Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2013

Thủy điện và lũ: Đại biểu Ngô Văn Minh không hiểu nhưng nhân dân hiểu & Chuyện rồi cũng phải nói

Thủy điện và lũ: Đại biểu Ngô Văn Minh không hiểu nhưng nhân dân hiểu

Thủy điện và lũ: Đại biểu Ngô Văn Minh không hiểu nhưng nhân dân hiểu

Đại biểu Ngô Văn Minh không thể hiểu câu nói sau của Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng: “Quy hoạch thủy điện trải qua nhiều thời kỳ là quy hoạch chung của cả nước chứ không phải quy hoạch riêng của Chính phủ hay Bộ Công thương... Chúng ta nói về chúng ta chứ không phải chúng ta nói về Chính phủ, cũng không phải chúng ta chỉ nói về bộ, ngành này hay bộ, ngành khác mà chúng ta nói về chúng ta”.
Không phải một mình ông Minh không hiểu, mà hình như khó có ai hiểu nổi ông Vũ Huy Hoàng nói gì giữa chốn nghị trường.
Còn nhân dân ư! Tất cả đều hiểu một điều rất rõ khi cơn lũ hung hãn đang quét qua các tỉnh miền Trung. Hàng vạn người dân đang chống chọi với những con nước điên cuồng từ thượng nguồn đổ về. Lũ lên nhanh ngoài sức tưởng tượng của con người nên không kịp ứng phó.
Đến trưa 16.11, đã có 18 người chết, mất tích.Nhân dân hiểu rằng, nước lũ tràn về là do các công trình thủy điện mọc lên khắp các tỉnh miền Trung,. Để có những dự án này, hàng vạn hec ta rừng bị phá hủy một cách hợp pháp. Chưa ai biết số gỗ phá rừng để làm thủy điện đi đâu, về đâu?
Nhân dân hiểu làm thủy điện là làm giàu cho một số nhóm lợi ích. Họ bán rừng trước khi bán điện.
Nhân dân biết tỏng tòng tong, tiền bán điện có thể giải quyết được tình trạng thiếu điện nhưng sự trả giá có khi còn lớn hơn.
Và hôm nay đây, những cơn lũ ống, lũ quét không còn bị rừng ngăn cản đã trở thành hỗn hào hơn bao giờ hết. Cùng với nước từ thượng nguồn, hàng triệu khối nước từ các hồ chứa đập thủy điện Sông Bung, Sông Tranh 2, Đắk Mi 4…xả ra, tấn công vào miền hạ du, đổ lên đầu nhân dân, tàn phá nhà cửa, ruộng vườn của nhân dân.
Kèm theo là hủy hoại nhiều công trình cầu đường, công trình công cộng, thiệt hại vô cùng lớn.
Xin hãy thận trọng và nhìn xa khi tính đến việc ký duyệt các dự án thủy điện. Cái lợi mà các công trình thủy điện này mang lại không đủ bù một phần tỉ thiệt hại do chính các dự án này gây ra. Nhãn tiền là nhân dân miền Trung đang ngập ngụa, đang kêu cứu, đang đói khát, đang dành giật sinh mạng trong nước lũ.
Những người đặt bút ký duyệt các dự án thủy điện giờ đây đang ngồi trong phòng máy lạnh mát rượi hay lò sưởi ấm áp đọc báo sẽ nghĩ gì khi đọc tin về những thảm cảnh mà nhân dân miền Trung đang gánh chịu
(Lao động)

Nhân đọc bài "Cận cảnh" nguyên nhân Liên Xô tan rã của thiếu tướng Lê Văn Cương

ussrpr1.jpg

Trong tình đất nước như hiện nay, tâm lý bất an trong dân là hiển nhiên. Khi đọc bài của tướng Lê Văn Cương, một công dân suy ngẫm, tự hỏi và viết những điều mình biết sau đây:
Phong trào đấu tranh cách mạng của người cộng sản theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin có vai trò quan trọng và ý nghĩa đối với lịch sử nhân loại: tác động lớn đến sự thành công phong trào giải phóng dân tộc của các nước trước là thuộc địa trên toàn thế giới, phá tan hệ thống thuộc địa và cáo chung chủ nghĩa thực dân cũ, là mệnh lệnh thay đổi, cải cách đối với chủ nghĩa tư bản đang ngày càng tham lam. Nhưng nó đã khởi nguồn xây dựng một hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới đã để lại nhiều hệ lụy đến hôm nay, nhất là đối với nhóm XHCN đang còn lại trên thế giới.

Đối với Việt Nam, đó là con tàu chuyên chở dân tộc đến bến bờ độc lập mà giờ đây đã quá cũ kỹ, mục nát và trở thành phương tiện để nhóm tha hóa trong đảng cầm quyền bòn rút tài nguyên đất nước, mồ hôi nước mắt của nhân dân, đè nén ý chí nhân dân, làm cho đất nước trở nên tụt hậu ngày càng xa so với các nước khác. Người dân Việt đã thấy quá rõ qua việc sử dụng nguồn lực quốc gia, từ đồng tiền thuế của nhân dân, từ những nợ nần vay vốn quốc tế để vá víu những vết thủng Vinashin, Vinaline …và nhiều vết thủng khác đang được che dấu, tiềm ẩn trong các tập đoàn kinh tế nhà nước. Con tàu này quá gỉ sét rồi, người ta đã nhận biết và từ bỏ từ hơn 20 năm trước để chấm hết vai trò lịch sử của nó, sao nở lại cứ để nó đày đọa người dân.

Trên thế giới hôm nay, những nước có nền khoa học công nghệ dẫn đầu, nền kinh tế phát triển bền vững, cuộc sống nhân dân ấm no, tự do, hạnh phúc là ở những nước xã hội chủ nghĩa ư? Khi Liên Xô hoặc một số nước xã hội chủ nghĩa đang ở đỉnh cao (chủ yếu là tiềm năng quân sự) có phải nhân dân ở các nước này có đời sống sung túc, thoải mái hơn nhân dân ở các nước tư bản? nhất là về mặt văn hóa, tư tưởng? Để rồi Cái nôi Liên Xô và phần lớn các nước xã hội chủ nghĩa khác phải thêm mất mát, hy sinh xương máu trở lại với chủ nghĩa tư bản. Giờ đây, trên thế giới chỉ còn lại bốn nước XHCN: Cu Ba, Triều tiên, Trung Quốc và Việt Nam. Trong nhóm này, Trung Quốc từng là anh hai của khối XHCN lớn mạnh nhất về tiềm năng quân sự, kinh tế đang tìm cách nuốt chững người anh em phía nam. Trung Quốc được xem là thành công, mạnh nhất của nhóm do huy động, khoan vào sức dân, là đất nước của nghịch lý “Nước giàu dân nghèo”. Nhưng cho dù bỏ qua những sai sót, những thất bại trong thời gian qua, nếu Việt Nam chấn chỉnh, cải cách để thành công như Trung Quốc hiện nay thì có gì hay và lý tưởng để tiếp tục định hướng CNXH: thực dân kiểu mới bành trướng lãnh địa, mưu đồ chiếm đoạt tài nguyên các nước xung quanh và với cả anh em cùng ý thức hệ, nền kinh tế phát triển không bền vững đã bất chấp hủy hoại môi trường và nguy hại trực tiếp mạng sống con người mà cụ thể là hàng hóa TQ mà ai cũng biết (Người Việt bị tiêm nhiễm nặng vấn đề này, nhất là đối với thực phẩm sản xuất cho chính người Việt dùng), và câu hỏi: TQ là nơi có môi trường xã hội tốt mà người Việt Nam hoặc dân nghèo các nước mơ đến định cư ?

Về phân tích nguyên nhân sụp đổ Liên Xô:

Theo phân tích của Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên nhân cốt lõi làm tan rã Liên Xô tựu trung do sự tha hóa đạo đức của con người, cụ thể là những đảng viên ĐCSLX nắm quyền lực đất nước, do cơ chế thực thi dân chủ và cơ chế giám sát quyền lực như trích lược dưới đây:

Trích 1: Đảng Cộng sản Liên Xô chưa xây dựng được cơ chế hữu hiệu để đảm bảo dân chủ thực sự trong sinh hoạt Đảng. Đảng CSLX đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong suốt quá trình hoạt động. Theo chúng tôi, đây là điểm khởi thuỷ, nguồn gốc của mọi biểu hiện khác về sự thoái hoá của Đảng CSLX.

Trích 2: Đảng Cộng sản Liên Xô đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Đi liền với nó là các bệnh tật: độc đoán, chuyên quyền, không chấp nhận những ý kiến khác với mình; coi thường tập thể, coi thường cấp dưới, tự cho mọi ý kiến của mình là chân lý buộc mọi người phải tuân theo, coi những ai có ý kiến ngược lại là chống đối, thậm chí là thù địch, khi cần thiết bảo vệ "cái uy" của mình, họ sẵn sàng đối xử với đồng chí, đồng đội như đối với kẻ thù”.

Trích 3: Đảng CSLX trước đây không có lực lượng nào và không có cơ chế nào thực hiện giám sát và phản biện hoạt động của Tổng Bí thư, của Bộ Chính trị. Một nhóm nhỏ này, có khi chỉ dăm ba người nắm quyền lực tối cao, tự tung tự tác, ai có ý kiến khác sẽ bị họ chụp cho cái mũ là "chống đối", "là phản động", "là chống Đảng", thậm chí là "phản bội Tổ quốc"...

Qua bài viết này, người đọc dễ dàng nhìn thấy tình hình tương tự đó đang hiển thị ở Việt Nam, toàn bộ quyền lực điều hành đất nước đang trong tay những người đảng viên ĐCSVN, đã được hiến định độc tôn để lãnh đạo đất nước và sẽ tiếp tục được duy trì như dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Làm sao có thể xây dựng cơ chế dân chủ, cơ chế giám sát quyền lực ở một nước độc đảng cầm quyền. Độc đảng chính trị cầm quyền sinh độc quyền, độc tài, sinh ra đặc lợi gây bất công xã hội, từ đó gây ra các hệ lụy và trở thành nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Cho dù các nhà nghiên cứu trong giới cầm quyền VN có môi mỏng thế nào cũng không thể khỏa lấp được thực tế tồi tệ đã in hằn trong tâm trí người dân. Cho dù nhà nước không có đảng cầm quyền lãnh đạo toàn diện vinh quang như đảng CSVN, nhưng các nước ở châu Á vẫn có thể xây dựng nền kinh tế thuộc hàng top ten trên thế giới, có đời sống văn minh như ở Nhật Bản, Hàn Quốc… và cho dù các nhà nguyên cứu trong giới cầm quyền có đưa ví dụ về một nhà nước dân chủ, đa đảng rối ren, tranh giành quyền lực như Thái Lan thì họ vẫn có đời sống văn minh và thu nhập hơn ta gấp nhiều lần.

Vậy làm sao công dân Việt có cơ hội tự hào dân tộc với hộ chiếu gắn Quốc huy khắc tên hai chữ Việt Nam. Trước đây, người dân Việt đã từng tự hào dân tộc khi có được cuộc chiến thắng giành độc lập vang dội. Giờ đây, với nền kinh tế nước nhà tụt hậu, yếu kém, nội lực suy yếu, thấp cổ bé họng trước giặc ngoại xâm đến nổi phải ức hiếp dân mình khi lên tiếng bảo vệ chủ quyền. Tự hào dân tộc cho lớp trẻ Việt chỉ là ánh hào quang của cha, ông đã đỗ xương máu thôi sao? Tiền nhân phải ngậm ngùi nơi chín suối!

Theo tướng Cương, nguyên nhân cốt lõi nhất đối với sự sụp đổ Liên Xô chủ yếu do sự tha hóa của đảng cầm quyền, nhất là các vị trong Bộ Chính trị, BCHTƯ Đảng Cộng sản Liên Xô.

Chẳng có gì lạ! Đó là quy luật tất yếu. Ban đầu, những người lãnh đạo cộng sản đẹp đẽ như những vị vua anh minh trong lịch sử mang niềm tin cho dân chúng trong một thời gian, sau đó luôn được thay thế bằng các vị vua cường bạo, phơi bày một xã hội thối nát như một quy luật tất yếu của nhà nước phong kiến, được biện chứng xuyên suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Đã có sự so sánh tương tự giữa nhà nước phong kiến với nhà nước độc đảng cầm quyền: Quyền cai trị, quyền lãnh đạo mãi mãi; Cha truyền, con nối; Quốc sự: nghị quyết của Đảng như là chỉ dụ của Vua; Cửa quan là nơi dân sợ đến; Đất đai là “sở hữu toàn dân”, là của vua; Quan lại tham nhũng là “văn hóa” đương nhiên, bất trị. Trị tham nhũng (thanh tra, kiểm toán,…) là để tham nhũng; Nạn mua quan, bán chức; Chính sách mị dân (tuyên truyền và bưng bít thông tin)…

Bức tranh sinh động ở VN: để xây dựng CNXH nhất định phải có con người mới XHCN. Sau mấy mươi năm xây dựng CNXH, rèn giũa, lựa chọn những con người ưu tú lãnh đạo đất nước mà kết quả như toàn dân biết đến. Đó là một đương kim thủ tướng xem văn hóa từ chức quá lạ lẫm, cho dù có sai phạm đến mấy cũng là do Đảng giao phó, không thể thoái thác (tuyên bố trước Quốc hội VN). Rằng đó là một đương kim Tổng bí thư thường phát biểu dưới chuẩn và phi chính trị, đến nổi nhà báo trẻ Nguyễn Đắc Kiên phải có vài lời với TBT rằng “…ông không đủ tư cách để nói những lời đó với nhân dân cả nước…”, hoặc TBT phát biểu ngụ ý rằng cương lĩnh của đảng ông quan trọng trên cả Hiến pháp của dân tộc. Tam quyền phân lập trong một thể chế nhà nước là một tiến bộ của nhân loại, nhằm kiểm soát các nhánh quyền lực luôn có nguy cơ lạm quyền và đã minh chứng hữu hiệu tại các nước tiên tiến. Vậy, TBT cho rằng người dân đề nghị “Tam quyền phân lập” là thoái hóa chẳng khác gì khẳng định tính độc trị, không chịu sự kiểm soát của nhà cầm quyền. Hoặc xét cho cùng, việc đề nghị thành lập Hội đồng bảo hiến, hay Tòa án bảo hiến cũng nhằm để bảo vệ cho nhân dân nhưng đã được các đảng viên là đại biểu Quốc hội bàn lui, bàn lùi cũng lộ rõ Đảng đã xa dân như thế nào. Thế đấy! Những người chuyên chính vô sản trong bộ máy cầm quyền giờ là những người hữu sản với cuộc sống xa hoa trong mắt người dân, dù tài sản khủng đã được ẩn dấu. Nói một đằng, làm một nẻo đã trở thành nếp sống của “một bộ phận nhỏ” đảng viên ĐCS tha hóa. Không còn niềm tin trong dân để chính danh, tồn tại như thời chiến được dân che chở, được dân hy sinh ủng hộ, thì đảng có “lực lượng vũ trang” tuyệt đối trung thành sẽ được ghi vào Hiến pháp VN sắp tới.

Nay, một tình trạng VN quá giống Liên Xô, đó là: “1, Những đảng viên chân chính thường chiếm tỷ lệ nhỏ, 2. Những người thực hiện, chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng như cái máy (chiếm khoảng hơn 96 %); 3. Những kẻ cơ hội , xu thời, nịnh bợ (phần lớn trong bộ máy công quyền) ; 4. Những người im lặng (phần lớn họ là những người có hiểu biết nhưng sợ bị trù dập nên họ giữ im lặng, không dám phát biểu)”.

Và điều nữa, cho dù được tuyên truyền, nhồi nhét thế nào, người ta cũng dễ dàng nhìn thấy kẻ thù đế quốc Mỹ năm xưa mất dần nét xấu xa, ghê rợn như đã tô trát trước đây. Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện từ năm 1945 và bị đế quốc này tiếp quản một thời gian giờ đã là một cường quốc, và rồi câu hỏi: Đế quốc này đã làm thiệt thòi hay đe dọa thôn tính đất nước nào khi họ đã là đồng minh hoặc quan hệ đối tác?

Sau cùng, cảm nhận thông điệp từ bài viết của tướng Cương, tuy không nuối tiếc như ông đang tư cách một đảng viên ĐCS, từng là nhà nguyên cứu chiến lược của Bộ công an, tôi nghĩ ông thuộc những đảng viên có tỷ lệ nhỏ, cho dù có sự khác biệt, tình yêu tổ quốc luôn là chung./.

Từ Công Việt
(Dân luận)

Thái độ bất lịch sự của Putin bị mổ xẻ

Nhiều tờ báo của Hàn Quốc trong vài ngày qua đã đồng loạt lên tiếng phê phán gay gắt thái độ bất lịch sự của Putin trong chuyến thăm Hàn Quốc mới đây.
Nguyên do là lịch trình chuyến thăm của Tổng thống Nga tới Hàn Quốc được phía Nga đơn phương thông báo sẽ rút ngắn, bắt đầu từ thứ Tư thay vì từ thứ Ba như thỏa thuận ngoại giao của hai bên trước đây. Ấy thế nhưng theo kế hoạch đã bị thay đổi này, ông Putin vẫn đến trễ 30 phút, buộc người đồng nhiệm là nữ Tổng thống Hàn Quốc, bà Park Geun-hye phải chờ đợi. Cuộc hội đàm thượng đỉnh cùng với nhiều sự kiện liên tiếp đã bị đẩy ra sau bữa ăn trưa bắt đầu lúc 3h15 chiều.
Nàng thì ngồi e lệ
Chân chàng lại duỗi ra
Do bộ phận không nhỏ
Hơi bị mỏi ấy mà!
Tờ Yonhap chỉ trích phía Nga đã vi phạm nghi thức ngoại giao khi thay đổi kế hoạch và yêu cầu Seoul phải điều chỉnh theo kế hoạch của mình. Tờ báo này còn cho biết Putin có “thói quen” đến trễ trong các cuộc gặp chính thức với lãnh đạo nhiều nước trên thế giới. Cụ thể, vào tháng 9 vừa qua, ông Putin đã tới trễ hơn một giờ đối với cuộc họp thượng định đầu tiên với bà Park Geun-hye tại Saint Petersburg. Còn các vị Tổng thống Mỹ Barack Obama, Tổng thống Phần Lan Sauli Ninisto và Thủ tướng Đức Angela Merkel cũng đã từng phải chờ đến hai giờ để “được gặp” Putin.
Trong khi đó, tờ Dong-A Ilbo thì chỉ rõ: Sự chậm trễ thường xuyên của Tổng thống Nga Putin là do phong cách sống và các hoạt động ngẫu hứng của ông ta. Theo tờ báo này, Putin đã đến muộn 4 giờ trong cuộc gặp thượng đỉnh tuần trước với Tổng thống Ukraina Viktor Yanukovych. Lý do thực là lãng nhách: Putin “bận” uống rượu với một người Nga đi xe máy tình cờ gặp trên đường đến địa điểm cuộc họp. Các chuyên gia nghiên cứu về Nga cho biết sự chậm trễ thường xuyên của Putin chủ yếu là do lối sống. Một quan chức tại Moscow nói, văn phòng của Putin ở Kremlin thường để trống vào các buổi sáng trong tuần vì thói quen ngủ muộn và dậy muôn của Putin. Tờ báo này cho rằng Putin có thói quen dậy trễ bắt đầu từ thời gian ông ta làm sĩ quan KGB. Một số người nói ông Putin đã phát triển các thói quen của mình sau khi nhậm chức tổng thống vào tháng 3 năm 2000. Cũng theo Dong-A Ilbo, một phóng viên của tờ báo lớn tại Nga Rossiyskaya Gazeta, đã nhận xét rằng thói quen của Putin tương tự như của Joseph Stalin, người đã cai trị Liên Xô trong 29 năm. Vì thói quen dậy muộn này mà Stalin đã nhiều lần để đại biểu nước ngoài phải chờ trong vài giờ ở bên ngoài Kremlin.
Một tờ báo lớn khác của Hàn Quốc là KoreanTimes thì thẳng thắn kêu gọi: Putin, hãy đúng giờ vào lần sau! Tờ báo này phê phán Putin: Việc Nga đơn phương thay đổi lịch trình của Putin ngay trước chuyến thăm cho thấy sự thiếu tôn trọng to lớn dành cho Hàn Quốc và Tổng thống Park Geun-hye.
Tờ KoreanTimes bức xúc khi nhắc lại rằng đây không phải là lần đầu tiên ông Putin cư xử thiếu đàng hoàng. Trong cuộc gặp bên lề G20 vào tháng Chín, Tổng thống Hàn Quốc, bà Park Geun-hye cũng bị đối xử theo cách của Putin: cuộc gặp bị trễ 2 giờ so với lịch trình trước đó. Tờ báo mô tả: Putin không hề có lời xin lỗi hay giải thích về sự chậm trễ này. Dù rất mệt mỏi nhưng bà Park vẫn ngồi một cách lịch sự để nói chuyện. Trong khi đó, Putin chỉ nói các vấn đề được chuẩn bị sẵn với mộtt tờ giấy trên bàn và đôi chân duỗi dài ra một cách thoải mái.
Tờ báo nhắc lại năm 2008, Tổng thống Lee Myung-bak đến thăm Nga và có cuộc hẹn gặp với Putin lúc 5 giờ chiều tại Nhà khách chính phủ ở Moscow, nhưng đến 6 giờ chiều Putin mới xuất hiện.
Kể về hành vi khó lường của Putin, tờ báo cho biết Putin đã từng tặng Thủ tướng Đức Angela Merkel món quà độc là một con chó đồ chơi khi bà đến thăm Moscow năm 2006, mặc dù ông ta biết rằng bà Merkel rất sợ chó. Chưa hết, trong cuộc họp tiếp theo vào mùa hè 2007 tại Sochi, ông ta mang theo một con chó cưng to lớn của mình thuộc giống chó săn Labrador đen. Nó đứng ngay bên cạnh chân bà Merkel, hít hít cái mũi làm cho bà vô cùng khó chịu.
(Tâm Sự Y Giáo)

Vũ Thư Hiên - Ba ngày ở thị trấn Cù Cưa

- Anh muốn hỏi chuyện Cù Cưa, hử? – hướng đôi mắt mờ đục và bất động về phía tôi, ông già ghé sát vào mặt tôi để nghe rõ câu hỏi

– Nhưng cụ thể là chuyện gì cơ?

- Dạ, chả là cháu phải viết một bài báo.

Ông già suy nghĩ.

- Anh là nhà báo hử?

- Vâng.

- Ầy à…, nhà báo… - cụ Cần im lặng một lát; rồi gãi đầu - Cái ấy thì… thế này: nói thật, tôi không rành. Anh hỏi uỷ ban, họ có trách nhiệm. Hay là… thế này vậy: anh tìm lão Trưởng Giám. Người ở đây lâu nhất là lão ấy. Tôi mới có ba chục năm. Kể như mới. Tôi chẳng biết bao nhiêu đâu.

Một cây bút nữ nổi tiếng trong nhóm Phá Cách giới thiệu ông ngoại của cô với tôi. Cổ nhân dạy: đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ, có người để hỏi là tuyệt rồi. Nhưng tôi không may - ông già mà tôi đặt nhiều hi vọng vào đấy lại tiếp tôi không nhiệt tình.

- Cháu nó quen anh thế nào?

Tôi vội trình bày. Cô cháu cụ thỉnh thoảng có thơ đăng trên tờ báo của chúng tôi. Quan hệ cộng tác viên với toà soạn, không hơn không kém.

Cụ Cần nghe, không tỏ thái độ. Nhưng cái sự không tỏ thái độ ấy là thái độ rõ ràng - cụ không hài lòng về sự giới thiệu của cô cháu gái. Tôi đoán cụ còn không hài lòng về hoạt động của chính cô cháu nữa kia. Nhóm Phá Cách của cô tên tuổi rùm beng vì sự hăng hái tấn công vào mọi loại bút pháp của các nhà văn nhà thơ quá cố và chưa quá cố mà họ cho là cổ hủ. Tôi thưa: nhóm này không dại, có thể nói là khôn nữa - họ biết tránh né những chỗ cần tránh né.

- Ông em biết mọi chuyện ở Cù Cưa – cô cháu cụ khoe - Ngồi một chỗ mà cụ thấy hết. Cấm cái gì lọt qua mắt cụ.

- Tính tôi không thích rắc rối. – cụ Cần thủng thẳng – Ở đây nhiều đứa thối mồm lắm. Mà ở đâu chẳng vậy, có phải không ạ? Phàm chuyện gì đưa lên báo là y như rằng thiên hạ nhao nhao bình phẩm. Phải không sao, chệch một cái là y như rằng lôi thôi, chờ được vạ thì má đã xưng, chẳng phải đầu cũng phải tai.

Tôi nhìn cụ, thông cảm. Cụ nói phải. Rặt những điều ông cha đã rút tỉa trong cách xử sự với đời. Đầu cụ lơ thơ mấy sợi tóc, tai cụ nghễnh ngãng, cả hai thứ đều mỏng manh, bất cứ va chạm nhỏ nào cũng gây ra hư hỏng.

- Nhưng cháu nó đã giới thiệu anh thì có việc gì cần đến tôi, anh cứ lại. Mà này, chớ ở khách sạn làm gì cho tốn tiền. Tối cứ về đây, có mình tôi thôi. – cụ lầu bầu - Vớ vẩn, ở cái chốn này làm gì có khách sạn, mỗn cái nhà trọ chết tiệt, cơ mà người ta cứ thích nói thánh nói tướng, cho nó sướng con ráy.

Ngày thứ nhất

Tìm cụ Trưởng Giám không khó. Đó là một túp lều ở đầu thị trấn, cách xa những ngôi nhà tân thời, bên một bãi rác. Người đầu tiên đặt nền móng cho cái thị trấn sầm uất đáp lời hỏi thăm của tôi bằng một tràng ho khan.

- Đẩy cửa mà vào.

Cánh cửa bằng nứa ken, méo xẹo, xệ xuống đất. Muốn vào trong nhà khách phải nâng nó lên bằng hai tay rồi đẩy mạnh về phía trước. Nó kêu kèn kẹt.

Một ông già thấp tè, lưng còng, xương xẩu, còn điếc hơn cả ông già chỉ đường cho tôi đến hỏi thăm nữa. Trong nhà không có bàn tay đàn bà, rõ ràng thế, tuềnh toàng, ngập ngụa. Có mùi mốc và mùi chuột chù.

Cụ Trưởng Giám ngồi chồm hổm trên giường, khoác chăn dạ, mặt quắt queo, sáng quắc một cặp mắt nhìn ra cửa, tức là chỗ có cái ô sáng méo mó hình chữ nhật:

– Nhà báo hử? Vào đây, vào đây. Đứa nào chỉ cho nhà anh đến tìm ta? Lại lão Cần, phải không?

- Dạ, phải.

- Lão ấy khôn như rận. Lão khôn từ lúc còn trẻ kia, càng già càng khôn, càng già càng nhát. Lão biết nhiều lắm đấy, còn nhiều hơn ta kia, nhưng không dám nói. Ta thì ta cóc sợ thằng nào con nào hết. Nhà báo cứ việc hỏi. Hỏi cái gì cũng được.

Tôi đứng giữa nhà, trình bày mục đích gặp cụ. Cù Cưa nổi tiếng, cần một phóng sự.

- Thế thì ngồi xuống đây đã, chuyện dài đấy. Nghe rồi ghi, này, đã ghi thì ghi cho đúng con mẹ nó vào đấy nhá.

- Dạ.

- Ghi đi, rằng ta, chính cái lão Trưởng Giám này này, nói thế đấy: chúng nó, tuốt tuột, rặt một lũ vô ơn.

Cụ không kể, cụ chửi.

- Chúng nó là ai, thưa cụ?

- Còn đứa nào vào đấy nữa – là cái bọn đang ngồi trên đầu trên cổ cái xóm này chứ ai.

Bằng ngón trỏ cong queo cụ Trưởng Giám chỉ ra ngoài cửa. Rồi vừa khò khè nguyền rủa vừa chỉ cho tôi chỗ để ấm nước vối, bảo tôi rót lấy mà uống. Nước nguội tanh trong giỏ.

- Ở đây, cụ là người khai sơn phá thạch, cụ Cần bảo thế…

- Thì còn đứa chó nào vào đấy nữa.

Cụ Trưởng Giám ưỡn bộ ngực lép kẹp trong dáng tự hào.

- Nhưng lão Cần không dám kể gì hết, đúng không nào? Thế đấy, ai hỏi chuyện Cù Cưa là lão đùn đẩy, lão sợ đụng chạm. Ta thì không. Trước ta cũng sợ. Giờ ta cóc sợ nữa.

Sổ tay đặt trên đùi, tôi ngồi trên chõng, bên cạnh cụ, hí hoáy ghi.

Cụ trưởng Giám chửi một hồi rồi thôi, cụ mệt. Tôi mường tượng cái xóm nhỏ đìu hiu nửa thế kỷ trước – cái xóm tí tẹo với dăm nóc tranh, gọi là xóm còn không đáng, đừng nói làng. Người đàn ông già ngồi bên tôi lúc ấy là một anh bộ đội, thời ấy người ta gọi là “đi làm cách mạng”. Duyên trời, cụ gặp cụ bà ở vùng này. Vất vả lắm họ mới cưới được nhau.
http://photos.wikimapia.org/p/00/02/31/65/76_full.jpeg

- Kỷ luật trong quân ngũ ngày ấy nghiêm lắm: luyến ái - cấm, hủ hoá – kỷ luật. Không như bây giờ.

- Tức là trước kia tốt hơn?

- Tốt chó gì mà tốt.

- Hai cụ vẫn cứ lấy nhau?

- Chứ sao.

Cụ không nói vì lẽ gì cụ không ở bộ đội nữa. Có thể đoán là cụ bị thương, có thể cụ bị sốt rét nặng không đủ sức ở lại đơn vị chiến đấu, hoặc cụ nại ra một cớ gì để không ra chiến trường nữa. Hoặc tệ hơn, cụ bị kỷ luật, bị đuổi khỏi quân ngũ vì “hủ hoá” với người sau này là cụ bà. Trong câu chuyện cụ lờ đi những chi tiết ấy, những chi tiết cũng rất đáng để biết, cho một truyện ngắn nhiều hơn cho một bài báo. Bù vào đó cụ dẫn tích bằng giọng hào hứng, với những chi tiết huyền thoại, chuyện cụ đã dựng nên nóc nhà đầu tiên ở đây như thế nào. Bây giờ cái chỗ cụ dựng túp lều đầu tiên đã là một thị trấn, được nhà nước thừa nhận, bằng văn bản hẳn hoi, được đăng trên công báo. Có đèn điện, có nước máy, có quan có dân, có trộm có đĩ, có xì ke ma tuý, có công an vận cảnh phục hoành tráng đi lại, có xe cảnh sát giao thông hú còi ầm ĩ, có sòng bạc nhởn nhơ, có đủ thứ, không là thị trấn còn là cái gì. Có hai xã gần, một ở trên đường, một trong rừng. Theo lệ thường, nó phải được gọi là Xóm Trại, xóm của dân ngụ cư, thuộc một trong hai xã kia.

- Tại sao nó lại có tên Cù Cưa, thưa cụ?

- Cái ấy có tích của nó. Nhẩn nha rồi ta kể.

Trên con đường xuyên sơn được Nhật làm trong đại chiến, hai bên toàn rừng với đồi tranh, bỗng chồi ra một rẻo đất bằng phẳng, sim mua lúp xúp. Nó lại ở sát giao lộ của con đường tạm, trải đá, với tỉnh lộ trải nhựa do Pháp xây dựng. Thoạt đầu, trên rẻo đất hoang mọc lên một quán nước tự giác. Chủ quán chính là cụ Trưởng Giám bây giờ.

- Tức thị, cụ sống bằng buôn bán?

- Xì, buôn bán gì. Tôi làm ruộng. Buôn bán thời ấy có mà chết. To bị cấm, nhỏ bị khinh, không như bây giờ.

Người già thường thế - lúc nào cũng so sánh ngày trước và bây giờ. Trong cách nói của họ cái ngày trước dù có tồi tàn đến mấy, dù họ có chê bai nó đến mấy, cũng vẫn là cái gì đó tốt hơn bây giờ.

Cụ Trưởng Giám làm ruộng, đốn gỗ. Cụ không cần coi cái quán. Gọi là quán chứ nó chỉ là một túp lều lợp lá chuối ở vệ đường. Cứ việc bày mấy món hàng lên cái chõng tre xộc xệch rồi muốn làm việc gì thì làm. Khách qua lại rẽ vào quán, tự nhiên ăn, tự nhiên uống, tính lấy tiền trả mà vào một ống nứa. Trên chõng vẻn vẹn vài nải chuối ngô, đĩa sắn luộc, đĩa lạc rang, chĩnh nước vối.... Giá các món hàng được viết nguệch ngoạc bằng mực tím trên giấy dó. Khách là dân lái xe đường dài, bộ đội đi công tác lẻ, chẳng ai thèm ăn quỵt.

Sau, thấy đất ấy làm ăn được người ta mới kéo đến, nhà nọ nối nhà kia thành xóm. Chiến tranh hết, sự buôn bán ven biên được khai thông, được mở rộng, dân cửu vạn đi lại rầm rập, quán trọ nhà hàng mới mọc lên như nấm sau mưa. Rồi có cả mấy tổ hợp làm măng xuất khẩu, máy rửa măng, máy đóng hộp xình xịch ngày đêm.

Tôi nhắc cụ quay về với sự tích cái tên lạ tai.

- Ờ, là thế vầy. Thoạt kỳ thuỷ, xóm này chẳng có tên có tuổi gì sất. Đến khi người đông dần, quán xá nhiều, đã có thể thu thuế, thì cái xã trên đường ở đàng kia kìa mới toan ghép nó vào địa giới của mình. Cái xã ở trong rừng không chịu. Hai bên giành nhau, huyện không biết phân xử thế nào, đùn cho tỉnh. Tỉnh cũng bối rối, nay quyết thế này, mai quyết thế khác. Có điều lạ là chẳng bên nào buồn hỏi ta muốn nhập vào đâu, ta có muốn nhập hay không. Ta đây là mấy nhà xóm này ấy. Nhập vào đâu làm gì? Cái xóm tự nó mọc ra, tự nó lớn lên, trên không chằng dưới không rễ, một mình một cõi, nó có thuộc về ai bao giờ.

- Xóm gần xã nào hơn, cụ?

- Bằng chằn chặn.

- Thế thì khó xử thật.

- Kiện lên kiện xuống, sư nói sư phải, vãi nói vãi hay, có lúc nó đã có tên đấy: xóm Tân Lập, xã Đông Phong…

- Tức là thuộc về cái xã bên đường cái?

- Không phải. Thuộc cái xã trong rừng.

- Tân Lập, cái tên nhàm, nhưng nghe cũng được. – tôi nói.

- Được cái con khỉ! - cụ Trưởng Giám gắt – Nó cho mình cái tên êm tai để nó giắt mình vào cạp quần. Hai xã tiếp tục kiện. Ta cũng đâm đơn lên trên, ta cóc muốn về với bên nào, ta muốn một mình một cõi. Lằng nhằng mãi. Mới có cái tên là Cù Cưa. Ta lúc bấy giờ là người đứng đầu ở đây. Ta, tức là cả xóm.

- Đã thành thị trấn rồi sao người ta vẫn gọi là Cù Cưa?

- Thị trấn Tân Sinh chỉ có trên giấy, người qua kẻ lại vưỡn cứ Cù Cưa mà gọi. Ông có thuốc đấy không?

Cụ chìa cho tôi cái điếu bát. Tôi không hút thuốc lào, tôi móc túi lấy bao Vinataba. Cụ đón bao thuốc, nhón một điếu, châm lửa, bỏ bao thuốc xuống chõng, bên đùi mình. Tôi mở xà cột, lấy bao khác.

- Bây giờ thị trấn có bao nhiêu dân, thưa cụ?

- Cái ấy ông phải hỏi Con Nặc Nô. Thời ta không có lệ đếm người. Trâu bò gà vịt thì có, người thì không. Cứ việc lấy nhau, cứ việc đẻ. Đất này tốt, đàn bà mắn.

- Con Nặc Nô là ai cơ, thưa cụ?

Cụ Trưởng Giám trề môi dưới trong câu trả lời không âm thanh.

Hoá ra Con Nặc Nô không phải một con mẹ ba vạ nào đó, mà là bà chủ tịch thị trấn. Tôi không biết từ nguyên của Con Nặc Nô là gì, nhưng chắc chắn nó có nghĩa không đẹp. Người ta dùng nó để chỉ người đàn bà chanh chua, chỏng lỏn, hùng hổ, lắm điều, đanh đá, và nhiều tính xấu khác nữa. Không phải mình cụ Trưởng Giám gọi người đứng đầu thị trấn bằng cái tên như thế, sau tôi mới biết. Cụ Trưởng Giám nói to, còn dân thị trấn nói nhỏ. Sự đời là vậy, chẳng có gì lạ, không ưa thì dưa có giòi. Nhất là đối với những bậc chức sắc của bất cứ chính quyền nào. Họ bao giờ cũng là mục tiêu của sự soi mói, và tất nhiên, của sự đàm tiếu.

Con Nặc Nô không còn trẻ, nhưng cũng chưa đến nỗi già. Sắc đẹp thường thường bậc trung. Có thể chê đôi lưỡng quyền cao, làn da không được mịn màng, không được trắng trẻo, tuy cũng không thể gọi là thiết bì. Hàm răng hơi hô, với những cái răng to, không đều.

- Chào nhà báo. – nàng tươi cười đón tôi trong trụ sở uỷ ban, trong phòng làm việc của nàng – Em vẫn thường đọc báo anh đấy. Báo của anh uỷ ban em không đặt mua, nhưng tiếng tăm lắm.

Khi nàng cười trông nàng tươi tắn. Tôi chỉ có thể gọi nàng là “nàng”. Bởi vì khi giao tiếp nàng không những không có vẻ đáng ghét như cái tên thiên hạ đặt, mà về khía cạnh nào đó phải nhận rằng nàng dễ thương, thậm chí còn chút duyên dáng. Trong cử chỉ. Trong cách phục sức. Nàng có giọng nói ngọt ngào, thánh thót. Mà không chỉ giọng nói, cái cách nàng nói cũng quyến rũ. Khi nàng cười, tôi bất giác bật cười theo. Nghe nàng nói véo von tôi quên cả ghi chép, để nàng phải giục:

- Ơ kìa, anh không ghi thì rồi quên mất cái chi tiết ấy đấy. Nó thú vị lắm.

Tôi ghi. Nàng ngọt ngào:

- Gặp anh vui thật. Này, em cũng là đồng nghiệp với anh đấy, anh biết không?

- Thế ư?

Tôi cũng vui với nàng. Con Nặc Nô mở ngăn kéo lấy ra một tập hồ sơ, đưa cho tôi. Thì ra không phải hồ sơ, mà là một tập thơ. Thì ra nàng cũng là nhà thơ. Thơ đăng báo tỉnh, nhưng cũng là thơ được in, với những vần thơ có xuống hàng hẳn hoi, không giống thơ liền tù tì một câu dài nửa trang của nhóm Phá Cách là thứ thơ tôi kính trọng nhưng không đọc.

- Anh thấy thế nào?

Nàng đặt tay lên tay tôi. Da nàng mát rượi.

Tôi đọc. Thơ của nàng là thứ thơ củ khoai, thơ cổ động, thường lạc vận, đôi chỗ leo thang, nhưng dễ hiểu. Nó bốc thơm, nó kêu gọi, nó ra lệnh. Thứ thơ này thường được các bậc chèo lái quốc gia ưa thích, vừa dễ làm, vừa na ná như thơ, để có thể gọi là thơ.

- Cũng được đấy.

- Được là thế nào? – nàng nguýt tôi - Chỉ có hay trở lên thôi.
Tôi lập tức đồng ý với nàng.

Chúng tôi thân nhau ngay. Sau cuộc gặp gỡ đáng ngán với một ông già nhát gan và một ông già ba gai, nàng là luồng gió mát.

Con Nặc Nô kéo tôi đi thăm thị trấn. Ở đâu nàng cũng được trọng vọng. Từ trong cửa hàng người ta chào nàng bằng nụ cười tươi, nói những lời có cánh. Mấy anh công an nhác thấy nàng là xin gặp riêng một phút để báo cáo những vụ việc khó xử.

- Thị trấn là một nước nhỏ. – nàng nói – Đủ thứ công việc: tài chính, thương mại, an ninh, ngoại giao, ngoại thương, nội chính…. Vất vả lắm. Như con mọn ấy.

Nàng chưa có chồng. Chắc chắn nàng chưa biết trông con mọn là thế nào.

Bữa trưa nàng dẫn tôi đi ăn phở chua, một món ăn lạ miệng tôi chưa hề nếm qua, một cái gì đó ở giữa bát “thắng cố” của miền núi với phở xào, nhưng có rưới nước dưa.

Buổi tối, chúng tôi ăn đặc sản, “ở cửa hàng này có đủ mọi thứ thịt rừng mà thủ đô không có, rồi anh thấy”, nàng nói. Tôi được ăn thịt nhím nướng ròn, trăn om nghệ, bìm bịp xào nấm.

- Tuyệt thật.

Nàng đưa tay quệt mép. Nàng ăn say sưa.

- Người Tàu cũng thường sang đây ăn. Họ đặt mua thú rừng với số lượng lớn. Nhờ thế mà thợ săn kiếm được, thương lái giàu lên.

- Thế chuyện bảo vệ động vật quý hiếm thì sao?

- Thì cứ bắt, cứ bán cái đã. Ngày mai là chuyện của trời.
Nàng cười ngặt nghẽo.

- Kinh tế thị trường mà. Anh uống đi.

Tôi uống. Rượu Mai Quế Lộ. Nặng mà êm.

Khuya, nàng dẫn tôi về nhà nàng, tiếp tục kể chuyện Cù Cưa. Trong nhà nàng cũng sẵn rượu. Nàng mở chai Mao Đài thết tôi. Thứ Mao Đài trong bình sứ, bọc nhiễu đỏ. nghe nói phải đặt mua tận Bắc Kinh mới có. Quý lắm.

Tôi lên giường nàng lúc nào không hay. Chuyện này hiếm giữa hai người mới quen nhau. Nhưng rượu làm cho tôi mất khả năng ngạc nhiên. Tôi chỉ thấy một cơn vui dâng lên, tràn ngập. Trên giường nàng không hiền dịu, mà là một con hổ cái. Mồ hôi đầm đìa, tôi anh dũng vật lộn với con hổ. Cho đến khi nàng vắt kiệt tôi, biến tôi thành cọng dọc mùng mềm nhũn trong bát canh bung, tôi mới được thả ra.

Chúng tôi nằm bên nhau, thở rốc.

- Bây giờ thì anh về. – nàng đứng lên, ráo hoảnh – Anh ở khách sạn hử?

Tôi hiểu. Nàng không để tôi ở lại. Không thể. Hoặc không muốn. Nàng là người đứng đầu thị trấn. Một thứ lãnh tụ. Mà lãnh tụ thì phải đạo đức. Không tì vết.

- Anh cầm lấy cái đèn pin mà về.

Nàng nói, với một chút ân cần.

Đèn pin trong tay, tôi lảo đảo bước ra đêm đen. Ngôi nhà hai tầng của nàng là một khối sáng trong bóng tối. Dưới chân nó, sau nhà, là một con suối. Tôi không nhìn thấy nó, nhưng nghe tiếng nước chảy rì rầm. Một ngôi nhà to. Trong đó có một con hổ cái.

Thị trấn im lìm trong đêm. Cuối cùng rồi tôi cũng lần mò tìm được khách sạn. Hình như nó là cái duy nhất. Đúng như lời cụ Cần, một cái nhà trọ, với những căn phòng trống và những chiếc giường trải chiếu ẩm ướt. Tôi vừa đặt mình xuống thì những con rệp hung hãn đã ào ào xông tới.

Ngày thứ hai

Tôi đến nhà cụ Cần khi còn tối đất. Tôi tin chắc người già dậy sớm. Quả nhiên cụ Cần đã ở ngoài vườn, đang dọn cỏ mấy luống rau. Cụ ngạc nhiên:

- Tối qua sao anh không về? Ngủ đâu?

- Cháu ngủ khách sạn.

Cụ đưa bàn tay khum khum lên vành tai.

- Ai đưa anh đến đấy?

Tôi lúng túng:

- Cháu tự tìm.

Cụ nhìn vào mặt tôi:

- Rệp cắn không ngủ được, phải không?

Tôi tránh cái nhìn soi mói của cụ.

- Vâng.

Cụ Cần mỉm cười.

- Anh đã gặp Con Nặc Nô?

- Dạ, đã.

- Vào nhà uống nước.

Tôi theo cụ vào nhà.

Khác cụ Trưởng Giám, cụ Cần tuy cũng không còn cụ bà, con cái đều ở xa, nhưng nhà cửa ngăn nắp, vườn tược gọn gàng. Chúng tôi uống trà. Trà búp. Cái ấm chu sa đối ẩm, hai cái chén, cái nào cũng sạch bong.

- Lão Trưởng Giám chê tôi nhát, phải không?

Tôi uống thật chậm để chọn chữ:

- Cụ là người biết nhìn trước ngó sau, cụ Trưởng nói thế.

Cụ Cần cười:

- Anh cứ nói toạc ra là lão bảo tôi sợ. Chẳng phải mình tôi, cả xóm này thế cả. Thoạt kỳ thuỷ, dân chưa đông thì khác, người nọ bảo người kia, mọi người trông nhau mà ăn ở sao cho phải đạo. Sau, mỗi ngày mỗi đổi, tôn ti trật tự đâu ra đó, không sợ cũng không được. Chẳng hiểu có phải vì đông dân thêm mà sinh ra thế không? Ý tôi muốn nói: trước kia chưa có dân, chỉ có xóm giềng với nhau thì dễ, chứ có dân rồi thì ắt phải có quan, có quan rồi phải có lính, phải trình báo, phải xin xỏ, phải vi thiềng, tôn ti trật tự là thế…

Tôi không hiểu cụ khen hay cụ chê. Giọng cụ đều đều.

- Nhưng còn bầu bán thì sao?

- Có chứ, có cả. Bầu là cho có cái tiếng thế thôi, ở đâu chả vậy, chứ người ta sắp đặt trước cả rồi, dân chúng tôi chỉ còn có việc nhất trí giơ tay.

Có lẽ cụ Cần đã nghĩ lại. Cụ vẫn ý tứ, tránh những chữ mạnh, nhưng tôi hiểu cụ muốn nói gì.

- Cháu dạo qua một ngày, thấy buôn bán tấp nập, phố xá đông vui… Thị trấn phát triển, tương lai lắm. Cô chủ tịch thân đưa cháu đi tham quan mấy cơ sở sản xuất, thương nghiệp, dịch vụ…

Cụ Cần nhếch mép. Mấy cái răng cửa hàm trên không còn, cái nhếch mép của cụ không ra cười mỉa, không ra mếu.

- Tin Con Nặc Nô có mà đổ thóc giống ra mà ăn.

- Cháu thấy cô ấy có vẻ tích cực lắm.

- Anh là người qua đường, làm sao biết được. Chính chúng tôi cũng còn nhầm nữa là. Con Nặc Nô là đứa mồ côi, chính chúng tôi nuôi nó từ tấm bé. Gọi là con mồ côi cũng là gọi thế thôi, do quen miệng, chứ không đúng, nó là đứa con hoang, không cha không mẹ. Chính cô con dâu lão Trưởng Giám nhặt được nó ở đầu ngõ, bọc trong mớ giẻ. Không biết đứa trốn chúa lộn chồng nào nỡ vứt đứa con rứt ruột đẻ ra như thế? Nó lớn lên, cả xóm này đùm bọc nó. Mới nghĩ rằng tre già măng mọc, nay nó trưởng thành, nó là người đứng đầu ở đây thì dân được nhờ, ăn cây nào rào cây ấy. Hoá không phải. Ăn cây táo nó rào cây soan đâu.

- Tức là cô ấy được bầu làm chủ tịch hẳn hoi?

- Bầu chứ. Chúng tôi tin nó. Như tôi vừa nói ấy. Chúng tôi đâu có biết trước rồi ra nó thành Con Nặc Nô. Mà ai có thể biết trước được cơ chứ? - cụ thở dài đánh sượt - Lúc bé nó ngoan lắm. Ai thấy nó cũng yêu.

Cụ ngậm ngùi uống trà.

- Con này mà nói thì khéo vô cùng. Nó nói kiến trong lỗ phải bò ra… Phàm cái gì từ miệng nó phát ra đều hay cả, cứ gọi là ngọt như mía lùi. Nhưng khốn nạn, hay thật đấy, cơ mà chỉ hay cho nó, chứ không hay cho mình… Anh thấy dân chúng tôi có vẻ phởn phơ là anh mới thấy cái bề ngoài. Tiếng ta hay lắm. Anh có hiểu tại sao có hai chữ “dân gian” không? Phàm đã có quan thì dân phải gian mới sống được. Không gian chỉ có chết. Ấy là nói riêng với anh. Chớ viết lên báo.

Cô cháu gái của cụ hẳn được hưởng gien di truyền của ông ngoại. Trong nhóm Phá Cách cô là người cẩn thận nhất trong chữ nghĩa.

- Tôi nói thế đã là hơi nhiều rồi. Nói để anh biết, biết rồi thì để bụng. Báo nào cũng thế, có cái gì là bất khả xâm phạm đâu. Lạng quạng chết tươi có ngày.

Cụ rủ rỉ, giọng tin cậy. Tôi rất muốn mà không dám giở sổ tay ra ghi. Tôi vốn không tin cậy trí nhớ của mình. Sang tuần trà thứ hai, cụ bảo:

- Anh về đây được Con Nặc Nô dẫn đi tham quan, dẫn đi chiêu đãi, tốt thôi. Nhưng phải coi chừng, chớ có hứa gì hết. Nó chiều anh là có ý của nó. Có khi anh còn được nó tặng quà cũng nên…

Tôi giật mình.

- Nó cho chẳng lẽ không lấy, hì hì… - không nhận thấy phản ứng của tôi, cụ nhẩn nha tiếp tục - Lấy rồi thì há miệng mắc quai.

- Thì sao?

- Anh mà không viết bài ca tụng nó, tức là ca tụng cái thị trấn Tân Sinh này này, không phải cái thị trấn trước mặt anh đâu, mà là cái thị trấn dưới-sự-lãnh-đạo-của-nó, thì anh sẽ thành kẻ thù của nó, có dịp là nó xơi tái anh tắp lự, hì hì… Anh phải biết: nó quan hệ rộng lắm. Nó với tới anh chẳng khó gì.

Tôi nhớ đến cái giường nhà nàng, nhớ những giọt mồ hôi của tôi nhỏ xuống đệm, nhớ hơi thở nóng rẫy, tiếng rên rỉ, cái miệng xinh xinh mở to với dãy răng cửa không đều nhe ra trắng nhởn trong cơn cực khoái. Sống lưng tôi ớn lạnh.

- Đã có chuyện xảy ra rồi đấy. Cháu tôi nó có giới thiệu một ông nhà văn về đây, ông biết nhà văn Ngô Toản chứ?

- Cụ ấy nổi tiếng, ai mà không biết.

- Vậy, ông cụ chừng nghe thiên hạ đồn đại về Con Nặc Nô, có ý muốn gặp mặt nó, chẳng hiểu cụ có ý định viết chuyện nó hay chỉ vì tò mò. Chính tôi dẫn ông cụ tới gặp nó. Lại cũng chính cháu tôi viết thư giới thiệu, như nó giới thiệu anh. Cho nên tôi mới ngại. Con Nặc Nô tiếp ông cụ nồng nhiệt lắm, tặng ông cụ cả một xấp những bài người ta viết về nó, cả những bài nó viết nữa, chung quy cũng chỉ là những bài nó viết về nó thôi. Nó cũng dẫn ông cụ đi tham quan các cơ sở, như dẫn anh ấy, cũng chiêu đãi ông cụ, như chiêu đãi anh ấy, cũng dẫn ông ấy về nhà…

Tôi toát mồ hôi.

- Sau, mãi chẳng thấy ông cụ viết bài ca ngợi nó, thế là nó tương lên báo, báo tỉnh thôi, không phải báo Trung ương, chắc anh không đọc nên không biết. Nó chê ông ấy hết lời, bịa chuyện ông cụ xin yết kiến nó mấy lần, năn nỉ mãi nó mới tiếp, nó kể nó thay mặt dân chúng tiếp đãi, tặng quà ông ấy những gì, như thế nào, vậy mà ông cụ chẳng viết một dòng về thị trấn như ông cụ hứa, như dân chúng mong mỏi…

Không, “Con Nặc Nô” sẽ không thể nói đến món quà mà nàng cho tôi đêm qua, cho dù tôi không viết dòng nào về cái thị trấn rắc rối này.

Từ biệt cụ Cần, tôi đi tìm Con Nặc Nô. Tôi nghĩ đến công việc phải làm, nhờ nó tôi được vào biên chế nhà nước, tôi không nghĩ đến nàng. Người ta chỉ tôi đến nhà trẻ của thị trấn. Đó là một ngôi nhà quét vôi hồng, nằm ở giữa phố chính. Trong đầu tôi ong ong những lời hai ông già nói về nàng. Tôi không tin những gì họ nói là sự thật. Không phải lần đầu tôi gặp thói ghen ăn tức ở nơi những người kém may mắn trong đời. Tôi tin nàng hơn. Nàng dễ thương đấy chứ. Với tôi, nàng hồn nhiên, nàng thực thà.

Đứng trước nhà trẻ, tôi còn đang ngập ngừng không biết nên gõ cửa hay tìm nút chuông bấm thì nghe bên trong có tiếng quát tháo. Rồi cánh cửa mở tung, một cô gái lao ra, đâm sầm vào tôi. Mặt cô đỏ bừng, nhoè nhoẹt nước mắt.

Tôi ngó vào.

- Vào đây, vào đây anh! – thấy tôi, nàng vồn vã – Giới thiệu với anh, mấy em nuôi dạy trẻ điển hình tiên tiến ở thị trấn chúng em. Còn anh đây là đồng chí nhà báo ở trung ương về lấy tài liệu.

Mấy cô nuôi dạy trẻ lí nhí đứng trước mặt nàng ấp úng chào tôi. Mặt họ nhợt nhạt, sợ hãi, nặng chịch, mắt ướt long lanh. Đủ vẻ. Không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Điều rõ ràng là họ không phải người quát tháo.

Nàng dẫn tôi ra sân. Đàn trẻ ăn cháo sáng. Thấy nàng chúng đồng loạt ngừng ăn: “Chúng cháu chào cô ạ!”.

- Các cháu ăn có no không? – nàng véo von.

- Thưa cô có ạ! – lũ trẻ đồng thanh kêu lên.

- Cháo có ngon không?

- Thưa cô có ạ!

Chúng không chào tôi. Chúng không nhìn đến tôi. Chúng không thấy tôi. Tôi chẳng là cái gì. Chúng đã được huấn luyện. Chúng chào các cô, các chức vụ, không chào khách.

Nàng sà vào lũ trẻ, ẵm một đứa lên, thơm đánh chụt. Nàng chìa nó cho tôi.

- Anh xem, con bé có xinh không?

Tôi chưa kịp đón lấy nó thì con bé đã giãy ra khỏi tay nàng, tụt xuống đất, chạy lại chỗ cô giáo đang cầm thìa. Nó không cần ai khen. Nó cần cháo.

Nàng nháy mắt với tôi:

- Nhà trẻ này là niềm tự hào của thị trấn đấy. Đã có nhiều báo viết về nó.

- Thế thì tốt, các báo đã viết rồi thì anh chẳng cần phải viết nữa.

- Viết chứ. Thêm một bài nữa càng hay. Nhất là bài của anh.

Nàng vuốt ve lòng tự ái của tôi. Nhưng tôi không cảm động. Tôi biết nàng chưa từng đọc tôi.

- Để em đưa anh một báo cáo về nhà trẻ. Coi như anh đã đến, đã quan sát, đã phỏng vấn. Cứ dựa theo báo cáo mà viết là xong.

- Anh cần báo cáo về mọi mặt. Không phải chỉ nhà trẻ.

- Tham thế! Để em lệnh cho cậu thư ký chuẩn bị cho anh. Bây giờ ta tiếp tục tham quan thực địa những gì nhà báo muốn biết nhá.

Chúng tôi đi dọc phố chính. Nàng than thở:

- Tất bật cả ngày không hết việc, anh thấy đấy. Mấy con nuôi dạy trẻ anh vừa gặp ấy là một lũ mất dạy.

- Em vừa nói họ là điển hình tiên tiến cơ mà.

- Thì phải đôn chúng nó lên mà đoạt cờ luân lưu của tỉnh chứ. – mặt nàng ửng đỏ – Nhưng tức không chịu được. Bảo một đàng, chúng nó làm một nẻo. Chỉ được cái giỏi đòi hỏi.

- Họ đòi hỏi gì vậy?

- Chúng nó đòi may quần áo mới cho lũ trẻ con. Anh chưa nhìn thấy lũ trẻ mặc quần áo đẹp đâu. Mẫu do em vẽ. Tuyệt cú mèo. Nhà trẻ Hoa Hồng trên Hà Nội chẳng ăn đứt. Nhưng quần áo đẹp ấy là để dành cho ngày lễ ngày hội thôi, để chưng ra thôi. Giết ai ra tiền mà ngày nào cũng cho lũ trẻ diện bảnh? Mấy con quái ấy láo lắm, chúng nó bảo ảnh chụp nhà trẻ đã được đưa lên báo rồi, mọi người đọc báo đã tưởng là thế rồi, thì phải đồng loạt cho lũ trẻ mặc hàng ngày, kẻo mang tiếng bịp bợm.

- Họ có lý đấy chứ.

- Lý cái nỗi gì, em hỏi anh? Anh tưởng người ta không biết mình bịp à? Người ta biết quá đi chứ. Ở chỗ người ta, người ta cũng làm y như vậy. Báo của anh cũng thế. Anh đưa lên báo những mặt tích cực của đời sống hay đưa mặt tiêu cực? Ở trên muốn thế, ở dưới cũng muốn thế. Không phải bịp mà là tuyên truyền. Tuyên truyền thì phải có mục đích. Tuyên truyền cho nhau, tức thị động viên nhau, thì có gì xấu? Khi tỉnh muốn thị trấn mình khoe thành tích nuôi con khoẻ dạy con ngoan với phái đoàn tỉnh bạn đến tham quan, nói ví thử như thế, thì mình phải làm sao cho tỉnh vừa lòng, phải cho lũ trẻ mặc quần áo đẹp, bữa ăn phải ngon…

Lập luận của nàng khó mà cãi lại. Vừa lý giải vừa biện bạch, rất thấu tình đạt lý. Nếu sự lừa dối được tiến hành trong sự đồng thuận của kẻ bịp bợm với người bị bịp bợm thì sự lừa dối lẫn nhau còn có nghĩa gì. Nó trở thành một trò chơi với những luật lệ được cả hai bên tham gia thừa nhận. Vậy thì cứ chơi đi, chơi cho hăng vào, nó vô hại.

Nàng giật tay áo tôi:

- Anh nghĩ cái gì thế? Anh không đồng ý à? Cũng có lúc bọn em phải để bọn trẻ ăn mặc khác, lam lũ, nhem nhuốc. Ấy là khi có phái đoàn quốc tế đến xem để họ giúp mình lập dự án xoá đói giảm nghèo. Lúc ấy mà cho trẻ con diện bảnh thì có mà ăn cám.

Nàng cười khanh khách:

- Thị trấn là một nước nhỏ mà anh. Nó có chính trị của nó.

Nhìn thấy một đám đông tụ họp ở đàng xa, nàng chau mày:

- Cái gì thế kia không biết? Anh chờ em ở uỷ ban nhé! Em sẽ đưa anh đi ăn.

Tôi sẽ đi ăn một mình. Tôi không thích ăn không của người khác. Tôi biết nàng không trả tiền hai bữa ăn hôm trước. Tôi có hai con mắt sau gáy để biết rằng hai ông chủ đều không hài lòng về việc buộc lòng phải thết đãi một thằng cha căng chú kiết nào đó là khách của uỷ ban, và họ có trách nhiệm không được tính tiền.

Tôi không về uỷ ban trước. Tôi đứng lại chờ nàng. Từ xa, tôi thấy nàng đến trước đám đông. Quanh nàng là mấy người hoa chân múa tay sừng sộ và những người đi theo những người ấy. Có vẻ họ phản đối cái gì đó, thỉnh cầu cái gì đó. Những người sừng sộ phản đối, những người đi theo thỉnh cầu. Người thỉnh cầu bao giờ cũng đông hơn người phản đối.

Nàng quay lại chỗ tôi đứng.

- Anh đợi em à?

Đi sát nàng, nhưng sau một bước là hai anh công an. Tôi nghe nàng dặn:

- Làm một báo cáo ngay về vụ này. Không thể để chúng nó phản đối có tổ chức như vậy được. Nguy lắm. Phải có bàn tay địch khuấy động chúng nó mới dám thế.

- Đúng vậy – một anh công an đứng tuổi nói - Để yên không được, chúng nó là thế, được đằng chân lân đằng đầu.

- Nhớ lập ngay hồ sơ mấy thằng cầm đầu. Phải dằn mặt chúng nó, bằng cách nào tốt nhất thì làm.

- Rõ, thưa đồng chí. – anh công an trẻ nói.

Trên đường về uỷ ban nàng giải thích:

- Chúng nó chống lại mức thuế do nhà nước quy định, chống luôn phần phụ thu của thị trấn. Anh thấy em có vất vả không?

- Vất thật.

- Không phải lúc nào chúng nó cũng dám chống đâu. Chống hàng ngày thế có mà chết. Chẳng qua chúng nó thấy dân tỉnh bên kéo đàn kéo lũ kêu ca thuế nông nghiệp cao quá, đòi kiện vụ đất đai bị giải toả đền bù không thích đáng, mấy ông ở trên về thanh tra trót dại hứa hươu hứa vượn rằng sẽ giải quyết, thế là dân bên này chúng nó bắt chước. Cái hoạ này là hoạ dây chuyền. Phải kiên quyết bóp chết ngay lập tức, từ trong trứng.

Con Nặc Nô có đầy đủ tư chất một chính trị gia, tôi nghĩ. Nàng còn đi xa. Nàng biết cai trị. Nàng biết trấn áp.

Đêm ấy, tôi ở lại nhà nàng. Tôi không đủ sức kháng cự bất cứ mệnh lệnh nào của nàng. Mặc dầu lòng đã dặn lòng là thôi, không đi ăn với nàng nữa, ăn như thế là ăn bám, bởi vì có nàng đến ăn là người ta không lấy tiền, mà không lấy tiền thì họ tiếc, tôi biết chắc như thế, nhưng tôi vẫn ngoan ngoãn đi theo nàng để khen món chân gấu hầm rượu bách thảo là tuyệt diệu, dê rừng nướng vỉ là không chê vào đâu được…

Chúng tôi lại nằm với nhau trên cái giường quen thuộc. Đêm ở vùng thượng du lạnh. Trong chăn ấm tôi ôm tấm thân nóng hổi của nàng vào lòng. Nàng quặp chặt lấy tôi. Chúng tôi lại vật lộn. Trong cơn mê, tôi rên lên:

- Em yêu của anh! Em tuyệt vời của anh.

Nàng cũng rên cùng với tôi, nhưng không nói gì lúc ấy. Nàng không đuổi tôi về như đêm trước. Nhưng tang tảng sáng, nàng đánh thức tôi dậy:

- Bây giờ anh phải đi. Nhớ rẽ vào con đường nhỏ bên tay phải ấy, chỗ không có nhà cửa gì hết.

Nàng pha trà cho tôi uống, chờ tôi tỉnh ngủ.

- Lúc chúng mình gần nhau, anh nói cái gì ấy nhỉ?

- Anh gọi em: em yêu của anh!

Nàng nhìn vào mắt tôi, cái nhìn lạnh lẽo:

- Đừng bao giờ gọi như thế nhá! Em là em, mà anh là anh, chẳng ai là của ai hết. Quên nhanh đi nhá!

- Gọi thế thì có sao? Chúng mình đã là của nhau mà…

- Một lúc thôi. Một giây lát. – nàng đứng lên - Một cuộc trao đổi sòng phẳng của hai đồng minh giai đoạn. Thế là đủ, đồng chí ạ.

Bước ra cửa, tôi toan ôm lấy nàng lần nữa thì nàng gạt phắt tôi ra.

Ngày thứ ba

Tai hoạ nào cũng đến một cách bất ngờ.

Trời đổ mưa to. Hôm sau, tôi đội vải mưa lướt thướt ôm chồng tài liệu mà cậu thư ký uỷ ban trao cho, chạy về nhà cụ Cần. Tôi kiếm một chỗ ngồi không bị dột, đọc chăm chú, ghi chép cẩn thận, biết rằng những báo cáo có chữ ký của nàng là cái nằm trong trò chơi đã được các bên tham gia đồng thuận. Muốn hay không, tôi cũng là người tham gia trò chơi, tôi cũng phải tuân thủ luật chơi. Ông chủ nhiệm của tôi là người nghiêm khắc, ông ấy không tha thứ nếu tôi vi phạm cái luật bất thành văn nọ của cả hệ thống.

Nhưng cụ Cần lại không chịu nghĩ như thế. Cụ là người đứng đắn. Cụ không thích tham gia trò chơi. Tôi hiểu ra điều đó khi cụ bỏ đi cả ngày sau khi đã nấu cơm cho tôi ăn trưa một mình để buổi chiều trở về với cụ Trưởng Giám. Tôi ngỡ ngàng. Tôi cứ tưởng hai người không ưa nhau. Tôi nhầm, không ưa thì không ưa, họ cùng đứng chung một chỗ trong cuộc vật lộn với Con Nặc Nô.

Hai cụ trao cho tôi một tập giấy.

- Đây là đơn của dân chúng tôi tố cáo những sai phạm của chính quyền thị trấn. Chúng tôi nhờ anh chuyển tận tay cấp trên. Dân chúng tôi oan ức nhiều lắm, mà không biết kêu vào đâu. Anh thấy làm thế nào là tốt thì làm giùm. Trước nay chúng tôi gửi đơn đi thì nó bao giờ cũng quay lại chỗ cũ, chính những người chúng tôi kiện lại nhận được để xử lý chúng tôi. Chán mớ đời.

Chúng tôi có một bữa tiệc chia tay do cụ Cần thu xếp để chia tay tôi. Trong tiếng mưa rơi sầm sập, trong ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn dầu, ba người lẳng lặng ăn bữa tiệc có cá kho mặn với dưa khoai nước. Tôi buồn. Tôi không biết nói gì với hai cụ. Khác với trò chơi của Con Nặc Nô và đồng bọn, hai cụ, và tất nhiên, những người dân cùng với hai cụ, cũng có trò chơi của họ. Tôi đang chơi trò chơi kia, làm sao cùng lúc chơi trò này?

Tôi miễn cưỡng nhận sự uỷ thác của họ. Tôi chưa biết rồi mình sẽ phải làm thế nào với tập đơn từ này. Tôi đã giở qua để biết trong đó có gì. Hệt như mình được xem bản âm một tấm hình mà mình quen nhìn bản dương. Tôi tự nhủ sẽ cố tìm ai đó là người sẽ xem xét những lá đơn này bằng con mắt khác. Việc này lành ít dữ nhiều. Nhưng tôi sẽ tìm. Có điều không tin sẽ gặp được những người can đảm dám rời bỏ trò chơi mà họ đang chơi.

Bữa tiệc kéo dài tới khuya. Cụ Trưởng Giám quyết định ngủ lại nhà cụ Cần. Cụ cũng có một mình, ngủ đâu chẳng được.

Chúng tôi đang mải chuyện thì trong tiếng mưa có tiếng ầm ì từ xa vọng lại. Như tiếng cối xay thóc. Như tiếng sấm rền. Chưa biết là cái gì thì nó đã biến thành một tiếng ồn kinh thiên động địa.

Cụ Cần không nghe thấy, nhưng nhìn nét mặt hốt hoảng của cụ Trưởng Giám thì cụ hiểu có cái gì đó bất thường đang xảy ra.

- Cái gì vậy, cái gì vậy? - cụ đứng phắt lên.

- Nguyên xem nào. – cụ Trưởng Giám thần mặt ra, lắng nghe – Thôi chết rồi, vỡ đập, các ông ơi!

- Xóm mình ở đất cao, có vỡ đập cũng không sao đâu, đừng lo. - cụ Cần nói.

Cụ nói ở thượng nguồn có một cái đập ngăn nước cho hồ chứa phục vụ dự án thuỷ điện, tạm thời dùng để nuôi cá. Con Nặc Nô có phần hùn với các quan đầu tỉnh trong công trình này. Vụ đắp đập làm cho nhiều làng ở dưới nguồn bất bình. Người ta nói thế nào rồi cũng có ngày đập bị phá.

- Nhà Con Nặc Nô ở ngay bên bờ suối. - cụ Trưởng Giám bỗng cuống quýt – Nước cuốn băng nhà nó mất.

Cả hai cụ xăng xái đập nứa, châm lửa. Cả hai, mỗi người một bó, đội mưa đi phăng phăng về hướng con suối. Trong cơn hốt hoảng hai cụ không nhớ đến tôi. Tôi lẽo đẽo theo họ. Không thể hình dung được hai con người vừa mới hết lời nguyền rủa Con Nặc Nô, giờ lại hớt hải đi cứu nàng.

Nhà cụ Cần ở trên chỗ đất cao nhất của thị trấn. Chúng tôi ra khỏi nhà thì đã thấy có rất nhiều đuốc đi về cùng một hướng. Nước mưa rơi và đuốc xèo xèo.

- Tôi đã bảo con bé: không được làm nhà gần suối như thế, nó không thèm nghe tôi.

Cụ Trưởng Giám cằn nhằn, cụ đi lật đật, chốc chốc lại vấp phải những mô đất.

- Ai mà bảo được nó. Nó cứ tưởng nó là giỏi, nó là nhất. Bây giờ thì biết thân nhá! - cụ Cần nói.

- Lạy trời cho nó tai qua nạn khỏi. - cụ Trưởng Giám thì thầm.

- Cái nhà thì chắc chắn sập rồi. - cụ Cần nói - Nước đổ về mạnh như thế, đến lô cốt cũng phải bung. Không biết nó có chạy kịp không?

- Chạy mà không kịp thì chắc chết quá.

Khi chúng tôi đến được gần nhà nàng thì quanh đấy đã có cả một rừng đuốc nhấp nhô. Mưa đã ngớt.

Ngoài nhà nàng ở bên suối, không nhà nào làm ở chỗ nguy hiểm ấy cả. Dân cả thị trấn túm tụm ở mé nước. Con suối nhỏ bé đã trở thành dòng sông hung hãn. Trên mặt nước nhấp nhô những gốc cây bật rễ.

Người ta ồn ào:

- Nhà sập hẳn rồi. Nhưng chưa bị trôi hẳn. Có ai dám ra đó xem còn người không?

- Ai dám ra bây giờ? Nhìn kìa, nước cuồn cuộn thế kia.

- Có ai mang theo thừng không? Buộc vào mình mà bơi ra đấy xem.

- Thừng có đây, cơ mà ngắn lắm.

Nói thì nói chứ chẳng ai dám ra. Trong ánh đuốc bập bùng tôi nhìn thấy một mảng tường trăng trắng. Mái nhà đã rơi xuống nước, không còn dấu tích. Nhưng cái mảng tường kia thì không nhúc nhích, nước không đủ sức cuốn nó đi, hoặc nó còn bám được vào nền bởi một cái cột có cốt thép. Có lẽ đó là mảng tường phòng ngủ, nơi tôi đã qua đêm.

- Kia, ở chỗ cái cây đổ có cái gì như hình người kia kìa.

- Đâu? Đâu?

- Kia đấy thây.

- Cái áo chứ người đâu mà người.

- Không phải cái áo, người thật. Không nhìn thấy tóc vật vờ kia à?
Đám đông chú mục nhìn rồi đồng loạt kêu lên.

- Đúng! Đúng người thật rồi.

- Chỗ ấy thì ra được đấy. Có ai chịu ra không?

- May chăng người còn sống.

Một người đàn ông lực lưỡng chẳng nói chẳng rằng quăng bó đuốc xuống đất, buộc sợi thừng quanh bụng, lao ra. Thấy thừng ngắn, những chàng trai nắm lấy tay nhau làm thành một chuỗi người cho sợi thừng dài thêm.

- Cô chủ tịch! – người đàn ông kêu lên.

Người đàn ông chống chọi với dòng nước để gỡ thân người mắc vào cây. Lục đục một lát mới gỡ người ấy ra được, ông ta bơi ngược lại với sự giúp sức của những cánh tay nối dài.

- Liệu còn sống không? – mọi người hỏi vọng ra.

- Không biết nữa. – người đàn ông đáp - Lạnh ngắt rồi.

- Nhanh lên. Có khi còn kịp.

Nàng được đưa lên bờ. Đưa tay gần mũi thấy không còn thở. Người đàn ông vác nàng lên vai chạy mấy vòng rồi đặt xuống. Không thấy ộc nước ra. Những bó đuốc quây lại làm thành một vòng lửa sưởi ấm cho nàng. Nhưng những phút dài vô tận trôi qua. Nàng không tỉnh lại.

- Xong rồi.

- Vô phương.

Nàng nằm đấy, lạnh giá và hững hờ. Giống như lúc nàng bảo tôi:

- Em là em, mà anh là anh, chẳng ai là của ai hết. Quên nhanh đi nhá!

- Hức! Hức!

Bên cạnh tôi cụ Trưởng Giám bật khóc. Tiếng nức nở của cụ lan nhanh trong đám đông. Những người đàn bà khóc theo cụ. Những người đàn ông mím môi, không nói gì, mặt lầm lì.

Một người nào đó tiến đến bên nàng, lấy cái khăn tay phủ lên mặt nàng. Tôi thấy cay cay nơi sống mũi. Thế là vĩnh viễn tôi không còn thấy mặt nàng nữa, gương mặt lúc nồng nàn lúc lạnh nhạt, như một dấu hỏi cho câu trả lời không bao giờ có.

Cụ Cần ôm lấy cụ Trưởng Giám dìu đi:

- Thôi cụ, nó đã chết rồi, có khóc có thương cũng vô ích. Chúng ta đã có lúc yêu mến nó lắm chứ, có phải lúc nào cũng ghét bỏ nó đâu.

Hai ông già bá vào vai nhau mà đi. Tôi cầm bó đuốc đi sau, giơ cao cho hai cụ thấy đường. Tôi nghe cụ Trưởng Giám nói với cụ Cần trong tiếng nức nở:

- Tôi khóc là vì tôi đã không kịp làm một việc cho cháu.

- Việc gì cơ? Hả cụ? Việc gì?

Cụ Trưởng Giám lặng đi một lát.

Rồi nói:

- Tôi chưa kịp nói với nó rằng nhà văn Ngô Toản chính là cha đẻ của nó. Cụ ấy cũng sau chuyến đi về đây mới biết. Cụ ấy cậy tôi nói cho nó biết. Không kịp rồi.

Vũ Thư Hiên 
 
Theo FB Vũ Thư Hiên

Sự thật đau đớn sau một bức ảnh lịch sử

Tại sao đa phần người Mỹ đã sẵn sàng thừa nhận bức “Em bé Napalm”, mà lại không thể làm điều tương tự với bức “Cô gái áo cánh đen”...
Một bức hình do BagNews - một trang mạng chuyên về “đọc tin bằng ảnh” mới công bố gần đây đã gây nhiều cảm xúc chấn động với độc giả, khi lần đầu tiên họ được tiếp cận một sự thật về thời khắc kinh hoàng nhất của cuộc thảm sát tại Mỹ Lai (Quảng Ngãi) vào tháng 3/1968. Bức hình do nhiếp ảnh gia Ronald Haeberle chụp đã đặc tả nỗi sợ hãi của những thường dân vô tội trước tội ác man rợ của lính Mỹ.
Nhưng câu chuyện không dừng ở đó.
Hãy nhìn vào bức ảnh “Black Blouse Girl” (tạm dịch: Cô gái áo cánh đen) - tại sao cô gái đứng ở góc bên phải này lại khá bình thản nhìn xuống và cài cúc áo trong khi những người bên cạnh đang hoảng sợ trước cái chết? Lý do giờ mới được tiết lộ: Đó là vì trước khi những người dân vô tội này bị giết, trước khi nhà nhiếp ảnh kịp bấm máy, thì cô gái kia đã bị một lính Mỹ cưỡng hiếp!
Dù vụ xâm phạm tình dục này đã được lưu lại trong các tài liệu điều tra về vụ thảm sát Mỹ Lai, thì các phương tiện truyền thông Mỹ đã “bỏ sót” nó trong nhiều năm và công chúng thì chẳng biết được sự thật. Khi được công bố, ngay lập tức nó trở thành một kiến thức lịch sử mới với nhiều người. Nhà báo Greg Mitchell của tờ "The Nation" (Mỹ) chia sẻ trên blog cá nhân: Tôi đã đi qua cả vụ thảm sát này, viết về nó, phản đối nó, nhưng tôi đã không biết được câu chuyện đầy đủ cho mãi đến tuần này".
Tại sao một câu chuyện như vậy lại bị ém nhẹm đi một thời gian dài? Tại sao đa phần người Mỹ đã sẵn sàng thừa nhận bức “Em bé Napalm”, mà lại không thể làm điều tương tự với bức “Cô gái áo cánh đen”... Đó là một trong rất nhiều câu hỏi mở được đăng trên BagNews. Bình luận của các độc giả có thể giải thích phần nào đó cho sự chậm trễ này. Đó có thể là do các bài báo thường có ý tránh và dẹp sang một bên các cuộc cưỡng hiếp, xâm hại tình dục khi viết về các cuộc chiến. Những người mới lần đầu nhìn thấy ai cũng bùng lên sự phản kháng về một tội ác ghê sợ - và đó cũng là lý do mà người ta sợ phải công bố nó sớm? Một độc giả chia sẻ: Nhìn và đọc những dòng chia sẻ gây ra cho tôi cảm giác bị hủy hoại ghê rợn. Nó đưa lại nỗi sợ hãi tột cùng về vụ thảm sát Mỹ Lai cũng như cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam.
Theo BÁO TIN TỨC
(Red VN)
 

Chuyện rồi cũng phải nói

Phải nắm vững câu chuyện này độc giả mới hiểu được một cách dễ dàng tại sao năm 1945, 7 nhân viên tình báo Mỹ đã nhảy xuống Pác Bó để huấn luyện quân sự cho Võ Nguyên Giáp và toán của ông ta.
 
hochiminh45

Ngày 4/10/2013, tướng Võ Nguyên Giáp qua đời, hưởng thọ 103 tuổi, các cơ quan truyền thông trong cũng như ngoài nước, Việt ngữ cũng như ngoại ngữ, đã bàn khá nhiều về những bí ẩn của cuộc đời ông và đánh giá vai trò ông trong cuộc chiến Việt Nam. Nhưng có một bí ẩn rất quan trọng lại không được ai nói đến, đó là chuyện năm 1945 Võ Nguyên Giáp và toán của ông đã được các nhân viên tình báo Hoa Kỳ huấn luyện về quân sự ở Pác Bó, Cao Bằng, và được trang bị võ khí để chống Nhật. Nhưng vừa huấn luyện và trang bị xong thì Nhật đầu hàng Đồng Minh, Việt Minh đem toán võ trang này về Hà Nội cướp chính quyền!

Các nhân chứng lịch sử

Câu chuyện Mỹ huấn luyện Võ Nguyên Giáp và toán của ông đã được Archimedes L. A. Patti, người phụ trách tình báo Mỹ lúc đó ở vùng Côn Minh, Trung Quốc, tường thuật đầy đủ trong cuốn “Why Viet Nam ? Prelude To America’s Albatross”. Và mới đây, ngày 18/4/2013, khi Henry Prunier, một trong những người thuộc toán huấn luyện viên của Mỹ lúc đó, được gọi là “Deer Team” (Đội Con Nai), qua đời hưởng thọ 91 tuổi, tờ New York Times và nhiều cơ quan truyền thông khác của Mỹ đã đăng lại những lời tiết lộ của ông về những chuyện ông đã làm ở Pác Bó năm 1945, kể cả việc dạy cho Võ Nguyên Giáp ném lựu đạn.

Ngày 8/11/2013, Đài RFA đã phỏng vấn ông Nguyễn Mộng Long, người thực hiện cuốn phim “Một cơ hội bị bỏ lỡ” vừa được giải Bông sen vàng về thể loại phim tài liệu tại Việt Nam vào tháng 10/2013 vừa qua. Cuốn phim kể lại chuyện năm 1945, biệt đội Con Nai gồm 7 binh sĩ Mỹ nhảy dù xuống Việt Bắc huấn luyện lực lượng Việt Minh chống Nhật theo sự tường thuật của người lính cuối cùng là ông Henry Prunier. Chúng tôi chưa xem nên không biết phim có dám nói lên sự thật hay không.

Đọc ba cuốn “Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam”, chúng ta thấy đảng này luôn hô rất to họ đã đánh thắng một lúc ba đế quốc đầu xỏ là Nhật, Pháp và Mỹ. Nhưng trong thực tế họ chưa bao giờ đánh Nhật. Họ mới được Mỹ huấn luyện để quậy phá Nhật xong thì Nhật đã đầu hàng Đồng Minh. Nhưng họ phải hô to như thế để che đậy tư cách lính đánh thuê của họ.

Đầu đuôi câu chuyện

Câu chuyện huấn luyện đã được Archimedes L. A. Patti và Henry Prunier tường thuật lại khá rõ ràng. Nhưng để hiểu rõ việc gì đã xảy ra, trong bài này, chúng tôi thấy cần nhắc lại câu chuyện năm 1944 Hồ Chí Minh tình nguyện làm lính đánh thuê cho Mỹ đã được chúng tôi trình bày trong cuốn “Những bí ẩn lịch sử đàng sau cuộc chiến Việt Nam” xuất bản năm 1998 (đã hết), nhưng rất nhiều người vẫn chưa biết. Phải nắm vững câu chuyện này độc giả mới hiểu được một cách dễ dàng tại sao năm 1945, 7 nhân viên tình báo Mỹ đã nhảy xuống Pác Bó để huấn luyện quân sự cho Võ Nguyên Giáp và toán của ông ta.

Đại úy Archimedes L.A. Patti, trưởng phòng hành quân của OSS đặt tại Côn Minh, nói rằng lúc đầu ông có ý sử dụng tất cả các đảng phái chính trị của Việt Nam càng nhiều càng tốt, nhưng về sau ông thấy hai đảng Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng không đáng tin cậy. Đại Việt là đảng thân Nhật và hoạt động cho tình báo Nhật, còn Việt Nam Quốc Dân Đảng tổ chức theo kiểu Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Ông có sử dụng một vài người của Việt Nam Quốc Dân Đảng, nhưng thấy rằng những người này vừa cung cấp tin tức cho Hoa Kỳ, vừa cung cấp cho Trung Hoa và Pháp. Cuối cùng, ông nhận thấy Việt Minh là nhóm duy nhất có thực lực có thể giúp Đồng Minh đánh Nhật. [Archimedes L.A. Patti, “Why Viet Nam ? Prelude To America’s Albatross”, 1980, tr. 504-530].

Lúc đó, theo yêu cầu của chính phủ Trung Hoa, các lãnh tụ đảng phái của Việt Nam ở Trung Quốc đã đồng ý thành lập một tổ chức chung lấy tên là “Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội” (gọi tắt là Việt Cách), nhưng các đảng phái Việt Nam không ngồi lại với nhau được vì tranh chấp về quyền hành (giống như ở hải ngoại hiện nay). Do đó, chính phủ Trung Hoa đã quyết định dùng Hồ Chí Minh.

Giữa tháng 9 năm 1943 tướng Trương Phát Khuê, Đại Diện Đệ Tứ Chiến Khu của Trung Quốc, ra lệnh thả Hồ Chí Minh. Lúc đó Hồ Chí Minh đã bị giam hơn một năm vì hoạt động cho cộng sản. Hồ Chí Minh đến ở ngay trong hội quán của Việt Cách và kiếm một cái ghế bố đặt trong một góc để nằm. Ông ít muốn nói chuyện với ai và từ chối nói về lý lịch của mình.

Theo yêu cầu của chính phủ Trung Hoa, Việt Cách đã tổ chức một hội nghị tại Liễu Châu vào ngày 19/3/1944 để thành lập một tổ chức đưa trở về Việt Nam hoạt động chống Nhật. Các yếu nhân trong Việt Cách đều không muốn xung phong trở về. Do sự sắp xếp trước của tướng Trương Phát Khuê, Hồ Chí Minh liền giơ tay xung phong.

Ông được cấp giấy giới thiệu của tướng Trương Phát Khuê và của Việt Cách, một bản đồ quân sự, một số tiền đi đường và 20 cán bộ do ông lựa chọn. Ông đã chọn 18 cán bộ sau đây : Dương Văn Lộc, Vi Văn Tôn, Hoàng Kim Liên, Phạm Văn Minh, Hoàng Văn Trao, Nông Văn Mưu, Hoàng Sĩ Vinh, Trương Hữu Chí, Hoàng Gia Tiên, Lê Nguyên, Nông Kim Thành, Hoàng Nhân, Hoàng Thanh Thủy, Hà Hiến Minh, Dương Văn Lễ, Đổ Trọng Viên, Lê Văn Tiến và Đỗ Thị Lạc. Đa số thuộc Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội và đảng viên Đảng Cộng Sản Đông Dương. Đỗ Thị Lạc về sau có một đứa con với Hồ Chí Minh và đã bị thủ tiêu.

Trước khi lên đường, Hồ Chí Minh xin thêm 1.000 khẩu súng, 6 súng cộng đồng, 4.000 trái lựu đạn, 50.000 quốc tệ, 25.900 tiền Đông Dương và 15.000 viên thuốc quinine. Nhưng ông chỉ được cấp một súng lục tùy thân, thuốc quinine và 76.000 quốc tệ với lời hứa khi các đơn vị chiến đấu được thành lập, Mỹ sẽ huấn luyện và cung cấp vũ khí. Hồ Chí Minh đã làm lễ tuyên thệ trung thành với Việt Cách và giúp hai chính phủ Trung Hoa và Hoa Kỳ thiết lập hệ thống tình báo tại Việt Nam. [xem Hồi ký của Trương Phát Khuê, Tuần báo Liên Hợp Tạp Chí, Hồng Kông, 1962].

Tháng 7 năm 1944, Hồ Chí Minh đem nhóm cán bộ được tuyển chọn về Việt Nam. Khi đến Bắc Giang, có hai cán bộ bị giết vì không chịu theo Đảng Cộng Sản. Hồ Chí Minh chia ra hai đoàn, một đoàn do Đặng Văn Ý cầm đầu và một đoàn do chính Hồ Chí Minh. Đặng Văn Ý là một cựu trung úy của quận đội Pháp, đi về đến Lạng Sơn lập chiến khu chống Pháp, còn Hồ Chí Minh với sự phụ tá của Vũ Nam Long (sau gọi là tướng Nam Long) tiến về Cao Bằng và lập căn cứ địa ở Pắc Bó. Ông ra lệnh cho hai tỉnh ủy Cao Bằng và Lạng Sơn hoãn lại cuộc khởi nghĩa tại hai tỉnh này như đã dự tính, vì tình hình chưa thuận tiện.

Đầu tháng 12, ông bàn với Võ Nguyên Giáp thành lập một đội võ trang, nhưng không cho biết đội này sẽ được Mỹ huấn luyện và trang bị. Võ Nguyên Giáp đề nghị lấy tên là Đội Việt Nam Giải Phóng Quân. Ông thấy cái tên này hơi quá lộ liễu, đọc lên thì biết đó là một tổ chức quân đội ngay, nên thêm hai chữ “tuyên truyền” vào cho nhẹ đi và gọi là “Đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân”. Đội do Hoàng Sâm làm đội trưởng, Xích Thắng làm chính trị viên. Võ Nguyên Giáp được coi là tổng chỉ huy. Đội ra mắt ngày 22/12/1944 tại châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng.

Ngày 15/5/1945, sau buổi lễ thống nhất các lực lượng tại Định Biên Thượng, Định Hóa, Thái Nguyên, Võ Nguyên Giáp được cử làm tư lệnh các lực lượng vũ trang thống nhất, mang tên “Việt Nam Giải Phóng Quân”. Đây là tổ chức đầu tiên của Quân Đội Nhân Dân, được Mỹ huấn luyện và trang bị.

Sau khi cướp được chính quyền ngày 19/8/1945, “Việt Nam Giải Phóng Quân” được đổi thành “Vệ Quốc Đoàn” và thường được gọi là Vệ Quốc Quân. Năm 1950, sau khi được Trung Quốc huấn luyện và trang bị cho Việt Minh để thành lập các Đại Đoàn (Sư Đoàn), Vệ Quốc Đoàn được đổi thành Quân Đội Nhân Dân.

Toán “Deer Team” đến Việt Nam

Theo Patti, ngày 16/7/1945, một toán biệt kích (commando) hỗn hợp Mỹ-Pháp gọi là “Deer Team” (Biệt đội Con Nai), gồm 6 người đã nhảy xuống Kim Lung cách phía đông Tuyên Quang khoảng 20 dặm, vì nơi đây đã được bộ phận Không Quân Yểm Trợ Dưới Đất (Air Ground Aid Section) của Trung Quốc soạn bải sẵn. Sáu người gồm có 3 người Mỹ là thiếu tá Allison Thomas, trung úy William Zeilski và Paul Hoagland (y tá), một người Pháp là trung úy Montfort và hai người Việt Nam được gọi là trung Sĩ Logos và trung sĩ Phác.

Tuy nhiên, sau khi thảo luận với Hồ Chí Minh, thiếu tá Allison Thomas báo cáo rằng Hồ không chấp nhận trung úy Montfort người Pháp. Ông ta nói Montfort không thể ở đây và họ cũng không đón nhận bất cứ người Pháp nào nữa. Ít lâu sau, trung sĩ Phác lại bị Việt Minh phát hiện là một trung úy thành viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng thân Trung Quốc. Cả hai người này bị Việt Minh quản chế cho đến khi trả lại.

Toán Deer Team đã được điều chỉnh lại và bổ túc gồm 7 người Mỹ có tên sau đây : Allison Thomas, Henry Prunier, Paul Hoagland (y tá), Lawrence Vogt, Aaron Squires và Kneeling. Trước khi đưa qua Việt Nam, họ được gởi đến Đại học Berkeley ở California học tiếng Việt. Đa số đều nói tiếng Pháp thông thạo. Sau đó họ được gởi qua Thượng Hải để huấn luyện về cách thức sinh hoạt trong chiến khu ở Việt Nam và những công việc phải làm.

Họ chỉ hoạt động tại Việt Nam trong khoảng một tháng, từ 16 tháng 7 đến 16 tháng 8 năm 1945 thì ngưng lại vì có tin Nhật đã đầu hàng. Trong thời gian đó Deer Team đã huấn luyện cho Võ Nguyên Giáp và toán của ông những gì, và đã cung cấp cho Việt Minh những vũ khí nào, đó là chuyện chúng tôi sẽ nói trong một bài khác.

Lữ Giang (14/11/2013)
  (Thông luận)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét