Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013

Quan hệ giữa quỹ đất và quyền lực tại Việt Nam & Cán bộ hậu duệ Trư Bát Giới nhiều lắm!

Quan hệ giữa quỹ đất và quyền lực tại Việt Nam

Sau hơn một tháng hội họp và thảo luận, từ ngày 28/10 đến 29/11/2013, kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII Việt Nam đã xem xét và thông qua nhiều nội dung quan trọng như Hiến pháp sửa đổi, Luật đất đai (sửa đổi), Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (sửa đổi) và Luật tiếp công dân… cùng những báo cáo và quyết định của chính phủ liên quan đến việc thực hiện ngân sách nhà nước năm 2013, dự toán ngân sách nhà nước năm 2014, những kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm (2011-2015) và nhiều vấn đề quan trọng khác.

Về Luật Đất đai sửa đổi, trong cuộc thảo luận lần cuối ngày 22/11/2013 Quốc hội đã giữ nguyên những quy định về quyền sở hữu đất đai như các Điều 53 và Điều 54 của Hiến pháp sửa đổi 2013 đã qui định. Sự kiện này cho thấy chính quyền cộng sản Việt Nam vẫn giữ nguyên quan điểm về quyền lực đã có từ một thời xa xưa, nghĩa là làm chủ đất đai làm làm chủ xã hội, mà ngày nay không còn giá trị thực dụng.

Mối tương quan giữa đất và quyền lực

Từ khi con người biết kết hợp theo nếp sống cộng đồng, đất thường là biểu tượng quyền lực của những vị thủ lãnh. Lãnh thổ kiểm soát càng rộng, uy quyền của vị thủ lãnh càng lớn. Lịch sử thế giới đã từng nhắc tới sức mạnh và quyền lực những nhân vật nổi tiếng như Alexandre đại đế (Alexandre the Great), Thành Cát Tư Hã (Genghis Khan), hay những đế quốc đã từng một thời chiếm cứ một phần lãnh thổ của thế giới như La Mã, Tây Ban Nha, Anh, Pháp…

Quan niệm về quyền lực dựa trên quyền sở hữu đất đai trước kia có những lý do của nó: đất là nguồn sống nuôi dưỡng con người và làm giàu quốc gia. Làm chủ đất là làm chủ nguồn tài nguyên do đất sản xuất ra và đồng thời làm chủ luôn cả những cộng đồng dân cư sinh sống dựa vào đất. Đất chính vì thế phải được hiểu bao gồm cả sông ngòi, rừng núi, ruộng đồng lẫn các nguồn tài nguyên dưới lòng đất. Ngày nay quan niệm làm chủ đất còn mở rộng ra biển cả, vì dưới lòng các đại dương vẫn là đất.

Làm sao biến đất thành quyền lực của người lãnh đạo? Từ thời xa xưa, đất được coi là một phương tiện sản xuất tạo ra nguồn sống và sự phồn vinh cho xã hội. Ai làm chủ được nhiều vùng đất, người đó trở thành vị bá chủ của thiên hạ. Ước vọng làm bá chủ thiên hạ đã là nguyên nhân của những cuộc chiến tranh tàn khốc trong lịch sử nhân loại, mà mục tiêu chủ yếu là thu tóm càng nhiều tài sản của thiên hạ vào tay mình để gia tăng thêm quyền lực. Những người chiếm giữ nhiều đất đai thường là đối tượng đánh phá của những người có cùng tham vọng làm bá chủ khác. Việc làm đầu tiên của bất cứ vị bá chủ mới nào là loại trừ uy quyền những chủ đất trước đó. Để duy trì quyền lực của mình, nhà vua hay vị bá chủ mới thường ban phát bổng lộc bằng đất đai cho những dòng vương tôn, những trung thần và cận thần; những người này thay mặt nhà vua cai quản lãnh địa được giao phó và trong vài trường hợp trở thành lãnh chúa địa phương, hay sứ quân.

Biến đất thành phương tiện của quyền lực như thế nào? Đây là một phạm trù hoàn toàn kinh tế. Sự giàu mạnh của một cá nhân hay một quốc gia tùy thuộc vào nguồn lợi thu vào. Trên phương diện vĩ mô, nguồn lợi của quốc gia là thuế. Thuế có thể đánh vào bất cứ hàng hóa nào do con người sản xuất ra từ đất; tài nguyên thiên nhiên, nguyên liệu, sản phẩm tư bản và dịch vụ, sức lao động… Nhưng đất không phải là một sản phẩm do con người sản xuất ra, nó là một tài nguyên có sẵn trong thiên nhiên, một phương tiện sản xuất mà con người chỉ có thể thu lợi qua cách hình thức cho thuê quyền sử dụng đất.

Cho đến trước khi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện vào đầu thế kỷ 20, đất vẫn là nguồn lợi duy nhất các các thế lực cầm quyền. Cách thu lợi phổ biến nhất địa tô, tức giá thuê đất. Địa tô có thể là biểu hiện bằng tiền, hay bằng hàng hóa quy thành tiền. Tùy theo chính sách địa tô, do những chủ đất áp đặt, mà hạnh phúc hay nhọc nhằn của người dân được quyết định. Dưới các chế độ hung bạo, dân chúng phải đóng địa tô cao để tài trợ các cuộc chiến tranh bành trướng hay để xây dựng đền đài của giới vương quyền, tỷ lệ địa tô có khi hơn 80% tổng sản lượng của cải làm ra. Đây là đầu mối của những cuộc chiến tranh hay cách mạng lật đổ và thay thế các chế độ cầm quyền đương hành.

Việt Nam cũng không thoát khỏi qui luật đó. Dân chúng khốn khổ dưới các vị vua hung bạo và hạnh phúc với những vị vua nhân từ. Lịch sử Việt Nam thường nhắc những năm mất mùa, những nhà vua nhân đạo thường miễn tô cho dân trong nhiều năm để phục hồi lại khả năng sản xuất, qua đó tranh thủ được sự mến mộ của nhân dân. Nhưng những cuộc chiến tranh tranh giành quyền lực và lật đổ các chế độ đương quyền trong suốt dòng lịch sử Việt Nam thường xuất phát từ động cơ đất đai, nhất là dưới thời thực dân Pháp. Cho đến giữa thế kỷ 20 Việt Nam vẫn còn là một quốc gia nông nghiệp nên mọi chính sách cầm quyền đều dựa trên quyền sở hữu đất đai, từ các thời phong kiến đến hết thời thuộc địa Pháp. Mặc dù vậy, do thúc đẩy bời hai ý thức hệ đối chọi nhau, hai miền Nam Bắc Việt Nam sau năm 1954 đã thi hành những chính sách cải cách ruộng đất khác nhau, nhưng về thực chất vẫn không ra khỏi quan niệm làm chủ đất là làm chủ xã hội.

Các chính sách cải cách ruộng đất tại Việt Nam sau 1950

Trong thời gian từ 1945 đến 1954, chính quyền thực dân Pháp rất suy yếu những vẫn không từ bỏ tham vọng chiếm giữ ba nước Đông Dương (Việt Nam, Lào và Campuchia) làm thuộc địa. Một phần dân chúng Việt Nam tuy rất chán ghét chế độ thực dân Pháp nhưng cũng không dám đi theo phong trào Việt Minh vì lo sợ ý thức hệ cộng sản mà tổ chức muốn thi hành.

Chương trình Công Tác Xã Hội dưới thời Bảo Đại (1949-1954)

Để đối phó với tình thế mới, chính quyền thuộc địa Pháp sử dụng "giải pháp" Bảo Đại và thành lập thêm nhiều xứ Thượng tự trị thân Pháp khác để cô lập phong trào Việt Minh trên chính trường và cắt đứt mọi chỗ dựa trên các vùng rừng núi với người thiểu số.

Để loại trừ sự xâm nhập của phong trào Việt Minh trên các vùng trung nguyên Bắc Phần, tháng 7-1947 Pháp thành lập Xứ Thượng Nam Đông Dương do đặc ủy Gigal cai trị. Tháng 3-1948, Liên Bang Thái Mường (gồm Lai Châu, Sơn La và Lào Cai) được thành lập cùng với Xứ Thổ (gồm Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn) và Xứ Nùng tại Quảng Ninh. Trên những lãnh thổ mới này, người sắc tộc hoàn toàn làm chủ những vùng đất đai do họ canh tác. Thỏa ước ngày 8-3-1949 công nhận quốc gia Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp, theo đó những sắc dân "không phải người Kinh" (non-annamites) được hưởng qui chế riêng. Để thực hiện dự án xứ Thượng tự trị, Pháp dành cho Bảo Đại vinh dự chủ tọa cùng với cao ủy Pignon buổi lễ tuyên thệ trung thành với Pháp của người Thượng ngày 30/5/1949 tại Buôn Ma Thuột. Liền ngay sau đó, các chuyên viên dân sự và quân sự Pháp soạn thảo nhiều dự án tổ chức các xứ Thượng.

Ngày 15/4/1950 Bảo Đại ban hành Dụ số 6 thành lập "Hoàng Triều Cương Thổ" (Domaine de la Couronne), gồm các Xứ Thượng miền Nam và Xứ Thượng miền Bắc, độc lập với các chính quyền đồng bằng. Ranh giới và diện tích Xứ Thượng miền Nam giống như diện tích và ranh giới Xứ Thượng Nam Đông Dương trước kia, gồm một phần lãnh thổ Nam Kỳ, Trung Kỳ, Cambogde và Lào, với cảng Cam Ranh làm cửa ngỏ đổ ra Thái Bình Dương.

Đối với người Thượng miền Nam hay miền Bắc, đời sống của họ không có gì thay đổi, các chức vụ tổ chức và quản trị lãnh thổ mới đều nằm trong tay người Pháp. Qui chế đặc biệt dành cho Xứ Thượng miền Nam, ký ngày 21/5/1951, dành cho người Thượng nhiều ưu đãi về quyền sử dụng đất nơi sinh trú. Quân đội hoàng triều gồm toàn người thiểu số do Pháp đào tạo, trang bị và chỉ huy.

Tuy nhiên, để hạn chế thế lực của người Pháp, Bảo Đại ban hành Chương trình phát triển kinh tế Xứ Thượng miền Nam, do Nguyễn Đệ soạn thảo, ngày 11/2/1952, theo đó người Kinh được quyền lên cao nguyên làm việc trong các đồn điền và khai phá đất đai canh tác nông nghiệp. Ngân sách do Chương trình kỹ thuật và kinh tế đặc biệt của Mỹ đài thọ, dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Herman Marshall. Bị nhiều nhân sĩ Thượng phản đối, năm 1953 Nguyễn Đệ đổi thành Chương Trình Công Tác Xã Hội, nhằm giúp 500.000 người Thượng và 30.000 người Kinh di cư canh tác an toàn hơn trong những trung tâm định cư cố định, với tên gọi mới là "khu trù mật". Ngân sách vẫn do Mỹ tài trợ. Qua chương trình này, phong trào Việt Minh mất địa bàn bám trụ và tìm cách phá hoại.

Lợi dụng sự vắng mặt của quân chủ lực Pháp trên cao nguyên (lúc đó đang tập trung trên vùng Thượng Du Bắc Việt), quân Việt Minh hô hào dân chúng Kinh Thượng rời bỏ các khu trù mật và lôi kéo họ tham gia các đoàn dân công tải đạn đánh Pháp, gây tình trạng mất an ninh thường xuyên trên các trục giao thông chính, từ đồng bằng lên cao nguyên và quanh các thị xã lớn.

Hiệp Genève 1954 chia đôi hai miền Nam Bắc, chính quyền hai miền tiếp tục các chính sách cải cách ruộng đất theo những ý thức hệ khác nhau.

Chính sách cải cách điền địa tại miềnNam Việt Nam (1954-1975)

Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, hai đợt cải cách ruộng đất đã được thực hiện với hòa bình kết quả khác nhau.

Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, chính quyềnNgô Đình Diệm thu hồi những khu vực đất đai trong các vùng do Việt Minh kiểm soát ở phía nam vĩ tuyến 17, vùng duyên hải miền Trung và một số vùng ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong những năm 1945-1954, phe Việt Minh đã tịch thu không bồi thường những nông trại canh tác cao su và lúa của Pháp và những người hợp tác với Pháp rồi chia những vùng đất này cho những tá điền. Cũng vào thời đó, các giáo phái Hòa Hảo và Cao Đài cũng thi hành những chính sách cấp phát ruộng đất tịch thu của người Pháp và những người hợp tác cho dân nghèo. Trước tình trạngmất an ninh tại nông thôn, nhiều gia đình địa chủ rời bỏ đồng ruộng của mình lên thành phố sinh sống nhằm tránh các cuộc xung đột vũ trang và tìm sự an toàn. Nông dân đã chia nhau những vùng ruộng đất này hoặc ngưng nộp tô cho những thửa ruộng tự canh.Cũng nên biết, tại miền Nam Việt Nam trong thập niên 1950 quyền sở hữu ruộng đất có nhiều chênh lệch : 2,5% đại điền chủ sở hữu 45% tổng số ruộng trong khi 73% tiểu điền chủ chia nhau 15% số ruông đồng còn lại.

Trong hai năm 1955 - 1956, Hoa Kỳ đã cử một phái đoàn cố vấn do ông W. Ladejinsky (một chuyên gia về cải cách điền địa đã từng giúp Tưởng Giới Thạch thực hiện cải cách điền địa ở Đài Loan) sang miền Nam Việt Nam giúp chính quyền Ngô Đình Diệm soạn thảo chính sách ruộng đất.

Nội dung cải cách điền địa của Ngô Đình Diệm chủ yếu trong bốn đạo dụ :

Dụ số 2 (8/1/1955) quy định mức thu tô (giá thuê đất) tối đa và lãi suất mà điền chủ được áp dụng. Mức tô tối đa từ 10 đến 15% trên số lúa thu hoạch cho ruộng làm 1 mùa / năm. Mức tô tối đa từ 15 đến 25% cho mùa gặt chính của ruộng 2 mùa / năm.

Dụ số 7 (5/2/1955) quy định việc thuê đất phải có khế ước (hợp đồng) tá điền. Thời hạn khế ước là 5 năm, có tái ký. Tá điền có quyền trả đất và phải báo trước chủ đất 6 tháng. Chủ đất muốn lấy đất lại phải báo trước tá điền 3 năm. Khế ước được chia thành 3 loại : loại A : đối với ruộng đang canh tác có chủ : loại B : đối với ruộng hoang có chủ; loại C : đối với ruộng hoang vắng chủ (Hội đồng xã thay mặt chủ đất ký khế ước với nông dân)

Dụ số 28 (30/4/1956) quy định quy chế tá điền.

Dụ số 57 (20/10/1956) quy định việc truất hữu địa chủ. Mỗi địa chủ chỉ được giữ lại 100 ha ruộng đất và 15 ha ruộng hương hỏa. Ruộng bị truất hữu sẽ được đem bán lại cho những người thiếu ruộng, mỗi hộ không quá 5 ha, người mua sẽ trả tiền trong thời gian 6 năm. Trong thời gian đó ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu của chính quyền. Trong 10 năm kế tiếp, người được phát ruộng không được cho mướn hay đem bán lại. Địa chủ sẽ được bồi thường 10% tiền mặt, số còn lại được trả bằng trái phiếu trong 12 năm, mỗi năm lời 5%.

Với chính quyền Ngô Đình Diệm thì thực chất dụ số 2 và dụ số 7 không phải là chính sách mới vì phần lớn chương trình cải cách điền địa năm 1956 chỉ là sao chép chương trình cải cách của Bảo Đại trước đó.

Trước kia, tại Việt Nam việc thuê mướn đất không có giấy tờ hợp đồng giữa người thuê mướn và chủ đất. Giá thuê đất từ 40% đến 60%, tùy theo đất tốt xấu, trên số lúa thu hoạch. Dụ số 2 quy định mức thu tô (giá thuê đất) tối đa và lãi suất mà điền chủ được áp dụng. Dụ số 7 buộc chủ đất phải lập hợp đồng với nông dân, thời hạn hợp đồng là 5 năm, có tái ký, tá điền có quyền trả đất và phải báo trước chủ đất 6 tháng, chủ đất muốn lấy đất lại phải báo trước tá điền 3 năm. Dụ số 57 ấn định thể thức phân phát đất. Theo đó thì chủ điền chỉ được giữ tối đa là 100 ha, trong đó 30 ha phải trực canh và 70 ha còn lại có thể cho tá điền thuê theo quy chế tá canh. Diện tích quá 100 ha luật pháp quy định phải bán lại cho người không có đất. Tuy theo quy định, mỗi người chỉ được giữ tối đa 100 ha, nhưng một người có thể né tránh quy định này bằng cách chia nhỏ đất của mình cho các thành viên trong gia đình. Tổng cộng là 2.033 điền chủ sở hữu 425.000 ha bị ảnh hưởng. Thêm vào đó là 245.000 ha của 430 điền chủ mang quốc tịch Pháp cũng thuộc vào trường hợp phải nhượng lại cho chính phủ. Vì chiến tranh nhiều người bỏ ra thành thị sinh sống nên số đất bỏ hoang ước khoàng 1,3 triệu ha. Trong thời gian chính quyền kiểm kê, nếu chủ đất vẫn vắng mặt, số đất này bị trưng thu để bán cho nông dân. Chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ra bốn diện ưu tiên nhận đất : người đã tá canh hơn hai năm, cựu chiến binh, dân di cư (miền Bắc) và người thất nghiệp.

Về bồi thường, dưới thời đê nhất Cộng hòa, chính quyền Ngô Đình Diệm đã bồi thường số đất bị tước quyền sở hữu cho chủ điền bằng 10% tiền mặt và 90% công trái phiếu hạn 12 năm. Tá điền có quyền mua trả góp đất của chính phủ với giá tiền chính phủ bồi thường chủ điền. Vốn và lãi trả trong vòng 12 năm với lãi suất 3%/năm. Diện tích đất tối đa một người nông dân được mua là 5 ha.

Trong bốn năm thực hiện cải cách ruộng đất, từ 1955 đến 1961, chính quyền Ngô Đình Diệm đã thu được khoảng 650.000 ha. Trong số này chỉ 244.000 ha được chia lại sau cuối năm 1958, chủ yếu cho người di cư Thiên Chúa giáo miền Bắc, cựu chiến binh hoặc những người thất nghiệp. Lo sợ bị loại khỏi địa bàn nông thôn, theo chiến lược lấy nông thôn bao vây thành thị của Mao Trạch Đông, thành phần cộng sản luôn tìm mọi cách phá hoại chính sách Cải cách điền địa của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Nhất là từ năm 1960 trở về sau an ninh nông thôn miền Nam xấu đi do phe cộng sản công khai phát động chiến tranh du kích nên chính phủ rất khó thi hành chính sách cải cách điền địa. Cộng sản cấm nông dân làm đơn xin mua ruộng của chính phủ, cấm nông dân ký hợp đồng với chủ điền, hủy bỏ địa tô, ám sát cán bộ phụ trách chương trình cải cách, phá hoại các khu nông thôn kiểu mẫu, các cơ sở thí nghiệm trồng trọt, chăn nuôi. Trước những đe dọa này, nông dân không dám mua ruộng đất của chính phủ còn địa chủ không thu được tiền cho thuê đất. Do không có đơn xin mua đất, số ruộng đất do chính quyền nắm giữ không bán được đành phải bỏ hoang.

Dưới thời Đệ nhị Cộng Hòa, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đưa ra dự luật ngày 25/8/1969 để quốc hội rút bớt ruộng đất để lại cho địa chủ xuống còn 15 ha ở Nam phần, 5 ha ở Trung phần và cấp không 1,5 triệu ha ruộng lúa cho hơn 80.000 nông dân.

Ngày 9/9/1969, Hoa Kỳ cử Richard I. Hogh, một chuyên gia về phát triển nông thôn châu Á, cùng với 35 chuyên viên người Việt và Mỹ đền Sài Gòn trực tiếp cố vấn chương trình cải cách điền địa.

Ngày 26/3/1970, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu công bố sắc lệnh số 003/60, ban hành luật "Người Cày Có Ruộng". Luật quy định ruộng đất không trực canh (không do địa chủ canh tác) đương nhiên bị truất hữu và phải được bồi thường thỏa đáng theo thời giá. Chính phủ sẽ phát hành công khố phiếu để chi trả những khoản này. Chủ đất được bồi thường 20% bằng hiện kim và 80% bằng công khố phiếu trả 10% lãi trong tám năm. Giá trị của đất ruộng quy định là 2,5 lần giá năng suất thóc từ khoảnh đất đó. Ruộng đất truất hữu được ưu tiên cấp phát miễn phí cho tá điền (3 ha ở Nam phần và 1 ha ở Cao nguyên, duyên hải Trung phần). Điền chủ trực canh chỉ được giữ tối đa 15 ha ở Nam Phần hay 5 ha ở Trung Phần. Tuy nhiên, Luật "Người Cày Có Ruộng" không áp dụng đối với ruộng đất của các tổ chức tôn giáo và ruộng đất hương hỏa gia đình của người dân. Mục tiêu của việc cải cách này là cấp miễn phí 1,5 triệu hecta ruộng lúa cho 80 vạn hộ nông dân, đồng thời cấp giấy chứng nhận sở hữu ruộng đất cho nông dân. Người nhận đất theo quy định chương trình Người cày có ruộng thì không được sang nhượng hay bán lại thửa đất đó trong vòng 15 năm.

Luật Người Cày Có Ruộng không cho địa chủ quyền bắt tá điền nộp địa tô của những năm trước : nông dân lãnh ruộng do phe cộng sản cấp trước kia được miễn thuế trong một thời gian và được nhận bằng khoán để chính thức sở hữu số ruộng đó. Tính đến năm 1973 thì hơn một triệu ha ruộng đã được chuyển sang quyền sở hữu của hơn 850.000 tá điền.

Hiệu quả kinh tế, xã hội và chính trị của đạo luật Người Cày Có Ruộng rất cao :, phương thức sản xuất nông nghiệp kiểu phong kiến đã bị xoá bỏ. Sau ba năml thực hiện, từ 1970 đến 973, Việt Nam Cộng hoà đã có 80 phần trăm tư sản trung nông hóa và thành phần nông dân này là lực lượng chính của sản xuất nông nghiệp ở miền Nam Việt Nam, 70.000 hộ gia đình, khoảng 5 triệu người, đã được cấp đất. Đây là những thành phần chống cộng hăng hái nhất, vì ý thức hệ cộng sản không chấp nhận tư nhân có quyền sở hữu đất đai. Còn lại khoảng 20 phần trăm là phú nông và tư sản trung nông giàu, sở hữu khoảng 10 phần trăm ruộng đất canh tác còn lại. Số nông dân giàu có này, ngoài việc canh tác số ruộng đất sau khi đã truất hữu còn lại, họ cũng kinh doanh các dịch vụ cơ khí nông nghiệp, lưu thông hàng hoá nông sản phẩm, chế biến thực phẩm nông sản trong một thị trường thương nghiệp nông thôn và lao động nông nghiệp rất tự do. Sau khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa hoàn tất chương trình "Người Cày Có Ruộng", miền Nam không còn thành phần đại địa chủ. Luật Người Cày Có Ruộng không đụng chạm đến ruộng đất của các tôn giáo, đặc biệt là Thiên chúa giáo, nên ngay sau năm 1975, các tôn giáo vẫn sở hữu rất nhiều ruộng đất.


Chính sách cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam

Sau Hiệp định Genève 1954, phe Việt Minh, do Hồ Chí Minh lãnh đạo, xây dựng chế độ cộng sản tại miền Bắc. Trong những năm 1953-1956, Đảng Lao Động Việt Nam và chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa áp dụng chính sách Cải cách ruộng đất tại miền Bắc rập theo khuôn mẫu cộng sản Trung Hoa. Mục tiêu chính trị của chính sách này làxóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần bị xem là "bóc lột", "phản quốc" (theo Pháp, chống lại đất nước), "phản động" (chống lại chính quyền) như địa chủ, Việt gian, cường hào, các đảng phái đối lập phản động... Mục tiêu xã hội của cải cách ruộng đất là tịch thu tài sản, đất đai của những người này và chia cho bần nông, cố nông, đồng thời tiến hành đấu tố và xử tội những thành phần xã hội mà phe cộng sản muốn tiêu diệt.

Luật Cải cách Ruộng đất đã được Quốc hội thông qua tháng 12/1953 và chính quyền Hồ Chí Minh chính thức ban hành ngày 19/12/1953. Sau 3 năm tiến hành (1953-1956), cuộc cải cách đã phân chia lại ruộng đất cho đa số nông dân miền Bắc, xóa bỏ giai cấp địa chủ phong kiến. Tuy nhiên, việc áp đặt giáo điều các biện pháp dập khuôn từ cải cách ruộng đất của Trung Quốc đã gây ra nhiều vết thương cho đến nay vẫn chưa lành trong ký ức nhân dân miền Bắc.] Cuộc cải cách và đấu tố này đã gây ra không khí căng thẳng tại nông thôn miền Bắc lúc ấy, gây tác hại đến sự đoàn kết dân tộc của người miền Bắc và ảnh hưởng tới niềm tin của một số tầng lớp nhân dân vào chế độ và đảng cộng sản (Đảng Lao Động thời đó). Chính quyền Hồ Chí Minh sau đó phải tổ chức chiến dịch nhận khuyết điểm và sửa sai, phục hồi danh dự và tài sản cho các trường hợp oan sai, cũng như cách chức nhiều cán bộ cấp cao chịu trách nhiệm về những sai lầm này, như cựu tổng bí thư đảng cộng sản Trường Chinh chẳng hạn.

Chương trình cải cách ruộng đất là một bước trong tiến trình của ý thức hệ cộng sản nhằm đưa miền Bắc Việt Nam tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội. Khác với miền Nam, chương trình cải cách ruộng đất tịch thu không bồi hoàn những ruộng đất do người Pháp, người dân di cư, hay Việt gian (những người theo Pháp) đang sở hữu hay bỏ lại, sau đó phân chia lại cho tá điền, cắt giảm địa tô và bãi bỏ mọi khoản tiền thuê ruộng.

Chương trình cải cách ruộng đất được áp dụng thông qua chiến dịch huấn luyện cán bộ và chiến dịch giảm tô. Các cán bộ Đảng Lao động tham gia cải cách ruộng đất được đưa đi học khóa chỉnh huấn 1953, một số được đưa đi huấn luyện tại Trung Quốc, nhằm giúp cán bộ nắm vững đường lối của đảng trong cải cách ruộng đất, quán triệt quan điểm : "Trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ".Tổng số cán bộ được điều động vào công tác là 48.818 người. Bước đầu, các đội cán bộ cải cách ruộng đất đi vào các làng xã và áp dụng chính sách "3 Cùng" (cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm) với các bần cố nông trong làng xã đó, kết nạp họ thành "rễ", thành "cành" của đội, sau đó triển khai chiến dịch từng bước như sau :

Phân định thành phần: Đội Cải cách Ruộng đất ra mắt làng xã, và tất cả các gia đình trong xã được họ phân loại thành 5 thành phần : (a) địa chủ; (b) phú nông; (c) trung nông cứng - sở hữu 1 con bò, 1 con lợn, 1 đàn gà; (d) trung nông vừa - sở hữu 1 con lợn, 1 đàn gà; (e) trung nông yếu - sở hữu 1 đàn gà hay không có gì cả; (f) bần nông; (g) cố nông. Gia đình có 2 con lợn đã có thể gọi là phú nông. Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là 5,68% dân số nông thôn và các đoàn và đội cải cách đều cố truy bức để đôn tỷ lệ địa chủ lên 5% như một quy định bắt buộc, gọi là "kích thành phần".

Phân loại địa chủ: Tất cả các gia đình bị xếp vào thành phần địa chủ như nói trên được đội cải cách phân loại thêm một lần nữa thành (a1) Địa chủ gian ác : (a2) Địa chủ thường; (a3) Địa chủ có ủng hộ kháng chiến. Thành phần địa chủ gian ác bị đội cải cách bắt ngay lập tức và quản thúc.

Áp dụng thoái tô: Đối với các gia đình có địa chủ bị bắt nói trên, đội cải cách thông báo với họ về các sắc lệnh giảm tô của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bao gồm : sắc lệnh giảm tô xuống còn 25% vào tháng 11 năm 1945, Sắc lệnh số 87/SL năm 1952 và 149/SL năm 1953 giảm tô thêm 25%. (Tại miền Bắc, tô hay địa tô là tiền thuê ruộng mà tá điền phải trả cho địa chủ sau mùa gặt, có thể trả bằng thóc.) Căn cứ theo đó, địa chủ nào chưa giảm tô cho nông dân thì bây giờ phải trả số nợ đó - gọi là "thoái tô". Nếu không trả đủ nợ thì tài sản bị tịch thu, phân phát do nông dân. Sau bước này, hầu hết gia đình địa chủ lâm vào hoàn cảnh khánh kiệt, nhiều người đến chỗ tự sát - vì nếu sống trong vùng kiểm soát của Pháp thì không biết gì về các sắc lệnh của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Học tập tố khổ, lùng bắt địa chủ: Các bần nông, cố nông, "chuỗi", "rễ" được đội cải cách cho học lớp tố khổ do họ mở, qua đó học viên được nhận dạng các tội ác của địa chủ, và được khuyến khích nhớ ra tội ác của từng địa chủ đã bóc lột họ như thế nào. Sau khi học qua lớp tố khổ nhiều du kích và cốt cán cải cách ruộng đất tìm bắt địa chủ, Việt gian, thậm chí họ "vác súng vào thành phố lùng bắt địa chủ và con cái địa chủ là cán bộ công nhân viên chức nhà nước".

Công khai đấu tố: Các buổi đấu tố được tổ chức, thông thường vào ban đêm. Số lượng người tham gia đấu tố được huy động từ vài trăm đến cả ngàn người, và thời gian đấu tố từ một đến ba đêm tùy theo mức độ tội trạng của địa chủ. Trong đêm đấu tố, các bần nông bước ra kể tội địa chủ đã bóc lột họ như thế nào. Tại các tỉnh có tổ chức cải cách ruộng đất, Đảng Lao động cho ra tờ báo lấy tên là Lá Rừng (ngụ ý tội ác địa chủ nhiều như lá rừng) tường thuật chi tiết các vụ đấu tố. Sau khi bị đấu tố các địa chủ được tạm giam trở lại để chờ tòa án nhân dân xét xử. Gia đình và thân nhân người bị đấu tố thì bị cô lập, bị bỏ đói và chịu nhiều sự phân biệt đối xử và nhục hình.

Xử án địa chủ: Tại các huyện, một tòa án nhân dân đặc biệt được lập ra và đi về các xã xét xử các địa chủ. Sau khi kết án, nếu bị kết án tử hình, đội tự vệ xã sẽ thi hành án trước công chúng. Những người không bị xử bắn thì bị cô lập trong các làng xã, một số bị thiệt mạng vì bị bỏ đói.

Nhiều tháng sau khi chiến dịch Giảm tô được triển khai, chương trình Cải cách ruộng đất chính thức bắt đầu, với hình thức tương tự nhưng trên địa bàn rộng lớn hơn, và các gia đình địa chủ có thành tích kháng chiến, kể cả các gia đình có đảng viên, cán bộ, bộ đội phục vụ trong kháng chiến cũng bị đấu tố. Người đầu tiên bị buộc tội chết trong cải cách ruộng đất là một phụ nữ, bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên, chủ hiệu Cát Thanh Long ở Hà Nội. Bà Năm là địa chủ kháng chiến có nhiều công lao lớn với cách mạng Việt Nam, bà là mẹ nuôi của các ông Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh. Con trai của bà là trung đoàn trưởng một trung đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong "Tuần Lễ Vàng", gia đình bà cũng đã hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới thành lập.

Tổng cộng có 6 đợt lớn cải cách ruộng đất. Từ cuối năm 1954, dưới sức ép của cố vấn Trung Quốc, chiến dịch cải cách ruộng đất bắt đầu được đẩy mạnh và nhanh, với cường độ lớn. Từ giữa năm 1955 ở một số nơi đã xuất hiện hiện tượng đấu tố tràn lan, mất kiểm soát. Từ đó đến cuối năm 1955, cảnh đấu tố địa chủ xảy ra tràn lan, nhiều lúc chỉ đơn thuần bằng một lời tố giác đơn giản, những thành viên trong tòa án nhân dân cũng có thể xử tử hình hay tù khổ sai đối với người bị tố giác. Đã xuất hiện tình trạng lạm dụng quyền hành của các cán bộ đội viên đội công tác ruộng đất trong công tác đất đai. Họ đấu tố mọi nhà, đấu tố mọi người, nhưng lại quên đấu tố bản thân. Số người chết trong đợt này là rất lớn, trong đó số người chết oan chiếm tỷ lệ cao. Quyết liệt nhất là ở Thái Bình, nơi có đến 294 xã được đưa vào cải cách.

Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 11/1953, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 quyết định tiến hành việc cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam. Tổng cộng chiến dịch Cải cách ruộng đất tịch thu của địa chủ 810.000 ha ruộng, 106.448 trâu bò, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà. Số tài sản này được phân chia cho 2.104.138 hộ bần nông, trung bình mỗi hộ được 0,38 ha, 0,87 nông cụ, 0,071 ngôi nhà. Từ năm 1953 tới 1957, tổng số đất đai và tài sản tịch thu đã được chia cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Trong khi đó, phân bố ruộng đất miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất. Cho đến nay chưa có thông kê về số người bị giết trong các cuộc đấu tố cải cách ruộng đất, nhưng theo nhiều nguồn tin đáng tin cậy thì đã có ít nhất trên 5.000 người bị giết, và hàng chục ngàn người khác bị phân biệt đối xử hay bị giam cầm.

Do nhận định chiến dịch Cải cách ruộng đất giết lầm nhiều người vô tội và gây ra chống đối mạnh trong dân chúng, Đảng Lao động Việt Nam và chính phủ tiến hành các bước sửa sai. Tính đến tháng 9/1957, thì chiến dịch sửa sai đã phục hồi danh dự và trả lại tài khoảng 70-80% số người bị kết án. Phong trào trả thù lan rộng và biến thành bạo động tại nhiều nơi khiến chính quyền phải điều động quân đội để đánh dẹp. Ở Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, có bản báo cáo ghi nhận 20.000 nông dân dùng gậy gộc gây bạo động khiến chính quyền phải dùng Sư đoàn 324 để tái lập trật tự.Một số gửi thỉnh nguyện thư đến phái đoàn quan sát viên Canada trong Ủy ban Đình chiến, xin di cư vào Nam.

Quyền tư hữu ruộng đất của nông dân tuy vậy chỉ được tạm thời vì sau đó năm 1958, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản quyết định tập thể hóa đất đai để phát triển nông thôn. Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1959 xóa bỏ quyền sở hữu ruộng đất tư nhân và thay vào đó bằng quyền sở hữu tập thể. Đất đai dần tập trung vào tay Nhà Nước qua việc thành lập những hợp tác xã do chính phủ quản lý. Nông dân bị ép buộc gia nhập hợp tác xã nên đến năm 1960, 86% dân quê ở Miền Bắc đã vào hợp tác xã. Số liệu đó tăng lên thành 95,5% vào năm 1970. Trong Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, quyền tư hữu ruộng đất của nông dân hoàn toàn biến mất, quyền sở hữu đất đai trên toàn quốc thuộc về Nhà nước.

Luật đất đai sửa đổi

Ngày 28/11/2013, Quốc hội đã bỏ phiếu thông qua Dự thảo Hiến pháp 2013, theo đó :

Điều 53 qui định : "Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.

Điều 54 viết :

1. Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật.

2. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền vànghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ.

3. Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật.

4. Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết do luật định để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai.

Theo những quy định này, Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách tài chính về đất đai như sau : Thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; Thu thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất; Điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.

Điều 4 của Luật đất đai mới quy định: "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của luật này," báo trong nước đưa tin. Định kỳ quy hoạch sử dụng đất là 10 năm và không quy định tầm nhìn 20 năm. Về vấn đề thu hồi đất, luật mới tiếp tục quy định nhà nước được phép thu hồi đất để "phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng".

Vấn đề sở hữu đất đai vốn rất nhạy cảm, trong lúc các xung đột tranh chấp đất là nguyên nhân gây nên những cuộc biểu tình gần như mỗi ngày, cũng không được bản Hiến pháp mới đề cập đến. Điều này đi ngược lại với những khuyến cáo của các nhân sĩ trí thức, và khát vọng về quyền định đoạt mảnh đất của mình đối với nhiều triệu người Việt Nam.

Hiến pháp mới đã tước bỏ quyền tư hữu đất đai của dân để cho nhà nước độc quyền “đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” dù không có ủy thác của dân qua bất cừ hình thức nào.

Nềnkinh tế quốc gia tuy mang danh nghĩa “nhiều hình thức sở hữu” nhưng không thuộc về toàn dân mà do nhà nước “chủ đạo” để nắm phần chắc trong tay. Hãy trả lại ruộng đất cho nông dân, quốc gia Việt Nam mới thực sự phát triển vì con người chỉ quý cái gì của mình.

Hiện nay, xã hội Việt Nam đang bị giam giữ trong trong lạc hậu vì chính quyền cộng sản vẫn chưa ra khỏi không gian làng xã, nghĩa là vẫn cứ loanh quanh trong mối tương quan quyền lực và ruộng đất. Đất là quyền, quyền là đất.

Thế giới ngày nay đã thay đổi, đất không còn là biểu tượng của quyền lực hay sự giàu có để qua đó biểu dương uy quyền. Quyền lực ngày nay nằm trong trí tuệ và khả năng sáng tạo.
Nguyễn Văn Huy
(Thông luận)

Biển Đông một năm nhìn lại và câu hỏi Trung Quốc thực sự đang muốn gì

Chỉ có TQ mới có thể đưa ra câu trả lời chính xác là họ muốn gì ở Biển Đông, nhưng với những diễn biến vừa qua có thể thấy thực tế phát biểu của ông Tập Cận Bình đã trả lời câu hỏi này. Đó chính là những gì TQ đang muốn và họ tìm mọi cách thực hiện.
Năm 2013 sắp qua đi, những diễn biến xung quanh tình hình Biển Đông lúc khiến cho người ta phải giật mình lo ngại, nhưng cũng có lúc tưởng chừng như đang biển lặng sóng yên. Trên thực tế, Trung Quốc (TQ) vẫn không từ bỏ tham vọng của mình, ngược lại dùng xảo thuật ngôn từ để đánh lạc hướng dư luận và tiếp tục âm thầm tìm cách khẳng định yêu sách vô lý, phi pháp của họ ở Biển Đông.
Tổng kết lại một năm những sự kiện, diễn biến và đánh giá xung quanh tình hình Biển Đông để cung cấp cho độc giả một cái nhìn toàn cảnh, xuyên suốt và cả những dự báo xu hướng diễn biến năm 2014, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ đã có cuộc trò chuyện với báo Điện tử Giáo dục Việt Nam về vấn đề này.
- PV: Thưa Tiến sĩ Trần Công Trục, là người theo dõi thường xuyên tình hình Biển Đông và nghiên cứu vấn đề Biển Đông trên góc độ pháp lý, quản lý, xin ông vui lòng cho biết một vài đánh giá khái quát về tình hình Biển Đông trong năm 2013?
- Ts Trần Công Trục: Tình hình Biển Đông trong năm 2013 dư luận đều thấy rõ, các hoạt động ngoại giao, tuyên truyền cũng như diễn biến thực tế, đặc biệt là vai trò của truyền thông chúng ta đã có nhiều phản ánh trung thực và kịp thời, các hãng thông tấn nước ngoài cũng rất quan tâm, và mỗi khi xảy ra sự kiện đều được đưa tin nhanh và đưa ra nhiều phân tích dưới góc nhìn đa chiều.
Năm qua Biển Đông có nhiều diễn biến rất sôi động với nhiều chiều hướng khác nhau. Trong cuộc Hội thảo Quốc tế lần thứ năm: "Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển trong Khu vực" do Học viện Ngoại giao phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam tổ chức tại Hà Nội từ ngày 11-12 tháng 11 năm 2013, một học giả Úc có câu hỏi rất thú vị: TQ đang muốn gì ở Biển Đông?
Mới nghe tường chừng là câu hỏi rất khôi hài, nhưng để trả lời cho rành rọt và thuyết phục không phải chuyện đơn giản, nếu không nắm rõ thực trạng và bản chất các động thái diễn biến về Biển Đông năm qua.
Trước hết, chúng ta cần phải đánh giá tại sao học giả đặt ra câu hỏi này. Việc một học giả quốc tế có tiếng trong vấn đề Biển Đông đặt ra câu hỏi đó cho thấy chính họ rất quan tâm và đang trăn trở về tình hình Biển Đông thời gian vừa rồi, có thể nói là rất phức tạp, gay gắt và nhạy cảm, nhưng có những lúc dư luận cảm thấy Biển Đông tưởng chừng như rất “yên lặng”.
Nếu quan sát vấn đề Biển Đông trên góc độ các hoạt động ngoại giao ta thấy có những sự kiện rất đáng chú ý. Ví dụ chuyến thăm các nước Đông Nam Á và phát biểu của Ngoại trưởng TQ, ông Vương Nghị luôn luôn nói rằng TQ sẵn sàng đàm phán COC với các bên, không muốn tranh chấp leo thang, Bắc Kinh rất thiện chí tìm cách giải quyết vấn đề qua đối thoại hòa bình, không có ý đồ nào trong việc khiến căng thẳng leo thang...
Thậm chí sau các tuyên bố ngoại giao ấy, họ còn xúc tiến một số cuộc họp ngay trên đất nước họ như “tham vấn” COC nhằm tìm cách chứng minh cho cái thiện chí họ vẫn nói.
Nhưng “tham vấn” chỉ là nói chuyện với nhau về COC, không có nội dung thiết thực, chẳng có mục đích rõ ràng, lộ trình cụ thể và hoàn toàn không nhằm vào mục tiêu cuối cùng là đàm phán, ký kết bộ Quy tắc ứng xử quan trọng này, bất chấp thực tế các bên liên quan đều rất mong muốn, thúc đẩy và đã chuẩn bị sẵn sàng mọi mặt.
Chỉ một việc “đồng ý tham vấn COC”, truyền thông TQ đã thổi lên thành một bước đột phá, nhân nhượng, thiện chí của Bắc Kinh mà không cần quan tâm tới kết quả thực sự của nó là gì.
Nhưng khi quan sát vấn đề Biển Đông trên bình diện thực tế lại có nhiều điều TQ họ làm trái với các phát biểu ngoại giao.
Tàu cá Việt Nam kiên cường bám biển, đương đầu với Hải giám Trung Quốc ở Hoàng Sa.
Nhìn lại cách TQ đã làm, nửa đầu năm 2013 thì hùng hổ tập trận phô trương thanh thế, trống dong cờ mở, hải giám ngư chính tuần tra, bắt bớ ngư dân, rượt đuổi tàu cá Việt Nam đang đánh bắt hợp pháp trên vùng biển chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, mời thầu dầu khí bất hợp pháp với khu vực trong thềm lục địa của Việt Nam...khiến dư luận nóng lên từng ngày.
Nhưng nửa cuối năm 2013, những hoạt động phô trương tạo thanh thế này tạm lắng xuống để thay thế những bước đi khôn ngoan, nguy hiểm hơn. Đúng lúc này TQ tuyên bố “sẵn sàng tham vấn COC” với ASEAN khiến người ta có cảm giác Bắc Kinh đang “hạ nhiệt”, hay họ đã thay đổi, có “thiện chí” hơn trước. Đấy là mục đích nguy hiểm của TQ mà chúng ta cần nhận thức rất rõ.
Đặc biệt gần đây TQ đưa cụm tàu sân bay Liêu Ninh xuống Biển Đông. Chuyện mới đây nhất mà họ làm là tuyên bố áp đặt ADIZ ở Hoa Đông gây căng thẳng với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Mỹ, đã vấp phải sự phản ứng rất mạnh mẽ nhưng vẫn úp mở khả năng lặp lại điều này ở Biển Đông trong một tương lai không xa. Đến nay họ vẫn tiếp tục duy trì các hoạt động (bất hợp pháp) này với lập luận cứng rắn của mình.
Quả thật điều này đã phản ánh ngay trong phát biểu của lãnh đạo cao nhất TQ, ông Tập Cận Bình từng công khai nhấn mạnh trong một cuộc họp Bộ Chính trị đầu năm 2013 rằng phải biến TQ thành siêu cường về biển, chỉ đạo chủ trương xử lý vấn đề tranh chấp lãnh hải với các nước ở Hoa Đông, Biển Đông là "chủ quyền thuộc TQ, gác tranh chấp, cùng khai thác", một chủ trương chắc chắn không ai chấp nhận được
Việc Philippines khởi kiện TQ vận dụng và giải thích sai Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) ở Biển Đông dẫn tới xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của các nước ven Biển Đông, trong đó có Philippines là hoàn toàn đúng luật, đầy đủ thủ tục, đúng quy trình và cơ quan tài phán quốc tế đã thụ lý.
Đó là một giải pháp hòa bình, thân thiện, thì Bắc Kinh lại luôn né tránh, thậm chí gây sức ép chính trị - kinh tế - ngoại giao - quân sự để ngăn chặn Manila làm điều này nhưng bất thành trong khi TQ vẫn nói rằng họ mong muốn giải quyết vấn đề Biển Đông thông qua giải pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Ông Tập Cận Bình từng phát biểu công khai trong phiên họp Bộ Chính trị đảng Cộng sản Trung Quốc đầu năm nay, chỉ đạo phương châm xử lý vấn đề trên biển với láng giềng là "chủ quyền thuộc Trung Quốc, gác tranh chấp, cùng khai thác", một chủ trương không ai chấp nhận được.
Đó là thực tế, những hoạt động ấy cho ta thấy TQ vẫn không từ bỏ tham vọng (lãnh thổ bất hợp pháp) của mình, chính sách của TQ đối với Biển Đông vẫn không có gì thay đổi. Và cái gọi là “thiện chí” ấy chỉ là xảo thuật ngôn từ ngoại giao nhằm đánh lạc hướng dư luận.
Theo tôi chỉ có TQ mới có thể đưa ra câu trả lời chính xác là họ muốn gì ở Biển Đông, nhưng với những diễn biến vừa qua có thể thấy thực tế phát biểu của ông Tập Cận Bình đã trả lời câu hỏi này. Đó chính là những gì TQ đang muốn và họ tìm mọi cách thực hiện.
- PV: Trước tình hình đó, theo ông đánh giá thì phản ứng của Việt Nam chúng ta với tư cách một bên liên quan trực tiếp, có chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp ở Biển Đông trong năm qua như thế nào?
- Ts Trần Công Trục: Là một bên liên quan trực tiếp, có chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp ở Biển Đông, Việt Nam đã rất quan tâm, bám sát mọi diễn biến liên quan ở Biển Đông, đồng thời không ngừng nỗ lực tìm kiếm các giải pháp hòa bình để xử lý các tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông.
Lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước đã thể hiện rất rõ quan điểm nhất quán của Việt Nam về vấn đề Biển Đông, đặc biệt điều này được phản ánh rõ nét, sinh động trong bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Đối thoại An ninh Shangri-la năm nay ở Singapore được dư luận trong nước, công luận khu vực và quốc tế rất hoan nghênh.
Một mặt chúng ta vẫn liên tục củng cố khối đoàn kết trong ASEAN, trao đổi tìm kiếm đồng thuận chung trong khối về vấn đề Biển Đông có tính đến lợi ích thỏa đáng của các bên, đồng thời chúng ta cũng chủ động đối thoại với TQ để tìm kiếm các giải pháp hòa bình xử lý bất đồng trên biển mà hai bên có thể chấp nhận được trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS ở những khu vực chỉ liên quan trực tiếp đến 2 bên.
Tất nhiên chúng ta không muốn tình trạng tranh chấp phức tạp lên, gây ra những xung đột vũ trang hay chiến tranh, làm mất hòa bình ổn định. Chúng ta muốn TQ phải thay đổi một cách thiết thực, cụ thể, thực sự về chủ trương, đặc biệt là những yêu sách vô lý bị rất nhiều quốc gia trong khu vực và quốc tế phản đói.
Chúng ta đang cố gắng kiên trì chờ đợi câu trả lời phù hợp với mong muốn chung, nhưng trong thực tế cho thấy TQ không có gì thay đổi trong chiến lược của họ về vấn đề Biển Đông. Tôi nghĩ TQ vẫn tiếp tục làm một cách mạnh mẽ và bài bản hơn sau khi họ đã thăm dò, thử thách dư luận và phản ứng của các bên liên quan. Nếu phản ứng không đủ mạnh, không kịp thời, họ sẽ tiếp tục lấn tới để thực hiện cho bằng được tham vọng của mình.
Đón đọc Phần 2: Xu hướng Biển Đông năm 2014 và nguy cơ kép từ bầu trời và mặt biển
(GDVN)

Khỏa thân trên truyền hình: không thể chấp nhận được

Màn khỏa thân đến 90% của thí sinh chương trình "Người giấu mặt" phát sóng ngày 12/12 đang bị phản ứng dữ dội từ nhiều độc giả. Trong đó, có ý kiến khắt cho rằng đây là chương trình nhố nhăng, cần bỏ ngay.
khỏa thân truyền hình, Nguyễn Quang Dũng

Liên quan đến show truyền hình thực tế gây xôn xao bởi tập phát sóng với hai thí sinh không ngại cởi toàn bộ phần trên và khỏa thân đến 90%, VietNamNet đã liên hệ với đạo diễn Nguyễn Quang Dũng và BHD - đơn vị sản xuất chương trình để mong có câu trả lời cho khán giả nhưng đều bị từ chối.
Sáng 13/12, liên hệ với ông Nguyễn Hà Nam - trưởng ban thư ký biên tập, người phát ngôn  của Đài THVN thì được biết ban biên tập chương trình đang có buổi họp bàn về nội dung chương trình này. Theo ông, các thông tin chính thức nói về chương trình này sẽ được đăng tải trên trang web của Đài THVN thời gian sớm nhất.
Tuy nhiên, về phía độc giả quan tâm và theo dõi chương trình này, đã có nhiều ý kiến trái chiều. Độc giả Minh Quang khẳng định: "Mấy thí sinh không hề biết sự có mặt của mấy cái camera đã được ngụy trang kín đáo. Sẽ có nhiều chuyện hay ho sau cuộc thi này, hãy chờ xem!". 
Bạn đọc Lê Hoàng cho rằng các cô gái đã bị dụ dỗ làm trò mèo cho cả thiên hạ chê cười. Còn bạn Hà Thanh Quang ví sự việc đang gây xôn xao dư luận này "đúng là thảm họa từ một truyền hình, quá lố bịch và mất văn hóa".

khỏa thân truyền hình, Nguyễn Quang Dũng
Màn cởi đồ gây bức xúc
Bạn đọc Cao Vũ viết: "Các bạn có nhận ra một điều rằng mình đang bị lột trần từ thể xác đến nhân phẩm không?". Đồng quan điểm, bạn đọc Phạm Nghĩa chỉ ra rằng: "Trò lố cho thiên hạ chỉ là danh vọng hư danh, đến lúc bước vào sự nghiệp thì còn gì là đời con gái".
Độc giả Nguyễn Ngọc Mai nêu ý kiến: "Lãnh đạo Đài Truyền Hình Việt Nam nên bỏ chương trình này ra khỏi danh sách các chương trình của Đài. Vì trong cuộc thi có những hành động phản văn hóa, trái thuần phong mỹ tục không thể chấp nhận được".
Tuy nhiên, pPhản bác lại đề xuất này, bạn đọc viết tắt tên PSDAC nói: "Bình thường thôi, ai không thích thì xem kênh khác, tự do lựa chọn chứ có ai cấm đâu". Bạn Nguyễn Phương Nam cảm thán: "Thực ra có cởi mới thu hút được khán giả!".
Anh Phương
(VNN)

Vụ án Dương Chí Dũng: Biên độ của cuộc chiến phe phái

Vụ bắt cựu lãnh đạo Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam Vinalines Dương Chí Dũng hồi đầu tuần này đã đặt ra những câu hỏi về ý nghĩa của nó trong bối cảnh chống tham nhũng và cải cách rộng lớn hơn ở Việt Nam.
Sau khi có tin ông Dương Chí Dũng bị bắt hôm 5/9, BBC đã điện thoại phỏng vấn nhà quan sát Việt Nam có tiếng Carl Thayer từ Học Viện Quốc phòng Úc. Trước hết ông cho biết đánh giá về động cơ của vụ bắt:
Nhìn nhận đầu tiên của tôi là đây là động thái giảm thiểu tác hại. Không nghi ngờ gì về chuyện có mối liên hệ giữa chiến dịch chống tham nhũng và việc cải cách ngành ngân hàng ở Việt Nam.

Nhưng những đại công ty [ở Việt Nam] là con đẻ của thủ tướng và ông là người phải chịu trách nhiệm cuối cùng.
Các nhà lãnh đạo Đảng ở Việt Nam luôn nói, mặc dù chỉ nói suông, họ sẽ truy cứu những người tham nhũng bất kể họ giữ chức vụ cao tới đâu.
Nhưng họ luôn dừng ở các cấp thấp hơn nhiều so với ủy viên bộ chính trị, có thể là đến cấp thứ trưởng hoặc ủy viên trung ương nhưng không bao giờ lên mức cao hơn thế.
Trong trường hợp này thủ tướng đang chịu sức ép rất lớn khi để tồn tại môi trường kinh doanh lỏng lẻo trong đó các tổng công ty và Ngân hàng Nhà nước muốn làm gì thì làm, họ không bị kiểm toán.
Bản thân các đại công ty cũng không tự kiểm toán đúng đắn.
Khi người ta tham nhũng thì không phải là thủ tướng ra lệnh cho họ làm như vậy và có liên quan trực tiếp.
Người ta có thể nói rằng ông là người được hưởng lợi gián tiếp từ một mạng lưới lớn hoạt động dưới trướng của ông.
Vậy nên nếu giờ có những bằng chứng về các vấn đề tài chính lớn [ở các tổng công ty] thì ông [Dũng] không thể bảo vệ họ được nếu ông muốn vô tội.
Chính vì vậy những tay chân của ông đã bị bỏ mặc, bỏ rơi.
BBC: Trong vụ Vinashin, Vinalines cũng như vụ bắt cựu lãnh đạo và lãnh đạo ngân hàng thương mại tư nhân ACB, lý do đều là 'thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng', trong trường hợp này [thất thoát ở các tổng công ty nhà nước] liệu chúng ta có thể nói điều tương tự về thủ tướng không?
Vâng, nhưng đây là chiến dịch phê và tự phê sẽ diễn ra tại cuộc họp của ban chấp hành trung ương tới đây. Người ta không thể tự phê mà không nói rằng họ đã có những bước đi [để cải thiện tình hình] vì như vậy họ sẽ chật vật.
Chính vì vậy trong vụ Vinashin, cho dù không có chiến dịch phê và tự phê, thủ tướng đã có bước đi phủ đầu và nhận trách nhiệm. Liệu người ta còn làm được gì thêm nữa khi người đứng đầu nói rằng ông nhận trách nhiệm.
Nay với chiến dịch phê và tự phê, ông sẽ phải tự kiểm điểm mình và những người khác có thể kiểm điểm ông vì ông chưa tự kiểm điểm đúng mức.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Thủ tướng Dũng được cho là sẽ không 'chiến đấu vì ai' nếu ông bị vạ lây
Nói mình có trách nhiệm là một chuyện nhưng [câu hỏi là] người đó đã làm gì về chuyện [thiếu trách nhiệm] đó.
Theo những gì tôi nhìn nhận từ bên ngoài về môi trường chính trị Việt Nam thì nhiều nhóm bị bỏ ra ngoài lề, nhiều đảng viên cộng sản không hài lòng với những gì họ được hưởng trong điều kiện kinh tế hiện nay và thủ tướng có vẻ khá bị cô lập.
Ông vẫn có một mạng lưới lớn và tôi không tin vào tin đồn rằng ông sẽ bị đẩy khỏi ghế thủ tướng.
Như tôi đã từng nói với BBC, đây là động thái của Đảng [cộng sản] nhằm giành lại quyền lực và thực hiện việc kiểm tra và kiểm soát đối với mạng lưới lớn mà cho tới nay hoạt động dưới sự điều khiển của thủ tướng và ông chưa thực hiện thanh tra và kiểm soát.
Khi mà kinh tế phát triển tốt và các công ty này cũng như những thực thể khác hoạt động tốt thì không có chuyện gì cả.
Nhưng nay sự chú ý đang đổ vào tình trạng tham nhũng ở những công ty này và cả trong ngành ngân hàng đang rất cần được cải cách.
Cái nhìn của tôi là như vậy, một phần là những động thái phủ đầu [của thủ tướng], ông sẽ không chiến đấu vì ai cả vì nó sẽ chỉ làm ông gặp thêm cho khăn và chính vì vậy họ [tay chân của thủ tướng] đã bị bỏ rơi.
Cựu lãnh đạo Vinalines Dương Chí Dũng
Thủ tướng Dũng đã yêu cầu 'bắt bằng được' ông Dũng
BBC: Ông có nghĩ rằng sẽ có thêm những chuyện tương tự như Vinashin, Vinalines xảy ra nữa không? Người ta đang tự hỏi, nhất là sau cả vụ scandal trong ngành ngân hàng nữa, rằng điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Mọi chuyện liệu có dừng ở đây không hay lại có thêm những vấn đề, thêm những vụ bắt bớ và thêm cả những gì mà ông gọi là 'kiểm soát tác hại' từ phía thủ tướng nhưng thủ tướng sẽ vẫn tại vị để giải quyết những rắc rối của chính ông?
"Có cả chuyện mà người ta nói rằng muốn hạ bệ thủ tướng, điều mà tôi không tin vì như vậy sẽ tạo bất ổn và gây đổ máu" - Carl Thayer
Tôi nghĩ bước tiếp theo sẽ là khả năng bị ảnh hưởng của các liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài bị lỗ trong năm tài chính này. Bởi vì sẽ chẳng có đối tác Việt Nam nào chịu trách nhiệm về điều đó cả và sẽ đổ hết trách nhiệm cho phía nước ngoài.
Vấn đề ở đây là tất cả những người liên quan không ai muốn làm bất ổn hệ thống cả vì nó sẽ làm lung lay vị trí của chính họ.
Có rất nhiều toan tính ở đây, có cả chuyện mà người ta nói rằng muốn hạ bệ thủ tướng, điều mà tôi không tin vì như vậy sẽ tạo bất ổn và gây đổ máu.
Cũng giống như hai người chơi cờ quá nhanh và ăn lấy một con tốt hay con tượng mà không để ý tới hậu quả sẽ ra sao khi họ dừng lại.
Ở đây cả hai phía phát tín hiệu cho nhau để quyết định xem sẽ đi xa tới đâu.
BBC: Từ trước tới nay người ta đã chỉ trích thủ tướng và nhiều người sẽ nói rằng chỉ trích là đúng. Nhưng nếu ông [Nguyễn Tấn Dũng] ra đi, điều mà ông cho rằng sẽ không xảy ra, liệu chúng ta có ứng viên nào có khả năng xuất sắc hơn không hay cho dù ông có thế đi chăng nữa thì cũng không có ai để thay thế?
Kể từ khi Việt Nam thống nhất tới nay, tôi không biết tới thủ tướng nào ở Việt Nam lên chức này mà lại không đi qua chức phó thủ tướng.
Bước đi đầu tiên phải là chức phó thủ tướng. Khi ông Dũng nhậm chức, ông có ba [phó thủ tướng] và ông cố giảm số cũ và thay vào bằng người của ông nhưng không thành công.
Nhưng giờ tất cả các phó thủ tướng đều là người của ông cả nên phế truất thủ tướng và thay vào đó bằng một đệ tử ruột của ông cũng sẽ không thay đổi được gì nhiều.
Đây [phế truất thủ tướng] là điều chưa có tiền lệ và hơn nữa người ta có thể nói gì về những điều thủ tướng đã làm ngoại trừ việc cai quản chung.
Chiến dịch phê và tự phê cũng là để người ta phát triển những điểm mạnh sau khi đã xác định được những điểm yếu.
Quá trình này không phải được đưa ra để loại người ta ra khỏi đảng.
Nói cách khác, nếu một [lãnh đạo] khôn khéo sẽ thừa nhận đủ mức và hứa sẽ cải cách để tiếp tục tại nhiệm.
"Tôi cũng nghĩ rằng sự ủng hộ rỗng rãi của khối doanh nghiệp nhà nước cho ông thủ tướng là rất mạnh và chúng ta chưa thấy lực lượng này được huy động."
Tôi sợ rằng vào kỳ đại hội đảng sắp tới một số phó thủ tướng vẫn sẽ cảm thấy không đủ tầm để vào chức thủ tướng.
Tôi cũng nghĩ rằng sự ủng hộ rộng rãi của khối doanh nghiệp nhà nước cho ông thủ tướng là rất mạnh và chúng ta chưa thấy lực lượng này được huy động.
Đối phương sẽ tự hại mình khi đánh vào thủ tướng vì nó sẽ gây ra bất ổn và các nhà đầu tư nước ngoài sẽ lo ngại trong khi họ chính là những con ngỗng đẻ trứng vàng cho Việt Nam.
Vậy tại sao lại hạ bệ thủ tướng khiến các nhà đầu tư nước ngoài bỏ chạy để cải tổ kinh tế?
Và câu hỏi ai có thể làm tốt hơn cũng là câu hỏi mở. Dĩ nhiên là có nhiều khiếm khuyết nhưng ông [Dũng] đã trị vì một đất nước phát triển.
Nhưng chính sự phát triển đó cũng mang lại những vấn đề khi thủ tướng thiếu sự kiểm soát đúng mức.
Chuyện ông nói ông vô tội là một ví dụ [vì điều đó có nghĩa là] họ [các tổng công ty] muốn làm gì thì làm.
Tôi nhớ ông ấy còn nói có năm các tổng công ty không được kiểm toán vì có khủng hoảng tài chính [toàn cầu]. Nhưng vấn đề chính vẫn là Bộ Luật Hình sự của Việt Nam mà theo đó gây lỗ cho nhà nước là một tội.
BBC:Tức là đây là trường hợp đặc biệt của riêng Việt Nam, còn ở nhiều nước khác gây lỗ là chuyện thường và không phải chịu trách nhiệm hình sự?
Đúng vậy. Lấy ví dụ công ty Jetstar bị thua lỗ nhiều năm trước vì đưa ra các quyết định dựa vào phán đoán giá xăng dầu trong tương lai. Trong thế giới kinh doanh thương mại, người ta sẽ cho những người [chịu trách nhiệm] đó nghỉ hưu và không có bồi thường gì cho họ cả. Và đó là cái giá họ phải trả.
Những người làm kinh doanh tự nghĩ rằng 'mình cũng có thể có những quyết định sai lầm như thế và trong trường hợp này họ đã sai lầm vậy nên quên nó đi'.
Ở đây chúng ta không nói đến chuyện tham nhũng mà là việc phán đoán giá xăng dầu do tính thất thường của nó.
Nhưng họ [Việt Nam] đã truy Jetstar và đòi công ty phải trả lại nhà nước khoản tiền lỗ. Người ta không thể quy định các doanh nghiệp không được lỗ và nếu lỗ sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự.
Như thế là can thiệp vào thị trường và thị trường có khả năng tự trừng phạt những công ty làm ăn không hiệu quả chứ không cần tới nhà nước.
BBC: Trong các vụ có liên quan tới Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ông nhận xét thế nào về thái độ của Chủ tịch nước [Trương Tấn Sang] và liệu ông có nuôi tham vọng gì không?
Những người ủng hộ ông và cả một số cựu đại sứ mà tôi sẽ không nêu tên nói rằng ông [Sang] thực ra là người có đầu óc cải cách. Đây là vấn đề không rõ ràng. Liệu ông có phải là người chủ động có những bước đi cải cách hay ông chỉ phản ứng lại trước sức ép. Tôi thiên về điều thứ hai [phản ứng trước sức ép].
Mỗi khi tôi nói chuyện với những quan chức của Bộ Ngoại giao, họ vẫn nói rằng Chủ tịch nước muốn có nhiều quyền hơn trong chính sách đối ngoại. Thực ra ông Sang muốn kết hợp hai chức chủ tịch nước và tổng bí thư.
Ông muốn có quyền lực và sẽ không chịu đứng thứ hai sau Thủ tướng. Mặc dù văn phòng chủ tịch nước ít quyền lực hơn văn phòng thủ tướng nhưng ông cũng ở trong Bộ Chính trị và điều này củng cố vị trí của ông.
Nếu tôi nhớ không nhầm thì vào thời gian đại hội Đảng sắp tới chỉ có một người trong Bộ Chính trị đủ tuổi ở lại, những người khác sẽ phải có ngoại lệ mới có thể tiếp tục [trong Bộ Chính trị].
Chủ tịch Trương Tấn Sang trong lần gặp Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh
Ông Sang muốn có thêm quyền lực trong các lĩnh vực bao gồm cả chính sách ngoại giao
Chính vì vậy tôi không nghĩ ông Sang có tham vọng gì khác.
Sự cạnh tranh quyền lực [giữa ông Sang và ông Dũng] luôn có nhưng tôi chưa bao giờ thấy nó tới mức người này muốn hạ bệ người kia.
Trong lịch sử hậu 1975 của Việt Nam chỉ có duy nhất một ủy viên bộ chính trị bị phế truất là ông Trần Xuân Bách nhưng vì lý do khác.
Ông [Bách] khi đó là ngoại lệ khi ông là người có đầu óc cải cách và không thay đổi suy nghĩ của mình.
Việt Nam muốn có sự cân bằng, họ muốn ông Dũng lùi bước và chia sẻ bớt quyền lực cho những người nằm ngoài mạng lưới của ông và điều này sẽ khiến ông Sang và những người khác hài lòng.
Vụ ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng [từ dưới quyền ông Dũng sẽ về dưới quyền Bộ Chính trị] là một ví dụ.
Việt Nam cũng đã tham gia hệ thống toàn cầu và họ sẽ không thể cạnh tranh được nếu có nền kinh tế yếu kém, tham nhũng tràn lan và hệ thống ngân hàng nợ nần chồng chất.
Cho dù anh là phe cải tổ hay bảo thủ, một khi anh đã chọn hướng đi chiến lược thì phải đảm bảo nó hoạt động hiệu quả.
Theo tôi đây là điều ông Sang theo đuổi bên cạnh sự cạnh tranh với ông Dũng nhưng những người dưới trướng ông Sang có thể có những mục tiêu khác.
BBC: Sau tất cả những bình luận của ông trên BBC và các đài báo nước ngoài khác về các vụ bắt giữ gần đây trong đó có vụ bắt những người trong ngành ngân hàng, một số báo Việt Nam mạnh mẽ nói rằng mọi việc được thực hiện đúng quy định của pháp luật và không có yếu tố chính trị gì ở đây cả. Ông nghĩ sao?
Có hai cách để trả lời câu hỏi này.
Cách thứ nhất là Việt Nam thực hiện cải cách ngân hàng và mọi việc chấm dứt ở đó thôi.
Nhưng trong hệ thống nhà nước và đảng ở Việt Nam tôi không tin là có ai có vị trí độc lập như Bộ trưởng Tư pháp Úc, người theo luật có thể làm bất cứ điều gì bất chấp chuyện thủ tướng muốn gì.
Ở Việt Nam không thế và tôi không tin rằng người ta có thể bắt một ai đấy trong danh sách 30 hay 100 người giàu nhất mà không có cuộc gặp riêng với Thủ tướng hay cộng sự thân cận của ông để báo cho ông biết.
Chúng ta hãy nhìn lại vụ Năm Cam và vụ PMU[18], người ta đã đi xa tới đâu trong những vụ đó?
Vụ Năm Cam xảy ra khi ông [Trương Tấn Sang] lãnh đạo [thành phố Hồ Chí Minh] nhưng khi vụ việc vỡ lở ông ấy đã ở Hà Nội. Ông ấy không sao cả và con đường thăng tiến cũng không gặp vấn đề gì.
Và cũng đã có lúc báo chí Việt Nam được tự do viết về rất nhiều chuyện. Nhưng rồi đột nhiên có chuyện ai đó khóa vòi lại.
Vậy nên không có cơ quan thực thi pháp luật hay tư pháp nào độc lập ở Việt Nam cả.
(BBC) 

Diễn biến phiên xử Dương Chí Dũng

Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục Hàng Hải và Chủ tịch HĐQT tổng công ty tàu biển quốc doanh Vinalines từng từ Cambodia sang Mỹ lẩn trốn nhưng bị từ chối và bắt quay trở lại.
 
Ông Dương Chí Dũng (giữa) và 9 bị cáo đồng phạm tại phiên xử sơ thẩm ở Hà Nội, có thể đối diện án tử hình. (Hình: TTXVN)
Trong ngày đầu tiên xử án 10 bị cáo của đại án tham nhũng bị truy tố hai tội “Tham ô tài sản” và “cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, ông Dương Chí Dũng cho hay như vậy trong phần thẩm vấn về lý do bỏ trốn.

Theo sự tường thuật của báo Dân Trí và báo Người Lao Động, ông Dương Chí Dũng khai rằng “khi Thanh tra Chính phủ chuyển hồ sơ sang CQĐT, sau lần bị công an triệu tập hỏi về sự việc, bị cáo vẫn chưa biết bản thân bị khởi tố. Chiều tối 17/5/2012 nghe được thông tin đó, bị cáo “hoảng quá” nên bỏ trốn, chỉ nghĩ cố đi càng xa càng tốt.”

Lời ông Dũng được lập lại: “Tất cả rối bời, tôi không tự chủ được, cứ thế là đi thôi. Giờ bình tĩnh lại, tôi hiểu cái sai nọ nối cái sai kia. Tôi nghĩ chạy sang Campuchia rồi từ đó đi Mỹ nhưng vì visa của tôi cơ quan quản lý nên khi mua vé từ Campuchia đi Mỹ, qua đến New York thì bị trả lại theo đúng chiều vé khứ hồi, không cho nhập cảnh”.

Ông Dương Chí Dũng xác nhận đã bị bắt tại Campuchia ngày 14/9/2012, sau gần 4 tháng trốn tránh truy nã. Dạo đó, cơ quan điều tra bộ công An CSVN chỉ nhìn nhận đã bắt được ông này nhưng không cho biết bắt ở đâu.

Ngày 18/5/2012, báo chí ở Việt Nam loan tin công an đi khám xét nơi làm việc và chỗ ở để bắt ông Dương Chí Dũng thì không thấy đâu. Sau ít ngày thì loan báo truy nã quốc tế. Ít tháng sau thì em ruột của ông, đại tá công an Dương Tự Trọng, và một số người nữa bị bắt, liên quan đến việc tiết lộ tin tức và tổ chức cho ông đi trốn qua Cambodia.

Trong phiên tòa đầu tiên, qua lời khai được các báo đăng tải rộng rãi, ông Dương Chí Dũng phủ nhận vai trò của mình trong vụ mua Ụ Nổi đầy tai tiếng. Đổ tội hoàn toàn cho tổng giám đốc Mai Văn Phúc và các cấp dưới.

Phong phiên xử, ông cũng phủ nhận cầm số tiền “lại quả” 10 tỉ đồng từ vụ mua Ụ Nổi 83M rồi không dùng được. Trừ ông Trần Hải Sơn là nhận tội và khai sự chia chác số tiền 1.66 triệu USD (hơn 28 tỉ đồng VN) từ nhà thầu trung gian ở Singapore ra sao, những người kia đều phủ nhận.

Ông Dương chí Dũng, theo VNExpress tường thuật, nói rằng “không vì tiền mà đánh mất danh dự”.

Tuy nhiên, trên tờ Tuổi Trẻ, lời khai của ông Trần Hải Sơn (nguyên tổng giám đốc Công ty sửa chữa tàu biển Vinalines) như sau:

"Tháng 7-2008, ông Dũng vào công tác TP.HCM. Ông Sơn tự xếp 5 tỉ đồng vào một vali có bánh xe, tay kéo, màu đen, kích thước 40x60x25cm.

Đưa vali tiền cho ông Dũng tại khách sạn, Sơn nói: “Theo chỉ đạo của bác, hôm nay em chuyển cho bác trước 5 tỉ đồng từ ụ nổi 83M. Số tiền còn lại em chuyển bác sau”.
“Cảm ơn em” - ông Dũng nhận vali và đáp.

Sau đó khoảng một tháng, ông Dũng và ông Sơn trao đổi với nhau về việc đưa nốt tiền tại nhà mẹ vợ của ông Dũng ở Hải Phòng.

Lần này ông Sơn cũng tự tay chuẩn bị vali 5 tỉ đồng nhưng là tại nhà em gái và có sự chứng kiến của em gái. Xong ông Sơn kéo vali đi bộ đến điểm hẹn và không quên nói với em gái là “sang nhà mẹ vợ bác chủ tịch” cách đó chừng 500m.

Khi đến nơi thì ông Dũng đang chờ. Ông Sơn vào phòng khách đưa vali tiền và nói: “Em đưa nốt số tiền còn lại”. Ông Dũng nhận vali và nói: “Cảm ơn em”.

Cách thức đưa tiền của Sơn cho ông Phúc cũng tương tự và kịch bản “cảm ơn em” cũng được lặp đi lặp lại với ba lần khác nhau.

Lần một: Sơn mang vali đến nhà ông Phúc: “Hôm nay em gửi bác trước 2,5 tỉ đồng tiền ụ nổi, số còn lại em chuyển bác sau”. Ông Phúc nhận vali và: “Anh cảm ơn em”. Khi nhận tiền, ông Phúc không đếm.

Lần hai: Sơn mang vali tiền đến nhà ông Phúc: “Hôm nay em gửi anh 5 tỉ đồng tiền ụ nổi”. “Anh cảm ơn” - ông Phúc đáp lời khi nhận vali.

Lần ba: ông Sơn đựng tiền trong túi nilông và bỏ vào cặp to màu đen. Khi đưa tiền cho ông Phúc, Sơn nói: “Em gửi anh 2,5 tỉ đồng tiền ụ nổi”. Ông Phúc: “Cảm ơn em” rồi mang vào buồng cất tiền, xong quay ra trả lại cặp cho Sơn.”

Theo tờ Tuổi Trẻ tường thuật “Ông Sơn khai việc đưa tiền cho hai ông Dũng và Phúc nhiều lần là vì số tiền mỗi người 10 tỉ đồng quá lớn, không tiện đưa một lần. Ông Dũng khai vali mà Sơn đưa bên trong chứa một số... chai rượu ngoại (chứ không phải tiền). Còn ông Phúc không thừa nhận việc Sơn giao tiền cho mình.”

Nếu bị, xác nhận tội danh “Tham ô tài sản” theo khoản 4 điều 278 của Luật Hình Sự CSVN, “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên” và “gây hậu quả nghiêm trọng khác” thì bản án từ 20 năm tù đến tử hình.
(Người Việt)
 

Cán bộ hậu duệ Trư Bát Giới nhiều lắm!

Nguyên Thẩm phán, Chánh thanh tra Tòa án nhân dân Tối cao khẳng định, việc giảm án cho nguyên Phó Giám đốc Sở gây tai nạn chết người là sai.
"Tôi khẳng định quyết định "đình chỉ điều tra vụ án" vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ đối với ông Mai Nam Dương, nguyên Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn tỉnh Lâm Đồng gây tai nạn làm một người chết, ba người bị thương nặng là hoàn toàn trái pháp luật", ông Đỗ Văn Chỉnh, nguyên Thẩm phán, Chánh thanh tra Tòa án nhân dân Tối cao nói.
Hoàn toàn trái luật!
Viện Kiểm sát nhân dân (KSND) TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng vừa có quyết định "đình chỉ điều tra vụ án" đối với ông Mai Nam Dương, nguyên Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn là người gây tai nạn làm một người chết, ba người bị thương nặng. Theo ông thì quyết định này có đúng không?
Tôi khẳng định quyết định "đình chỉ điều tra vụ án" đối với ông Mai Nam Dương là hoàn toàn trái pháp luật.
Căn cứ nào cho thấy quyết định này trái pháp luật, thưa ông?
Khoản 8, Điều 8 của Luật Giao thông đường bộ cấm người điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn. 
Còn tại Điều 202 của Bộ luật Hình sự có quy định: Người điều khiển phương tiện giao thông mà vi phạm quy định về an toàn giao thông, gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thì bị phạt tù từ 6 tháng - 5 năm. Khoản 2 của Điều này cũng quy định rõ, nếu người điều khiển phương tiện giao thông không có giấy phép hoặc không có bằng lái gây tai nạn rồi bỏ chạy, hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 3 - 10 năm. 
Tại mục 4, Nghị quyết số 2 ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn: Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ, e (tiểu mục 4.1) là gây hậu quả rất nghiêm trọng. (Cụ thể, tại điểm b là gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người mà tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên; tại điểm c là gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31% nhưng tổng tỷ lệ này đến 41%). Trường hợp của ông Dương làm một người chết và ba người bị thương nặng thì chắc chắn tổng tỷ lệ thương tật của ba người trên 41%. Như vậy, ông Dương không thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ông Đỗ Văn Chỉnh, nguyên Thẩm phán, Chánh thanh tra Tòa án nhân dân Tối cao. 

Họ cố tình làm sai đấy chứ!
Chiều 22/5/2013, tại giao lộ Lê Hồng Phong - Trần Phú (Đà Lạt), ông Mai Nam Dương, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn tỉnh Lâm Đồng lái xe trong tình trạng say rượu, gây tai nạn làm một người chết, ba người bị thương nặng. Kết quả kiểm tra nồng độ cồn của ông Dương là 0,644 miligam/lít khí thở, gấp 2,5 lần mức quy định.
Ngày 1/6/2013, ông Mai Nam Dương nhận quyết định nghỉ hưu theo chế độ.
Tháng 7/2013, Công an TP Đà Lạt ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với ông Mai Nam Dương vì có hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông.
Mới đây, Viện KSND TP Đà Lạt ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án đối với ông Mai Nam Dương, chỉ xử phạt hành chính.
Nguồn tin từ Viện KSND và Công an TP Đà Lạt cho thấy, ông Mai Nam Dương đã đền bù cho các nạn nhân và gia đình nạn nhân hơn 1 tỷ đồng, đồng thời các gia đình nạn nhân đều làm đơn bãi nại. Đó có được coi là căn cứ để miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông Dương không?

Không. Việc bồi thường cho nạn nhân, gia đình nạn nhân chỉ là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chứ không thuộc miễn trách nhiệm hình sự. Còn giấy bãi nại của gia đình nạn nhân chỉ là tình tiết để được xem xét khi quyết định hình phạt chứ không phải là căn cứ để Viện Kiểm sát đình chỉ điều tra vụ án. Lúc gây tai nạn, ông Dương đang là phó giám đốc sở thì không thuộc diện được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 13 của Bộ luật Hình sự.

Mặc dù trái pháp luật như thế nhưng quyết định này vẫn được Viện KSND TP Đà Lạt thông qua. Theo ông thì vì sao? Phải chăng vì họ không nắm rõ luật? 

Làm gì có chuyện đó. Tôi chắc chắn rằng, những người đang làm việc ở các viện kiểm sát, tòa án đều phải có bằng cử nhân luật, thậm chí là cao hơn. Hằng ngày, họ đọc luật nhiều, không thể nói là họ không nắm rõ, họ quên luật được. Họ cố tình làm sai đấy chứ! Cũng có thể vì có yếu tố khách quan tác động đến.

Cụ thể là yếu tố gì, thưa ông?

Có thể ông phó giám đốc sở với ông viện trưởng Viện KSND TP Đà Lạt quen biết nhau. Từ đó, rất có thể người ta áp dụng chuyên môn bằng cách tăng tiền bồi thường để gia đình người bị hại có đơn bãi nại để hòng thoát tội. Nhưng rất tiếc, loại tội mà ông phó giám đốc sở này gây ra không phải là tội khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Còn người ta có biết điều này không? Tôi chắc chắn là họ biết. Nhưng họ vẫn làm thì đó là sự cố tình rồi. 

Người ta cũng đặt câu hỏi: Ông phó giám đốc sở này lấy đâu ra 1 tỷ đồng để bồi thường cho các nạn nhân?

Thực ra, tiền bồi thường đó có thể là do vay mượn từ họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp... Đồng thời, cũng phải làm rõ xem động cơ để Viện KSND TP Đà Lạt quyết định đình chỉ điều tra vụ án này là gì, có phải do thân quen hay vì lý do tế nhị để xử lý.

Người dân than thở thật đau lòng!

Giả dụ, người gây tai nạn đó không phải là một ông phó giám đốc sở...

(Chưa hết câu) Thì chắc chắn người đó sẽ bị khép vào Khoản 2, Điều 202 của Bộ luật Hình sự, sẽ phải ngồi tù rồi.

Vậy theo ông, tại sao lại có sự phân biệt đó?

Vì không ít những người có chức vụ, có tiền đã bẻ cong pháp luật. Người dân đến nhờ tôi tư vấn pháp luật, họ than thở thế đấy. Thật đau lòng!

Ông có thể cắt nghĩa rõ hơn?

Là bởi, những người thừa hành công vụ đã không làm đúng trách nhiệm của mình. Còn cấp cao hơn biết chuyện thì có kiên quyết xử lý hay không? Tôi thấy sự kiên quyết này chưa cao, nên xã hội vẫn còn nhiều bức xúc, nhất là trong hoạt động tố tụng còn để oan sai, khiếu kiện kéo dài.

Theo ông, điều gì chi phối người có quyền hạn kiên quyết xử lý hay không?

Nó thuộc về vấn đề đạo đức (gồm đạo đức xã hội và đạo đức nghề nghiệp), trách nhiệm của người đó. Tôi thường nói đùa với người thân quen, bạn bè rằng, xã hội bây giờ có nhiều hậu duệ của Trư Bát Giới lắm. 

Nghĩa là sao, thưa ông?

Trong phim Tây Du Ký có nhân vật Trư Bát Giới làm nhiều điều bậy bạ nhưng không bao giờ bị sư phụ đuổi. Liên hệ với cuộc sống đương thời, trong xã hội bây giờ có nhiều người vi phạm pháp luật, kể cả công chức nhưng không bị kỷ luật hoặc bị truy tố, nên những người này thuộc hậu duệ của Trư Bát Giới.  

Theo ông thì quyết định của Viện KSND TP Đà Lạt liệu có được thông qua?

Tôi tin rằng nó sẽ bị hủy, vì nó hoàn toàn trái luật.

Cảm ơn ông!
“Thực tế, nhiều vụ việc rõ ràng người có chức vụ, quyền hạn làm sai nhưng không bị xử lý. Họ tìm mọi cách để lấp liếm đi. Nhưng pháp luật không trừng trị họ thì đã có luật đời. Tôi biết nhiều người chẳng bị xử lý gì khi sai phạm nhưng gia đình họ tan nát, con cái nghiện ngập. Sống thế để làm gì?”.
Ông Đỗ Văn Chỉnh, nguyên Thẩm phán (Chánh thanh tra Tòa án nhân dân Tối cao)
Vũ Thủy (Thực hiện)

"Kim Jong-un không thực sự tin TQ, không muốn bị Bắc Kinh khống chế"

Nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong-un trong phiên họp Bộ Chính trị mở rộng tuyên bố cách mọi chức vụ, khai trừ đảng và bắt tại trận Jang Song-thaek.
"Bắc Triều Tiên không thực sự tin tưởng Trung Quốc. Họ không muốn quá phụ thuộc vào Trung Quốc bởi vì Triều Tiên không muốn Bắc Kinh kiểm soát mình. Nhưn vào thời điểm này, Bắc Triều Tiên không có sự lựa chọn nào tốt hơn ngoài việc phụ thuộc vào Trung Quốc", Sái Kiện nhận xét.

Bưu điện Hoa Nam ngày 13/12 dần lời các chuyên gia phân tích nhận định, vụ Bình Nhưỡng hành quyết cựu Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Jang Song-thaek sẽ là một phép thử quan hệ với Trung Quốc và có tác động đáng kể đối với Bắc Kinh, đồng minh lớn nhất của mình.

"Bắc Triều Tiên không thực sự tin tưởng Trung Quốc, nhưng họ không có lựa chọn nào tốt hơn", Sái Kiện, một chuyên gia về Bắc Triều Tiên từ đại học Phúc Đán, Thượng Hải nhận xét.

Tuyên bố chính thức của Bình Nhưỡng nói Jang Song-thaek "tồi tệ hơn một con chó", "loại cặn bã, hèn hạ", những ngôn từ chỉ trích kịch liệt thường chỉ thấy hệ thống tuyên truyền Bắc Triều Tiên sử dụng để nói về các nhà lãnh đạo Hàn Quốc mà họ gọi là "những con rối của Mỹ".

Hai trong số những tội danh mà Jang Song-thaek bị cáo buộc dường như đã thiết kế nhằm vào Trung Quốc. Ông bị kết tội cho phép những người bạn nối khố của mình bán tháo tài nguyên có giá trị của đất nước, bao gồm than đá (cho Trung Quốc).

Jang Song-thaek cũng bị cáo buộc bán quyền sử dụng đất trong đặc khu kinh tế Rason cho Trung Quốc sử dụng trong vòng 50 năm để trả nợ cho người môi giới khoáng sản.

Sái Kiện nhận xét rằng, bằng cách nhắc đến 2 tội danh liên quan trực tiếp đến Trung Quốc, Kim Jong-un dường như muốn trút sự thất vọng của mình về những lên án gần đây của Bắc Kinh đối với động thái Bình Nhưỡng thử hạt nhân và tên lửa.

"Bắc Triều Tiên không thực sự tin tưởng Trung Quốc. Họ không muốn quá phụ thuộc vào Trung Quốc bởi vì Triều Tiên không muốn Bắc Kinh kiểm soát mình. Nhưn vào thời điểm này, Bắc Triều Tiên không có sự lựa chọn nào tốt hơn ngoài việc phụ thuộc vào Trung Quốc", Sái Kiện nhận xét.

Ông Kiện cũng nói rằng đầu năm nay Bình Nhưỡng đã phái một đại diện đặc biệt sang Bắc Kinh để thảo luận về 1 chuyến thăm chính thức của Kim Jong-un nhưng Trung Quốc đã từ chối.

Trung Quốc sẽ theo dõi chặt chẽ hoạt động cải tổ nhân sự và cân nhắc việc sẽ tiếp tục giao thiệp với Bắc Triều Tiên như thế nào, đặc biệt là những người họ cần nói chuyện trong tương lai, Lý Khai Thịnh, một chuyên gia từ Viện Khoa học Xã hội Thượng Hải nhận xét.
(GDVN)

Em họ Phan Thị Bích Hằng và người đàn bà tự nhận bị ma ám 

(đúng là thời "mạt pháp", ma quỷ đầy rẫy....)

"Trước kia, khi mới theo cô Hà, bà H luôn khen "Cô" là người nhà Thánh, rất giỏi, còn bây giờ, bà H rất bức xúc với "nhà ngoại cảm" này. Bà H tuyên bố rằng cô Hà là nhà ngoại cảm lừa đảo, làm ăn thất đức", chị L, người cùng xã, kể.

Lượn ra nghĩa trang hàng đêm rồi thành... nhà ngoại cảm

Bà Phan Thị Hà là em con chú con bác với "nhà ngoại cảm" Phan Thị Bích Hằng. Nếu Phan Thị Bích Hằng kể rằng có khả năng ngoại cảm sau khi bị chó dại cắn thì nguồn cơn dẫn bà Phan Thị Hà trở thành ngoại cảm cũng ly kỳ không kém.

Bà T, một người gần nhà “cô Hà” kể": "Năm 20 tuổi, Phan Thị Hà nói rằng được người âm cho “ăn lộc”. Hàng đêm cô Hà đi ra cánh đồng, nghĩa trang, đến từng ngôi mộ. Một thời gian sau, cô Hà hành nghề xem bói, chữa bệnh. Gần đây, phong trào ngoại cảm, tìm liệt sĩ lên thì cô ấy thích được gọi là nhà ngoại cảm và làm thêm việc soi mộ.

Người dân ở đây không biết thực hư thế nào nhưng thấy cô có đông khách đến nhờ vả, tiền bạc rủng rỉnh thì đúng là được "lộc trời" còn gì". 
 
Nhà em họ của Phan Thị Bích Hằng rộng rãi và bề thế.

Chị L, một người cùng xã cho hay, trước kia từng nghe cô Hà kể “hàng đêm được người âm dẫn tới một chiếc giếng thần. Ngày nào cũng đi từ 12 giờ đêm đến 3 giờ sáng mới về. Sau khi biết mình được trời cho ăn lộc, bà ra múc nước ở giếng về chữa bệnh cho người dân”.

Tuy nhiên, khi hỏi chiếc “giếng thần” ở đâu thì cô Hà không kể. Chỉ biết người đến xem bói và chữa bệnh ngày một đông rồi cô Hà bắt đầu “kinh doanh” “thuốc thánh” khiến người đi xem không hài lòng và ít mua hơn.

Qua vài câu chuyện, chúng tôi làm quen được với bà Mai, một “con hương” của cô Hà và biết thêm được một số thông tin về “nhà ngoại cảm” này. Bà Mai cho biết: “Tôi có thằng con trai, đang học ĐH năm thứ 2 thì bị trầm cảm, đi chữa ở nhiều bệnh viện trên Hà Nội nhưng không được. Thấy cô Hà nổi tiếng nên nhờ chữa bệnh cho cháu nhưng mà 3 năm rồi bệnh của thằng bé mãi không khỏi”.
“Vậy nhưng vẫn chưa khổ bằng một người ở Nam Định, mất cả tiền trăm triệu mà cũng không được việc. Ngày nào cô ấy cũng ngồi ở đầu ngõ vào nhà cô Hà kia kìa. Phải đến 5 năm rồi đấy!”, bà Mai cho biết thêm.
Hiện tại, cô Hà ở trong một ngôi cao tầng, bề thế với cánh cổng sắt rất to ở thôn Xuân, xã Khánh Hòa, Yên Khánh, Ninh Bình, quê của "nhà ngoại cảm" Phan Thị Bích Hằng.

Số điện thoại của vợ chồng "Cô Hà" được quảng cáo ngay trên tường nhà.

Tố cáo của người phụ nữ ngủ bờ bụi

Trước đây, nhà cô Hà lúc nào cũng đông khách tới xem bói, chữa bệnh nhưng sau đó, có tin đồn rằng người phụ nữ này "chơi ma xó" nên người tới thưa dần. Thậm chí, dân quanh vùng còn cho rằng bà H, quê ở xã Minh Tân, huyện Vụ Bản, Nam Định bị ăn phải bùa ma xó.
Không biết thực hư thế nào nhưng bà H có hành tung rất khác thường. Bà đã bỏ nhà cửa, bỏ chồng con, ngày ngày ngồi vạ vật trước cửa nhà cô Hà 5 năm nay.
Bà H có dáng người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn nhưng khuôn mặt nhăn nhúm, đau khổ và lo âu đến kỳ lạ. Khoảng năm 2008, bà H gặp được cô Hà. Khi đó, chồng bà H đang đi làm ăn ở Malaysia. Cô Hà phán rằng chồng bà đi làm ăn ở nước ngoài đã có người đàn bà khác, muốn chồng quay về với vợ con thì cô sẽ làm lễ cho.
Tin rằng cô Hà có thể nhìn thấy những điều mà người trần không thấy, Bà H tá hỏa chuẩn bị tiền nong, đồ lễ nhờ cô Hà cũng lễ cho. Vậy nhưng sau nhiều lần cúng lễ, chồng bà H không những không về mà đòi vợ bán hết số vàng vợ gom góp được khi đi làm ở Malaysia gửi về để lấy tiền đi Tiệp.
Bà H cho biết đã mất rất nhiều tiền bạc, từng phải đi vay nợ để có tiền lễ nạp và “theo Cô” đến bây giờ.
Từ sau khi làm lễ gọi chồng về không được, bà H bỏ hẳn nhà cửa, đến sống quanh nhà cô Hà. Thời gian đầu, bà H sang gặt lúa, phơi thóc cho nhà cô Hà. Một thời gian sau, người ta thấy bà hàng ngày ngồi chầu trực trước ngõ vào nhà nhưng không mấy khi được vào nhà. Con cái nhiều lần sang khuyên can, ép buộc về nhà nhưng được một ngày bà H lại xuất hiện ở nhà cô Hà.
Bà H bảo bà đã phải lại tìm mọi cách như đập phá, tuyệt thực để được đi ra khỏi nhà, đến nhà cô Hà.
Bà H đã bỏ gia đình, sống quanh nhà cô Hà 5 năm nay.

Trong hai năm đầu ở đây, bà H thường ngồi ở ngõ, đến tối lại tìm bờ bụi, có khi vào vườn ngô của người làng đây để ngủ, sáng ra 6 giờ đã lại có mặt ở chỗ cũ. Sau này, được người dân chỉ cho ngôi chùa Gạo ở làng bên, bà H đến xin ngủ nhờ ban đêm, ban ngày thì đi mò cua bắt ốc, làm cỏ thuê để kiếm tiền sinh sống và cứ rảnh là lại đến ngồi ở cửa nhà cô Hà.
Theo bà T – một người thường xuyên trò chuyện với bà H, thì: "Bà H kể rằng hồi trước, khi vào lễ trong nhà cô Hà, được “Cô Hà” cho uống 1 cốc nước, bảo là nước Thánh, uống vào sẽ được khỏe mạnh. Thấy trong người đang mang bệnh nên bà H cũng uống. Sau đó, bà thấy không khỏe ra mà cơ thể còn thêm mệt mỏi. Hàng đêm bà đều nghe tiếng người nói chuyện dù không có ai xung quanh. Cũng từ đó, bà H không thể kiểm soát được ý chí, muốn về nhà cũng không thể về, cứ ở nhà là lại thấy bứt rứt, bằng mọi cách phải sang đây". 
Bà H tin rằng, mình đã ăn phải bùa ma xó của cô Hà nên mới như thế này. “Chán đời lắm. Vào đấy thì phải lắm tiền. Lắm tiền mà không biết theo thì chết vẫn hoàn chết. Tôi nhiều lúc chỉ muốn chết thôi”, bà H buồn bã nói.
Bà H nghẹn ngào nói tiếp: “Tôi có 2 đứa con gái đều học đại học và một con trai 13 tuổi. Bây giờ người ta chỉ cho theo nhưng mình không bước tiếp được, mà không theo thì nó bảo sẽ “vật” chết thằng con trai. Tôi thương con tôi lắm. Mà bây giờ muốn vào xin lễ cho cũng khó… và cô Hà không gặp”. Sự uất ức, lo sợ toát ra từ ánh mắt, giọng nói của bà H khi nhắc đến cô Hà.
"Trước kia, khi mới theo cô Hà, bà H luôn khen "Cô" là người nhà Thánh, rất giỏi, còn bây giờ, bà H rất hay bức xúc với cô Hà. Bà H tuyên bố rằng cô Hà là nhà ngoại cảm lừa đảo, làm ăn thất đức", chị L, người cùng xã, kể.
Chúng tôi sẽ tiếp tục tìm hiểu để cung cấp thông tin tới độc giả.
 
Nguyệt Cát
(Người đưa tin)  

Chuyện lạ: Báo in Đại Đoàn Kết ngày ra hai số

Cầm trên tay hai bản báo in Đại Đoàn Kết ngày 7.12.2013 được gửi tới, bạn đọc không biết đâu là bản thực, đâu là bản giả? đâu là bản chính, đâu là bản phụ?. Vì hai bản in này có nội dung khác nhau. Theo giấy phép: Mỗi ngày báo Đại Đoàn Kết chỉ được phép xuất bản 1 kỳ báo. Lẽ tất nhiên là nội dung của mỗi kỳ báo này phải giống nhau, phải là một. Thế nhưng, ngày 7/12/2013, báo Đại Đoàn Kết đã phát hành cùng một kỳ báo đề số 341 nhưng nội dung lại có sự khác biệt.

Trang Nhất một bản báo in rút tít bài viết của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng: “Hiến pháp sửa đổi là đảm bảo chính trị - pháp lý vững chắc để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đồng lòng vững bước tiến lên trong thời kỳ mới”. Trang 2 và 3 của bản in này in trọn bài viết này.


 Trong khi đó, Trang Nhất của bản báo in khác lại rút tít bài: “Quy chế dân chủ: Khẳng định vị thế Mặt trận trong xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân” của tác giả H.Loan – H.Vũ phỏng vấn ông Nguyễn Văn Pha – Phó Chủ tịch Ủy Ban Trung ương MTTQ Việt Nam. Trang 3 bản báo in này ngoài việc đăng bài phỏng vấn Phó chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam Nguyễn Văn Pha còn đăng thêm 4 tin sâu, mục dự báo thời tiết và chùm tranh biếm họa: “Chuyện làng: Vui uống rượu… tắc tử!” của họa sĩ Choai nữa. Trang 2 của bản báo in này ngoài việc đăng bài viết: “Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng: Tham nhũng phải trị tận gốc” của tác giả Lục Bình như bản báo in kia còn đăng thêm 4 tin sâu nữa. 



Bạn đọc băn khoăn không biết bản báo in nào là bản phụ? Bản in có bài của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng hay bản in bài phỏng vấn Phó Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam Nguyễn Văn Pha? 

Muốn thay đổi đối tượng phục vụ, thay đổi phạm vi phát hành chủ yếu thì phải xin phép lại theo Điều 20 Luật Báo chí; Muốn tăng thêm số phụ cũng phải xin giấy phép của cơ quan quản lý báo chí theo  Khoản 2 Điều 21 Luật Báo chí quy định.

Đến nay, bài viết vu khống Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Vũ Trọng Kim và Ban Thường trực Ủy Ban Trung ương MTTQ Việt Nam trong bài viết: “Ban Thường trực UBTWMTTQ Việt Nam kiến nghị: Xây dựng Khu tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại số nhà 30 Hoàng Diệu” chưa được xử lý, và thêm sai phạm này thì không biết nguyên nhân sai phạm của Ban Biên tập báo Đại Đoàn Kết do hiểu biết pháp luật và năng lực nghề nghiệp kém cỏi hay do biết nhưng cố ý làm trái?. 
P. V
     Nhà báo Hữu Nguyên bình luận:
 
Cùng một ngày, một số báo (số 341, ra ngày thứ bảy, 7/12/2013) báo Đại Đoàn Kết phát hành tới những hai bản in có nội dung khác nhau.
Nếu đây là lỗi kỹ thuật, lỗi nhà in hay là lỗi của bất kỳ ai đó, bất kỳ bộ phận nào đó trong quy trình sản xuất thì ngay lập tức trong số báo tiếp theo Ban biên tập báo Đại Đoàn Kết phải nhận trách nhiệm và có lời đính chính, xin lỗi bạn đọc. Thế nhưng, không hề có chuyện xin lỗi, nhận khuyết điểm, sửa sai nào cả của BBT báo này cho tới nay (sau gần một tuần lễ trôi qua).
Vậy có thể hiểu như thế nào về hiện tượng kỳ lạ này ở báo Đại Đoàn Kết? Càng thêm bằng chứng cụ thể, rõ ràng về cách làm báo lôm côm của ông tổng biên tập Đinh Đức Lập.
 
(Blog Tễu)
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét