Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 18 tháng 3, 2014

Tại sao có sự khác biệt quá lớn giữa người Việt Nam và người Nhật Bản? - Từ Crưm đến Việt Nam, xa hay gần?

Bớt tiền “mộ treo” để xây cầu treo thay túi ni lông vượt sông!

Mới hôm kia loan tin Khởi công xây “mộ treo” thứ hai cho CT Hồ Chí Minh để các cuồng tín đồ của “Đạo Bác Hồ” mừng rơn hơn, thế rồi hôm nay lại bị cái chữ “treo” nó ám: “cầu treo“, qua vụ Bộ trưởng Giao thông vận tải Đinh La Thăng quyết sẽ xây cầu treo cho cô trò ở Điện Biên, để khỏi chui túi ni lông qua sông. 

Phải đặt ra vấn đề này vì nếu không có “giải pháp căn cơ” thì quyết định của Bộ trưởng Thăng chỉ “như muối bỏ bể”, lại dễ bị bọn xấu miệng nó cho là “nổ” cho oai, mị dân thôi v.v.. Đơn giản là tiền đâu mà xây một lúc được nhiều cầu, ở bao nhiêu là những nơi tương tự. 
Tất cả là ở … “Bác”. Tức là phải có tờ giấy có hình bác. Nhưng lại cũng chính “Bác” sẽ làm gương, để con cháu tiếp tục sống và làm việc, học tập theo gương “Bác” … đã chết. Nói chính xác là Bác chết rồi nhưng vẫn chu cấp tiền xây cầu cho dân được.
Vấn đề đơn giản là Bộ trưởng Thăng nên làm việc với Ban quản lý Lăng, đến thắp hương xin Bác bớt tiền xây “mộ treo” trên K9 (nếu cần bớt cả tiền vận hành, bảo trì Lăng nữa), để có tiền xây ngay vài chục cây cầu treo cho bà con. Từ đây, sẽ có rất nhiều quan lớn, các đại gia định xây mộ, lăng lăng nhăng tốn tiền của sẽ học Bác, bớt tiền mà giúp xây cầu cho dân.
Thế thôi!

Tại sao có sự khác biệt quá lớn giữa người Việt Nam và người Nhật Bản? (*)

(*) Nhân chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn San đến Nhật Bản, Bách Việt xin mạn phép đăng lại  nguyên văn bài viết của tác giả  Phạm Hoài Nam đăng tại Đàn Chim Việt (với một vài ảnh minh họa của Bách Việt mới chụp trong chuyến du lịch Nhật Bản gần đây). Nôi dung trong bài viết không nhất thiết phản ánh quan điểm của chủ blog. 



Đi bộ từ ga tàu điện đến cơ quan là cảnh tượng phổ biến 
Trước đây do công việc tôi có dịp đi Nhật nhiều lần cũng như đi nhiều nước khác trên thế giới. Nước Nhật không phải là nước mà tôi thích đến nhất (có thể vì đắt đỏ quá) nhưng đó là đất nước mà tôi nể phục nhất – không chỉ phục ở những thành tựu của sự văn minh, những công trình kiến trúc tuyệt mỹ mà còn ở yếu tố con người.
Kể từ đó tôi luôn tò mò tìm hiểu thêm về lịch sử và văn hóa của các con cháu Thái Dương Thần Nữ.
Càng biết thêm về họ tôi càng phục họ hơn. Đó là một dân tộc có nhiều điểm rất đặc biệt. Một dân tộc luôn tự hào về những giá trị truyền thống nhưng khi cần cũng sẵn sàng dứt bỏ những gì đã lỗi thời. Một dân tộc mang niềm kiêu hãnh lớn lao nhưng đồng thời cũng luôn biết học hỏi cái hay của người khác. Một dân tộc đã từng đánh bại các đế quốc Mông Cổ, Trung Hoa và Nga Sô nhưng cũng biết nuốt cái nhục bại trận để vươn lên thành một cường quốc kinh tế. Một dân tộc ít khi ồn ào lớn tiếng, và luôn xem trọng sự ngăn nắp sạch sẽ. Nhưng đặc biệt hơn cả – đó là một dân tộc chưa bao giờ biết đầu hàng trước nghịch cảnh.
Tôi nhớ trước đây có đọc một bài viết của một người Việt sống lâu năm tại Nhật, quên mất tên tác giả, trong đó ông có nêu ra một chi tiết để phân biệt giữa người Nhật bản địa và người ngoại quốc sống ở Nhật – đó là nhìn qua cách phơi quần áo. Người ngoại quốc phơi lung tung, còn người Nhật phơi theo thứ tự, quần theo quần, áo theo áo….
Đúng như nhà văn Haruki Murakami đã nhận định: “Người Nhật là kho tàng của nước Nhật”. Tôi rất cám ơn đất nước này vì chính người Nhật đã cho tôi một niềm tin rằng bất cứ một đất nước nào, dù nhỏ, dù bị bất lợi về địa lý, tài nguyên… nhưng nếu dân tộc đó có một nhân sinh quan đúng đắn thì vẫn có thể trở thành một dân tộc giàu mạnh.
* * *
Thiên tai động đất và sóng thần xảy ra ở Nhật cách đây 2 tháng, mặc dầu những tin tức liên quan đến biến cố này không còn được nhắc đến nữa, nhưng đối với những người Việt Nam còn quan tâm đến đất nước thì những dư âm của nó vẫn còn để lại nhiều vương vấn suy tư. Cùng là hai nước nhỏ ở Á Châu nhưng định mệnh nào đã đưa đẩy hai dân tộc khác biệt nhau quá xa. Một dân tộc mà mỗi khi nhắc tới, từ Đông sang Tây, đều phải ngã mũ bái phục, còn dân tộc kia thì ít khi được nhắc đến, hay nếu có thì thường là những điều không lấy gì làm vinh dự cho lắm.
Sau biến cố này đã có hàng ngàn ý kiến xuất hiện trên các diễn đàn Internet đặt câu hỏi: “Tại sao lại có sự khác biệt quá lớn giữa người Việt và người Nhật”, phần lớn những ý kiến này xuất phát từ những người trẻ đang sống ở Việt Nam. Đó là một tín hiệu đáng mừng cho thấy có nhiều người Việt Nam đang thao thức muốn thay đổi số phận của đất nước mình.
Đây là một đề tài rất lớn và đòi hỏi sự suy nghĩ, nghiên cứu nghiêm túc của nhiều người nhất là những nhà trí thức. Bài viết này để chia sẻ câu hỏi đó và chỉ nên xem như những lời góp ý rất khiêm tốn.
Sự chênh lệch giữa Việt Nam và Nhật Bản không phải chỉ xảy ra bây giờ, từ đầu thế kỷ 20 Nhật đã vượt ta rất xa. Trong cuốn “Niên Biểu” cụ Phan bội Châu đã kể lại kinh nghiệm của mình sau hai lần đến nước Nhật để tìm đường cứu nước (lần đầu tiên vào năm 1905). Những điều tai nghe mắt thấy tại đây khiến cụ rất phục tinh thần của dân tộc Nhật Bản. Người phu xe, thuộc giai cấp lao động bình dân, chở cụ đi tìm một sinh viên người Trung Hoa, mất nhiều thời gian công sức mà cuối cùng vẫn nhận đúng 52 xu: “Than ôi! trình độ trí thức dân nước ta xem với tên phu xe Nhật Bản chẳng dám chết thẹn lắm sao!”.
Nước Nhật nằm ở vị trí đầu sóng ngọn gió, chịu liên tục những thiên tai trong suốt chiều dài lịch sử và họ chấp nhận định mệnh đó với lòng can đảm. Thiên tai vừa rồi rất nhỏ so với trận động đất tại Tokyo vào năm 1923 và hai quả bom nguyên tử vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến. Nhờ phương tiện truyền thông quá văn minh cho nên cả thế giới vừa rồi có cơ hội nhìn thấy rõ hơn “tinh thần Nhật Bản” trong cơn nguy biến.
Trận động đất xảy ra tại Tokyo ngày 1/9/1923 đã làm cho 130,000 người thiệt mạng, Yokohama bị tàn phá hoàn toàn, phân nửa của Tokyo bị tiêu hủy. Trong quyển “Thảm nạn Nhật Bản” (Le désastre Japonais) của đại sứ Pháp tại Nhật thời đó thuật lại: ”Từng cá nhân kẻ góp chút gạo, kẻ đem chiếc xuồng để giúp đỡ nhau như một đại gia đình”chứng tỏ là họ có một truyền thống tương thân tương ái lâu đời.
Vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến hai quả bom nguyên tử bỏ xuống Hiroshima và Nagasaki, ngay lập tức làm thiệt mạng khoảng 150,000 người. Những thành phố kỹ nghệ của Nhật cũng bị tàn phá nặng nề vì những trận mưa bom của phi cơ Đồng Minh. Lần đầu tiên trong lịch sử người Nhật phải chấp nhận đầu hàng và là nỗi nhục quá lớn đối với họ như lời của Nhật Hoàng Hirorito: “Chúng ta phải chịu đựng những điều không thể chịu đựng nỗi”.
Không có hình ảnh nào thê thảm như nước Nhật lúc đó, kinh tế gần như bị kiệt quệ hoàn toàn. Tuy nhiên Đồng Minh có thể tiêu diệt nước Nhật nhưng không thể tiêu diệt được tinh thần của người Nhật, họ đã biến cái nhục thua trận thành sức mạnh để vươn lên từ đống tro tàn.
Một bảo tàng được tổ chức chỉnh chu 
Đến năm 1970, chỉ có 25 năm, một nước bại trận hoang tàn đổ nát trở thành một cường quốc kinh tế đứng thứ nhì trên thế giới, chỉ thua có Hoa Kỳ. Danh từ “Phép lạ kinh tế” phát xuất từ hiện tượng này.
Trong 7 năm từ 1945 cho đến 1952, tướng MacArthur, thay mặt Hoa Kỳ quản trị nước Nhật với tư cách là Chỉ Huy Tối Cao của Lực Lượng Đồng Minh (Supreme Commander of the Allied Powers) – vì nể phục và quý mến người Nhật cho nên vị tướng này muốn biến nước Nhật trở thành một “Nước Mỹ lý tưởng” hay nước Thụy Sĩ ở Á Châu. Tuy cuối cùng kết quả không được trọn vẹn như ý muốn của ông vì người Nhật không thể để mất hồn tính dân tộc. Nhưng nước Nhật được như ngày nay có công đóng góp rất lớn của tướng MacArthur.
Trở lại chuyện thiên tai vừa rồi, ngay sau đó có cả ngàn bài viết ca ngợi tinh thần của người Nhật. Nhiều tờ báo lớn của Tây Phương đi tít trang mặt: “Người Nhật: Một Dân Tộc Vĩ Đại”. Nhật báo lớn nhất của Mỹ, New York Times, số ra ngày 20 tháng 3 đăng bài “Những điều người Nhật có thể dạy chúng ta” của ký giả Nicholas Kriftoff.
Đúng như lời của nhà báo Ngô Nhân Dụng đã viết: “Một dân tộc, và mỗi con người, khi bị thử thách trong cơn hoạn nạn, là lúc chứng tỏ mình lớn hay nhỏ, có đáng kính trọng hay không”.
Một đất nước mà trong cơn khốn khó, không đổ lỗi cho nhau, từ quan đến dân, trăm người như một, trên dưới một lòng lo tìm cách đối phó, thì đất nước đó xứng đáng là một đất nước vĩ đại. 
Dùng từ vĩ đại đối với nước Nhật không cường điệu chút nào, họ vĩ đại thật. Giữa cảnh chết chóc, nhà cửa tan nát, đói lạnh, tuyệt vọng… vậy mà họ vẫn không để mất nhân cách, mọi người nối đuôi nhau chờ đợi hàng giờ để lãnh thức ăn, tuyệt đối không oán trách trời, không trách chính quyền, không lớn tiếng, không ồn ào, kiên nhẫn chờ đợi đến phiên mình.
Một đất nước mà trong cơn khốn khó, không đổ lỗi cho nhau, từ quan đến dân, trăm người như một, trên dưới một lòng lo tìm cách đối phó, thì đất nước đó xứng đáng là một đất nước vĩ đại.
Toàn bộ nội các Nhật làm việc gần như 24/24. Các hiệu trưởng ngủ lại trường cho đến khi học sinh cuối cùng được di chuyển đi. Các siêu thị hoàn toàn không lợi dụng tình cảnh này để tăng giá. Tiền rơi ngoài đường từ những căn nhà đổ nát không ai màng tới thì đừng nói chi đến chuyện hôi của. Ông Gregory Pflugfelder, giáo sư chuyên nghiên cứu văn hóa Nhật Bản tại Đại Học Columbia (Mỹ) đã nhận xét về người Nhật sau thiên tai này như sau: “Hôi của đơn giản là không xảy ra ở Nhật Bản. Tôi thậm chí còn không chắn rằng trong ngôn ngữ Nhật Bản có từ ngữ này.
Người Nhật là một dân tộc có tinh thần độc lập, tự trọng và lòng yêu nước rất cao, không chờ đợi ai mở lòng thương hại, sau những hoang tàn đổ nát, mọi người cùng nhau bắt tay xây dựng lại.
Mặc dầu chính phủ Hoa Kỳ đề nghị đến giúp dập tắt lò nguyên tử Fukushima nhưng họ từ chối.
Xa lộ tại thành phố Naka, thuộc tỉnh Ibaraki bị hư hại nặng do động đất. Chỉ một tuần sau, ngày 17/3 các công nhân cầu đường Nhật bắt đầu sửa chữa, chỉ 6 ngày sau xa lộ này đã hoàn tất, ngay cả Hoa Kỳ có lẽ cũng không thể đạt được kỷ lục này.
Từ Nhật Hoàng Akihito, Thủ Tướng Naoto, cho đến các thường dân đều tự tin rằng: “Chúng tôi sẽ phục hồi” như họ đã từng làm trong quá khứ. Cho đến hôm nay (18/5) theo những tin mà chúng ta đọc được trên Internet thì những nơi bị tàn phá đang được phục hồi nhanh chóng. Có thể chỉ 2, 3 năm sau nếu có dịp đến đây chúng ta sẽ thấy cảnh vật hoàn toàn thay đổi.
Điều đáng chú ý nhất trong thiên tai này đối với người viết – chính là thái độ của trẻ em. Đến xứ nào, chỉ cần nhìn qua tuổi trẻ là có thể đoán được tương lai của xứ đó, bởi vì tuổi trẻ là hy vọng, là tương lai của đất nước. Không phải chỉ có em học sinh 9 tuổi mất cha mất mẹ, đang đói khát nhưng vẫn từ chối sự ưu tiên hơn người khác được cả thế giới biết đến, mà còn có cả ngàn em học sinh Nhật khác trong hoàn cảnh tương tự vẫn luôn luôn giữ tinh thần kỹ luật và lễ phép.
Những em nhỏ, có em còn được bồng trên tay, có em ngồi bên cạnh mẹ trong các nơi tạm cư, mặc dầu đói khát từ mấy ngày qua nhưng nét mặt của các em vẫm bình thản chờ đợi thức ăn mang đến. Những em bé này được dạy dỗ từ nhỏ tinh thần kỷ luật, tự trọng, danh dự và khắc kỷ… không phải chỉ học ở trường hay qua sách vở mà còn qua những tấm gương của người lớn trong những hoàn cảnh thực tế và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Mai đây nếu có một cuốn sách giới thiệu những nét đẹp nhất, cao thượng nhất của con người sống trên hành tinh này thì cuốn sách đó không thể thiếu được những hình ảnh của người Nhật trong thiên tai vừa qua.
Nước Nhật đâu đâu cũng thấy cây cỏ hoa lá xanh tươi nhờ bàn tay chăm bón của con người  
Trông người lại nghĩ đến ta!
Trong bài “Góc ảnh chiếu từ nước Nhật”, nhạc sĩ Tuấn Khanh (ở VN) đã viết một câu thật thấm thía:
Đôi khi giữa những hoang tàn đó của nước Nhật, người ta bừng sáng hy vọng và đôi khi sống giữa những điều được gọi tên là bình yên của đất nước mình, một người Việt Nam vẫn có thể cảm nhận được những ảnh chiếu sắc cạnh của sự hoang tàn”.
Một số người đặt câu hỏi: Nếu tai họa như nước Nhật xảy ra tại VN thì chuyện gì sẽ xảy ra?Bà Mạc Việt Hồng đã diễn tả bức tranh đó như thế này:
- Động đất có khi chết 200 nhưng giẫm đạp lên nhau mà chạy, chết thêm nghìn nữa.
- Các ban ngành sẽ họp bàn cách cứu hộ từ ngày này qua ngày kia.
- Cướp giật hôi của sẽ phổ biến, hoa người ta còn cướp giật nói chi tới đồ ăn hay tiền bạc vào lúc hỗn quan hỗn quân như vậy. Người đi hôi của sẽ nhiều hơn người đi cứu trợ.
- Nếu có phát khẩu phần ăn sẽ chẳng có hàng lối gì, bà già trẻ nhỏ sẽ bị chen cho bẹp ruột, ai thắc mắc hay nhìn đểu mấy kẻ chen lấn, thì “bố cho mày mấy chưởng”.
- Sẽ xuất hiện đủ loại cò: Cò mua, cò bán, cò di tản, cò cứu trợ, cò bệnh viện… tha hồ chặt chém đồng bào.
- Tiền và hàng cứu trợ sẽ vào tay dân thì ít, cửa quan thì nhiều.
- Ai muốn người nhà mình đang kẹt trong đống đổ nát được đào bới, tìm kiếm trước thì hãy chi đẹp cho đội cứu hộ.
- Khu nào có quan chức ở thì được ưu tiên cứu hộ trước, khu nào dân đen sinh sống thì cứu sau.
- Cửa hàng sẽ thi nhau tăng giá, bắt chẹt những người khốn khổ.
- Tổ chức nào, tôn giáo nào muốn cứu trợ thì phải được sự đồng ý của Mặt trận Tổ quốc và các cấp chính quyền kẻo các “thế lực thù địch” lợi dụng.
…v.v….
Tôi không nghĩ là bà Mạc Việt Hồng nói quá đáng. Chúng ta cũng không cần phải có kinh nghiệm thực tế, chỉ cần đọc qua báo trong nước sau mỗi lần có thiên tai cũng đủ biết là những ghi nhận trên của tác giả không sai chút nào. Nói chung nạn nhân nếu muốn sống sót phải làm theo bản năng “mạnh được yếu thua” hay “khôn nhờ dại chịu”, còn quan chức chính quyền thì coi đó như thời cơ để kiếm tiền.
Ngay tại hải ngoại, nếu thiên tai xảy ra tại những nơi tập trung đông đúc người Việt, phản ứng của người dân có thể không tệ như trong nước nhưng chắc chắn bức tranh đó cũng sẽ không được đẹp đẽ cho lắm.
Có thể có những quý vị nghĩ rằng: không nên quá đề cao người khác và rẻ rúng thân phận của mình – vì phải giữ lại niềm tự hào dân tộc. Riêng tôi thì không đồng ý với những quan điểm như thế.
Có hãnh diện gì khi nói ra những điều không hay về chính dân tộc mình, người viết cũng là người Việt, cũng có tất cả những thói hư tật xấu của người VN. Nhưng thiết nghĩ, muốn thoát khỏi sự thua kém, trước hết phải dám can đảm biết nhìn lại chính mình, phải biết mình tốt chỗ nào, xấu chỗ nào, đang đứng tại đâu và cần phải làm những gì. Cũng giống như một người sinh ra trong một gia đình nghèo khó bất hạnh, phải biết chấp nhận số phận đó, nhưng chấp nhận để tìm cách vươn lên chớ không phải chấp nhận để đầu hàng hoàn cảnh. Gần một trăm năm nước đây, Lỗ Tấn từ bỏ nghề y chuyển sang viết văn để mong đánh thức được dân tộc Trung Hoa ra khỏi căn bệnh bạc nhược bằng những toa thuốc cực đắng như “AQ chính truyện”, gần đây nhà văn Bá Dương tiếp nối tinh thần đó với “Người Trung Quốc xấu xí” cũng được nhiều đồng bào của ông cho đó là một đóng góp đáng kể. Cuộc cách mạnh Duy Tân của Minh Trị Thiên Hoàng vào giữa thế kỷ 19 chắc chắn sẽ không thành công được như vậy nếu những nhà tư tưởng của Nhật lúc đó không vạch ra cho đồng bào của họ thấy được những những cái yếu kém trong văn hóa truyền thống cần phải bỏ đi để học hỏi những cái hay của Tây Phương, nhà văn Miyake Setsurei, dành riêng một cuốn sách công phu “Người Nhật xấu xa” xuất bản năm 1891 để đánh thức người Nhật ra khỏi căn bệnh lạc hậu.
Chúng ta chỉ có thể yêu nước nếu chúng ta có niềm tự hào dân tộc. Nhưng tự hào vào những điều không có căn cứ hay không có thật sẽ có tác dụng ngược như những liều thuốc an thần.
Những tự hào giả tạo này có khi vì thiếu hiểu biết, có khi vì mưu đồ chính trị của kẻ cầm quyền như những gì mà người CS đã làm đối với dân VN trong hơn nửa thế kỷ qua, và tác hại của nó thì ngày nay chúng ta đã thấy rõ.
Người Việt có những mâu thuẫn kỳ lạ. Chúng ta mang tự ái dân tộc rất cao nhưng đồng thời chúng ta cũng mang một tinh thần vọng ngoại mù quáng. Chúng ta thù ghét sự hiện diện của ngoại bang trên đất nước chúng ta bất kể sự hiện diện đó có chính đáng đến đâu, nhưng đồng thời giữa chúng ta cũng không tin lẫn nhau, xưa nay mọi giải pháp quan trọng của đất nước chúng ta đều trông chờ vào người ngoại quốc, chớ không tự quyết định số phận của mình.
Mỗi khi nói về những tệ hại của đất nước VN hiện nay đa số chúng ta thường hay đổ hết trách nhiệm cho người Cộng Sản. Thật sự CS không phải là thành phần duy nhất chịu trách nhiệm cho những bi kịch của đất nước hôm nay, họ chỉ là sản phẩm đương nhiên của một nền văn hóa thiếu lành mạnh. Nếu CS là nguyên nhân của mọi sự xấu xa thì thành phần người Việt đang sống tại những quốc gia văn minh và giàu có nhất thế giới như Hoa Kỳ, Canada, Úc… phải là những người thể hiện nếp sống văn hóa cao xứng đáng với xã hội văn minh mà họ thừa hưởng. Nhưng không, những người Việt đó, tuy khá hơn người trong nước nhưng vẫn thua kém nhiều sắc dân khác, vẫn mang tất cả những khuyết tật mà cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã nêu ra gần một trăm năm trước. Vẫn chia rẽ, vẫn tỵ hiềm nhau, vẫn xâu xé lẫn nhau, có khi chỉ vì bất đồng quan điểm, có khi chỉ vì một quyền lợi thật nhỏ, thậm chí có khi chỉ vì một hư danh.
Không phải là một tình cờ của lịch sử mà chủ nghĩa CS đã dành được những thắng lợi trong cuộc cách mạng mùa thu năm 1945, và luôn luôn giữ thế thượng phong trên đất nước VN từ đó đến nay. Dân tộc VN đã chọn Hồ Chí Minh thay vì Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim… hoàn toàn không phải vì Hồ Chí Minh giỏi hơn, yêu nước hơn, nhiệt tình hơn những người kia, nhưng chỉ vì Hồ Chí Minh đáp ứng đúng tâm lý của người Việt – đó là tâm lý tôn thờ bạo lực. Chắc chắn không có nước nào trên thế giới này mà bài Quốc Ca có câu sắt máu như thế này: “Thề phanh thây uống máu quân thù”, mà “quân thù” đó bất cần là ngoại bang hay đồng bào ruột thịt, nghe mà rợn người. Khẩu hiệu của phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh vào những năm 1930, 31 do đảng CS lãnh đạo là: Trí, phú, địa, hào – Đào tận gốc trốc tận rễ.
Đối với người VN bạo lực có sức quyến rũ hơn là nhu cầu khai sáng trí tuệ để giải quyết vấn đề một cách ôn hòa. Hồ Chí Minh chọn chủ nghĩa CS dựa trên bạo lực cách mạng và đấu tranh giai cấp. Giải pháp bạo lực này đòi hỏi phải luôn tồn tại một kẻ thù làm đối tượng. Hết kẻ thù thực dân phải tìm ra một kẻ thù khác để có lý do hành động, chính vì thế cho nên máu và nước mắt vẫn tiếp tục rơi trên đất nước VN trong suốt hơn nửa thế kỷ qua.
Hoàn toàn trái ngược với Hồ Chí Minh, Phan Chu Trinh chọn giải pháp Khai Dân trí, Chấn Dân Khí, Hậu Dân sinh. Theo ông, muốn thoát khỏi ách đô hộ của ngoại bang và sự nghèo khổ lạc hậu, trước hết phải nâng cao dân trí, mở mang trí tuệ. Dân trí cao người dân sẽ ý thức được quyền làm người, quyền dân tộc, rồi từ đó sẽ tranh đấu bằng giải pháp chính trị để giành độc lập. Dân trí thấp kém cho dù có dành được độc lập thì vẫn tiếp tục là một dân tộc nô lệ ở một hình thức khác.
Có thể nói trong lịch sử hiện đại của VN, ông là một trong những người Việt hiếm hoi nhìn ra nguyên nhân mất nước, nguy cơ dân tộc, không phải ở đâu khác mà là trong văn hóa, từ văn hóa mà ra.
Sau Đệ Nhị Thế Chiến có gần 30 nước dành được độc lập, phần lớn không đổ một giọt máu, chỉ có vài nước chọn chủ nghĩa CS trong đó có VN, phải trả bằng máu và nước mắt của hàng triệu sinh mạng để cuối cùng trở thành một trong những nước nghèo khổ và lạc hậu nhất thế giới. Chọn lựa này là chọn lựa của dân tộc, của VN chớ không phải do sức ép của ngoại bang hay một lý do gì khác. Người Cộng sản biến dân tộc VN trở thành một lực lượng tiên phong trong cuộc tranh chấp giữa hai khối CS và Tự Do và luôn luôn hãnh diện với thế giới về một dân tộc “bước ra khỏi cửa là thấy anh hùng”.
Hà Sĩ Phu đã có nhận xét rất đúng là giữa Hồ Chí Minh và Phan Chu Trinh, dân tộc VN đã chọn Hồ Chí Minh và những bi kịch của đất nước hôm nay là cái giá phải trả cho sự chọn lựa đó.
Thật cay đắng cho những người hết lòng vì nước vì dân như Phan Chu Trinh, mặc dầu nhìn xa thấy rộng, tư tưởng nhân bản, kiến thức uyên bác, lòng yêu nước và nhiệt tình có thừa, nhưng cuối cùng Phong Trào Duy Tân của cụ đã thất bại chỉ vì không được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng, ngay cả cụ Phan Bội Châu – một đồng chí thân thiết với cụ trong nhiều năm cũng không ủng hộ quan điểm của cụ.
Là một người yêu nước chân thật ông không tự lừa dối mình và lừa dối dân tộc của mình bằng những chiêu bài mị dân, những điều tự hào không có thật. Ông là người nhìn thấy được vấn đề, và cố gắng đi tìm một phương thuốc cứu chữa.
Nhưng tại những nơi mà lưỡi gươm có tác dụng mạnh hơn ngòi bút thì những tiếng nói nhân bản như ông trở thành những tiếng kêu giữa sa mạc hoang vắng và ông trở nên lạc lõng trong một xã hội mà nếp suy nghĩ hủ lậu đã bám rễ quá lâu và quá chặt, trở thành một căn bệnh trầm kha hủy hoại đất nước và làm cho dân tộc sa vào vòng nô lệ.
Nhìn qua đất nước Nhật Bản, một dân tộc có chiều dài lịch sử gần giống như chúng ta, có diện tích gần bằng, dân số không chênh lệnh mấy (127 triệu so với 87 triệu), cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và Khổng Giáo, không khỏi làm cho chúng ta đau lòng khi thấy được sự khác biệt quá lớn giữa hai đất nước. Sự khác biệt về kinh tế, sự giàu có tiện nghi không phải là điều quan trọng, chủ yếu là sự khác biệt về cách suy nghĩ (mentality) giữa hai dân tộc. Vào thời điểm 1858, khi người Pháp bắt đầu xăm lăng VN thì dân ta vẫn còn u mê bám vào những giá trị đã lỗi thời, người Nhật tức thời bỏ những truyền thống hủ lậu, học hỏi những cái hay của Tây Phương để bắt kịp họ. Đến thời điểm sau Đệ Nhị Thế Chiến, VN muốn trở thành biểu tượng của một dân tộc anh hùng, người Nhật biết nuốt nhục của kẻ thua trận chịu sự đô hộ của Mỹ, tận dụng lòng mã thượng của kẻ chiến thắng, dồn mọi sinh lực dân tộc để vươn lên thành một cường quốc kinh tế.
Tại sao lại có sự khác biệt như vậy? Những nghiên cứu công phu và nghiêm chỉnh của các cơ quan quốc tế gần đây như Cơ quan Phát Triển Liên Hiệp Quốc (United Nations Development Program – UNDP) đã chứng minh một cách thuyết phục rằng sự chênh lệnh giàu nghèo giữa các quốc gia chủ yếu không phải do yếu tố địa lý, tài nguyên thiên nhiên, tôn giáo, chủng tộc… mà chủ yếu là do yếu tố văn hóa. Văn hóa quyết định tất cả. Văn hóa tạo ra nếp suy nghĩ (mentality) của mỗi dân tộc, và chính nếp suy nghĩ này làm cho mỗi dân tộc có ứng xử khác nhau khi đương đầu với cùng một thử thách. Tại sao có những dân tộc mà quan chức chính phủ tham nhũng cả hàng triệu đô la như ở các nước Phi Châu hay VN ngày nay mà mọi người vẫn xem đó là chuyện bình thường, trong lúc đó tại một nước khác – một bộ trưởng chỉ vì nhầm lẫn nhận 600 đô cho quỹ tranh cử đã phải xin lỗi quốc dân rồi từ chức (1)? tại sao một quốc gia nhỏ bé như Do Thái chưa tới 3 triệu dân (2) có thể chiến thắng cả khối Á Rập trong cuộc chiến năm 1967 và tồn tại vững mạnh cho đến ngày hôm nay? Trong lúc đó có những nền văn minh đã từng một thời ngự trị thế giới mà ngày nay biến mất … và còn cả ngàn thí dụ khác để chứng minh rằng chính yếu tố văn hóa quyết định sự tồn vong và sự lớn bé của mỗi dân tộc.
Những dân tộc như Đức, Nhật, Do Thái, Thụy Sĩ, Hòa Lan, Hoa Kỳ… cho dù bị thiên tai tàn phá đến đâu, cho dù sống ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn có thể vươn trở thành những nước giàu mạnh, trái lại những xứ như Iraq, Nigeria, Venezuela, Angola, Libya… mặc dầu tràn ngập dầu hỏa nhưng vẫn là những nước nghèo.
Bước ngoặt quan trọng nhất đã làm thay đổi khoảng cách giữa ta và Nhật chính là cuộc cách mạng Duy Tân tại Nhật bắt đầu từ năm 1868. Trong lúc người Nhật tức thời thay đổi thì các vua chúa VN vẫn còn ngủ mê bên trong các bức tường cung điện ở Huế. Họ không thấy được thế giới đã thay đổi, vẫn tiếp tục tôn sùng và thần tượng Trung Quốc trong lúc nước này đã bị thua thê thảm trước sức mạnh của Tây Phương.
Vào tháng 7 năm 1853 khi triều đình Tokugawa từ chối không cho Thuyền trưởng người Mỹ Mathew Perry lên bờ để trao bức thư của Tổng Thống Fillmore, ông ra lệnh bắn vào thành phố Edo (Tokyo ngày nay). Những quả đại bác này đã làm cho người Nhật thức tỉnh ngay. Lòng ái quốc và niềm tự hào dân tộc đã làm cho họ đoàn kết lại để tìm cách giúp đất nước thoát khỏi nguy cơ nô lệ. Chính sự thức tỉnh này đã mở đầu cuộc cách mạng Minh Trị Duy Tân kéo dài 44 năm. Đó là một cuộc cách mạnh đúng nghĩa, một cuộc cách mạng triệt để, họ làm đến nơi đến chốn, kẻ đi Mỹ, người đi Âu Châu, kẻ đi chính thức người đi lậu bằng cách trốn xuống tàu buôn Tây Phương như trường hợp của thần đồng Yoshida Shôin, tất cả đều cùng một mục đích là tìm đến tận nguồn cội của nền văn minh để học hỏi những cái tinh túy mang về thay đổi đất nước. Họ từ bỏ một cách dứt khoát tất cả những cái cũ không còn hợp nhưng không để mất tinh thần độc lập. Họ không phải chỉ có một ông vua Minh Trị hết lòng yêu nước mà cả trăm ngàn những tấm lòng như thế quyết tâm đưa nước Nhật lên vị trí ngang hàng với các nước Tây Phương.
Khi nói đến cuộc Duy Tân Minh Trị nhiều người vẫn lầm tưởng đó là cuộc cách mạng kỹ nghệ, mở cửa để giao thương và học hỏi kỹ thuật của Phương Tây. Thật sự không phải như thế, học hỏi kỹ thuật chỉ là mặt nổi, chủ yếu là người Nhật học hỏi những tinh túy về tư tưởng của người Tây Phương để khai sáng trí tuệ cho dân tộc của họ.
Chỉ có vài quả bom của Thuyền Trưởng Mathew Perry đã làm cho người Nhật thức tỉnh, trong lúc đó nhìn lại đất nước chúng ta, kể từ thời điểm 1853 cho đến hôm nay đã có hàng trăm ngàn quả bom đã rơi xuống đất nước Việt Nam, không những chỉ tàn phá hình hài đất nước mà còn làm tan nát tâm hồn dân tộc với bao sự ngậm ngùi, nhục nhã đắng cay của một dân tộc nhược tiểu. Nhưng tất cả những nỗi đau đó vẫn chưa đủ để làm cho người Việt thức tỉnh, để thấy cần phải có một nhu cầu thay đổi cần thiết như người Nhật đã làm từ giữa thế kỷ thứ kỷ 19.
Vào tháng 8 năm 1858 người Pháp bắt đầu cuộc chiến xăm lăng đất nước VN, trước đó vào mùa thu năm 1847 để phản đối chính sách cấm đạo của vua Thiệu Trị, Trung tướng Rigault de Genouilly đã bắn chìm 5 chiếc thuyền của Việt Nam, năm 1842 Trung Quốc đã bại trận thê thảm trước sức mạnh của Tây Phương trong cuộc chiến Nha Phiến. Nhưng tiếc thay tất cả những dấu hiệu cảnh cáo đó vẫn chưa đủ để làm cho triều đình nhà Nguyễn thức tỉnh. Đến lúc đó họ vẫn không nhận ra rằng đất nước đang đứng trước khúc quanh của lịch sử. Từ thời điểm năm 1842 hay 1847 cho đến 1858, đó là một khoảng thời gian rất dài (14 năm), nếu các vua nhà Nguyễn thức thời, khôn khéo như các vua chúa Nhật Bản thì đất nước chúng ta đâu phải chịu 80 năm đô hộ của người Pháp và đâu phải chịu tai họa Cộng Sản kéo dài đến hôm nay.
© Phạm Hoài Nam
______________________

Ghi chú:

(1) Ngoại trưởng Nhật Seiji Maehara từ chức ngày 6 Tháng Ba 2011 vì nhận 600 Mỹ kim cho quỹ chính trị từ một người ngoại quốc.
(2) Dân số Do Thái vào thời điểm 1967 là 2.7 triệu người.

Vung cả trăm tỉ tìm hàng xóm mất tích, còn người nhà mình bị bắt đi làm đĩ thì có “tỉ” nào không?

Đó là một cách thử đưa hình tượng để so sánh cho dễ thấy những gì phi lý, cần suy nghĩ.
Câu chuyện ở một đại gia đình nọ, nhà nghèo, ông bà bố mẹ già yếu, với một lũ con cháu dốt nát, lười biếng, hoang toàng, lại đua nhau ăn cắp, tiêu pha phá gia chi tử.

Một ngày kia, nhà hàng xóm kêu ca có người bị mất tích. Lũ con cháu hăm hở bủa đi tìm, vung tiền tiêu tốn, nghe tin tới những cả trăm tỉ (1). Với bọn chuyên ăn tàn phá hại này thì làm sao biết nó có tranh thủ chấm mút gì hay không. Trong khi đó thì chúng nó chẳng màng chính trong gia đình mình có không biết bao nhiêu những đứa em, đứa cháu bị côn đồ nó bắt cóc, dụ dỗ đem bán làm đĩ khắp nơi, nổi tiếng ra cả làng cả huyện, có bao giờ nghe chúng nó chi tới bạc tỉ để mà tìm kiếm?
Bố mẹ, ông bà già mà có nổi xung chửi “Cha tiên sư bố lũ con hoang!” thì chết với chúng nó ngay. Nói chả ngoa, hôm nọ mới có ai đó trong nhà thắc mắc tẹo mà chúng nó đã chửi đổng ngay, chửi như Chí Phèo, chẳng rõ chửi ông bố, bà mẹ hay ông bà nội ngoại nào của chúng nó. Thằng con hoang này nó có tên là “An ninh Thủ đô” (2).
Không biết có ai trong gia đình đặt dấu hỏi, là có phải chúng nó hăng hái, dám chi hoang thế là vì muốn nịnh nọt tay hàng xóm có tên là “Bạn vàng bốn tốt” chuyên lấn chiếm cướp phá nhà mình hay không? Có đứa còn nức nở tự sướng khoe là thằng “Bạn vàng bốn tốt” nó ca ngợi nhà mình hết lời. (3)
Thế mà cũng chưa hết chuyện oái oăm. Tìm chán chê, giờ cả làng mới biết nhà hàng xóm bị mất người đã đưa tin đểu (4), làm nhà mình tốn tiền oan. Ấy thế mà tự nhiên hôm nay nó còn gọi điện hỏi han ngớ ngẩn, là xem người nhà nó có chạy sang nhà mình không. (5)
Chuyện chả ra làm sao! 

1- Việt Nam chi 20 tỷ đồng/ngày tìm máy bay mất tích? (Người đưa tin).
2- Trên các trang mạng xã hội có tự do thật không? (An ninh Thủ đô).
3- Vụ máy bay mất tích: Báo Trung Quốc hết lời ca ngợi Việt Nam (Infonet).
4- Trung Quốc chỉ trích Malaysia đưa thông tin mâu thuẫn vụn vặt (GTVT).
5- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng điện đàm với Thủ tướng Malaysia về máy bay mất tích (BĐTCP).

Từ Crưm đến Việt Nam, xa hay gần?

 

Sáng nay, 17/3/2014, Crưm, phần lãnh thổ của Ucraina đã công bố kết quả “bỏ phiếu” để ly khai Ucraina và sáp nhập vào Nga. Kết quả được công bố là 96% số phiếu ủng hộ việc ly khai khỏi Ucraina để sáp nhập phần lãnh thổ này vào nước Nga. Như vậy, về hình thức, số phận của vùng lãnh thổ Crưm đã được định đoạt. 

Ucraina, một nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ đã tách ra khi khối cộng sản đổ sụp với những hệ lụy chưa dứt bởi sau khi chế độ cộng sản bạo tàn chấm dứt, đất nước này lại bị cai trị bởi nhà độc tài mang tên “Tổng Thống” – một hình thức độc tài mới theo kiểu Putin. Ở đó, Tổng thống Viktor Yanukovych đã sống như đế vương với đầy đủ sự xa hoa, sang trọng có thể có của một ông hoàng và mang đầy đủ sự căm phẫn đến tột độ của người dân. Kết quả là một cuộc lật đổ ngoạn mục và con đường của nhà độc tài là tháo chạy đến đồng minh. Thông thường, các chế độ độc tài tìm đến nhau ở những điểm chung để nương náu. Ở đây, Yanukovych đã tìm đến Putin. 
Crưm với diện tích gần 30 nghìn km 2 và số dân gần hai triệu người, trước khi xảy ra biến cố ở Ucraina, nó vẫn thuộc về Ucraina. Nhưng, kể từ khi chính biến xảy ra ở Ucraina, nhà độc tài “Tổng thống Viktor Yanukovych và các phụ tá chạy trốn khỏi dinh thự tổng thống bằng trực thăng” sang Nga, thì tình hình tại đây có nhiều biến động. Những đoàn quân không đeo phù hiệu, những đoàn chiến xa, trực thăng của Nga bay trên bầu trời Crưm, viên “tổng thống” lưu vong trên đất Nga… đã làm tình hình Crưm nóng lên từng ngày. Thế rồi với chiêu bài “bảo vệ lợi ích” của Nga trên khu vực này, Nga đã triển khai các hành động quân sự. Đi đôi với các hành động quân sự, là bộ máy ở Crưm được vận hành theo chiều hướng đổ về nước Nga ngoại bang. Kết quả là đi tới một cuộc “Trưng cầu dân ý” để “lấy ý kiến nhân dân” về việc sáp nhập vào Nga. 
Và dĩ nhiên là con số 96% cử tri đi bỏ phiếu đã chọn cách bám theo Nga. Điều mà người Nga mong đợi và cũng là những người yêu mến Ucraina cảm thấy xót xa đau đớn. Nhưng, điều nguy hiểm hơn, là việc này đã tạo một tiền lệ cho việc đòi sáp nhập vào Nga lan sang các vùng khác của Ucraina. 
Thế nhưng, chẳng lẽ cả khu vực rộng lớn 30.000 km vuông và hai triệu dân Crưm đã không ý thức được vấn đề dân tộc, đất nước… khi họ đồng tình với việc sáp nhập vào Nga? Tôi nghĩ rằng không hẳn vậy. Mặc dù có thể là cuộc “Trưng cầu dân ý” đã nêu lên tỷ lệ phiếu gần như tuyệt đối. 
Sở dĩ những nghi ngờ này có cơ sở tồn tại, chỉ vì việc gọi là “Trưng cầu dân ý” được thực hiện trong hoàn cảnh của Crưm nằm dưới sự kiểm soát của quân đội Nga. Quân đội Nga hiện đang kiểm soát phần lớn bán đảo đông người Nga sinh sống này và các cử tri được cho là sẽ ủng hộ việc tách khỏi Ukraina. Trong khi đó Nga can thiệp vào Crưm bằng cách kiểm soát các tòa nhà chính quyền và phong tỏa quân lính Ukraina tại các căn cứ của họ sau khi Tổng thống thân Nga Viktor Yanukovych bị quốc hội Ukraina phế truất trước sức ép biểu tình ở Kiev ngày 22/2. 

Những lời nói từ chính miệng Tổng thống Nga Putin lộ rõ sự dối trá khi cho rằng lực lượng mặc quân phục giống Nga không mang phù hiệu là “Lực lượng phòng vệ của Crưm” đã nhanh chóng bị lật tẩy. Những lời nói này, chỉ khẳng định thêm một lần nữa rằng cái nguồn gốc cộng sản trong con người Putin vẫn chưa mấy thay đổi, chỉ chờ dịp là tái diễn mà thôi. 

Trông người lại ngẫm đến ta 

Thoạt trông, những thông tin về tình hình Ucraina được đăng tải trên báo chí Việt Nam, đa phần có thái độ ủng hộ và đưa tin có lợi cho việc chiếm đóng và bành trướng của Nga làm người ta giật mình. Cái giật mình này cũng dễ hiểu, đó là sự giật mình về số phận của một dân tộc, một đất nước, một vùng lãnh thổ đang bên cạnh một kẻ lớn xác, nhưng mang đầy dã tâm xâm lược. Đặc biệt là khi ở đó có một bộ máy cầm quyền hèn nhát luôn tìm cách vừa lòng quân giặc, ngược lại luôn hung hãn với dân. 

Người ta có quyền đặt câu hỏi: Nếu một ngày nào đó, hoàn cảnh đất nước Việt Nam chúng ta trước bọn bành trướng Bắc Kinh tương đồng hoàn cảnh Ucraina trước nước Nga hiện nay, điều gì sẽ xảy ra? Những điểm tương đồng sau đây cho chúng ta những điều e ngại. 
- Trước hết, với làn sóng người Trung Cộng tràn ngập lãnh thổ Việt Nam không chỉ ở Miền Bắc, Miền Trung và cả Miền Nam, không chỉ là du lịch, làm ăn một năm dăm bảy tháng mà là các dự án thuê đất trồng rừng, cho thuê đất, biển đến 70 năm, các công trình dân dụng, công nghiệp đều có nhà thầu Trung Quốc… Các phố Tàu, xóm trọ người Tàu, khu công nghiệp người Tàu khắp nơi. Ai dám chắc chắn rằng sẽ không có lúc nào đó, theo gương người Nga, nhà cầm quyền Trung Quốc không đưa binh lính, xe tăng, đại bác và các phương tiện chiến tranh đến Việt Nam để “bảo vệ lợi ích” của đám người Tàu đã cắm chốt tại đó? 


- Với hai đảng “cùng ý thức hệ cộng sản”, khi lòng dân nổi giận, ai dám khẳng định rằng khi đó, Đảng CSVN không chạy sang Tàu để tìm chỗ dựa vững chắc cho sự tồn tại của ý thức hệ cộng sản. Và cũng chính vì thế, trên đất nước sẽ không thể thiếu những trò chính trị cù nhầy, bịp bợm, đánh tráo.
- Hẳn nhiên khi đó, chúng ta sẽ có những cuộc “Trưng cầu dân ý” và với sự lãnh đạo “sáng suốt,, tài tình và tuyệt đối” hiện nay của Đảng CS, thì tỷ lệ 96% thì còn là quá ít. Hãy nhìn xem cuộc “Lấy ý kiến về Dự thảo Hiến Pháp” (LYKDTHP) vừa qua ở Việt Nam thì sẽ rõ. Những con số hàng chục triệu ý kiến đồng tình với bản Dự Thảo Hiến Pháp mà tuyệt nhiên không thấy những ý kiến ngược lại đã nói lên tất cả. Thậm chí, riêng tỉnh Bình Dương chỉ với 1,5 triệu dân đã có… hơn 44 triệu ý kiến đóng góp Dự thảo Hiến Pháp.  Thế nhưng, cả nước lại chỉ có 26 triệu ý kiến góp ý, sửa đổi Hiến Pháp(?) Mặc dù con số, lời nói và thực tế cứ đá nhau ào ào như vậy, nhưng đảng vẫn cho rằng, như vậy là “hợp lòng dân”

. Khốn nỗi, đảng cứ đổ cho “cỗ lòng” của người dân, nhưng những “cỗ lòng” đó cứ chịu oan khuất mà không thể kêu lên như đám học sinh ngoài đường là: “đéo hợp”. 

- Điểm tương đồng tiếp theo, là căn bệnh đánh tráo theo kiểu “bầu cua tôm cá” được sử dụng thành thạo bởi nhà nước độc tài  gốc cộng sản. Đó là hình thức “lấy ý kiến”. Nếu như ở cuộc LYKDTHP vừa qua ở Việt Nam, tờ giấy ghi ý kiến đưa đến cho người dân chỉ được có hai cách đánh dấu là: 1* Đồng ý với toàn văn dự thảo (xin ghi nguyên chữ Đồng ý).
2* Đồng ý với nội dung khác trong dự thảo và xin bổ sung những điều, khoản… 


Theo cách đưa ra hai lựa chọn đó, Đảng chắc chắn nắm phần thắng theo kiểu “Tao bảy, mày ba” còn nếu không đồng ý thì “mày ba, tao bảy” – một trò chợ giời. 

Thì ở cuộc Trưng cầu dân ý tại Crưm, người ta cũng có hai lựa chọn: 

1* Bạn có đồng ý với việc Crưm được sáp nhập vào lãnh thổ Liên bang Nga hay không?”
2* Bạn có muốn khôi phục Hiến pháp 1992 và Crưm vẫn là một phần lãnh thổ của Ukraine?”.
 

Và kết quả là “tuyệt đại đa số” nhân dân Việt Nam ủng hộ, đồng ý với bản DTHP do Đảng và nhà nước đưa ra. 

Và kết quả là 96% số người đồng ý sáp nhập lãnh thổ Crưm vào Nga. 
  Và điều đó cũng có nghĩa là một tương lai đang hiện dần ra trước mắt: Crưm hôm nay, Việt Nam ngày mai. 

Hà Nội, ngày 17/3/2014. 

Ngày chiến thắng Trung Quốc xâm lược trên biên giới Phía Bắc 
·        J.B Nguyễn Hữu Vinh

Mậu Thân và Gạc Ma 1968 – 1988

Mấy ngày nay, xem đi xem lại đoạn video clip các chiến sĩ Việt Nam đứng ngâm mình trong nước để làm cột mốc và hứng trọn làn đạn của kẻ thù Trung Quốc, tự dưng tôi lại rung mình nghĩ đến câu chuyện kể của một người anh từng là bộ đội nằm vùng cộng sản Bắc Việt những năm trước 1975. Giữa hai câu chuyện tưởng như không có liên hệ gì này lại có một mối tương đồng đến rợn người!
Có lẽ nhắc đến chiến cuộc Mậu Thân – 1968 cùng hàng trăm, hàng ngàn người dân chết oan và hàng trăm người lính, thanh niên chết tức tưởi trong vòng kẽm gai. Thì chuyện này lịch sử đã ghi rồi. Có một điều mà người anh này làm tôi giật mình và hoài nghi mọi vấn đề mình hiểu biết về chiến cuộc Mậu Thân. Theo ông, đa phần những người bị buộc tay bằng kẽm gai là thanh niên Phật tử và các thanh niên Công giáo. Chuyện này thì đã biết, nhưng số còn lại bị buộc chân bằng xích sắt, còng và dây thừng, thậm chí có nhóm bị buộc bằng cả gai thép thì lại là quân Cộng sản Bắc Việt?!
Ông kể chuyện này với vẻ mặt buồn và phảng phất sự hốt hoảng, ông nói rằng cái điều đáng sợ và ám ảnh ông nhất khi làm một người lính Cộng sản không phải là họng súng của quân Việt Nam Cộng Hòa, thậm chí, ông vẫn chưa bao giờ sợ người lính Việt Nam Cộng Hòa sẽ giết ông nếu như anh ta từng là bạn bè của ông thời đi học. Nhưng với người lính Cộng sản thì khác, hoàn toàn khác. Trong chiến cuộc Mậu Thân, ông đã chứng kiến cấp chỉ huy đã buộc chân vào với nhau dưới hầm để chiến đấu.
Giải thích thêm, ông nói rằng những người lính bộ đội Bắc Việt bị lệnh tổng động viên năm 1967, 1968 đều rất nhỏ tuổi và họ, có nhiều người mặt còn búng ra sữa, nghe súng nổ là ù té chạy. Trong khi đó, họ bị thuyên chuyển vào miền Trung, miền Nam để “tổng tiến công” với cơ số đạn rất ít và không hề có tiếp viện, một số chỉ huy nhìn thấy họ nhút nhát đã tập kết họ vào một số hầm phục kích, mang toàn bộ cơ số đạn để bên cạnh họ và xích chân những người lính trẻ (có xăm trên cánh tay dòng chữ: Sinh Bắc Tử Nam) này lại với nhau để họ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng mà không bỏ chạy.
Kết cục là sau chiến dịch “tổng tiến công”, hầu như toàn bộ số quân nhân trẻ tuổi tội nghiệp đến từ phía Bắc không quay trở lại quê hương, vĩnh viễn không bao giờ trở về gặp gia đình, và khi thống kê quân số bị thiệt mạng trong chiến dịch này, nếu cộng thêm những người lính trẻ tuổi này vào, con số sẽ cao hơn nhiều so với con số đã công bố và ghi chép trong lịch sử!
Như vậy, không dám bàn là chuyện của ông anh này đúng hay sai nhưng nghe ra có nhiều chi tiết khiến phải suy nghĩ rất nhiều! Và ông anh “Việt cộng đào ngũ” này khẳng định thêm rằng con số quân nhân trẻ chết vì bị pháo kích (bởi ngồi nguyên một vị trí bắn ra thì nhất định sẽ bị chấm tọa độ và bị pháo kích, qui luật súng đạn mà!) chết trong các căn hầm dã chiến nếu thống kê sẽ là con số đáng kinh sợ và trong rất nhiều ngôi nhà, khu vườn tại miền Trung Việt Nam (miền Nam thì ông anh này không biết) vắng chủ trong chiến tranh do di tản sẽ có hằng hà sa số những ngôi mộ tập thể, những bộ hài cốt của lính Cộng sản bị pháo kích mà không chạy thoát được vì đã bị xích chân, mang sứ mệnh chiến đấu đến cùng. Nói đến đây, ông quệt nước mắt.
Tự dưng, câu chuyện ông kể với tôi trong một buổi tối cuối năm cứ ám ảnh tôi suốt, ám ảnh đến độ những đêm cúp điện, bước ra ngoài đường, tôi rờn rợn nghĩ đến có một nhóm oan hồn nào đó đang khóc than dưới lòng đất, trong sương đêm, mãi cho đến bây giờ tôi vẫn chưa thoát được cảm giác ấy!
Mấy ngày nay, nhìn lại hình ảnh người lính Gạc Ma – Trường Sa dầm mình trong nước, đứng bất động hứng trọn làn đạn của kẻ thù, trong khi đó, họ vẫn có thể lặn ngụp xuống để tránh tầm ngắm của kẻ thù hoặc họ cũng thừa biết theo khoa học quân sự, nếu họ lặn sâu xuống dưới mặt nước từ một mét trở đi, viên đạn không còn nguy hiểm đến tính mạng của họ nữa, thời đó, chưa có viên đạn nào có khả năng xuyên mặt nước quá một mét mà vẫn giữ nguyên mức độ sát thương…
Thế nhưng không, họ đã đứng bất động và từ từ ngã xuống?! Vì sao? Lẽ nào? Tội không dám đưa ra bất kì quan điểm hay ý kiến nào về cái chết của họ. Tôi chỉ dám nói rằng nếu họ lặn ngụp, tránh đạn, họ vẫn cứ là anh hùng vì họ không đầu hàng, họ chiến đấu đến cùng, chiến đấu thì phải có chiến thuật, chiến lược và đòn thế chiến tranh để vận dụng, không có ai dại gì lại đi phơi mình ra trước họng súng của kẻ thù cả! Đó là chưa nói đến bản năng phòng vệ của con người, hoặc là nổ súng đến cùng, hoặc là tránh né cái chết để bảo toàn mạng sống mà còn tiếp tục chiến đấu, bảo vệ tổ quốc. Lẽ thường, phản ứng tự nhiên của bất kì người lính nào khi lâm trận cũng đều thế, tuyệt nhiên không có ai đưa thân hứng đạn kẻ thù để bảo vệ tổ quốc!
Nhưng ở đây, sự bất khả động tĩnh của những người lính bộ đội theo một vòng tròn và khi họ chết, xác của họ cũng không được đưa trở về đất liền đã làm tôi hoài nghi! Có một thứ bí mật ma quỉ nào đó trong những cái chết của người lính Cộng sản Việt Nam?! Và câu chuyện Mậu Thân, câu chuyện Gạc Ma, Trường Sa, ngẫu nhiên lại có điểm chung con số 8 sau cùng, nó lại ám gợi trong tôi sự xiềng xích và bất động. Dẫu sao thì người mất cũng đã mất. Nhưng sao lại ngậm ngùi khi nghĩ đến những người lính thí mạng để rồi đất nước mà họ đã cống hiến mạng sống lại tiếp tục thí mạng cho một cuộc cờ khác cũng ma quái, tinh ranh và quỉ quyệt chẳng kém! Tự dưng thấy rung mình!

Chuyện lớn từ con gián nhỏ

- Tháng 6.2010, sau cuộc điều tra kéo dài 14 tháng, một tòa án ở Mỹ đã xử 4 tháng tù giam với một công dân gốc Việt. Tội danh mà người này bị cáo buộc là “Nhập lậu động vật hoang dại”.

Động vật nhập qua đường hàng không ấy là “những con chim cảnh biết hót” từ Việt Nam mà người này giấu dưới… ống quần.

Năm ngoái, một người Việt bị bắt ngay sau khi mang theo những con cá vào New Zealand, đối mặt với bản án hoặc 5 năm tù hoặc 100.000 USD tiền phạt. Bộ Lâm, Ngư nghiệp New Zealand lên tiếng rằng đây là hành động “rất nghiêm trọng”, có thể gây những rủi ro về an toàn sinh học.

Nếu đây là câu chuyện xảy ra ở Việt Nam, hẳn nhiên việc xử lý có thể là kiểu “hòa cả làng”. Ở Việt Nam, làm gì có chuyện mang theo chim hót hay cá cảnh mà phải ngồi tù hoặc bị phạt đến sạt nghiệp được.

Dẫn lại câu chuyện ở Mỹ, ở New Zealand, là bởi trong vụ mang “gián đất” từ Trung Quốc về Việt Nam, đang có sự ngơ ngác trong việc xử lý từ phía các cơ quan quản lý. Một người “xách tay” về Việt Nam 1 tạ trứng gián đất, rồi 4 người Trung Quốc sang “hướng dẫn kỹ thuật nuôi”, với cam kết “cứ thử nuôi gián đi, nuôi ra bao nhiêu sẽ mua hết mà không lo ế”.

1kg trứng gián tương đương 2.000 kén trứng. Mỗi kén sẽ nở ra được 8 con, và mỗi kg trứng gián có khả năng sinh sôi ra tới 16.000 con gián đất. So sánh với tốc độ sinh nở này, chỉ có thể là ốc bươu vàng, loài ốc đã được nhập về Việt Nam những năm 80 của thế kỷ trước với kỳ vọng làm giàu cho nông dân, cũng từ chính Trung Quốc, để đến giờ, sau gần 4 thập kỷ vẫn đang là một thứ tai họa.

Nhưng tai họa hơn là những gì xuất hiện xung quanh con gián đất. Đó là tai họa về quản lý khi hàng tạ trứng sinh vật lạ đàng hoàng vào Việt Nam qua đường “tiểu ngạch xách tay” không qua bất cứ khai báo, kiểm soát, kiểm dịch nào. Cả tạ hàng, sau đó được nuôi công khai giữa làng giữa xóm chứ đâu phải con cá đút túi quần!

Đó là tai họa về sự phản ứng khi sở nông nghiệp địa phương chờ xin chỉ đạo của Bộ NNPTNT, để sau đó “ngã ngửa người” khi biết gián đất là loài không được phép sản xuất kinh doanh.

Còn chính quyền địa phương thì “chỉ tạm thời nhắc nhở các hộ gia đình không nên nhân giống và phát tán ra bên ngoài, đồng thời nếu có vấn đề gì thì phải ngay lập tức báo cáo cho chính quyền”.

Chúng ta đã có “bài học lịch sử” không biết bao giờ mới có thể trả xung quanh chuyện nhập con ốc bươu vàng.

Chúng ta có bài học nhãn tiền về những “cánh đồng đỉa” sau khi những “thương nhân tốt bụng” một đi không trở lại.

Và, cứ với cung cách phản ứng như thế này, sau con gián, không biết còn con gì sẽ thập thò “chui lên từ đất” nữa!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét