Ải Nam Quan
VRNs(18.03.2014)
– California, USA – Nhiều thập niên gần đây, khi nhà cầm quyền Cộng Sản
đã để lộ dã tâm bán nước, hiện nguyên hình là một “CHÍNH PHỦ BÙ NHÌN”
của Tầu Chệt, thì vấn đề Ải Nam Quan lại rộ lên từ Nam chí Bắc, từ đất
Tổ sang đến các cộng đồng Việt Nam hải ngoại.
Tùy theo vị trí của những nguồn dư luận,
mà một trong hai khuynh hướng đối lập nhau được thể hiện. Với những
người yêu nước, dù ở trong nước hay ở hải ngoại, thì Ải Nam Quan là của
TA, trong khi Hà Nội và các tâm điểm thảo luận do Chính Phủ Bù Nhìn Cộng
Sản tổ chức thì lại cho rắng đó là của TẦU. Dĩ nhiên, tuyệt đại đa số
người Việt hải ngoại thì luôn bảo vệ Đất Tổ và không nhân nhượng trong
lập trường cho rằng Ải Nam Quan là của TA, chỉ trừ một thiểu số rất ít
ỏi, những kẻ vong bản, gàn dở,…, thì mới cong lưng, cúi đầu chấp nhận lý
luận của Đảng Cộng Sản Việt Nam mà cho rằng Ải Nam Quan vốn dĩ là do
TẦU xây nên, thì nay TẦU chiếm giữ cũng là hợp lý thôi.
Những tay gàn dở đã hùa theo Tầu để dựa
vào hiệp ước Thiên Tân ký năm 1885 mà cho rằng “CHÍNH VIỆT NAM ĐÃ KÝ
KẾT HIỆP ƯỚC THIÊN TÂN và chấp nhận rằng Ải Nam Quan là của Tầu. Hiệp
ước quốc tế này đã chứng minh rằng Ải Nam Quan là của TẦU. Ngoài ra, cái
kiến trúc Ải Nam Quan từ xưa đến nay đều do Tầu xây cho nên, theo đúng
lý lẽ thì Ải Nam Quan là của Tầu!” Chủ nhân của lý luận gàn dở ấy quên
rằng khi đó, Pháp đã đô hộ Việt Nam và vì muốn hòa giải với Tầu, nên
Thực Dân Pháp đã ép ta, lúc đó chẳng có sức mạnh nào cả, phải ký kết,
không ký cũng không được.
Đến đây ta phải minh định rõ ràng hai
điểm khác nhau: Kiến trúc Ải Nam Quan và Dải Đất trên đó Ải Nam Quan
được xây dựng. Vì thế, khi nói đến chuyện tranh chấp ai là chủ Ải Nam
Quan thì phải phân biệt: Chủ cái kiến trúc đó, và Chủ Đất. Một khi đã là
“Ải” hay “Trấn Biên Thùy” thì nói đến sự sử dụng chung của cả hai bên
biên giới.
Do đó khi nói: “Giang Sơn ta từ Ái Nam
Quan đến Mũi Cà Mâu”, không có nghĩa là Giang Sơn từ bên kia, phía Bắc
của Ải Nam Quan kéo dài đến Mũi Cà Mâu, (tức là cái kiến trúc Ải Nam
Quan thuộc về Ta) mà chỉ có nghĩa là “Đất” của ta tính từ Trung Tâm
Điểm của Ải Nam Quan, nói đơn giản hơn, nếu đem Ải Nam Quan ra cưa làm
đôi, thì Việt Nam và Tầu, mỗi nước chiếm một nửa phần đất, mà trên đó Ải
Nam Quan được xây dựng! Cũng giống như khi nói: “Tôi đi từ Hà Nội đến
Sài gòn”, không có nghĩa là “tôi đi từ biên giới phía Bắc của Hà Nội đến
Sài Gòn”, mà có thể từ biên giới phía Nam của Hà Nội, hay từ giữa lòng
Hà Nội mà đi…
Hơn nữa, chính chữ “Ải” đã nói lên rằng
đó là cái cửa ra vào ở đường biên giới. Theo Tự Điển Nguyễn Văn Khôn, Ải
= Frontier pass. Ải có thể là một cấu trúc lớn, cũng có thể chỉ là một
chòi canh, một cánh cửa giao thương giữa hai nước có lính gác. Tại nhiều
“cửa Ải” ở Trung đông, đôi khi chỉ là một cái rào cản bằng kẽm gai,
lính gác hai bên kéo qua kéo lại. Như thế, Ải không thuộc về bất cứ Một
nước nào mà phải thuộc về cả hai quốc gia nằm hai bên Ài, nếu chỉ có một
Ải chung.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng dải
đất trên đó mà Ải Nam Quan được xây dựng là của TA một nửa: Nửa phía Nam
thuộc về Ta, nửa phía Bắc thuộc về Tầu.
Nhiều sự kiện liên quan đến Ải Nam Quan
đã minh chứng rằng Ải Nam Quan có một nửa (xẻ theo chiều ngang) là của
Ta, và một nửa của Tầu như sau:
Theo Ðại Nam Nhất Thống Chí (1882) đoạn nói về Ải Nam Quan:
Ải Nam Quan cách tỉnh thành (Lạng
Sơn) 31 dặm về phía bắc, thuộc châu Văn Uyên, phía bắc giáp châu Bằng
Tường tỉnh Quảng Tây nước Thanh, tức là chỗ mà người Thanh gọi Trấn Nam
Quan. Cửa nầy dựng từ năm Gia Tĩnh nhà Minh, đến năm Ung Chính thứ 3
(1725) nhà Thanh, án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai tu bổ lại có tên
nữa là “Ðại Nam Quan”, phía đông là một dải núi đất, phía tây là một dải
núi đá, đều dựa theo chân núi xây gạch làm tường, gồm 119 trượng, cửa
quan đặt ở quãng giữa có biển đề “Trấn Nam Quan”, dựng từ năm Ung Chính
thứ 6 (1728) triều Thanh, có một cửa, có khóa, chỉ khi nào có công việc
của sứ bộ mới mở. Bên trên cửa có trùng đài, biển đề 4 chữ “Trung ngoại
nhất gia”, dựng từ năm Tân Sửu [1781] đời Càn Long nhà Thanh. Phía bắc
cửa có “Chiêu đức đài”, đằng sau đài có “Ðình tham đường” (nhà giữ ngựa)
của nước Thanh; phía nam có “Ngưỡng đức đài” của nước ta, bên tả bên
hữu, có hai dãy hành lang, mỗi khi sứ bộ đến cửa quan thì dùng chỗ nầy
làm nơi tạm nghỉ.“
Theo “Ðịa-dư Các Tỉnh Bắc-Kỳ” của Ngô Vi-Liễn, Phạm Văn-Thư và Ðỗ Ðình-Nghiêm (Nhà in Lê Văn-Tân xuất-bản, Hà-Nội, 1926):
“Cửa Nam-Quan ở ngay biên-giới
Trung-quốc và Việt-Nam. Kể từ Hà-Nội lên đến tỉnh-lỵ Lạng-Sơn là 150 km;
đến cây-số 152 là chợ Kỳ-Lừa; đến cây-số 158 là Tam-Lung; đến cây-số
162 là Ðồng-Ðăng; đến cây-số 167 là cửa Nam-Quan đi sang Long-Châu bên
Tàu. Như vậy từ Ðồng-Ðăng lên cửa Nam-Quan có 5 km; từ Kỳ-Lừa lên
Nam-Quan mất 15 km [về phía tây-nam chợ Kỳ-Lừa có động Tam-Thanh, trước
động Tam-Thanh có núi Vọng Phu hay tượng nàng Tô-Thị là những danh thắng
của tỉnh Lạng-Sơn] và từ tỉnh-lỵ Lạng-Sơn lên Nam-Quan là 17 km.“
Quyển “Phương Ðình Dư địa chí” của Nguyễn Văn Siêu (bản dịch của Ngô Mạnh-Nghinh, Tự-Do xuất-bản, Saigon, 1960) thì ghi:
“Cửa hay ải Nam-Quan, đời Hậu-Lê trở
về trước gọi là cửa Pha-Lũy (hay Pha-Dữ), ở về phía bắc châu Văn-Uyên,
trấn Lạng-Sơn. Từ châu Bằng-Tường (tỉnh Quảng-Tây) bên Trung-quốc muốn
vào nước An-Nam phải qua cửa quan này“.
-Về các sự kiện lịch sử liên quan đến Ải Nam Quan:
a) Năm 981, sau khi vua Đinh Tiên Hoàng của nước ta (tên lúc đó được gọi là “Đại Cồ Việt”) bị ám sát, vua nhà Tống là Tống Thái Tông sai Hầu Nhân Bảo tấn
công nước ta qua đường Lạng Sơn, đã dừng chân ở phía Bắc của Ải Nam
Quan, rồi mới truyền lệnh cho mũi tấn công thứ nhất là từ Ải Nam Quan,
trong khi các mũi tấn công khác thì tìm đường khác mà xâm nhập. Việc này
đã minh định là từ bên này cửa của Ải Nam Quan là đất của Ta.
b) Năm 1077, một lần nữa, Tống Thần Tông sai Quách Quỳ tấn công nước ta, lúc đó gọi là Đại Việt. Quân Tống cũng xếp hàng bên kia Ải Nam Quan rồi mới tiến xuống Ải Quyết Lý rồi tiếp theo là Ai Chi Lăng.
(Ải Quyết Lý và Ải Chi Lăng là hai nơi cửa ngõ quan trọng được trấn giữ
bởi một số quan lính ta. Hai Ải này không phải là Ải Biên Giới nên hoàn
toàn do ta làm chủ).
c) Tiếp sau đó, đã hai lần vua nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt (Kubilai) saiThoát Hoan tấn công Đại Việt bằng đường bộ qua Lạng Sơn năm 1284, 1287. Quân lính cũng phải đi qua ải Nam Quan mà xâm nhập nước ta.
d) Năm 1774, sau khi Ải Nam Quan được
Tầu dổi tên là Trấn Nam Quan, thì Ðốc trấn Lạng-Sơn là Nguyễn Trọng Ðang
cho tu bổ Ngưỡng Đức Đài nằm về phía nam của Trấn Nam Quan, phía nước
mình.
e) Năm 1788, theo lời cầu viện của thân mẫu của Lê Duy Kỳ, vua nhà Thanh là Càn Long (1736-1795) cử Tôn Sĩ Nghị cầm
đại quân sang Đại Việt, đi bằng ba ngả: Tôn Sĩ Nghị cùng Hứa Thế Hanh
vào cửa Nam Quan, qua Lạng Sơn đi xuống, Sầm Nghi Đống đi qua đường Cao
Bằng, và đề đốc Vân Nam Ô Đại Kinh vào đường Tuyên Quang. Đoàn quân viễn
chinh nhà Thanh bị vua nhà Tây Sơn là Quang Trung đánh tan, phải chạy về vào đầu năm kỷ dậu (1789).
Ngoài ra, còn hai câu chuyện mang tính lịch sử liên quan đến Ải Nam Quan, đã chứng minh rằng Ải Nam Quan là của Ta:
1-Vào khoảng 1406-1417, thế kỷ 15,
Nguyễn Phi Khanh bị quân Tầu bắt về Tầu. Nguyễn Trãi đi theo cha tới Ải
Nam Quan, thì phải dừng lại, vì Nguyễn Phi Khanh dặn con phải trở về, lo
đuổi quân Tầu, báo thù cho cha. Nguyễn Trãi vừa khóc vừa quay về và đầu
quân dưới trướng Lê Lợi vào năm 1417. Như thế, Ải Nam Quan đã có từ
trước thế kỷ 15.
2- Trước đó, vào năm 1308, thế kỷ 14,
Mạc Đĩnh Chi đi sứ sang Tầu, đến cửa Ài Nam Quan bị quân Nguyên bắt chui
vào cánh cửa nhỏ. Ông chống lại, thì bọn quan canh cửa đưa câu đối, nếu
đối được thì họ sẽ mở cửa. Câu đối có nội dung như sau:
Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan
(nghĩa là: Tới cửa ải trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường cứ qua)
Một vế đối hóc búa đến 4 chữ quan và 3 chữ quá? Mạc Đĩnh Chi thấy khó, nhưng ông đã nhanh trí dùng mẹo để đối như sau:
Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh Tiên sinh tiên đối
(nghĩa là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin mời Tiên sinh đối trước).
Vế đối của ông có 4 chữ đối và 3 chữ tiên,
đúng với yêu cầu câu đối của viên quan ấy. Mạc Đĩnh Chi tìm được vế đối
hay, khiến người Nguyên phải phục và liền mở cửa ải để đoàn sứ bộ của
Mạc Đĩnh Chi qua biên giới.
Như thế, dải đất phía Nam của Ải Nam
Quan nguyên thủy được xây dựng là thuộc của Ta, còn Tầu chỉ có cái kiến
trúc nằm trên mảnh đất đó.
Đến khi Hiệp Ước Thiên Tân được ký, thì
Tầu đã di chuyển Ải Nam Quan vào sâu trong nội địa Tầu rồi, và đã xây
một cái kiến trúc mới nằm ngay trong đất của TA.
Năm 1972, Chiến dịch Linebacker II do
Nixon chỉ huy nhằm đánh thẳng vào đầu não Bắc Việt bằng bom. Bắc Việt
cầu cứu Tầu. Lập tức Tầu đã lợi dụng chuyện này, cho lập một hàng rào
phòng thủ bằng Hỏa Tiễn Sam, rồi dồn quân cắm sâu vào nội địa Bắc Việt
với lý luận là phải bảo vệ hàng rào phòng thủ này. Khi cuộc ném bom chấm
dứt bằng Hiệp Định Paris 1973, Tầu “quên” không rút quân khỏi những
vùng đã đóng quân trước đây, và chiếm luôn những đỉnh cao đó.
Đến trận Chiến Tranh Biên Giới Việt
Trung, 1979, Tầu đã tung quân tấn công 6 tỉnh biên giới: Lai Châu, Lào
Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh, cũng khởi điểm từ Ải
Nam Quan (mới) và lập nhiều đồn mới về phía Nam của Ải Nam Quan.
Ngày 5 tháng 3 năm 1979, sau khi chiến
tranh kết thúc, Tầu rút quân về nước, nhưng cũng “quên” không trả đất và
vẫn chiếm giữ vùng đất phía nam ải Nam Quan. Vì thế, trạm hải quan của
Bắc Việt phải một lần nữa dời xuống phía nam ải nầy, sâu trong lãnh thổ
Việt Nam khoảng 300 đến 400m về phía Nam.
Điều nhục nhã cho lịch sử Việt là vào
ngày 30 tháng 12 năm 1999, tại Hà nội, Nguyễn Mạnh Cầm, Ngoại Trưởng của
Bắc Việt và Đường Gia Triển của Trung quốc chính thức ký ‘Hiệp ước biên
giới trên đất liền’, xác nhận Ải Nam Quan thuộc về Tầu.
Như thế, dài đất mà trên đó xây Ải Nam
Quan (cũ) là của hai nước Việt và Tầu. Sau này, Tầu lấn sân, xây Ải Nam
Quan vào sâu trong đất của ta cả ngàn mét, và được Pháp công nhận. Vậy,
công trình Ải Nam Quan (mới) là do người Tầu xây thật, nhưng dải đất mà
trên đó Tầu xây Ải Nam Quan lại là của Việt Nam. Đó là sự chiếm đoạt
giang sơn Tổ Quốc Ta rõ ràng.
Người Việt sau này có ý muốn đòi lại Ải
Nam Quan, là muốn đòi lại mảnh đất mà trên đó, Tầu xây dựng cái Ái Nam
Quan kia, chứ còn cái công trình xây cất bẳng gạch, xi măng đó thì đúng
là của Tầu thiệt, không ai thèm đòi.
Giả sử mà bọn Tầu Ô kia mà chịu trả đất,
thi ta nhất định giật sập cái Ải đó, hoặc biến cái kiến trúc đá đó
thành một cái cầu tiêu khổng lồ cho dân Việt xử dụng, và sẽ xây một công
trình khác, trên đúng chỗ mà xưa kia ông cha ta đã gọi là Ải Nam Quan
cũ từ thế kỷ trước thế kỷ thứ 14.
Hiện nay, những kẻ nào lý luận theo kiểu
Cộng Sản Tầu và Cộng Sản Việt Nam mà cho rằng Ải Nam Quan là của Tầu,
đều là những kẻ vọng ngoại, phản quốc, đáng bị trừng trị theo Luật Hồng
Đức là “lăng trì” hay cho 4 ngựa phân thây, tài sản bị xung công, vợ con
bị đầy lên khu nước độc. Nếu chiếu theo Luật Hồng Đức như thế thì cả 15
tên thuộc Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam đều phải bị xử “lăng trì”
hết vì tất cả đã đồng ý bán nước cho kẻ thù kinh niên là Tầu Cộng. Mong
điều này sớm đến.
Chu Tất TiếnGạc Ma 1988: Bộ đội VN có nổ súng bắn lại TQ hay không?
Bởi vì đã có những thông tin trái ngược:
Trong bài phỏng vấn được đăng trên Trí thức trẻ, SOHANEWS đăng lại sáng nay, Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm có đoạn trả lời như sau:
“Cho đến năm 1980, ta đã đóng quân
trên nhiều đảo và năm 1988, Trung Quốc xâm chiếm và gây hấn với ta. Vụ
việc xảy ra ngày 14/3/1988, ở đó, tôi nghĩ là không nên dùng từ “Hải
chiến Trường Sa” mà đó là sự gây chiến từ Trung Quốc. Chúng ta không có phát súng nào bắn lại họ. Đó là họ đơn phương đánh chúng ta.”
Thế nhưng, đã có nhiều bài báo viết về
sự kiện này, trong đó ghi lại lời kể của các chiến sĩ VN. Như bài gần
đây nhất trên Tiền phong, ngày 14/3/2014 Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin: Ngày 14/3/1988 bi tráng, có đoạn:
“Bị quân ta đánh trả, quân Trung Quốc
rút ra xa, xả đạn pháo và các loại súng vào các tàu ta và quân ta đang ở
trên bãi Gạc Ma. Trung tá Trần Đức Thông, Phó Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn
146 và Đại úy Vũ Phi Trừ, Thuyền trưởng tàu HQ-604 chỉ huy bộ đội sử dụng các loại súng AK, RPĐ, B40, B41 bắn trả quyết liệt. Bị trúng nhiều đạn pháo địch, tàu HQ-604 chìm xuống biển…”
Hay trong bài Gạc Ma: Anh ngã xuống, tay vẫn giữ chặt cờ tổ quốc trên Người đưa tin ngày 12/3/2014, có đoạn:
“Vì ở gần, HQ 604 hứng trọn làn đạn 12 ly 7, thuyền tưởng tàu HQ 604 Vũ Phi Trừ vừa chỉ huy chiến sĩ xuống các xuồng dùng súng chiến đấu tự vệ, vừa băng bó cho đồng đội bị thương. Thuyền trưởng Trừ đứng ở mũi tàu dùng AK và B40 đánh trả kẻ địch.”
Trước nữa, bài Trung Quốc chủ động tấn công chiếm Gạc Ma và Len Đao trên PetroTimes còn tường thuật chi tiết hơn, có giờ phút diễn biến sự kiện:
“… lúc 7h30, Trung Quốc dùng hai chiến
hạm bắn pháo 100 mm vào tàu 604, làm tàu bị hỏng nặng. Hải quân Trung
Quốc cho quân xông về phía tàu Việt Nam. Thuyền trưởng Vũ Phi Trừ chỉ
huy bộ đội trên tàu sử dụng các loại súng AK47, RPD, B-40, B-41 đánh trả quyết liệt, buộc đối phương phải nhảy xuống biển bơi trở về tàu.”
Vậy phải chăng, mặc dù có lệnh cấm nổ
súng bằng mọi giá, từ cấp rất cao (Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng Lê
Đức Anh?) nhưng bộ đội ta vẫn bắn trả. Song do đã có chủ trương “đầu
hàng vô điều kiện” từ trên, nên hải quân VN không được chuẩn bị từ
trước, không được tăng viện và phản công chiếm lại đảo, nên Gạc Ma đã
mất?-
So sánh bản đồ “đường lưỡi bò” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với bản đồ “xịn” của Trung Quốc
Tối qua 17/3/2014, trong chương trình Thời sự 19h, VTV1, có đoạn video Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng điện đàm với Thủ tướng Malaysia.
Có khán giả là FB Cường Hoàng Công đã phát hiện tấm bản đồ sau lưng ông TT có “đường lưỡi bò 9 đoạn” trên Biển Đông, mà Trung Quốc đã ngang nhiên tuyên bố để thực hiện giấc mộng bành trướng, bị thế giới phản đối.
Vậy chúng ta thử kiểm chứng, so sánh nó với tấm bản đồ đường chín đoạn “xịn”, được công bố công khai trên Bách khoa toàn thư mở Wikipedia xem sao.
Dù tấm bản đồ
“của” TT Dũng được chụp lại từ video, nhưng cũng có thể thấy khá rõ
những vệt đứt khúc, chúng rất tương đồng về vị trí, độ ngắn dài, hướng
với những đường đứt khúc trên bản đồ đường chín đoạn của Trung Quốc.
Bên trái: 2 vệt ngang Đà Nẵng và Cam Ranh. 1 vệt chếch dưới mũi Cà Mau.
Bên
phải: 1 vệt ngang với đảo Hải Nam bên trái. 1 vệt ngang với vệt bên
trái ở Đà Nẵng, nhưng thấp hơn một chút. 1 vệt ngang với vệt dưới mũi Cà
Mau, nhưng cao hơn một chút.
Nếu đây là sự
thực, thì nó sẽ là bằng chứng thuận lợi nhất cho chính quyền Trung Quốc
để giành phần thắng, một khi vấn đề tranh chấp được đưa ra Tòa án quốc
tế.
Nếu nó là sự
thực, thì một dấu hỏi nghiêm trọng cần được đặt ra. Đó là liệu đó chỉ là
một sự bất cẩn, ai đó đã “biếu” ông TT tấm bản đồ đẹp, ông thích rồi ra
lệnh treo lên, hay là đã có một ý đồ ngấm ngầm tiếp tay cho Trung Quốc, để đổi lại những hỗ trợ về chính trị?
Có lẽ để khẳng
định chắc chắn vấn đề nghiêm trọng này, cần sự tham gia của các nhà báo.
Ngoài ra, cần có sự chất vấn một cách nghiêm túc của người dân, có thể
bằng một bức thư ngỏ được gửi tới Văn phòng Thủ tướng, yêu cầu giải
đáp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét