-BÁO TRUNG QUỐC VIẾT VỀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG
Vừa
qua, Tuần báo “Tin tức Trung Quốc” đăng bài phân tích “Biển Đông là
sinh mệnh của Trung Quốc trong tương lai” của tác giả Trịnh Vĩnh Niên,
chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc, Trưởng phòng nghiên cứu Đông Á thuộc
trường Đại học công lập Xinhgapo, có nội dung đáng chú ý như sau:
Đối với Trung Quốc, tầm quan trọng của Nam Hải (Biển Đông) là điều không phải nghi ngờ. Một số người nói Nam Hải là lợi ích quốc gia của Trung Quốc, hoặc nói ở mức độ cao hơn là lợi ích quốc gia cốt lõi, vì nó liên quan tới vấn đề chủ quyền của Trung Quốc. Nhưng trên thực tế, Nam Hải không chỉ là vấn đề chủ quyền, mà còn là sinh mệnh của Trung Quốc. Một khi đánh mất Nam Hải, ưu thế địa hải dương của Trung Quốc có thể không tồn tại, sẽ không thể tránh khỏi phải trở thành một quốc gia lục địa. Vì sao có thể nói như vậy?
Mặt phía Đông của Trung Quốc đã có khối đồng minh vững chắc Mỹ-Nhật-Hàn. Liên minh này lấy Mỹ làm thủ lĩnh, đã trở thành cơ chế hoá cao độ. Sau khi đảng Dân chủ Nhật Bản lên cầm quyền (năm 2009), Thủ tướng Nhật Bản Hatoyama khi đó đã tính toán theo đuổi quan hệ tương đối cân bằng với Mỹ, tuy nhiên đã sớm thất bại. Thất bại của Chính quyền Hatoyama đã cho thấy bất cứ một Chính phủ Nhật Bản nào cũng khó có thể thay đổi hiện trạng cơ chế hiện nay trong quan hệ Nhật-Mỹ. Sau sự kiện “tàu Cheonan” của Hàn Quốc bị đánh chìm tại vùng biển Hoàng Hải, xu hướng liên minh Mỹ-Nhật-Hàn được tăng cường. Liên minh này có ý nghĩa gì đối với Trung Quốc? Thứ nhất, Trung Quốc rất khó có thể thông qua phía Đông để trở thành quốc gia hải dương. Thứ hai, Nhật Bản, Hàn Quốc có thể lợi dụng liên minh này để tăng cường lợi ích bản thân, từ đó làm tổn hại lợi ích của Trung Quốc. Ví dụ Nhật Bản có thể tăng cường năng lực đàm phán của mình trong vấn đề Đông Hải. Nhật Bản quyết định tiến hành “quốc hữu hoá” những vùng biển có tính tranh chấp như đảo Điếu Ngư (Senkaku) chính là nhằm tranh thủ liên minh Mỹ-Nhật-Hàn hiện nay đang có lợi cho cục diện của Nhật Bản. Sau khi xảy ra sự kiện đảo Điếu Ngư gần đây, quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ cũng cho thấy rõ ý đồ của Nhật Bản trong vấn đề này. Thứ ba, liên minh này cũng có thể cấu thành mối đe doạ an ninh trực tiếp đối với Trung Quốc. Trong thời kỳ Chính quyền Bush (con), Mỹ đã hoàn thành ý đồ bố trí “tiểu NATO” tại châu Á, thông qua sự điều chỉnh lớn về chiến lược để nâng cao năng lực tấn công và phá hoại “các quốc gia thù địch” trên phạm vi toàn thế giới.
Mặt phía Tây Nam của Trung Quốc có Ấn Độ Dương. Ấn Độ Dương là phạm vi thế lực tranh chấp tất yếu của Ấn Độ. Trung Quốc và Ấn Độ Dương không có đường giao thông trực tiếp, hiện nay Trung Quốc muốn thông qua Mianma để mở đường qua Ấn Độ Dương. Điều này cho thấy Trung Quốc hầu như không có hy vọng thông qua Ấn Độ Dương để trở thành quốc gia hải dương. Vì tại vùng biển này tồn tại quá nhiều nhân tố không xác định. Thứ nhất, quan hệ giữa Trung Quốc và Mianma. Mianma là một quốc gia chủ quyền cũng mong muốn tìm kiếm lợi ích quốc gia lớn nhất, vì vậy Mianma duy trì quan hệ qua lại giữa Trung Quốc và Ấn Độ, thậm chí cả Mỹ. Thứ hai, quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Ấn Độ cũng là một nước lớn đang trỗi dậy, đồng thời có tinh thần dân tộc chủ nghĩa cao độ. Phái cứng rắn trong nước luôn coi Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh và “kẻ thù tiềm tàng”. Ấn Độ không dễ dàng cho phép Trung Quốc biến Ấn Độ Dương thành tuyến đường biển quốc gia. Thứ ba, quan hệ Ấn-Mỹ. Một khi Mỹ coi Trung Quốc là đối thủ, vậy thì Ấn Độ rất dễ ngả theo Mỹ. Quan hệ giữa Mỹ và Ấn Độ mấy năm gần đây có những tiến triển mang tính thực chất, hơn nữa hợp tác và phối hợp quân sự đa phương cũng bắt đầu được thúc đẩy, trong đó có hợp tác quân sự Mỹ, Nhật, Ấn.
Vì vậy, đối với Trung Quốc, hy vọng duy nhất trở thành quốc gia hải dương nằm ở Nam Hải. Vì sao nói Nam Hải là sinh mệnh của Trung Quốc trong tương lai? Hiện nay, khi người Mỹ đề cập đến vấn đề an ninh và ổn định hàng hải tại Nam Hải, hầu như quyền phát ngôn đều nghiêng về phía Mỹ. Trên thực tế, điều này lẽ ra phải thuộc quyền phát ngôn của Trung Quốc. Bất luận được coi là một nền kinh tế định hướng xuất khẩu hay là một nước lớn phụ thuộc cao độ vào nhập khẩu tài nguyên, an ninh hàng hải tại Nam Hải đã quyết định vấn đề kinh tế Trung Quốc có thể vận hành bình thường hay không. Trong vấn đề Nam Hải, Đặng Tiểu Bình từng đề xuất chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” là nhằm tạo ra một môi trường quốc tế hoà bình cho xây dựng kinh tế trong nước của Trung Quốc. Trong môi trường quốc tế hiện nay, cách đề cập này lại có những hàm nghĩa mới, thậm chí còn quan trọng hơn. Rõ ràng, mối đe dọa đối với việc vận hành hệ thống nền kinh tế có thể trực tiếp đe dọa đến đời sống thường nhật của mỗi người dân Trung Quốc, vì vậy nó có hàm nghĩa xã hội và chính trị hết sức sâu sắc.
Mặc dù, tình hình Nam Hải hiện nay không hoàn toàn đến mức như một số người nói là “gươm súng sẵn sàng”, nhưng nếu không thể nhìn thẳng vào hiện thực, tình hình tương lai tất yếu sẽ ngày càng nghiêm trọng. Đối phó với thách thức này như thế nào? Đây chính là câu hỏi đầu tiên: Tình hình Nam Hải bắt nguồn từ đâu? Chỉ có lý giải nguồn gốc, mới có thể tìm được phương pháp để kiểm soát và giải quyết vấn đề. Rõ ràng, cục diện Nam Hải hiện nay không phải từ trên trời rơi xuống, mà là kết quả của quá trình lịch sử. Trên thực tế, đối với các nhà quan sát cục diện Nam Hải, xuất hiện tình hình hiện nay hoàn toàn không bất ngờ, mà đều nằm trong dự báo.
Mọi người đều rõ tính phức tạp lịch sử của vấn đề Nam Hải. Hiện nay, các nước đều đang tìm kiếm chứng cứ lịch sử có lợi cho mình, nhưng khách quan mà nói, nếu giải quyết vấn đề xuất phát từ căn cứ lịch sử có thể là một sứ mệnh không thể thực hiện. Đặc điểm chủ yếu của vấn đề Nam Hải là chỉ có thể giữ quyền kiểm soát và quản lý, chứ không thể giải quyết. Chính vì vậy, khi đó Đặng Tiểu Bình mới đưa ra ý tưởng hiện thực chủ nghĩa là “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Dưới sự chỉ đạo của tư tưởng này, Trung Quốc đã có những nỗ lực rất lớn trong bình diện song phương với các nước có liên quan khác trên vấn đề Nam Hải, nhưng hiệu quả không lớn. Các nước liên quan hầu như không có động lực và động cơ lớn để thực hiện hợp tác với Trung Quốc. Trong quá trình này, Trung Quốc đã quên mất một vấn đề đưa ra: vì sao các nước liên quan không có động lực và động cơ hợp tác? Nguyên nhân có lẽ cũng rất rõ ràng, sức ảnh hưởng của Trung Quốc đối với các nước này chưa đủ, hoặc có thể nói, các quốc gia này cho rằng không cần thiết phải đưa vấn đề này vào chương trình nghị sự.
Thật ra, so với Trung Quốc, những nước liên quan đến Nam Hải khác có thể nói là nước nhỏ. Lo lắng bản năng của các nước nhỏ này lại chính là đơn độc đối diện với một nước lớn, cho dù nước lớn đó có nhiều thiện ý. Vì thế, những nước này đã chuyển hướng sang chủ nghĩa đa phương. Đối với những nước này, mong muốn đa phương hoá là nhằm ràng buộc hành vi của Trung Quốc. Đây chính là nguyên nhân khiến một số nước nhỏ luôn cố gắng đưa vấn đề Nam Hải vào khung đa phương của ASEAN trong nhiều năm qua. Lần này, dưới sự ủng hộ của Mỹ, những nước này bắt đầu được toại nguyện. Mặc dù, Trung Quốc hoàn toàn không chấp nhận chủ nghĩa đa phương trong vấn đề này, nhưng phân tích cụ thể, cách làm này cũng phù hợp với lợi ích của Trung Quốc. Cho dù đa phương không thể giúp giải quyết vấn đề, nhưng đa phương là một sự ràng buộc đối với tất cả các nước liên quan. Hoặc có thể nói, nếu đa phương trói buộc Trung Quốc, vậy thì các quốc gia liên quan khác cũng bị trói buộc. Trong bối cảnh song phương không thể giải quyết, quan hệ đa phương chính là cơ chế hữu hiệu duy trì cục diện hoà bình tại Nam Hải. Trung Quốc hoàn toàn không muốn đa phương hoá vấn đề Nam Hải, cho rằng đa phương hoá có thể khiến vấn đề trở nên phức tạp. Mặc dù lo ngại của Trung Quốc không hẳn không có lý nhưng vấn đề ở chỗ quan hệ song phương không có tiến triển trong suốt thời gian dài.
Ngoài đa phương hoá, các quốc gia liên quan cũng cố gắng khiến vấn đề Nam Hải trở thành “quốc tế hoá”, một số nước (Việt Nam và Malaixia) đã đưa khu vực tranh chấp lên Toà án quốc tế, hy vọng thông qua sự can thiệp của tổ chức quốc tế để giải quyết vấn đề. Trung Quốc đương nhiên cũng không mong muốn đi theo con đường này.
Trong bối cảnh song phương không giải quyết được vấn đề, Trung Quốc lại không chấp nhận “đa phương” và “quốc tế hoá”, vậy phải giải quyết thế nào? Vấn đề này đã phát triển thành “chính trị hoá nước lớn” như hiện nay, tức sự can dự của Mỹ. Một khi “chính trị hoá nước lớn” xuất hiện, sẽ đẩy cục diện Nam Hải trở nên khó lường hơn bao giờ hết. Bất luận là quan hệ song phương, quan hệ đa phương hay là quốc tế hoá, nếu có thể giải quyết vấn đề, các quốc gia Đông Nam Á đều có thể chấp nhận. Mặc dù, không phải tất cả các quốc gia Đông Nam Á đều có tranh chấp với Trung Quốc trong vấn đề Nam Hải, song Việt Nam, Malaixia, Philíppin… đều là thành viên của ASEAN, các nước thành viên khác có nghĩa vụ và trách nhiệm phải quan tâm. Nhưng “chính trị hoá nước lớn” lại không như vậy. Rất nhiều quốc gia Đông Nam Á đều có quan hệ rất khăng khít với cả Trung Quốc và Mỹ, hai nước Trung-Mỹ cùng chung sống hoà bình là lợi ích lớn nhất của các quốc gia này, nhưng một khi hai nước Trung-Mỹ xảy ra xung đột, một số nước sẽ đứng trước vấn đề là ngả về bên nào, điều này sẽ diễn ra giống như thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Chính vì vậy, trong vấn đề Nam Hải, “chính trị hoá nước lớn” hoàn toàn không phải là lợi ích lớn nhất của các quốc gia Đông Nam Á./.
theo TTXVN
- ‘Trung Quốc luôn là láng giềng tốt’
Trung
Quốc đã từ lâu dành tâm huyết xây dựng tình hữu nghị và đối tác với các
nước láng giềng, cùng theo đuổi sự phát triển chung và Trung Quốc sẽ
tiếp tục theo đuổi chính sách này trong tương lai.
Cam
kết của Trung Quốc xây dựng quan hệ láng giềng thân thiện, an ninh và
thịnh vượng được thể hiện đầy đủ khi phó Chủ tịch Tập Cận Bình đi thăm
Việt Nam và Thái Lan tháng 12 năm ngoái.
Chuyến đi này giúp tăng cường quan hệ giữa Trung Quốc với hai quốc gia này cũng như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Asean.
Cũng
trong tháng trước, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã đón tiếp Thủ tướng
Nhật Bản Yoshihiko Noda ở Bắc Kinh và hai nước đã cam kết phát triển mối
quan hệ song phương và cùng phối hợp nỗ lực vì hòa bình và ổn định
trong khu vực.
Những
sự kiện ngoại giao gần đây đã đóng lại một năm mà Trung Quốc đã có
những nỗ lực thật sự trong việc tăng cường hiểu biết lẫn nhau với các
nước láng giềng và đạt được những tiến bộ cùng thắng trong bối cảnh u ám
của kinh tế toàn cầu và hỗn loạn chính trị.
Bất đồng chưa giải quyết
Nhiều
bất đồng vẫn chưa được giải quyết, chẳng hạn như tranh chấp ở Nam Hải.
Nhưng trong những vấn đề này, Chính phủ Trung Quốc kiên định nguyên tắc
đối thoại, hợp tác và hành xử có trách nhiệm vì lợi ích chung của tất cả
các bên liên quan.
Cách
tiếp cận đáng tin cậy của Trung Quốc đã đem lại một số hiệu quả. Chẳng
hạn, Trung Quốc và Asean đã thông qua một thỏa thuận hồi tháng Bảy về
hướng dẫn thực hiện bản Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông
(DOC) và tiến một bước về phía trước trong vấn đề phức tạp do lịch sử để
lại này.
Trong
khi đó, chiến lược trụ ở châu Á của Hoa Kỳ, vốn được nhìn nhận rộng rãi
như là một nỗ lực cân bằng lại điều mà Washington rêu rao là ‘ảnh hưởng
đang lên’ của Trung Quốc trong khu vực, càng làm phức tạp thêm chính
sách ngoại giao láng giềng của Trung Quốc.
Tuy
nhiên dù thời thế có đổi thay như thế nào chăng nữa, Bắc Kinh vẫn tiếp
tục kiên trì năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình vốn đã chứng tỏ sức
sống cùng với thời gian, làm sâu sắc thêm tình hữu nghị và đối tác với
các nước láng giềng và phấn đấu cho hòa bình và thịnh vượng chung ở khu
vực.
Sự
phát triển hòa bình của Trung Quốc không đe dọa bất cứ ai. Như lịch sử
đương đại đã chứng minh, Trung Quốc là một động cơ kinh tế mạnh mẽ của
khu vực và thế giới và sự tiến bộ của Trung Quốc đem đến cơ hội cho tất
cả các quốc gia yêu chuộng hòa bình có cuộc sống tốt đẹp hơn trong một
thế giới an bình hơn.
Làm việc với Bắc Kinh
Hơn
nữa, cũng giống như Trung Quốc, hầu hết các nước láng giềng của Trung
Quốc đều là những nước đang phát triển. Do đó, sự phát triển có vai trò
đặc biệt quan trọng và cần được xem là ưu tiên hàng đầu. Chính phủ các
nước cần tập trung nâng cao đời sống người dân.
Vì
vậy, các nước láng giềng của Trung Quốc có ích lợi rất lớn và rất nên
làm việc cùng với Bắc Kinh để thúc đẩy mối quan hệ và hợp tác tiến về
phía trước và đem lại những lợi ích thiết thực đến cho những người dân
cả bên trong lẫn bên ngoài lãnh thổ của họ.
Những
gì xảy ra trong quá khứ cũng chứng tỏ rằng Trung Quốc và các nước láng
giềng có ý chí, sự khôn ngoan và khả năng tự mình giải quyết bất đồng.
Chỉ cần các nước theo ánh sáng đối thoại và hợp tác giống như Trung Quốc
thì lúc nào cũng sẽ có cách giải quyết mọi vấn đề.
Vào
thời điểm chuyển giao năm mới, đặc biệt có ý nghĩa khi nhắc lại câu nói
của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào trong bài diễn văn tại lễ khai mạc nghị thường
niên của Diễn đàn Bác Ngao về châu Á năm 2011: ‘Trung Quốc luôn là láng
giềng tốt, người bạn tốt và đối tác tốt của các quốc gia châu Á khác’.
-Nguồn:Báo Trung Quốc: “Việt Nam lại trở mặt, Bắc Kinh không còn đường thoái lui ở Nam Hải”
Mạng Sina
Phùng Thiện Trí
Quốc Thanh dịch
31-12-2011
Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tiến hành chuyến viếng thăm Việt Nam trong thời gian 3 ngày, bắt đầu từ ngày 20, cử chỉ này được dư luận rộng rãi xem là Trung Quốc có ý đồ nỗ lực thêm một bước trong việc phát huy sức ảnh hưởng ở Đông Nam Á, trong bối cảnh đang có tranh chấp lãnh thổ và Mỹ đang tăng cường sức ảnh hưởng ở khu vực này. Sau khi Mỹ áp dụng các biện pháp để tăng cường mối quan hệ giữa các nước lân bang với Trung Quốc ở khu vực này, do lo rằng sức ảnh hưởng của mình sẽ bị yếu đi, nên gần đây Trung Quốc đã tăng cường các hoạt động ngoại giao ở Đông Nam Á, để đạt được các hiệp định hòa bình về tranh chấp lãnh thổ với các nước. Trong chuyến thăm Việt Nam của Tập Cận Bình lần này, ông ta không chỉ tham dự nghi lễ ký kết nhiều văn bản hợp tác giữa hai nước, mà còn đã ký cả một thỏa thuận Trung Quốc cho Việt Nam vay 200 triệu đôla Mỹ.
Nhưng chỉ sau khi Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình về nước được ít ngày, Việt Nam lại bắt đầu gây rắc rối ở Nam Hải (1) Theo tin từ Hoàn cầu Thời báo, ngày 28 tháng 12 năm 2011: Một vài sự thực cho thấy, Việt Nam đang bất chấp Trung Quốc để tiến vào các đảo ở Nam Hải cùng các vùng biển phụ cận có chủ quyền, từng nhiều lần có những lời phát biểu cứng rắn về vấn đề Nam Hải, đồng thời tìm mọi cách để làm mạnh thêm lập trường của Việt Nam. Theo tin từ truyền thông Đài Loan, cựu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Nguyễn Mạnh Cầm tuyên bố, các quần đảo Nam Sa (2) và Tây Sa (3) xét về mặt lịch sử, và căn cứ theo Luật biển Quốc tế năm 1982, đều “thuộc về lãnh thổ Việt Nam”, “bất luận Trung Quốc có quấy nhiễu ra sao, cũng không thể làm thay đổi được công lý và lịch sử”.
Ông bày tỏ, việc cấp bách hiện nay là “Việt Nam phải để cho người dân trong nước và bạn bè quốc tế hiểu về lịch sử của các quần đảo Nam Sa và Tây Sa, đồng thời ủng hộ cho chủ trương của Việt Nam”. Ông còn tuyên bố, vấn đề Nam Hải phải được giải quyết thông qua đàm phán đa phương. Trung Quốc đưa ra đề nghị đàm phán song phương, nhưng vấn đề Nam Hải “có liên quan đến lợi ích của rất nhiều quốc gia, nhất là vấn đề tự do đi lại”.
Ông bày tỏ, Việt Nam phải áp dụng các biện pháp thiết thực, trong đó quan trọng nhất là giúp cho người dân hiểu biết sâu hơn về lịch sử Nam Hải và quần đảo Tây Sa. Trên cơ sở toàn dân đồng lòng và được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, chúng tôi tin tưởng rằng Việt Nam có thể bảo vệ được “chủ quyền lãnh thổ quốc gia”.
Ngoài ra, ông Dương Trung Quốc, Đại biểu Quốc hội Việt Nam, cũng kiến nghị Quốc hội cần công bố các nghị quyết có liên quan, để thể hiện lập trường của Việt Nam đối với vấn đề Nam Hải, một mặt là để “bảo vệ hòa bình”, mặt khác là để khẳng định vững chắc Việt Nam“có chủ quyền đối với Nam Hải và quần đảo Tây Sa”.
Từ khi bước vào thế kỷ mới đến nay, về vấn đề Nam Hải, Trung Quốc luôn áp dụng biện pháp xoa dịu đối với Việt Nam, đã ban cho Việt Nam một chút ân huệ, để có thể ngăn chặn được những hành vi khiêu khích của Việt Nam ở Nam Hải, từ đó mà phân hóa được sự liên hợp giữa Việt Nam với Philippines, khiến cho Philippines không thể vỗ được bằng một bàn tay ở Nam Hải. Nhưng chính sách xoa dịu của Trung Quốc đối với Việt Nam dường như không có hiệu quả như dự liệu, Việt Nam không hề cảm kích trước ân huệ của Trung Quốc, trái lại, còn gia tăng sự giễu võ giương oai ở Nam Hải.
Ngày 25 tháng trước, Thủ tướng Việt nam Nguyễn Tấn Dũng khi phát biểu trước Quốc hội, đã ngang nhiên phủ nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Nam Hải, hơn nữa còn đòi Trung Quốc trả lại chủ quyền đối với mọi hòn đảo ở Nam Hải, với thái độ ngạo mạn ngang ngược khác thường. Trong chuyến thăm Việt Nam lần này, Phó Chủ tịch Tập Cận Bình đã ký kết nhiều văn bản với Việt Nam, đồng thời còn cho Việt Nam vay tiền, nhưng khi Phó Chủ tịch Tập Cận Bình vừa mới về nước, Việt Nam lại bắt đầu gây chuyện om sòm ở Nam Hải, điều này khiến cho tôi không khỏi nghĩ lại tình hình xảy ra hai tháng trước, ngày 11 tháng 10, Trung Quốc và Việt Nam đã ký kết “Hiệp định về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo việc giải quyết vấn đề Nam Hải giữa hai nước Trung Việt”.
Mặc dù Việt Nam đồng ý giữ sự bình tĩnh và kiềm chế giữa hai bên về vấn đề nam Hải, không áp dụng những hành động làm cho sự tranh chấp phức tạp, lan rộng thêm! Sắp tới hai bên còn phải xúc tiến sự đàm phán về việc phân giới khu vực ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ một cách vững chắc, đồng thời tích cực bàn thảo về vấn đề khai thác chung ở vùng biển này. Tuy nhiên đến ngày hôm sau, Việt Nam đã ký với Ấn Độ Hiệp định Hợp tác Khai thác Tài nguyên Dầu khí ở Nam Hải, rồi tiếp đó Việt Nam lại còn rầm rộ tuyên bố kế hoạch mua sắm vũ khí, hoàn toàn vứt bỏ bản hiệp định đã ký giữa hai nước Trung-Việt ra khỏi đầu, lúc này Việt Nam lại cố tình dùng thủ thuật để tránh cho người ta khỏi nghi ngờ về lập trường chân thực của mình về vấn đề Nam Hải!
Thực ra, Việt Nam luôn áp dụng lập trường nước đôi, hai mặt trong vấn đề Nam Hải. Về vấn đề Nam Hải, Việt Nam đã dựa vào sự ủng hộ của Mỹ, nhưng lại không phải là dựa hoàn toàn, mà giữ tính tự chủ lựa chọn tương đối lớn, biểu hiện: Mỹ vì muốn áp chế và phong tỏa Trung Quốc nên cần có sự phối hợp với Việt Nam về vấn đề Nam Hải, vì thế nên Mỹ đã chi viện quân sự và cho Việt Nam vay tiền, nhằm giúp Việt nam nâng cao thực lực quân sự, từ đó hỗ trợ Việt Nam áp dụng những hành vi khiêu khích Bắc Kinh ở Nam Hải, để đạt tới mục đích Mỹ kiềm chế được Trung Quốc. Nhưng Việt Nam không phối hợp hoàn toàn với chiến lược Nam Hải của Mỹ, mà là, một mặt khiêu khích Trung Quốc ở Nam Hải, mặt khác lại tổ chức đàm phán với Bắc Kinh, từ đó khiến cho kết quả mà Mỹ mong muốn nhìn thấy, bị rơi rụng đi nhiều.
Còn trong cuộc đọ sức với Trung Quốc, một mặt Việt Nam tiến hành đàm phán với Trung Quốc về vấn đề Nam Hải, nhưng lập tức bội tín luôn, vẫn tiếp tục khiêu khích Trung Quốc ở Nam Hải, đồng thời ngày càng tỏ thái độ cứng rắn hơn. Biểu hiện: Trong cả chuyến thăm Việt Nam lần này của Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình lẫn chuyến thăm Bắc Kinh vào tháng 10 của Tổng Bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Việt Nam đều ký kết với Trung Quốc nhiều hiệp định, hơn nữa còn bày tỏ mong muốn đàm phán với Trung Quốc về vấn đề Nam Hải, nhưng chuyến thăm vừa mới kết thúc được ít ngày, Việt Nam đã bội tín, bội nghĩa, dù không ký kết với nước khác hiệp định về Nam Hải, nhưng tiếp tục áp dụng thủ đoạn khiêu khích ở Nam Hải, hoặc mua sắm một lượng lớn vũ khí tiên tiến, dùng vũ lực để bảo vệ những lợi ích đã có được ở Nam Hải.
Việt Nam vừa liên hợp với Philippines, lại vừa chia tách với Philippines về vấn đề Nam Hải. Biểu hiện: Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang từng có chuyến thăm chính thức Philippines trong thời gian 3 ngày, ông tuyên bố với Tổng thống Philippines, Việt nam sẽ ủng hộ và hợp tác chặt chẽ với Philippines cùng các nước ASEAN khác, xúc tiến đề nghị về “Khu vực hòa bình, tự do, hữu nghị và hợp tác” do Philippines đề xuất, ủng hộ việc thực thi bản “Tuyên bố về hành vi giữa các bên ở Nam Hải”. Nhưng trong Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á tổ chức hồi tháng 11, Philippines đưa ra nghị án về tranh chấp ở Nam Hải, nhưng Việt Nam đã không hề ủng hộ Philippines về vấn đề này, từ đó khiến cho âm mưu quốc tế hóa vấn đề Nam Hải của Philippines bị phá sản!
Xét tình hình hiện nay, Việt Nam sẽ không từ bỏ hành vi khiêu khích Trung Quốc, lại càng sẽ không từ bỏ mưu cầu lợi ích đối với Nam hải. Sở dĩ Việt nam có thể sử dụng thủ đoạn lập lờ hai mặt đối với Trung Quốc, Mỹ và Philippines, chính là vì lợi dụng tất cả những lực lượng nào có thể lợi dụng được, để thực hiện tối đa hóa lợi ích của nước mình ở Nam Hải. Cùng với việc thực thi kế hoạch mua sắm vũ khí quy mô lớn, thực lực tổng thể về quân sự của Việt Nam sẽ có sự nhảy vọt về chất trong vòng vài ba năm tới, từ đó mà tăng cường được nguồn vốn cạnh tranh với Trung Quốc ở Nam Hải, nhằm đạt được sự uy hiếp quân sự đối với Trung Quốc, để Trung Quốc không còn dám dễ dàng áp dụng những hành vi quân sự đối với Việt Nam ở Nam Hải, từ đó mà bảo vệ được lâu dài cùng mở rộng lợi ích của Việt Nam ở Nam Hải!
Về vấn đề Nam Hải, không cần phải áp dụng chính sách hữu hảo với nước đã xâm phạm các đảo của Trung Quốc, biện pháp xoa dịu đối với Việt Nam về cơ bản đã không thể ngăn chặn được sự đòi hỏi của Việt Nam về chủ quyền đối với các hòn đảo đang tranh chấp, trái lại còn khiến cho họ có thái độ hai mặt, giành được nhiều lợi ích hơn trong cuộc đọ sức giữa các bên ở Nam Hải, từ đó hợp pháp hóa được các hòn đảo đã chiếm ở Nam Hải, trở thành một bộ phận không thể chia cắt trong lãnh thổ của mình. Trước cách làm của Việt Nam như vậy, Trung Quốc không cần phải suốt ngày hô to “gác tranh chấp, cùng nhau khai thác” nữa, mà cần áp dụng những hành động thực tế hữu hiệu hơn, bởi tất cả những hành động đã làm của Việt nam đủ để thấy họ chỉ muốn biến những hòn đảo tranh chấp ở Nam Hải thành lãnh thổ của mình, mà không hề đếm xỉa gì đến cái gọi là “gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác” của Trung Quốc. Cho nên Trung Quốc cần thay đổi sách lược Nam Hải hiện nay, lấy uy hiếp quân sự và trừng phạt kinh tế làm đàm phán hậu thuẫn, một khi đàm phán không đi đến hiệu quả, thì Trung Quốc hoàn toàn có thể thực thi sự trừng phạt nghiêm khắc.
Nếu như trừng phạt mà vẫn không ngăn chặn được sự khiêu khích của nước khác ở Nam Hải, thì cuối cùng Trung Quốc chỉ còn cách tuốt gươm, nếu không, các hòn đảo ở Nam Hải, Nam Sa, Tây Sa, sẽ biến thành lãnh thổ của nước khác hoặc sẽ bị xóa khỏi bản đồ cương giới của Trung Quốc, càng làm đau lòng thêm cho người dân Trung Quốc!
Ghi chú:
(1) Tức Biển Đông
(2) Trường Sa
(3) Hoàng Sa
Nguồn: Mạng Sina
- Tân Hoa xã: Giới chức cao cấp Việt Nam sẽ đi thăm Trung Quốc – (VOA). – Phó Chủ tịch Quốc hội VN, bà Tòng Thị Phóng, sẽ đi thăm Trung Quốc: Vice President of Vietnamese Parliament to Visit China (Prensa Latina). – Tập Cận Bình và những chiếc mỏ neo trên cà vạt của ông ta – (DLB). Cũng chuyện cà-vạt: Chiếc cà-vạt của ông Chirac và chính sách «ngoại giao hợp đồng» của Bắc Kinh (Thụy My).
- “Rồng lửa” Trung đoàn 257 luôn canh trời (PLVN).
-Trung Quốc - Mỹ: Biden Gets China (Atlantic 2-1-12) -- Phó tồng thống Biden sẽ phụ trách "Trung Quốc sự vụ" trong chính phủ Obama?
Tương lai Trung Quốc: China in 2012: fixated on stability as the pressures grow (FT 27-1-2-11) -- Yukon Huang's neat summary: "History will look back on 2012 as the year when China anointed its “fifth generation” of leaders and shifted to a slower growth trajectory. This transition will take place against a backdrop of daunting internal challenges -increasing social unrest, widening income disparities and both ecological and man-made disasters - and of escalating external tensions stemming from America’s “pivot” to Asia and simmering regional worries about China’s economic rise.-
Chính sách đối ngoại của Trung Quốc: Năm Thìn dự đoán chính sách đối ngoại Trung Quốc (TVN 2-12-11) -- Dịch bài: Year of the Dragon predictions for China's foreign policy (AsiaOne/China Daily 15-12-11)-
- Iran tiếp tục thách thức phương Tây — (RFI). - Iran quyết thách thức phương Tây (TN). - Iran thách thức phương Tây (PLTP). - Iran bắn tên lửa tầm xa (NLĐ). – Iran bắn thử thành công hai loại tên lửa tầm xa — (RFI). – Iran thử thành công lửa hành trình đất đối hạm Ghader (NLĐ). - Đồng bạc Iran sụt giá vì lo ngại về chế tài mới - (VOA). - Bộ trưởng Quốc phòng Israel: “Iran đang lo sợ” (VOV).
- Ấn Độ – Pakistan trao đổi thông tin về cơ sở hạt nhân — (RFI). – Ấn Độ đã nhận tàu ngầm nguyên tử Nerpa (QĐND).
-- Mỹ cảnh báo mối nguy vũ khí sinh học (NLĐ).
- 10 chuyện lạ lùng nhất năm 2011 (NLĐ).- Thế giới có những phát ngôn ấn tượng nào? (Bee).- Nước Mỹ…năm 2011 (Hiệu Minh). - Cuộc đua theo dõi toàn cầu (TN).- Đồng minh cùng đối thủ (TN).- Chiến tranh 140 từ trên Twitter (NLĐ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét