quyền lực. Nhưng trong trường hợp Nguyễn Phương Uyên, người trước tòa, dõng dạc tuyên bố: “Tôi không cần xin giảm án”, họ lại không còn quyền lực, hoặc nếu còn, cái quyền lực ấy cũng trở thành vô nghĩa.

Đó là đảng, với tư cách một tập thể, nói chung. Trong đảng, với từng cá nhân, cũng vậy. Trước đây, thời chiến tranh, Võ Nguyên Giáp, với tư cách là Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng, Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng tư lệnh quân đội, ủy viên Bộ chính trị, được xem là một người đầy quyền lực. Nhưng theo các tiết lộ gần đây, đứng trước Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, ông lại là người chả có chút quyền lực, thậm chí, chút sĩ khí nào cả. Ông không những không có quyền quyết định những chiến lược hệ trọng mà còn thường xuyên bị Lê Duẩn sỉ nhục. Nhưng mới đây, khi Võ Nguyên Giáp mất, người ta lại thấy một khía cạnh khác: Với tư cách một huyền thoại, nhìn từ phía tâm lý quần chúng, thì Võ Nguyên Giáp lại có vẻ như có nhiều quyền lực hơn tất cả những người từng lấn át và sỉ nhục ông. Lê Đức Thọ hay Lê Duẩn chết: Chả ai buồn nhắc nữa. Võ Nguyên Giáp chết: Rất nhiều người thương tiếc.

Trong cuốn The Future of Power (2011), Joseph S. Nye đưa ra một số ví dụ thú vị: Nếu bạn nợ 1000 đô la nhưng không có tiền trả, phải khai phá sản, bạn chẳng có chút quyền lực nào cả. Nhưng nếu bạn nợ ai đó một tỉ đô la thì bạn lại trở thành kẻ có quyền lực: Đó là trường hợp của Mỹ. Sự phá sản của một con nợ một tỉ đô la sẽ kéo theo sự phá sản, hoặc ít nhất, sự khủng hoảng của cả chủ nợ. Vì vậy, khi Mỹ lâm vào khủng hoảng tài chính, ai cũng lo lắng và tìm cách… giúp Mỹ! Về chính trị, trường hợp của Bắc Hàn cũng tương tự. Hầu như ai cũng nói giới lãnh đạo Bắc Hàn là khùng. Nhưng Bắc Hàn hầu như là nước duy nhất làm cho Trung Quốc tỏ ra là không có quyền lực: Không đồng ý với Bắc Hàn, thậm chí, biết dính líu đến Bắc Hàn chỉ có hại, nhưng Trung Quốc vẫn không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục bênh vực và viện trợ cho những kẻ bị tâm thần ở Bình Nhưỡng.

Có thể nói, tóm lại, quyền lực là một khái niệm có tính chất đa kích thước (multidimensional), tương đối và chỉ thực sự là quyền lực trong một tình thái nhất định: Nó thuộc về ai, với ai, về cái gì, ở đâu, khi nào và như thế nào.

Không có quyền lực nói chung.
Nguyễn Hưng Quốc
Theo blog Nguyễn Hưng Quốc,

Lạm bàn về "án bỏ túi"

Khoảng chục năm trước, câu "án bỏ túi" với cánh phóng viên nội chính, có lẽ ai cũng biết. Gần đây, không thấy nhắc đến "án bỏ túi" nữa. Chỉ riêng chuyện người ta không nhắc đến cụm từ này nữa cũng đã chứng tỏ rằng, ngành tư pháp nước nhà đang có những bước tiến mạnh mẽ, dân chủ hơn cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, của bị can, bị cáo đã được đảm bảo hơn.

Chỉ riêng chuyện người ta không nhắc đến cụm từ "án bỏ túi" nữa cũng đã chứng tỏ rằng, ngành tư pháp nước nhà đang có những bước tiến mạnh mẽ, dân chủ hơn.

Vậy "án bỏ túi" là gì?

Nôm na, có thể hiểu thế này, đó là đưa ra xét xử một vụ án nhưng mức án dành cho các bị cáo lại được thống nhất từ trước giữa công an, viện kiểm sát, tòa án và lãnh đạo địa phương.

Khi đã thống nhất được mức án của "bộ tứ" này rồi thì phiên tòa diễn ra như… diễn kịch. Bị cáo muốn gì cứ việc trình bày. Thẩm phán, hội thẩm nhân dân cũng chỉ là hỏi để cho có. Luật sư cãi thì cũng gọi là để cho có vẻ dân chủ… Người ngồi giữ quyền công tố thì cũng chẳng thừa hơi đâu mà tranh luận với luật sư. Còn thư ký phiên tòa thì lặng lẽ ngồi viết án văn trước…

Tại sao lại có cái chuyện "án bỏ túi" thế này? Và tại sao một số cấp ủy đảng chính quyền địa phương lại tham gia vào việc xét xử của tòa án, đặc biệt là những vụ án được đánh giá là có ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh trật tự và dư luận tại địa phương; hoặc là những vụ án phải xử để làm gương để có tính "răn đe, giáo dục" kẻ khác; để "yên lòng dân".

Vì thế, đã có cấp ủy đảng chính quyền địa phương chỉ đạo công tác xét xử một cách thô bạo. Yêu cầu phải xử nặng hoặc phải xử nhẹ. Còn tòa, viện kiểm sát, công an thì ai đủ gan để mà cãi lại lãnh đạo đây?

Công an thì chắc chắn là không. Bởi vì lãnh đạo công an tỉnh muốn được đề bạt thì cũng phải hiệp y với tỉnh ủy. Cán bộ viện kiểm sát, tòa án cũng thế. Nếu như cấp ủy đảng chính quyền địa phương có ý kiến không đồng thuận thì việc bổ nhiệm coi như chấm dứt.

Hơn nữa, các cơ quan bảo vệ pháp luật tại địa phương cũng phải sống nhờ một phần vào sự chu cấp thêm của chính quyền. Rất nhiều hoạt động của công an, viện kiểm sát, tòa án phải dùng ngân sách của địa phương, mà ở đây là cơ chế xin - cho. Cho nên, chẳng ai dại gì mà chống lại ý chí của người đứng đầu địa phương đó. Còn khi đưa ra xét xử, oan hay không, nặng hay nhẹ, đó lại là việc khác.

Việc cấp ủy đảng chính quyền địa phương can thiệp vào việc điều tra, truy tố, xét xử của công an, viện kiểm sát, tòa án nhiều khi dở khóc dở cười.

Người viết bài này đã từng chứng kiến một buổi họp điều tra án của công an một huyện miền núi ở một tỉnh Tây Bắc, có Bí thư huyện ủy dự. Và khi thấy tốc độ điều tra của công an chậm quá, ông hăng hái yêu cầu “để tôi làm trưởng ban chuyên án”. Một yêu cầu vô lý đến như thế mà công an huyện vẫn phải đồng ý. Rồi về sau này, có những vụ án lớn, lại còn sinh ra ban chỉ đạo điều tra án mà thành phần tham gia gồm hầu hết là những người chẳng hiểu biết gì về nghiệp vụ điều tra, về pháp luật. Nhưng khi đã có “ban chỉ đạo” thì các cơ quan tham gia tố tụng cứ việc nhắm mắt thực hiện chỉ đạo.

Thật ra, việc lập ra “ban chỉ đạo” để điều tra một vụ án là một cách làm có thể nói là tùy tiện về mặt luật pháp. Bởi lẽ, khi đó “ban chỉ đạo” áp đặt những quan điểm chính trị, những cách suy diễn theo kiểu “sợi tóc chẻ làm tư”… cho các đối tượng trong vụ án. Đó là chưa kể người ta còn chỉ đạo rất duy ý chí, rằng “nếu không tham nhũng thì lấy đâu ra tiền xây nhà”; “lấy đâu ra tiền cho con đi học nước ngoài”; “trong bữa ăn đó, dứt khoát chúng nó phải bàn chuyện chạy án”…

Thế là ngay từ khâu điều tra, các đối tượng nằm trong diện bị điều tra đã không bị khép tội lớn thì cũng dính tội nhỏ và dĩ nhiên, cơ quan tố tụng phải thể hiện được “ý chí, quan điểm” của “ban chỉ đạo” bằng việc làm thế nào đó để các đối tượng phải khai nhận.

Có một vụ án mà người viết bài này còn nhớ cực kỳ rõ. Ấy là chuyện có một phóng viên của Báo An ninh Thế giới được một ông bạn cho chiếc đồng hồ Rado “cốp”, không có chân kính, trị giá không bằng một bát phở. Nhưng khi anh bạn kia dính vòng lao lý thì chẳng hiểu thế nào lại lòi ra chuyện đã từng biếu tặng chiếc đồng đó cho nhà báo. Như vớ được vàng, ông chỉ huy điều tra án làm công văn gửi tán loạn các nơi và yêu cầu phóng viên tường trình, báo cáo về chuyện chiếc đồng hồ đó. Nhưng khổ một nỗi, chiếc đồng đó anh phóng viên nọ đã vứt đâu đó ở ngoài bể bơi. Chỉ có như vậy mà cũng còn bị hành “lên bờ xuống ruộng”.

Đã có những hậu quả xảy ra khi các cơ quan tố tụng máy móc làm theo “ban chỉ đạo”. Mà một khi đã có “ban chỉ đạo” thì oan đến mấy cũng phải bịt đi.

Đảng, Nhà nước đang có những biện pháp quyết liệt để cải cách hệ thống tư pháp ở Việt Nam. Tất nhiên, các cơ quan bảo vệ pháp luật được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng nhưng không có nghĩa rằng lãnh đạo cấp ủy đảng của chính quyền địa phương phải trực tiếp chỉ đạo công tác xét xử, cho dù sự chỉ đạo đó phục vụ những mục đích chính trị của địa phương.

“Án bỏ túi” là như vậy đó!
 Nguyễn Như Phong 

Chất vấn bộ trưởng: Ai nên ngồi “ghế nóng”?

Chất vấn bộ trưởng: Ai nên ngồi “ghế nóng”?


Dù có được chuẩn bị kỹ đến cỡ nào thì trước, trong và sau các phiên chất vấn của mỗi kỳ họp Quốc hội đều xuất hiện những ý kiến đánh giá nhiều chiều của không ít các vị đại diện cho dân ở cơ quan quyền lực cao nhất, ngay từ khâu chọn người cho “ghế nóng” - đăng đàn trả lời trực tiếp.

Trong khi vị này quả quyết là chỉ nên chất vấn vị tư lệnh ngành nào đang “có vấn đề”, thì vị khác lại cho rằng cần tạo điều kiện để bộ trưởng nào cũng được đăng đàn.

Dù có được chuẩn bị kỹ đến cỡ nào thì trước, trong và sau các phiên chất vấn của mỗi kỳ họp Quốc hội đều xuất hiện những ý kiến đánh giá nhiều chiều của không ít các vị đại diện cho dân ở cơ quan quyền lực cao nhất, ngay từ khâu chọn người cho “ghế nóng” - đăng đàn trả lời trực tiếp.

Dăm người mười ý, chuyện dĩ nhiên. Đại biểu ở các địa phương khác nhau, các lĩnh vực công tác khác nhau thì có sự quan tâm khác nhau dẫn đến việc chọn người cũng khác nhau, càng không phải là chuyện lạ. Nhưng điều “lạ” là đã sắp qua kỳ họp thứ sáu mà “quy trình” chọn người để chất vấn vẫn còn không ít cấn cá.

Ở kỳ họp này, tại nhiều phiên thảo luận, không ít các vị đại biểu đã dành hai chữ "chấn động" để nói về vụ việc bác sỹ phi tang sau khi làm chết bệnh nhân cùng vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn. Và, đây cũng được nhìn nhận như giọt nước làm tràn ly sau khá nhiều bức xúc ở các lĩnh vực này.

Cũng chứa một dấu hỏi lớn đối với mối lo ngân sách hụt thu trầm trọng nhưng bội chi nhiều, hoặc con số thực cùng độ an toàn thực về nợ công.

Thế nhưng, các vị tư lệnh các lĩnh vực nói trên đều không có tên trong danh sách dự kiến sẽ trả lời chất vấn trực tiếp được đoàn thư ký gửi xin ý kiến đại biểu Quốc hội.

5 vị được gợi ý để chọn 4 vị gồm bộ trưởng các bộ: Nội vụ, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thông tin và Truyền thông, Khoa học và Công nghệ và Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao.

Nhận được phiếu này, ứng xử của các vị đại biểu cũng rất khác nhau.

“Tại sao nhiều vấn đề nóng về y tế như thế mà Quốc hội có vẻ như là đứng ngoài cuộc? Đoàn Quảng Trị bọn mình nhiều người vẫn đề nghị chất vấn trực tiếp Bộ trưởng Bộ Y tế”, Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa - Giáo dục - Thanh thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội Lê Như Tiến chia sẻ.

Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên Trương Thị Huệ, Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng Nguyễn Bá Thuyền, Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị Hà Sỹ Đồng và một số vị khác cũng cho biết rất muốn và đã đề nghị Bộ trưởng Bộ Y tế đăng đàn.

Cũng muốn đề xuất thêm thành viên khác của Chính phủ, song từ kỳ họp thứ Năm, khi phiếu xin ý kiến đã không còn mục để ghi đề xuất thêm thì một số vị vì “sợ”ghi tên người ngoài dự kiến sẽ “không hợp lệ” nên đành chọn trong danh sách sẵn có. Vậy nên, một mục dành để đề xuất thành viên Chính phủ khác, theo một số vị đại biểu là thực sự cần xuất hiện tại phiếu xin ý kiến.

Kỳ họp thứ tư cuối năm 2012 cũng đã ghi nhận việc một vị bộ trưởng không có tên trong danh sách dự kiến, nhưng lại nằm ở danh sách chính thức, do có nhiều đại biểu đề xuất.

Nhưng, ở kỳ họp thứ ba, đoàn thư ký kỳ họp cũng gửi phiếu đề xuất danh sách 7 vị bộ trưởng để các vị đại biểu Quốc hội cho ý kiến lựa chọn 4 vị bộ trưởng, trưởng ngành. Song, hai trong bốn vị được nhiều đại biểu đồng ý nhất lại đã không xuất hiện trong danh sách chính thức. Điều này cũng khiến cho một số vị đại biểu đã không mấy “mặn mà” khi thực hiện quyền chọn người để chất vấn của mình.

Việc này ngay sau đó cũng đã được một vị đại biểu “phản biện” nhân một phiên thảo luận về vấn đề khác ngay trước thềm phiên chất vấn đầu tiên. Ông nói, “đã đưa ra thăm dò thì phải tôn trọng ý kiến đại biểu, bộ trưởng nào được nhiều đại biểu chọn nhất thì sẽ trả lời chất vấn”.

Trở lại chuyện của kỳ họp này,  việc thiếu vắng mục dành cho đề xuất thêm nhân vật của “ghế nóng” được một số vị thành viên đoàn thư ký kỳ họp giải thích là do trước đó đã có văn bản đề nghị các vị đại biểu gửi chất vấn sớm để làm căn cứ chọn người trả lời chất vấn.

Ông Nguyễn Hạnh Phúc, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội đồng thời là trưởng đoàn thư ký kỳ họp cũng nhấn mạnh là khi đưa ra danh sách các vị bộ trưởng, trưởng ngành xin ý kiến thì phải dựa trên câu hỏi chất vấn đã gửi của đại biểu.

Và, do Bộ trưởng Bộ Y tế có "câu hỏi không nhiều, xếp thứ tự chỉ đứng thứ 7, thứ 8 thôi cho nên không đưa vào danh sách 5 vị bộ trưởng để đại biểu Quốc hội lựa chọn".

Là người trong cuộc, song một số vị đại biểu cũng hơi bất ngờ trước lý giải trên.

Bởi, qua nhiều kỳ họp, việc chất vấn bằng văn bản vẫn được một số vị đại biểu thực hiện độc lập với việc chọn người chất vấn. Vì mỗi kỳ họp chỉ có khoảng 5 - 6 thành viên Chính phủ trả lời trực tiếp, nên gửi văn bản chất vấn là để có thể hỏi cả những vị không được chọn đăng đàn, và để chất vấn những nội dung (có thể) không thuộc nhóm vấn đề được quyết định sẵn.

Hơn nữa, khá nhiều đại biểu từng tỏ rõ quan điểm là không muốn chất vấn bằng hình thức gửi văn bản mà chỉ muốn chất vấn trực tiếp. Cũng có vị chỉ chất vấn bằng văn bản mà chưa một lần nhấn nút để đối thoại trực tiếp.

"Đại biểu có nhận được văn bản đề nghị có chất vấn thì gửi sớm, chứ không phải đề nghị chọn người chất vấn", đại biểu Lê Như Tiến nói.

Bên cạnh số lượng câu hỏi đã gửi thì theo ông Phúc việc chọn ai trả lời chất vấn trực tiếp còn có yếu tố ưu tiên các bộ trưởng từ đầu nhiệm kỳ giờ chưa có dịp trả lời chất vấn tại Quốc hội.

Vậy lý giải thế nào về việc Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cao Đức Phát tại 3/5 kỳ họp có tổ chức chất vấn đều được chọn đăng đàn? Và kỳ thứ 5 đã trả lời, kỳ này lại tiếp tục? Một số vị đại biểu đặt câu hỏi như vậy.

Theo quan điểm của một số đại biểu mà VnEconomy đã ghi nhận được thì chọn người chất vấn phải căn cứ vào vấn đề đang được dư luận cả nước quan tâm, cần có câu trả lời rõ ràng và cấp bách về cả trách nhiệm và giải pháp.

Còn nói như đại biểu Tiến thì “có người không làm tốt thì kỳ họp nào cũng chất vấn, còn có người cả nhiệm kỳ cũng không cần chất vấn, đừng quan niệm là kỳ họp trước anh trả lời rồi thì lần này thôi”. Bởi thế ông Tiến cho rằng, cần có sự thay đổi quy trình chọn người chất vấn. Có vị đại biểu nói, đơn giản là cứ để tất cả các thành viên Chính phủ trong phiếu xin ý kiến, và chọn người theo kết quả từ cao nhất trở xuống.

Tuy nhiên, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Phúc cho rằng chất vấn không chỉ là vì lĩnh vực đó có vấn đề mà còn là cơ hội để các vị bộ trưởng trình bày kết quả cũng như khó khăn của ngành mình, đương nhiên vẫn quay lại cái gốc là xác định trách nhiệm.

“Trong lịch sử Quốc hội, đã có một vị là thành viên Chính phủ mà suốt cả nhiệm kỳ không có được cơ hội trình bày báo cáo hay phát biểu nào trong diễn đàn Quốc hội. Đến kỳ họp cuối cùng vị đó đã đề nghị cho được trả lời chất vấn. Một vị thành viên Chính phủ cả một nhiệm kỳ mà không được đại biểu quan tâm hỏi hay có cơ hội trình bày vấn đề của ngành mình trước quốc dân đồng bào, thì cũng cần suy nghĩ chứ?”, ông Phúc bày tỏ quan điểm.

(VnEconomy)
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét