Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (trái) trao đổi với Tổng thống Hoa Kỳ Johnson.
-
Hoàng Đức Nhã nói về Hoàng Sa
Đài
BBC đã cho phổ biến trong hai ngày 1 và 3.10.2011 bài phỏng vấn ông
Hoàng Đức Nhã về vấn đề Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và vấn đề Hoàng Sa
do Quốc Phương thực hiện.
Ông
Hoàng Đức Nhã là cựu bí thư của Tổng Thống Thiệu và là cựu Tổng Trưởng
Dân Vận Chiêu Hồi VNCH dưới thời Tổng Thống Thiệu. Ông cho biết ông đã
làm việc với Tổng Thống Thiệu từ tháng 10/1967 đến 1975.
Trước đó, nhân kỷ niệm 10 năm cố Tổng Thống Thiệu qua đời (29.9.2001-2011),
đài BBC cũng đã phỏng vấn ông Nhã về ông Thiệu và cho phổ biến trong
các ngày 23, 26 và 29.9.2011. Ông Nhã cho rằng thất bại của Miền Nam
được "định đoạt bởi Hoa Kỳ", nhưng ông không giải thích tại sao Mỹ bỏ
VNCH mà không bỏ Nam Hàn và Đài Loan. Những lời ông phát biểu hoàn toàn
trái ngược với các bằng chứng lịch sử mà Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã
công bố trong hai cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” (2005) và “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” (2010), và những bằng chứng lịch sử mà chúng tôi đã đưa ra.
Nhìn
chung, ông Nhã có trình độ nhận định chính trị rất tầm thường nên không
thể biết được những gì đã xẩy ra cho VNCH, nhất là những mặt trái đàng
sau. Chúng tôi sẽ cho ông Nhã thấy Mỹ đã dùng Tướng Khiêm và Tướng Thiệu
lật đổ ông Diệm và đưa ông Thiệu lên làm Tổng Thống VNCH để làm gì, tại
sao Hoa Kỳ chọn ông Thiệu, và họ đã đánh lừa ông Thiệu như thế nào để
ông ta tự ý quyết định rút khỏi Cao Nguyên và miền Bắc Trung Phần không
theo binh pháp nào, khiến Miền Nam bị mất và hàng triệu người lâm cảnh
điêu linh. Nhưng hôm nay chúng tôi chỉ muốn nói đến cách nhìn và phản
ứng của Tổng Thống Thiệu khi vụ Hoàng Sa xẩy ra theo như sự tường thuật
của ông Hoàng Đức Nhã
Đài BBC cho biết trước tiên ông Nhã thuật lại phản ứng của cố Tổng thống Thiệu khi được biết Trung Quốc chiếm Hoàng Sa:
"Tổng
thống Thiệu đã ra lệnh phải giữ vững lãnh thổ bằng bất cứ giá nào và
đồng thời về phía chính trị, ông huy động toàn bộ bộ máy ngoại giao của
chúng ta (VNCH) phản kháng. Đặc biệt hỏi thẳng Đại sứ Hoa Kỳ.”
Ông
Nhã thuật lại đã chất vấn Đại sứ Hoa Kỳ lúc đó, Graham Martin, về điều
mà ông cho là "khó tin" trong việc Hoa Kỳ "không biết" trước về động
thái tấn công của Hạm đội hải quân Trung Quốc tấn công quần đảo này vào
tháng 01 năm 1974:
Ông Nhã tiết lộ: "Chính
tôi đã hỏi thẳng Đại sứ Hoa Kỳ: sao phía Hoa Kỳ thấy như vậy, với bao
nhiêu phương tiện quan sát trên máy bay, từ biển, trên phương diện điện
tử, có thể thấy rõ sự di chuyển của hạm đội Trung Quốc mà sao không cho
phía VNCH biết."
"Ông
Đại sứ Martin nói với tôi 'cái chuyện đó chúng tôi không thể nào thấy
được' thì tôi nhớ chỉ cười và nói 'khi các ông thấy được một người lính
cộng sản di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh, mà không thấy được một
hạm đội của Trung Quốc tiến về Hoàng Sa thì đó là một chuyện khó tin."
Ông
Nhã cho rằng tới nay vẫn còn nhiều giả thuyết vì sao Hoa Kỳ đã "làm
ngơ," và Trung Quốc đã chiếm quần đảo này vào thời điểm đó:
"Có
giả thuyết nói Hoa Kỳ phải nhượng bộ cái đó cho Trung Quốc để nhờ Trung
Quốc áp lực cho cộng sản Bắc Việt thi hành Hiệp định Paris... Rồi có
thể Trung Quốc thấy lúc đó Hoa Kỳ đã rút ra khỏi Việt Nam, đây là cơ hội
để họ chiếm cái đảo mà theo họ có rất nhiều dự trữ dầu hỏa, khí đốt."
Sau
khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, ngày 22.1.1974, Tổng Thống Thiệu đã gởi
cho Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon một văn thư như sau:
Kính gởi: Ngài Richard Nixon, Tổng Thống Hoa Kỳ,
Tòa Bạch Ốc, Washington, D.C.
“Tôi
mong Tổng Thống lưu tâm đến tình trạng nghiêm trọng hiện nay gây nên
bởi hành động quân sự của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trong vùng
quần đảo Hoàng Sa ngoài khơi bờ biển Trung phần Việt Nam.
“Việc
tôi tiếp xúc trực tiếp với Tổng Thống trong cách thức khẩn cấp này phản
ảnh sự quan tâm lớn lao của tôi trước những biến chuyển gần đây ở nơi
ấy.
“Tôi
tin Tổng Thống nhận thức rõ những hành động chiến tranh Cộng Hòa Nhân
Dân Trung Hoa đã gây ra ở quần đảo Hoàng Sa là sự vi phạm trắng trợn chủ
quyền và sự vẹn toàn lãnh thổ của VNCH. Chủ quyền của quốc gia chúng
tôi trên những hòn đảo này được dựa trên lịch sử, điạ lý và những căn
bản pháp lý cũng như dựa trên sự kiện VNCH từ lâu đã thực thi việc cai
quản một cách hữu hiệu trên những đảo này.
“Ngày
11 tháng 1 năm 1974 Bộ Ngoại Giao Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã đưa ra
bản tuyên cáo đòi hỏi chủ quyền trên quần đảo này, và Bộ Ngoại Giao của
chúng tôi đã lập tức bác bỏ luận điệu vô căn cứ của họ.
“Tiếp
theo yêu sách ngày 11 tháng 1 năm 1974, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã
dùng vũ lực để chiếm một phần lãnh thổ quốc gia chúng tôi. Họ đã đưa
binh sĩ và chiến hạm vào trong khu vực các đảo Cam Tuyền, Quang Hòa và
Duy Mộng thuộc quần đảo Hoàng Sa và đã đổ bộ quân lính lên các đảo này.
“Để
đối phó với các hành động gây chiến và để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ
và nền an ninh quốc gia của VNCH, lực lượng Hải quân Việt Nam hiện diện
trong vùng đã ra lịnh cho lực lượng xâm nhập rút ra khỏi vùng.
“Thay
vì tuân lệnh, các chiến hạm Trung Cộng từ ngày 18 tháng 1 năm 1974 đã
chọn thái độ gây hấn với lối vận chuyển khiêu khích và đã tác xạ vào các
toán lính và các đơn vị Hải Quân đưa đến sự thiệt hại về nhân mạng và
vật chất.
“Ngày
20 tháng 1 năm 1974 Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã gia tăng mức độ
chiến tranh. Họ đưa phi cơ vào oanh tạc 3 đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc và
Hoàng Sa, trên các đảo này có quân của VNCH trú đóng và ngoài ra họ cũng
đã đổ bộ quân lính để chiếm đoạt những đảo này.
“Sự
gây hấn hiện tại đối với VNCH không những chỉ đe dọa chủ quyền và an
ninh của VNCH mà còn tạo nên mối hiểm họa cho nền hòa bình và sự ổn định
trong vùng Đông Nam Á. Điều này hoàn toàn đi ngược lại văn tự và tinh
thần của Bản Thông Cáo Chung Thượng Hải.
“Bằng
cách công khai xử dụng vũ lực để xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam,
Trung Cộng đã ngang nhiên vi phạm luật quốc tế, hiến chương Liên Hiệp
Quốc, hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 mà họ đã cam kết tôn
trọng và chứng thư sau cùng ngày 2 tháng 3 năm 1973 của hội nghị thế
giới về Việt Nam mà Trung Cộng là một nước ký tên vào. Trên thực tế,
điều khoản 1 của hiệp định Paris và điều khoản 4 của chứng thư sau cùng
đã là một sự giao ước cho tất cả các nước, nhất là cho các nước ký vào
chứng thư là phải tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ cuả Việt Nam.
“Sự
đe dọa nghiêm trọng đến nền hòa bình đang diễn ra và chỉ có thể tránh
khỏi nếu Trung Cộng bị bắt buộc chấm dứt vai trò của kẻ xâm lược và hành
động hiếu chiến đối với VNCH.
“Sự
lấn chiếm lãnh thổ VNCH của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa không những vi
phạm trắng trợn luật pháp và trật tự quốc tế mà còn tạo nên nghi ngờ về
sự hiệu lực của hai thành quả đáng kể nhất trong chánh sách ngoại giao
của Tổng Thống, đó là Bản Thông Cáo Chung Thượng Hải và hiệp định Paris
ngày 27 tháng 1 năm 1973.
“Vì
thế tôi viết thư này đến Tổng Thống để yêu cầu chánh phủ Hoa Kỳ hết
lòng hỗ trợ chúng tôi về vật chất và chánh trị cần thiết mà chúng tôi
cần đến để đưa đến sự phục hồi nguyên trạng và dàn xếp êm đẹp việc tranh
chấp quốc tế trong quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
“Nhân cơ hội này, tôi xin đoan chắc lại với Tổng Thống lòng qúy mến sâu xa của tôi.”
Bức
thơ này do ông Kỳ, Phụ Tá Đặc Biệt Chánh Trị của Ngoại Trưởng Vương Văn
Bắc mang đến Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ trưa ngày 23.1.1974 và đã được Đại Sứ
Martin chuyển về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ vào lúc 6 giờ chiều.
Thay
vì viết thư trả lời cho Tổng Thống Thiệu, khoảng 3 tuần sau, Tổng Thống
Nixon đã gởi điện văn cho Đại Sứ Martin chỉ thị đến gặp và nói chuyện
trực tiếp với Tổng Thống Thiệu về quan điểm của Hoa Kỳ. Chúng ta không
thể biết được một cách chính xác nội dung cuộc nói chuyện đó như thể
nào.
KHÔNG BIẾT “ĐỒNG MINH” LÀM GÌ!
Đọc
những lời biện bạch của ông Hoàng Đức Nhã và văn thư Tổng Thống Thiệu
gởi Tổng Thống Nixon, chúng ta thấy tầm nhìn của hai nhân vật này quá
thấp và quá ngắn, Họ không biết “Đồng Minh” đang làm gì, Miền Nam mất là
chuyện không có gì khó hiểu.
1.- Vần đề giữ vững lãnh thổ
Ông Hoàng Đức Nhã cho biết: "Tổng
thống Thiệu đã ra lệnh phải giữ vững lãnh thổ bằng bất cứ giá nào và
đồng thời về phía chính trị, ông huy động toàn bộ bộ máy ngoại giao của
chúng ta(VNCH) phản kháng…”
Khi
ra lệnh như vậy, hoặc Tổng Thống Thống không nắm vững tương quan lực
lượng giữa hai bên khi hải chiến trên biển, hay biết nhưng cứ “cương” để
tránh trách nhiệm, còn sống chết mặc bay! Đó là bản chất của ông Thiệu.
Chúng tôi đã trình bày về tương quan lực lượng giữa hai bên trong bài “Hoa Kỳ tiết lộ về Hoàng Sa”:
Trung Quốc đã xử dụng một lực lượng Hải Quân hùng hậu gồm hơn 16 chiếc
đủ loại, từ tàu đánh cá ngụy trang Nan Yu cho đến hai 2 chiến hạm loại
Hainan 281, 282, 2 chiến hạm loại Jiangnan 271, 274 và 4 Phi Tiển Đỉnh
Komar mang số 133, 137, 139, 145. Trong khi đó, lúc đầu HQ/VNCH chỉ có
Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ 16. Những ngày tiếp theo HQ/VNCH mới
tăng cường thêm các chiến hạm HQ 4, HQ 5 và HQ 10.
Đặc biệt chúng tôi nhấn mạnh: khi thực hiện “Việt Nam hoá” chiến tranh theo đúng lịch trình của kế hoạch “Accelerated Turnover to the Vietnamese” (ACTOV), Hoa Kỳ có giao cho HQ/VNCH một số chiến hạm nhưng họ đã gỡ đi các giàn phóng phi đạn được trang bị trên đó, trong khi nhiều chiến hạm Trung Quốc có trang bị giàn phóng phi đạn và được không quân yểm trợ.
Xin nói rõ thêm Trung Quốc đã xử dụng 4 phi tiển đỉnh 70 tấn loại Komar được trang bị hỏa tiển hải-hải loại Styx.
Tài liệu do Tổng Cục Chiến tranh Chính Trị của Quân Lực VNCH phổ biến
nói rõ chiến hạm HQ 10 của VNCH đã bị trúng hỏa tiển Styx của Trung
Quốc.
Như
vậy, dù đánh cận chiến hay đánh ở tầm xa, HQ/VNCH cũng không thể chống
lại Trung Quốc được. Lúc đó, Bộ Tư Lệnh HQ/VNCH ra lệnh lực lượng đang
chiến đâu rút lui là đúng.
2.- Việc Hoa Kỳ không thông báo
Ông
Nhã cho biết chính ông đã hỏi thẳng Đại sứ Hoa Kỳ tại sao Hoa Kỳ có thể
thấy rõ sự di chuyển của hạm đội Trung Quốc mà không cho phía VNCH
biết. Khi hỏi như thế, ông Nhã đã tỏ ra không nắm vững tình hình.
Trong bài “Hoa Kỳ tiết lộ vụ Hoàng Sa”. Chúng
tôi đã nói rõ Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn cho biết có khoảng 17
chiến hạm Trung Quốc và 4 tàu ngầm đang hướng về Hoàng Sa. Ông ta cũng
cho biết các phản lực cơ chiên đấu của Trung Quốc sắp cất cánh từ đảo
Hải Nam để tấn công các chiến hạm của VNCH. Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH
biết rõ hàng không mẫu hạn USS Enterprise của Hạm Đội 7 đang có mặt
trong vùng sắp xẩy ra cuộc chiến nên đã yêu cầu cho phi cơ VNCH hạ cánh
xuống USS Enterprise để được tiếp liệu xăng, nhưng Hoa Kỳ từ chối.
3.- Lý do tấn công của Trung Quốc
Trong bài “Tái hiện tin mật về xung đột Trung – Việt trong trận hải chiến Tây Sa năm 1974”của
Trung Quốc đăng trên website canglang.com, Trung Quốc cho biết sở dĩ họ
phải mở cuộc tấn công vì từ tháng 8 năm 1973, sau khi Mỹ rút, Nam Việt
đã liên tiếp đưa tàu quân sự xâm phạm lãnh hải của Trung Quốc.
Trong
thực tế không có chuyện đó. Đầu năm 1974, QL/VNCH chỉ cho chiến hạm HQ
16 chở quân ra thay toán quân đã mãn hạn ở Hoàng Sa mà thôi.
Sở
dĩ Trung Quốc đã đưa quân chiếm Hoàng Sa vào đầu năm 1974 vì sợ đảng
CSVN “quỵt nợ" hay “xù nợ” sau khi chiếm được Niền Nam nên đã ra tay
trước. Năm 1958, để có đủ viện trợ đánh chiếm Miền Nam, qua công hàm
ngày 14.9.1958, Hà Nội đã bán Hoàng Sa cho Bắc Kinh. Do đó, Trung Quốc
phải “xiết nợ” trước trước khi đảng CSVN chiếm Miền Nam cho chắc ăn.
4.- Vấn đề Mỹ không can thiệp
Khi
gởi văn thư đề ngày 22.1.1974 cho Tổng Thống Nixon trách Mỹ đã không
can thiệp như đã cam kết, Tổng Thống Thiệu chẳng hiểu gì tình hình ở Mỹ.
Ông Bùi Diễm, Đại Sứ Đặc Mệnh Toàn Quyền của VNCH tại Hoa Kỳ cũng không
báo cáo gì cho Tổng Thống Thiệu biết.
Ngày 29.6.1973 Hạ Viện Hoa Kỳ biểu quyết dự luật cấm các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ trên toàn lãnh thổ Đông Nam Á. Dự
luật nầy đã được lưỡng Viện thông qua ngày 21.9.1973. Đến ngày
12.10.1973, lưỡng Viện lại thông qua dự luật hạn chế quyền của Tổng
Thống trong việc đưa quân đội Hoa Kỳ ra ngoại quốc.
Quan trọng hơn cả, ngày 7.11.1974, lưỡng viện Quốc Hội đã vượt qua quyền phủ quyết của Tổng Thống Nixon, thông qua “Nghị quyết về Quyền Chiến Tranh” (War Powers Resolution) thường được gọi là “Đạo Luật về Quyền Chiến Tranh” (War Powers Act), vì nghị quyết này nó có giá trị như luật, sửa đổi Tiết 50, Chương 33, gồm các điều từ 1541 đến 1548 của Bộ Luật Liên Bang(United States Code). Nghị quyết này đòi hỏi Tổng thống trong mọi trường hợp có thể, phải
tham khảo ý kiến với Quốc Hội trước khi đưa Quân Lực Hoa Kỳ vào những
tình trạng chiến tranh hoặc vào những tình huống sắp xảy ra chiến tranh,
và sau mỗi lần đưa quân tham chiến như vậy sẽ tham khảo thường xuyên ý
kiến với Quốc hội cho đến khi Quân Lực Hoa Kỳ không còn tham gia vào
chiến sự hay rút ra khỏi các tình huống như vậy.
Các đạo luật nói trên cho thấy chính phủ Hoa Kỳ đã quyết định “đóng cửa rút cầu” không còn muốn cho quân đội Hoa Kỳ dính líu đến cuộc chiến ở Đông Dương nữa. Việc
hình thành các đạo luật này được tranh luận rất ồn ào trên các cơ quan
truyền thông của Hoa Kỳ, cả thế giới đều biết, chỉ Tòa Đại Sứ VNCH tại
Wasington DC và Tổng Thống Thiệu không quan tâm tới!
Tôi
nhớ trong năm 1974 Tổng Thống Thiệu có nhờ một phái đoàn Thượng Viện
VNCH qua Mỹ vận động xin thêm viện trợ. Phái đoàn do Thượng Nghị Sĩ
Nguyễn Văn Thành, Chủ tịch Ủy Ban Ngân Sách Thượng Viện cầm đầu. Khi về,
phái đoàn đã thuyết trình tại Dinh Độc Lập do Trung Tướng Đặng Văn
Quang chủ tọa. Tôi cũng được đi theo nghe. Thượng Nghị Sĩ Thành cho biết
ông và phái đoàn đã gặp một số dân biểu và nghị sĩ Hoa Kỳ. Họ đều nói
rằng trong hiện tại họ không thể làm gì được. Họ khuyên VNCH nên tìm một
đường lối để tồn tại và đợi khi tình hình cho phép, họ sẵn sàng giúp
đỡ.
Tôi
thấy đây là những lời khuyên rất chân thành, nhưng với trình độ chính
trị thấp kém, Tổng Thống Thiệu không quan tâm đến, ông cứ ôm chặt mấy lá thư bảo đảm không còn giá trị của Tổng Thống Nixon và chôn sống VNCH.
-
Tổng thống Thiệu qua lời kể của cựu bí thư
Cho đến nay vẫn còn nhiều tranh luận về lý do Sài Gòn sụp đổ ngày 30/4/1975
Mười
năm sau ngày cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu của Việt Nam Cộng hòa qua
đời, cựu bí thư của ông nêu quan điểm rằng ông Thiệu không phải là người
đơn phương quyết định về một loạt sự kiện trước biến cố 30/4 năm 1975.
Trước
các ý kiến cho rằng ông Thiệu "phải chịu trách nhiệm" trong việc để mất
cao nguyên Trung phần cũng như để mất Huế, Đà Nẵng "quá dễ dàng và bất
ngờ", ông Hoàng Đức Nhã, cựu bí thư của tổng thống Thiệu nêu ra các lý
do khác, và cho rằng thất bại của Miền Nam được "định đoạt bởi Hoa Kỳ".
Trả lời BBC trước ngày kỷ niệm 10 năm cố tổng thống Thiệu qua đời (29/9/2001-2011), ông Nhã nói:
"Trên
phương diện quân sự, ngay cả những người viết sách ngay tới bây giờ ở
Việt Nam hay là ngoại quốc, họ không hiểu rõ là trong nền Đệ nhị Cộng
hòa của mình, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu hay tổng thống tên gì cũng
được là người lãnh đạo quốc gia, nghĩa là tư lệnh tối cao của quân đội.
"Dưới
quyền tổng thống thì có một ông Tổng tham mưu trưởng và ông Thủ tướng
thi hành. Cá nhân chúng tôi không bao giờ thấy cố Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu lấy một quyết định đơn phương, một mình."
Theo
giải thích của ông Nhã, có vẻ như ông Thiệu không phải là người duy
nhất phải chịu trách nhiệm, vì theo ông Nhã, khi phải đưa ra một quyết
định quân sự để xử lý, hay đối phó với tình hình, thì ngoài các nhân vật
trên, cố Tổng thống Thiệu còn nghe và bàn thảo, thống nhất với các tư
lệnh vùng, Phó Tổng thống.
Tổng thống Thiệu liệu có đoán hết tất cả những gì mà người đồng minh Hoa Kỳ toan tính với Trung Quốc về Việt Nam?
Ông
Nhã cho rằng thất bại của Sài Gòn vào mùa Xuân năm 1975 thực ra "đã
được định đoạt" từ khi người đồng minh Hoa Kỳ không còn giữ cam kết hậu
thuẫn cho chính quyền VNCH như đã hứa hẹn từ trước nữa:
"Lúc
năm 1975, quân đội không còn phương tiện để chống Cộng sản Bắc Việt nữa
là vì Hoa Kỳ không còn giữ lời hứa theo Hiệp định Paris là 'đổi một lấy
một', tức là mình (VNCH) mất một cây súng thì Hoa Kỳ cho một cây súng,
thiếu một viên đạn, Hoa Kỳ cấp một viên đạn."
Thế
nhưng, cũng chính vị cựu bí thư này cho rằng, ông Thiệu đã lường trước
được mọi diễn biến của việc đồng minh rút lui và chủ động tổ chức phòng
thủ, cũng như xây dựng, phát triển miền Nam ra sao:
"Cố
Tổng thống Thiệu đã vạch được con đường lúc đó mà Hoa Kỳ quyết tâm thi
hành. Biết được con đường đó rồi, ông Thiệu nói bây giờ mình phải làm
sao đáp ứng lại được;
"Khi
mà người đồng mình quyết định ra đi như thế đó, thì Chính phủ VNCH, từ
tổng thống Thiệu cho đến nội các hay quân đội phải làm thế nào. Những
đường lối, chiến lược đó đã được vạch ra chứ không phải đùng một cái ký
xong rồi thì không biết phải làm gì cả. Chuyện đó là hoàn toàn không
có."
"Đã
vạch địch ra rõ ràng là trong lúc quân đội tiếp tục giữ vững lãnh thổ,
bên phía quân sự phải tiếp tục cải tiến bộ máy hành chánh, phát triển
kinh tế, nhất là phát triển nông nghiệp. Đó là căn bản của nền kinh tế
của VNCH. Tất cả cái đó đã được vạch ra trong một chiến lược phát triển
đất nước thời kỳ hậu chiến."
'Trách Mỹ'
Trong
cuộc trao đổi với BBC, ông Hoàng Đức Nhã đưa ra một cáo buộc đối với
Chính quyền Hoa Kỳ liên quan tới việc Quần đảo Hoàng Sa do VNCH quản lý
lúc đó bị mất vào tay Trung Quốc.
Trước tiên ông Nhã thuật lại phản ứng của cố Tổng thống Thiệu khi được biết Trung Quốc chiếm Hoàng Sa:
"Tổng
thống Thiệu đã ra lệnh phải giữ vững lãnh thổ bằng bất cứ giá nào và
đồng thời về phía chính trị, ông huy động toàn bộ bộ máy ngoại giao của
chúng ta (VNCH) phản kháng. Đặc biệt hỏi thẳng Đại sứ Hoa Kỳ."
Ông
Nhã thuật lại đã chất vấn Đại sứ Hoa Kỳ lúc đó, Graham Martin, về điều
mà ông cho là "khó tin" trong việc Hoa Kỳ "không biết" trước về động
thái tấn công của Hạm đội hải quân Trung Quốc tấn công quần đảo này vào
tháng 01 năm 1974:
"Chính
tôi đã hỏi thẳng Đại sứ Hoa Kỳ: sao phía Hoa Kỳ thấy như vậy, với bao
nhiêu phương tiện quan sát trên máy bay, từ biển, trên phương diện điện
tử, có thể thấy rõ sự di chuyển của hạm đội Trung Quốc mà sao không cho
phía VNCH biết," ông Nhã tiết lộ.
Hoa Kỳ đã can dự vào cuộc chiến Việt Nam nhiều năm rồi quyết định bỏ tất cả để rút đi
"Ông
Đại sứ Martin nói với tôi 'cái chuyện đó chúng tôi không thể nào thấy
được' thì tôi nhớ chỉ cười và nói 'khi các ông thấy được một người lính
cộng sản di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh, mà không thấy được một
hạm đội của Trung Quốc tiến về Hoàng Sa thì đó là một chuyện khó tin."
Ông
Nhã cho rằng tới nay vẫn còn nhiều giả thuyết vì sao Hoa Kỳ đã "làm
ngơ," và Trung Quốc đã chiếm quần đảo này vào thời điểm đó:
"Có
giả thuyết nói Hoa Kỳ phải nhượng bộ cái đó cho Trung Quốc để nhờ Trung
Quốc áp lực cho cộng sản Bắc Việt thi hành Hiệp định Paris...Rồi có thể
Trung Quốc thấy lúc đó Hoa Kỳ đã rút ra khỏi Việt Nam, đây là cơ hội để
họ chiếm cái đảo mà theo họ có rất nhiều dự trữ dầu hỏa, khí đốt."
Hậu chiến
Ông
Nhã tin rằng cố Tổng thống Thiệu là một nhà lãnh đạo chí công vô tư,
không như một số cáo buộc đã được biết tới về tư cách cá nhân của ông:
"Tôi
làm việc cho cố Tổng thống từ tháng 10/1967 cho tới những ngày cuối
cùng (1975), chưa bao giờ tôi thấy cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu có
những hành động mà gọi là lợi ích cho cá nhân ông ta và không nghĩ đến
đất nước, trên phương diện cá nhân, chúng tôi xác nhận như thế."
Về
thời gian ông Thiệu ra nước ngoài định cư, hậu chiến, đặc biệt là thời
gian sinh sống tại Hoa Kỳ, cựu bí thư của ông Thiệu bình luận:
"Khi sang đến Hoa Kỳ, Tổng thống có một cuộc sống rất bình thường, không bao giờ có những tuyên bố hay hành động lố lăng."
"Lúc
đó ông muốn khuyến khích tất cả mọi người đoàn kết với nhau để có một
khối liên minh thống nhất ở hải ngoại, làm hậu thuẫn cho những người còn
kẹt lại ở Việt Nam lúc đó."
Ông Hoàng Đức Nhã khẳng định cố Tổng thống Thiệu là người trong sạch và ái quốc.
Ông
Nhã cũng cho hay Tổng thống Thiệu đã có một "hoài bão" hay một dự định
là để lại một hồi ký kể lại những gì chính ông Thiệu đã làm, để sau này
"các sử gia" có thêm căn cứ để khảo cứu hoặc phán xét.
Cuối
cùng, đánh giá toàn bộ thân thế, sự nghiệp của ông cố Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu, ông Nhã, người đang sinh sống tại Chicago, tiểu bang
Illinois, Hoa Kỳ nhận xét:
“Tổng
thống Thiệu là một người ái quốc, một người lãnh đạo quốc gia có đường
hướng rất rõ ràng, theo quy định của Hiến pháp, không phải là một người
lãnh đạo bất chấp Hiến pháp hay làm theo ý mình.”
“Tính
cho đến hơi thở cuối cùng, cố Tổng thống vẫn còn có hoài bão làm thế
nào, tuy không làm Tổng thống nữa, nhưng giúp tập thể Việt Nam hải ngoại
hậu thuẫn cho đồng bào vẫn còn bất hạnh là sống trong chế độ không được
dân chủ hiện nay ở Việt Nam.”
-Tổng thống Thiệu là "người ái quốc"
Mở bằng chương trình nghe nhìn khác
Trong
phần III cuộc trao đổi với BBC nhân 10 năm ngày mất của cố Tổng thống
Thiệu (29/9/2001), cựu thư ký Hoàng Đức Nhã nói ông Thiệu là "người ái
quốc" và cho biết ông Thiệu từng nhờ ông giúp soạn thảo một cuốn hồi ký
không lâu trước khi qua đời.
Cựu
thư ký và Tham vụ Báo chí của cố Tổng thống VNCH nói ông Thiệu có một
cuộc sống “bình dị” khi ra hải ngoại định cư, cũng như khẳng định trong
suốt thời gian chấp chính không hề làm gì cho riêng cá nhân ông.
Tổng thống Thiệu được cho là ít phát biểu công khai về chiến tranh Việt Nam sau khi đã ra nước ngoài định cư.
Ông
Nhã cho biết bản thân ông có dự định ra một cuốn sách mang tính chất
hồi ký, đồng thời hy vọng đó là một tư liệu để giới quan tâm tới lịch sử
Việt Nam có thể tìm thấy những sử liệu, chi tiết mới hữu ích. Về dự
định của ông Thiệu nhờ ông giúp viết hồi ký, ông Nhã nói:
“Tôi
muốn xác nhận là chính ông ta có ý định để lại một di sản qua hồi ký
của ông ta dựa trên những dữ kiện chính xác. Lúc đó riêng về vấn đề
thương thuyết với Hoa Kỳ, những thời gian gay go nhất, cố Tổng thống
Thiệu và tôi biết hết những kế hoạch, nhưng chúng tôi không nói ra.”
Ông
Hoàng Đức Nhã cho rằng các cuộc tranh luận và kể cả tâm lý “ngại” phát
biểu, nhận xét về cố Tổng thống Thiệu trong cộng đồng Việt Nam ở hải
ngoại không chỉ là cá biệt với ông Thiệu mà còn xảy ra với nhiều trường
hợp khác, ví dụ như Tổng thống Ngô Đình Diệm.
'E ngại tranh cãi'
Ông Nhã cho rằng cố Tồng thống Thiệu là một người ái quốc.
Cựu
bí thư của ông Thiệu cho rằng các quan điểm tranh cãi, hay e ngại đó,
riêng với trường hợp ông Thiệu, là do biến cố thất bại năm 1975 của VNCH
vẫn còn có tác động tới nhiều người Việt Nam ở trong nước cũng như ở
hải ngoại.
“Cố
Tổng thống Thiệu lãnh đạo quốc gia với thời gian và hậu quả mà tới giờ
này ai cũng còn phải ảnh hưởng một phần nào. Vì mình mất miền Nam, thì
dĩ nhiên cứ ngồi nghĩ lại thì đổ lỗi cho người này cho người kia,” ông
Nhã nói.
Đánh
giá về toàn bộ cuộc đời, di sản của ông Thiệu, ông Hoàng Đức Nhã, người
đang sinh sống tại Chicago, tiểu bang Illinois, Hoa Kỳ nhận xét:
“Tổng
thống Thiệu là một người ái quốc, một người lãnh đạo quốc gia có đường
hướng rất rõ ràng, theo quy định của Hiến pháp, không phải là một người
lãnh đạo bất chấp Hiến pháp hay làm theo ý mình.”
“Tính
cho đến thở cuối cùng, cố Tổng thống vẫn còn có hoài bão làm thế nào,
tuy không làm Tổng thống nữa, nhưng giúp tập thể Việt Nam hải ngoại hậu
thuẫn cho đồng bào vẫn còn bất hạnh là sống trong chế độ không được dân
chủ hiện nay ở Việt Nam.”
Mở
đầu phần III, trong cuộc trao đổi với Quốc Phương của BBC Việt ngữ, ông
Hoàng Đức Nhã giải thích vì sao ông Thiệu tỏ ra khá im lặng sau khi ra
nước ngoài định cư và cho rằng đó là do bản tính được cho là thận trọng
của ông Thiệu hơn là chịu bất cứ sức ép nào từ các chính quyền hay tình
báo Phương Tây.
Mời quý vị nghe tiếp phần III và cũng là phần cuối bài phỏng vấn gồm ba phần với ông Hoàng Đức Nhã trong phần audio đi kèm.
-
Phần II phỏng vấn về Tổng thống Thiệu – (BBC). -
Ông Hoàng Đức Nhã làm bí thư và tham vụ báo chí cho cố Tổng thống Thiệu từ 10/1967 tới tháng 4/1975.
Trong
phần hai cuộc trao đổi với BBC Việt ngữ nhân 10 năm ngày mất của ông
Thiệu (29/9/2001), ông Nhã, người đang sống tại tiểu bang Illinois, Hoa
Kỳ, cho biết ông Thiệu quan tâm ra sao về lãnh đạo đối phương Bắc Việt
và đồng minh Hoa Kỳ.
Ông
Nhã, người cũng từng giữ chức Tham vụ Báo chí của Tổng thống, cho hay
ông Thiệu không chỉ quan tâm thông thường về đối phương, mà còn thành
lập cả một bộ phận điều nghiên để nghiên cứu về đường đi, nước bước, ý
đồ của lãnh đạo đối phương, kể cả của đồng minh của Bắc Việt Nam lúc đó
là Liên Xô và Trung Quốc Cộng sản ra sao.
Được
hỏi về quan điểm, bình luận riêng của Tổng thống Thiệu về các Tướng
lãnh, lãnh đạo như Dương Văn Minh, Nguyễn Cao Kỳ... ông Hoàng Đức Nhã
nhấn mạnh ông Thiệu là một người kiệm lời:
“Tổng
thống Thiệu là một người ít nói khi ông chia sẻ những tư tưởng riêng rẽ
như thế này. Lúc nào cũng có bối cảnh cả. Khi nào bình luận hay phê
bình về ai, thì lúc nào cũng phê bình người đó trong bối cảnh nào vì một
hành động nào đó.”
Tuần này có ngày kỷ niệm 10 năm cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu qua đời 29/9/2001
Trách nhiệm bỏ Cao Nguyên
Liên
quan tới các diễn biến cuộc chiến Việt Nam đầu năm 1975, khi quân đội
Bắc Việt đẩy mạnh các chiến dịch tấn công “giải phóng miền Nam”, quân
đội VNCH đã rút quân khỏi vùng I và vùng II chiến thuật, tiếp theo là di
tản gấp toàn bộ Quân đoàn I vào Đà Nẵng.
Việc
rút bỏ Cao Nguyên trung phần, cùng dòng người tị nạn ước tính tới 2
triệu người đổ vào Đà Nẵng gây hoảng loạn, mất kiểm soát ở thành phố
này, khiến cuộc di tản thất bại và gây tổn thất gần như toàn bộ lực
lượng quân sự và cơ giới tinh nhuệ của Quân đoàn I trong thời gian rất
ngắn vào tháng 3/1975, được cho là những diễn biến hệ trọng và mở đầu
dẫn tới sự sụp đổ của Sài Gòn vào ngày 30/4/1975.
Trả
lời BBC về việc liệu Tổng thống Thiệu có trách nhiệm gì không và ra sao
với các quyết định rút quân và di tản trên, ông Nhã đưa ra nhiều giải
thích, nhưng tựu chung cho rằng ông Thiệu không phải là người có thể
quyết định một mình vì còn có cả bộ tham mưu trong quân đội và nội các.
Qua
những gì vị cựu Bí thư của ông Thiệu nhấn mạnh, có thể hiểu người đứng
đầu Chính quyền Sài Gòn từ năm 1967 đến 1975, tuy xuất thân là một tướng
lĩnh, đã được mô tả là luôn tôn trọng các quyết định chiến lược, trọng
yếu của quân đội, dù ở trên cương vị Tổng thống.
Về
hậu chiến và sau khi ông Thiệu ra nước ngoài, ông Nhã cho hay cố Tổng
thống Thiệu đã tham gia nhiều hoạt động vì các cựu quân nhân, nhân viên
chính quyền còn ở lại trong nước.
Mở
đầu phần hai cuộc nói chuyện với Quốc Phương, ông Hoàng Đức Nhã cho
biết một chi tiết đáng chú ý về ông Thiệu có bao giờ bộc lộ “hối tiếc
hay không” xung quanh việc ông Ngô Đình Diệm, Tổng thống đầu tiên của
VNCH, bị phe đảo chính sát hại năm 1963.
Mời quý vị nghe phần hai bài phỏng vấn gồm ba phần với ông Hoàng Đức Nhã trong phần audio đi kèm.
Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967
,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét