Nhà kinh tế Amartyr Sen. |
(TBKTSG)
- Đa số người ngoài ngành (và cả nhiều người trong ngành) thường nghĩ
đến kinh tế như một khoa học giúp hoạch định những chính sách để quản
lý, để phát triển, để tăng trưởng, để bình ổn. Những người có thiên kiến
này sẽ ngạc nhiên khi đọc Amartya Sen, nhà kinh tế gốc Ấn Độ, người
được trao tặng giải Nobel Kinh tế năm 1998. Ông là người châu Á đầu tiên
được Nobel về ngành này.
Tuy
đã đến tuyệt đỉnh danh vọng, Sen được ngưỡng mộ không chỉ vì những phần
thưởng cao quý, nhưng còn vì kiến thức đa diện và quảng bác của ông, và
vì lương tri của ông đối với những vấn đề xã hội, không những của quê
hương ông mà còn của cả những quốc gia đang phát triển. Được trọng vọng
trong xã hội trí thức cao nhất ở phương Tây (ông giảng dạy ở Cambridge
từ năm 1971, và cũng có nhiều năm ở Harvard), Sen không bao giờ ngưng ưu
tư về phúc lợi của những người bần cùng. Là một nhà kinh tế với kỹ năng
toán logic vào hạng thượng thừa, ông cũng thấm nhuần triết học, Tây lẫn
Đông. Là người có những đóng góp nền tảng cho kinh tế học hiện đại, Sen
cũng hoài nghi về nhiều mặt của thứ kinh tế học này.
Từ
nhỏ, Sen đã chứng kiến cũng như trải nghiệm những tai họa khó tưởng
tượng. Năm 1943, khi Sen vừa lên mười, Bengal (quê ông, một tỉnh vùng
Đông Bắc Ấn Độ, nơi có mật độ dân số thuộc hạng cao nhất thế giới) bị
một nạn đói khủng khiếp. Năm 19 tuổi, ông bị ung thư vòm miệng, và đã
điều trị bằng xạ trị (rất thô sơ lúc ấy ở Ấn Độ) vô cùng đau đớn. (Hậu
quả giai đoạn xạ trị này vẫn còn đến ngày nay: xương Sen bị dễ gãy, răng
cỏ của ông đều hư). Như Sen kể lại sau này, chính sự đau đớn ấy đã cho
ông mối đồng cảm sâu xa với những người cùng khổ. Ung thư làm ông cảm
thấy bị ô nhiễm, loại ra ngoài xã hội, bất lực. Trước khi bị bệnh, những
gì ông chứng kiến chung quanh đã làm ông kinh hoàng, nhưng dù sao vẫn
là xảy ra cho “kẻ khác”. Chính ung thư của ông đã khiến Sen đồng cảm
trọn đời với những người thấp cổ bé miệng, bị thiếu thốn, bệnh tật, đớn
đau.
Nhưng
cũng nhờ vượt qua được cơn bệnh hiểm nghèo ấy mà Sen đặt cho mình những
mục tiêu mới. Trở lại trường, ông là một sinh viên ưu tú hàng đầu, đoạt
tất cả mọi giải thưởng cao quý nhất, và được học bổng sang Đại học
Cambridge danh giá tột bực nước Anh.
Những
năm đầu trong sự nghiệp, vào thập kỷ 1960, Sen chuyên về kinh tế học
phát triển và có nhiều đóng góp đáng kể vào tiến trình công nghiệp hóa
của Ấn Độ. Quyển sách đầu tay của Sen (Sự chọn lựa kỹ thuật, 1960) chỉ
trích thể chế kế hoạch của Ấn Độ lúc ấy. Ông nhấn mạnh rằng có những
định luật kinh tế bất biến mà mọi quốc gia đều phải tuân theo. Không kế
hoạch nào, dù khôn khéo đến đâu, có thể đi ngược những định luật ấy.
Nhưng
sau đó thì Sen bắt đầu suy nghĩ về những vấn để căn bản hơn. Khi tìm
hiểu về nạn đói ở Bengal (mà số người chết có thể đến 4 triệu), ông khám
phá một điều bất ngờ: Nạn đói ấy không phải vì mùa màng thất bát như
vẫn tưởng nhưng vì chế độ chuyên chế lúc ấy! Đúng là người ta chết vì
không có thực phẩm, nhưng họ không có thực phẩm chẳng phải vì cả nước
không đủ thực phẩm cho mọi người, nhưng vì họ thất nghiệp, không có tiền
mua (thêm vào đó là tình trạng lạm phát). Điều hệ trọng nhất là họ
không có cách gì kêu ca được vì không ai đại diện cho họ, mà báo chí
cũng thiếu tự do, do đó nhà nước không bị một áp lực nào để lo cho những
người cùng khổ, thấp cổ bé miệng, ấy. Sen kiểm chứng giả thuyết của
mình tìm hiểu nguyên nhân nạn đói ở những nước khác, nhất là ở châu Phi,
thì hầu hết cũng là vì xã hội thiếu dân chủ: thực phẩm không thiếu cho
toàn xã hội, nhưng chính sự phân bố bất bình đẳng đã khiến hàng triệu
người chết đói.
Sen
là một trong những kinh tế gia tiên phong chỉ trích quan niệm phổ thông
là có thể dùng GDP đầu người để đo lường phúc lợi xã hội. Sen viện dẫn
những lý luận triết học từ Aristotle cổ xưa, qua Hayek, và Rawls hiện
đại để khẳng định rằng thước đo của một “xã hội tốt” là tự do, chứ không
phải là sự thịnh vượng vật chất. Chính xác hơn, sự phồn vinh vật chất
chỉ là điều đáng mong muốn như một phương tiện thực hiện tự do cho con
người (căn bản nhất là tự do khỏi đói khát, bệnh tật). Sen khẳng định:
tự do vừa là mục tiêu tối hậu, vừa là cứu cánh để phát triển kinh tế.
Theo ông, những mục tiêu mà các nhà kinh tế thường cho là tối hậu: tăng
trưởng kinh tế, tiến bộ công nghệ, ngay cả hiện đại hóa, phải được đánh
giá bởi mức độ đóng góp của chúng vào tự do của con người.
Từ
đầu thập niên 1970, Sen quay sang một hướng nghiên cứu mới, về lý
thuyết phúc lợi xã hội, một ngành trong kinh tế học cực kỳ trừu tượng và
lý thuyết. Chính trong lĩnh vực này mà Sen để lại dấu ấn khó phai.
Đặc
điểm của lý thuyết tổng quát về phúc lợi xã hội của Sen là sự kết hợp
quan tâm truyền thống của kinh tế học đối với mức sống vật chất và quan
tâm truyền thống của triết học đối với tự do cá nhân và sự công bằng.
Nên
nhắc lại rằng vào hai thập kỷ 1930-1940, những người theo chủ nghĩa tự
do (libertarian) ở phương Tây thường quan ngại rằng phương Tây sẽ bỏ
những cam kết theo đuổi chủ nghĩa tự do chính trị để theo đuổi an toàn
kinh tế. Kế thừa truyền thống này, Sen lo ngại rằng, ở thế hệ tiếp theo,
Ấn Độ và các nước đang phát triển đã hy sinh dân chủ để có được tăng
trưởng kinh tế. Từ những nhận xét ấy, Sen đặt ra câu hỏi thật căn bản:
Làm sao để giải quyết những xung khắc giữa những hành động xã hội
(social action), chẳng hạn như để phát triển kinh tế, và giá trị cá nhân
(individual rights) mà những người theo chủ nghĩa tự do cho là độc tôn.
Sen
nêu ra ba câu hỏi. Thứ nhất, chọn lựa của một xã hội có phản ảnh sự
chọn lựa của những cá nhân trong xã hội ấy không? Thứ hai, quyền tự do
cá nhân có thể dung hòa với phúc lợi kinh tế không? Và thứ ba, lấy gì để
làm thước đo mức độ công bằng của một xã hội? Đây là những câu hỏi cực
kỳ “hóc búa” chứ không dễ như nhiều người tưởng, nhất là khi lời giải
đáp phải thỏa mãn một số định đề logic tối thiểu.
Vào
đầu những năm 1960, khi Sen đi tìm giải đáp cho những câu hỏi ấy thì có
hai luồng tư tưởng, dù khác nhau nhưng đều cho rằng sự xung khắc ấy
không thể dung hòa được. Một trường phái, mà lãnh tụ là nhà kinh tế
Friedrich Hayek, thì cho rằng không thể tin vào nhà nước, vì nhà nước sẽ
bị một nhóm chuyên viên khuynh đảo, áp đặt ý muốn của họ lên ý muốn của
những cá nhân khác trong xã hội. Bằng cách thay thế ý muốn của cá nhân
bằng ý muốn của xã hội (như xác định bởi những chuyên viên này), nhà
nước tước đoạt sự tự do cá nhân.
Luồng
tư tưởng thứ hai đến từ một người khá bất ngờ, qua tác phẩm cực kỳ thời
thượng của nhà kinh tế Kenneth Arrow (qua tác phẩm kinh điển “Chọn lựa
xã hội và giá trị cá nhân”). Dùng những mệnh đề logic chặt chẽ, Arrow
chứng minh (“định luật Arrow”) rằng không thể có một hệ thống bỏ phiếu
nào có thể đưa đến một chọn lựa dân chủ. Viện dẫn “định luật Arrow”,
nhiều người đã cho rằng đó là một lý do của chế độ độc tài.
Vì
logic của Arrow không thể kiểm chứng bằng thực nghiệm, Sen phản biện
Arrow trên chính đất chơi của Arrow: hoàn toàn trên phạm trù logic. Sen
vạch ra rằng một trong những tiền đề của Arrow - rằng không thể so sánh
phúc lợi của người này với người kia - là thiếu căn bản và không cần
thiết, và nếu loại bỏ tiền đề này thì “định luật không thể” của Arrow
trở thành “có thể”, nghĩa là qua bỏ phiếu, có thể tổng hợp những giá trị
cá nhân thành một quyết định duy nhất của cộng đồng. Nói khác đi, có
cách bỏ phiếu để đưa đến những quyết định được sự đồng thuận của toàn xã
hội. Khám phá này của Sen đã mở đường cho những nhà kinh tế lý thuyết
tìm kiếm những cách để thẩm định phúc lợi của con người tương thích với
quyết định cộng đồng. Một trong những ứng dụng của nó là tìm cách đo
lường sự nghèo khổ của con người trong xã hội.
Chính
nhờ Sen mà các nhà kinh tế trở nên dè dặt hơn khi đánh đồng phúc lợi
với GDP. Theo Sen, GDP không phản ảnh “cơ hội” kinh tế của con người, và
chính số lượng cơ hội đó là đóng góp rất nhiều vào hạnh phúc của cá
nhân, không kém gì số lượng của cải vật chất hiện có.
Nhiều
học giả (như Eric Maskin, Nobel 2007) cho rằng tự do cá nhân và phúc
lợi đôi khi xung khắc: muốn thêm cái này thì phải bớt cái kia. Sen bác
bỏ ý kiến này. Theo ông, tự do là một cách để bảo vệ phúc lợi. Quyền
được đọc bất cứ gì mà anh muốn (thay vì bị người khác bảo anh phải đọc
cái gì), chẳng hạn, thường nâng cao thu nhập.
Chỉ
trích chủ nghĩa vị lợi (utilitarianism) Sen lập luận rằng không thể lấy
(tốc độ) tăng trưởng kinh tế để thẩm định lợi ích bởi nó không cho thấy
những người thật sự thiếu thốn đang sung sướng hoặc khổ sở ra sao. Và
cách đo dụng ích (utility) căn cứ trên sự ưa chuộng hiện tại của mỗi cá
nhân cũng có thể đưa đến nhiều sai lầm vì người ta hay thích ứng nguyện
vọng của mình tùy vào hoàn cảnh hiện có (chẳng hạn như một người nghèo
có những ưa chuộng khác người giàu vì họ biết họ nghèo...).
Tuy
coi trọng vấn đề dân chủ và tự do, Sen cũng nhìn nhận rằng phát triển
kinh tế là một đòi hỏi cấp bách (và ông buồn rầu nhìn nhận rằng Ấn Độ đã
thua kém Trung Quốc về mặt này). Cụ thể, vì coi trọng cả phát triển và
dân chủ, Sen (và những nhà kinh tế tâm đắc với ông) tìm cách làm sao để
phát triển mà không hy sinh dân chủ (như đang xảy ra ở nhiều nước). Sen
cho rằng sự đánh đổi ấy (muốn thêm cái này thì phải bớt cái kia) là
không thể chấp nhận được, bởi lẽ, theo ông, cả hai đều có giá trị tự
tại.
Trong
nhiều thập kỷ, tiếp cận của Sen đã bị chỉ trích bởi phe tả lẫn phe hữu.
Vào những năm 1950, 1960, khi mà kế hoạch hóa kiểu Liên Xô là thời
thượng trong giới kinh tế cánh tả thì Sen bị xem là người “phản đạo”.
Nhưng sang những năm 1980, 1990 khi mà chủ nghĩa thị trường tự do (của
phe hữu) lên ngôi thì chính chủ khảo giải Nobel đã tiên đoán: “Sen sẽ
không bao giờ được Nobel”. Sen nhận Nobel năm 1998.
Chứng
kiến sự sụp đổ của chính sách kế hoạch hóa kiểu Xô Viết cũ, Sen không
còn tin là phát triển kinh tế cần đến ngoại viện, hoặc cần bảo hộ thương
mại. Ông tin nhiều hơn vào vai trò của nội lực trong phát triển. Ông cổ
vũ mở cửa cho thương mại và đầu tư nước ngoài, nhưng đồng thời nhà nước
cũng phải trợ giúp thành phần có thu nhập thấp, nhất là về giáo dục, y
tế và dinh dưỡng.
Trong
quyển sách mới đây nhất của Sen (Ý niệm công lý, 2009), ông suy nghĩ
thấu đáo về những khó khăn trong định nghĩa của “công lý” (theo Rawls,
chẳng hạn, thì “công lý là công bằng”), và ông đưa ra định nghĩa của
ông. Bàng bạc trong những lý luận logic của Sen là một tấm lòng luôn
hướng về những người bần cùng, cô thế... Cũng như lúc trước ông đã dùng
chính logic của Arrow để bác bỏ “định lý Arrow”, trong cuốn sách mới ra
này Sen dùng chính tiếp cận triết học của Rawls để vạch ra những hạn chế
của quan niệm về công lý mà Rawls khẳng định.
Ở
Sen, ta thấy một trí thức (và Sen là một trí thức trong nghĩa tốt đẹp
và chính xác nhất của danh hiệu này) mà cuộc sống bị tác động bởi con
người, ông rất gần gũi với những âu lo căn bản nhất của con người (có gì
căn bản hơn nhu cầu cơm ăn, áo mặc?), và ông tiếp cận vấn đề với cường
độ trí thức cực kỳ trung thực và siêu việt. Sen là một “trí thức công”
(public intellectual) đúng nghĩa, với những suy nghĩ cặn kẽ về nhiều vấn
đề, ở nhiều lĩnh vực - từ kinh tế, xã hội, triết học, đến những tranh
chấp chủng tộc, hạt nhân.
Nhiều
người cho rằng Sen không phải là một nhà kinh tế “thường”, theo nghĩa
là ông không tham gia vào những tranh luận về chính sách kinh tế, thậm
chí khó nói là ông thuộc trường phái “tiền tệ” hoặc môn đồ của Keynes
(tôi đoán là Keynes). Nhiều người khác chỉ trích Sen là ông ôm đồm quá
nhiều: từ nạn đói đến nạn phụ nữ chết sớm, đến vấn đã đa văn hóa và sự
lan tràn vũ khí hạt nhân. Những chỉ trích này cũng có phần đúng. Nhưng
kinh tế học cần những người như Amartya Sen. Dù, hiển nhiên, ông không
phải là nhà kinh tế duy nhất quan tâm đến số phận những người nghèo, cô
thế... nhưng ông hơn hẳn những người khác ở chiều sâu suy nghĩ.
Robert
Solow, một “trưởng lão” trong làng kinh tế đương đại (và cũng đã được
Nobel) đã gọi Amartya Sen là “lương tâm của kinh tế”. Đó không chỉ là
vinh dự cho Sen nhưng có lẽ, hơn nữa, là vinh dự cho mọi nhà kinh tế.
-- Chủ tịch tập đoàn C.T Group Trần Kim Chung. – Chủ tịch thưởng Tết nhà 8 tỷ: ‘Cơ hội có trong khủng hoảng’ (VNE). – TIỀN TẾT(Nguyễn Duy Xuân).- Nghị quyết 11 giúp kinh tế cân bằng trở lại (Tầm nhìn).- Được, mất và những rủi ro (TBKTSG).
- Thu nhập thấp, nhiều công nhân không về tết(NDHMoney).- Bức tranh nhân lực năm 2012: Lao động di cư ngược: mối lo mới cho doanh nghiệp (SGTT).- Thuế môi trường: Dân đóng! (NLĐ).
Phỏng vấn GS Ngô Vĩnh Long: Chỉnh đốn đảng để tránh 'sụp đổ'? (BBC 2-1-12) ◄◄
Khi sự thống trị thế giới của Mỹ bị thách thức (viet-studies 2-1-12) -- Phân tích của Lê Ngọc Thống, tác giả quen thuộc của viet-studies ◄◄
'Nhà nước phải thực sự kiến tạo phát triển' (ĐV 2-1-12) -- P/v chuyên gia Phạm Chi Lan
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng (ND 2-2-12) -- Bài ký tên "Nguyễn Tấn Dũng"
Dựa vào dân để xây dựng Đảng (ĐĐK 2-1-12) -- Chính vì bị Đảng dựa vào mà dân phải xiểng liểng.Kiều hối tăng: Overseas remittances to Vietnam rise 11 per cent in 2011 (DPA 2-1-12)
Khi sự thống trị thế giới của Mỹ bị thách thức (viet-studies 2-1-12) -- Phân tích của Lê Ngọc Thống, tác giả quen thuộc của viet-studies ◄◄
'Nhà nước phải thực sự kiến tạo phát triển' (ĐV 2-1-12) -- P/v chuyên gia Phạm Chi Lan
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng (ND 2-2-12) -- Bài ký tên "Nguyễn Tấn Dũng"
Dựa vào dân để xây dựng Đảng (ĐĐK 2-1-12) -- Chính vì bị Đảng dựa vào mà dân phải xiểng liểng.Kiều hối tăng: Overseas remittances to Vietnam rise 11 per cent in 2011 (DPA 2-1-12)
Nghĩ lại về tăng trưởng: Rethinking the Growth Imperative (Project Syndicate 2-1-12) -- Bài Ken Rogoff ◄
Kinh nghiệm thất bại của HP "Touchpad" : In Flop of H.P. TouchPad, an Object Lesson for the Tech Sector(NYT 1-1-12)
Kinh nghiệm thất bại của HP "Touchpad" : In Flop of H.P. TouchPad, an Object Lesson for the Tech Sector(NYT 1-1-12)
- Herb Cochran – Giám đốc Điều hành AmCham: Tôi thích câu tục ngữ “Buôn có bạn, bán có phường” (TVN/DNSGCT).
- Bình Thuận thu hồi 165 dự án chậm triển khai (TTXVN).-Giá đất TP HCM cao nhất 81 triệu đồng/m2
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét