Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013

BÁO CÁO MẬT CỦA KHRUSHỐP VỀ STALIN

BÁO CÁO MẬT CỦA KHRUSHỐP VỀ STALIN

BÁO CÁO MẬT CỦA KHRUSHỐP VỀ STALIN
  của Ðại hội lần thứ XX đảng cộng sản Liên Xô
 
1956 ! Ba năm sau khi Stalin chết, đảng cộng sản Liên Xô tổ chức Ðại hội lần thứ XX, nhằm mục đích thay đổi chính sách, sửa đổi sai lầm, cải tổ đảng và cải tổ chế độ. Ngày bế mạc Ðại hội, giữa lúc các đại biểu lục tục kéo nhau ra về, Khrushốp - tổng bí thư đảng - triệu tập một cuộc họp bất thường gồm riêng các đại biểu Liên Xô, không có mặt các đại biểu các đảng anh em. Trước cuộc họp, Khrushốp đã đọc một bản báo cáo, đúng hơn là một bản án, vạch trần những sai lầm và những tội ác của Stalin. Bản báo cáo này đã đi vào lịch sử với cái tên Báo cáo mật của Khrushốp về Stalin.


Gọi là "mật", nhưng chỉ trong vòng hai ba ngày, bản báo cáo của Khrushốp đã được dịch ra khắp các thứ tiếng, lưu hành khắp các nước không nằm dưới quyền kiểm soát của các đảng cộng sản. Ðây là một sự kiện quan trọng có một không hai trong lịch sử. Nó mở đầu một thời kỳ chuyển biến của hầu hết các đảng cộng sản trên thế giới. Nó đánh dấu một bước ngoặt quyết định dẫn tới sự băng hoại của chủ nghĩa Stalin cùng sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Ðông Âu như ta đã thấy.

Ngay sau khi bản báo cáo này được công bố trên các báo chí, tờ Tiếng thợ - cơ quan tuyên truyền của Nhóm trốt-kít Việt Nam ở Pháp - đã trích dịch nhiều đoạn và viết bài bình luận. Tới tháng 10-1982, tờ tạp chí Nghiên cứu - cơ quan lý luận của Nhóm trốt-kít Việt Nam tại Pháp - đã dịch toàn bộ từ bản tiếng Pháp và cho xuất bản. Ðầu năm 1994, cuốn sách này đã được Tủ Sách Nghiên Cứu tái bản với ý muốn cống hiến cho các đảng viên chân chính của đảng cộng sản Việt Nam một bằng chứng về Stalin và chủ nghĩa Stalin, để họ có điều kiện suy ngẫm và tìm hiểu : vì đâu Liên Xô và các nước Ðông Âu đã sụp đổ như ngày nay ?

Liên Minh Việt Nam Tự Do cám ơn Ban Biên Tập của Tủ Sách Nghiên Cứu đã cung cấp tài liệu này và cho phép quảng bá một cách rộng rãi đến người Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước.
Ðỗ Tịnh dịch theo bản tiếng Pháp
Ấn Hành : Tủ sách Nghiên cứu, B.P. 246 75224 Paris Cedex 11, France
Ðoạn 1 : Sùng bái cá nhân và các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
 (LÊN MẠNG THỨ SÁU 15 THÁNG SÁU 2001)
Thưa các đồng chí,
Trong bản báo cáo của Ban chấp hành trung ương đảng đọc trước Ðại hội thứ XX, trong lời phát biểu của nhiều đại biểu Ðại hội và trong các khóa họp trước kia của Ban chấp hành trung ương, chúng ta đã đề cập nhiều đến tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả tai hại của nó. 
Sau khi Stalin mất, Ban chấp hành trung ương đảng ta đã cố gắng giải thích từng bước, nhưng kiên trì, rằng việc đề cao vai trò một cá nhân, biến cá nhân đó thành kẻ siêu phàm với những đức tính như thần linh là điều xa lạ và không thể chấp nhận được đối với tinh thần học thuyết Mác-Lênin. Người ta giả thiết một người như thế thông hiểu mọi sự, suy nghĩ thay cho mọi người, có thể làm bất cứ việc gì và không hề sai lầm trong hành động.
Trong nhiều năm dài, sự xác tín rằng có thể tồn tại một cá nhân như thế - và cá nhân ấy chính là Stalin - đã được bồi dưỡng trong chúng ta. 
Bản báo cáo này không có mục đích đánh giá kỹ lưỡng thân thế và sự nghiệp của Stalin. Công lao của Stalin đã được trình bày trong nhiều sách vở, báo chí và các công trình khác, ngay từ khi Stalin còn sống. Vai trò của Stalin trong việc chuẩn bị và hoàn thành cuộc Ðại cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười, trong nội chiến cũng như trong giai đoạn đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã được cả thế giới biết đến. Ðây là điều mọi người đều biết.
Hôm nay, chúng ta cần đề cập đến một vấn đề có tầm quan trọng hết sức lớn lao đối với đảng, chẳng những trong hiện tại mà cả trong tương lai. Ấy là việc tại sao tệ sùng bái cá nhân Stalin đã bành trướng ngày càng mạnh, và trong một giai đoạn phát triển nhất định, đã dẫn đến một loạt những vi phạm trầm trọng các nguyên tắc, pháp luật và nền dân chủ của đảng.
Vì đến nay, không phải ai cũng thấy rõ những hậu quả tiêu cực trong thực tiễn của tệ sùng bái cá nhân, những tai hại trầm trọng do việc vi phạm nguyên tắc lãnh đạo tập thể của đảng và sự tập trung quyền hành lớn lao, vô giới hạn trong tay một người độc nhất, nên Ban chấp hành trung ương đảng nhận thấy nhất thiết phải trình bày trước Ðại hội những tư liệu đã có trong tay về vấn đề này.
Trước hết, xin phép nhắc các đồng chí là các nhà kinh điển của học thuyết Mác-Lênin đã từng nghiêm khắc tố cáo mọi biểu hiện của tệ sùng bái cá nhân. Trong bức thư gửi chính trị gia người Ðức Vinhem Blốtxơ (Wilhem Bloss), Mác viết :
Trong thời kỳ hoạt động của Quốc tế, ác cảm với mọi thứ sùng bái cá nhân đã khiến tôi không bao giờ cho đăng tải vô số thư từ nhiều nước gửi đến ca tụng tôi, chúng chỉ khiến tôi bực mình. Tôi không bao giờ trả lời, trừ những quở trách đây, đó. Khi lần đầu tiên Ăngghen và tôi gia nhập "Hội những người cộng sản bí mật", chúng tôi đặt điều kiện phải xóa bỏ hết thảy trong Ðiều lệ những gì có thể thúc đẩy lòng tin mê muội vào uy quyền. (Sau này, Látsan đã hành động hoàn toàn ngược lại).
Ít lâu sau, Ăngghen viết :
Cả Mác, cả tôi đều luôn luôn chống lại mọi sự biểu dương công khai liên quan đến một số cá nhân, trừ trường hợp có mục đích cao hơn ; và nhất là chúng tôi chống lại những lời biểu dương đối với cá nhân chúng tôi, ngay khi chúng tôi còn sống.
Ai nấy đều biết đến tính khiêm tốn vô bờ bến, vốn là nét đặc trưng của Lênin, thiên tài cách mạng của chúng ta. Lênin bao giờ cũng nhấn mạnh vai trò của quần chúng với tư cách người làm ra lịch sử, nhấn mạnh vai trò lãnh đạo và tổ chức của đảng như một cơ cấu sống động và mang tính xây dựng, cũng như nhấn mạnh vai trò của Ban chấp hành trung ương đảng.
Chủ nghĩa Mác không phủ nhận vai trò của những lãnh tụ giai cấp công nhân trong việc lãnh đạo phong trào cách mạng.
Mặc dầu đánh giá cao vai trò những người lãnh đạo và tổ chức quần chúng, Lênin phê phán không khoan nhượng mọi biểu hiện sùng bái cá nhân, đồng chí đã đấu tranh kịch liệt chống mọi học thuyết phi mác-xít về vai trò "người anh hùng" và "quần chúng", bác bỏ mọi ý đồ đưa "người anh hùng" đối lập với quần chúng, với nhân dân.
Lênin dạy rằng sức mạnh của đảng tiềm ẩn trong mối quan hệ không gì lay chuyển nổi với quần chúng, rằng đằng sau đảng là nhân dân : công nhân, nông dân và trí thức.
Lênin nói :
Chỉ có kẻ nào tin tưởng ở nhân dân, chỉ có kẻ nào đắm mình trong nguồn sáng tạo sinh động vĩnh cửu của nhân dân, kẻ ấy mới có thể chiến thắng và duy trì được chính quyền.
Lênin tự hào nói về đảng cộng sản của những người bônsêvích, coi đảng là người lãnh đạo và dạy dỗ quần chúng ; lúc nào đồng chí cũng yêu cầu mọi vấn đề quan trọng phải được mang ra bàn luận trước những công nhân giác ngộ và đảng của họ. Lênin nói :
Chúng ta tin tưởng vào đảng, coi nó là bộ óc, là danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta.
Lênin cương quyết chống lại mọi mưu mô coi thường hoặc làm giảm vai trò lãnh đạo của đảng trong cấu trúc nhà nước xô-viết. Thiết lập những nguyên tắc bônsêvích cho sự lãnh đạo của đảng và những chuẩn mực của sinh hoạt đảng, đồng chí nhấn mạnh : lãnh đạo tập thể là nguyên tắc căn bản của sự lãnh đạo của đảng. Ngay trong những năm trước cách mạng, Lênin vẫn gọi Ban chấp hành trung ương đảng là một tập thể lãnh đạo, là người bảo vệ và diễn giải những nguyên tắc của đảng. Lênin nói :
Trong khoảng thời giai giữa hai kỳ Ðại hội, Ban chấp hành trung ương bảo vệ và diễn giải những nguyên tắc của đảng.
Nhấn mạnh vai trò và tầm quan trọng của Ban chấp hành trung ương, Vlađimia Ilích nhận định :
Ban chấp hành trung ương của chúng ta đã trở thành một nhóm tập trung nghiêm ngặt và có uy tín lớn.
Hồi sinh thời Lênin, Ban chấp hành trung ương đảng quả thực là hiện thân cho nguyên tắc lãnh đạo tập thể của đảng và đất nước. Là một chiến sĩ cách mạng mác-xít, dù luôn luôn cứng rắn trong những vấn đề mang tính nguyên tắc, song Lênin không bao giờ ép buộc các đồng sự phục tùng quan niệm của mình. Lênin luôn tìm cách thuyết phục các đồng chí của mình, kiên nhẫn giảng giải cho họ biết tại sao đồng chí lại có ý kiến này hay ý kiến khác.
Lênin luôn chú trọng đến việc duy trì những quy tắc sinh hoạt đảng, áp dụng điều lệ tổ chức đảng trong thực tiễn, đồng chí chú ý triệu tập Ðại hội đảng và các hội nghị Ban chấp hành trung ương vào những thời điểm cần thiết.
Ðoạn 2 : Lênin nói về Stalin
 (LÊN MẠNG THỨ SÁU 15 THÁNG SÁU 2001)
Bên cạnh những công lao to lớn cống hiến cho thắng lợi của giai cấp công nhân, của quần chúng lao động, của đảng và sự áp dụng tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản khoa học trong thực tiễn, trí tuệ sáng suốt của Lênin còn thể hiện ở chỗ đồng chí đã để ý kịp thời nhiều đặc điểm tiêu cực của Stalin, là cái sau này đã mang lại những hậu quả rất tồi tệ.
Lo ngại cho tương lai của đảng và nhà nước xô-viết, Vlađimia Ilích Lênin đã phân tích hoàn toàn đúng đắn về nhân cách của Stalin. Ðồng thời, đồng chí nhắc nhở cần loại bỏ Stalin khỏi chức vụ tổng bí thư. Theo nhận định của Lênin, Stalin là con người quá thô lỗ, đối xử không thỏa đáng với các đồng chí, có tính nết thất thường và lạm dụng quyền hành.
Tháng 12-1922, Vlađimia Ilích viết trong bức thư gửi Ðại hội đảng, :
Ðồng chí Stalin, từ khi trở thành tổng bí thư đảng, đã thâu tóm vào tay mình một quyền hành vô hạn mà tôi không dám chắc đồng chí ấy sẽ luôn biết sử dụng một cách có chừng mực.
Bức thư đó - một tài liệu chính trị hết sức quan trọng, được biết đến trong lịch sử đảng dưới cái tên Di chúc chính trị của Lênin [1]- đã được phát cho các đại biểu của Ðại hội lần thứ XX này. Chắc chắn các đồng chí đã đọc nó nhiều lần và sẽ còn đọc đi đọc lại nhiều lần nữa. Ðề nghị các đồng chí hãy chú ý đến những lo âu của Vlađimia Ilích về tương lai của đảng, của nhân dân, của nhà nước và của sự lãnh đạo đảng sau này.
Vlađimia Ilích nói :
Stalin là người có tính thô lỗ thái quá và nhược điểm này - hoàn toàn có thể chịu đựng được giữa chúng ta với nhau và trong quan hệ giữa những người cộng sản - không thể chấp nhận được trong cương vị tổng bí thư đảng. Vì thế, tôi đề nghị các đồng chí hãy suy nghĩ về việc thuyên chuyển Stalin ra khỏi trọng trách ấy. Hãy đề cử vào vị trí của Stalin một đồng chí khác, có tính nết tốt hơn so với Stalin : kiên nhẫn hơn, trung thực hơn, lịch sự hơn và chu đáo hơn đối với các đồng chí, ít thất thường hơn v.v...
Các đại biểu Ðại hội lần thứ XIII đã được biết tài liệu do Lênin để lại trên đây [2] và khi đó, họ đã thảo luận về vấn đề truất Stalin khỏi chức vụ tổng bí thư. Tuy nhiên, các đại biểu đã quyết định duy trì Stalin ở cương vị ấy, hy vọng Stalin sẽ chú trọng đến những nhận xét mang tính phê bình của Vlađimia Ilích và sẽ biết sửa đổi những tính xấu đã khiến Lênin lo ngại.
Thưa các đồng chí,
Ðại hội cần biết hai tài liệu mới, chứng tỏ bản tính của Stalin mà Lênin đã vạch rõ trong Di chúc chính trị của đồng chí. Ðó là bức thư của Krúpskaia gửi cho Kamênép [3] - lúc ấy đứng đầu Bộ Chính trị - và thư riêng của Lênin gửi Stalin.
Bây giờ, tôi xin đọc cho các đồng chí nghe các tài liệu nói trên.
Thư của Krúpskaia :
Lép Bôrisôvích,
Vì một lá thư ngắn [4] mà bác sĩ đã cho phép Vlađimia Ilích đọc cho tôi chép, ngày hôm qua Stalin đã nổi cơn thịnh nộ thô bạo nhất đối với tôi. Ðã khá lâu rồi tôi là thành viên của đảng. Nhưng trong suốt ba mươi năm ấy, tôi chưa hề nghe một đồng chí nào nói một câu thô lỗ với tôi. Tôi mang trong tim mình những lợi ích của đảng và của Ilích, ít nhất cũng như Stalin. Lúc này, tôi cần tự chủ cực độ. Ðiều gì cần phải làm, điều gì có thể hay không thể đưa ra bàn luận với Lênin, tôi là người hiểu rõ hơn mọi bác sĩ. Bởi tôi biết điều gì có thể hay không thể gây ra sự bực dọc cho Lênin. Chí ít, tôi cũng biết điều đó hơn Stalin.
Tôi viết thư này cho đồng chí và đồng chí Grêgôri (Dinôviép) [5] - là những bạn hữu gần gũi nhất của Ilích - và tôi yêu cầu hai đồng chí bảo vệ tôi chống lại sự can thiệp thô bạo vào đời tư của tôi, chống lại những cuộc cãi cọ không đáng có và những lời hăm dọa hèn hạ. Tôi không nghi ngờ chút nào về việc Ủy ban Kiểm tra - mà Stalin đã mang nó ra để dọa tôi - sẽ đưa ra quyết định thống nhất để bảo vệ tôi. Nhưng tôi không đủ sức và cũng không đủ thì giờ cho những trò kiện cáo ngu xuẩn này. Tôi cũng là người và thần kinh của tôi đã căng thẳng đến tột độ.
N. Krúpskaia
Krúpskaia viết bức thư này ngày 23-12-1922. Hai tháng rưỡi sau, ngày 5-3-1923, Lênin viết cho Stalin bức thư sau, và sao lục hai bản gửi Dinôviép và Kamênép :
Ðồng chí Stalin thân mến,
Ðồng chí đã tự cho phép mình gọi dây nói cho vợ tôi và mắng mỏ vợ tôi một cách thô bỉ. Mặc dầu vợ tôi đã nói với đồng chí là sẽ bỏ qua những điều đồng chí nói, tuy nhiên, qua vợ tôi, hai đồng chí Dinôviép và Kamênép đã biết chuyện này. Tôi không thể dễ dàng quên được việc đó và chẳng cần nói, đồng chí cũng hiểu rằng những gì chống lại vợ tôi, tôi cũng coi như chống lại tôi. Vì thế, tôi yêu cầu đồng chí suy nghĩ kỹ xem đồng chí có sẵn sàng rút lại những lời đã nói và xin lỗi vợ tôi, hay là chúng ta đoạn tuyệt mọi quan hệ.
Thân ái Lênin [6]
(Cả phòng họp kinh ngạc)
Thưa các đồng chí,
Bây giờ, tôi xin miễn bình luận những tài liệu nói trên. Tự nó nói lên tất cả. Nếu từ lúc sinh thời Lênin, Stalin đã có thể cư xử như thế, nhất là cư xử như thế đối với Krúpskaia - người mà đảng ta ai cũng biết và kính trọng như người vợ chung thủy của Lênin, người chiến sĩ tích cực đấu tranh cho sự nghiệp từ ngày đảng thành lập -, có thể hình dung Stalin cư xử ra sao với những người khác. Ðặc tính tiêu cực ấy của Stalin ngày càng mạnh lên và tới độ không thể dung thứ nổi trong những năm cuối đời đồng chí ấy.
Những biến cố sau này đã chứng tỏ những lo ngại của Lênin là có cơ sở. Trong giai đoạn đầu sau khi Lênin qua đời, Stalin còn chú trọng đến những lời khuyên bảo của Lênin, nhưng về sau, đồng chí ấy ngày càng không đếm xỉa tới những cảnh cáo của Lênin.
Khi chúng ta phân tích hoạt động của Stalin trong việc lãnh đạo đảng và đất nước, khi chúng ta suy nghẫm về những việc Stalin đã vi phạm, bất giác chúng ta nhận thấy những lo ngại của Lênin là đúng đắn. Các nét tiêu cực của Stalin - chỉ mới chớm nở hồi sinh thời Lênin - vào những năm về sau đã trở thành sự lạm dụng nghiêm trọng quyền hành tập trung trong tay Stalin và gây tác hại khôn lường cho đảng ta.
Chúng ta cần xem xét nghiêm chỉnh và phân tích kỹ lưỡng vấn đề này, hầu ngăn cản việc tái diễn những việc đã xảy ra như dưới thời Stalin, dưới bất kể hình thức nào. Stalin tuyệt đối không chấp nhận tính tập thể trong lãnh đạo và công việc, và đã dùng bạo lực không những đối với mọi thứ trái ý mình mà - do tính thất thường và độc đoán của đồng chí ấy - còn đối với tất cả những gì bị đồng chí ấy coi là không hợp với quan niệm của mình.
Ðối với mọi người, Stalin không dùng phương pháp thuyết phục bằng lý luận và sự hợp tác kiên nhẫn. Stalin bắt buộc kẻ khác phải theo ý định của mình và đòi họ phải phục tùng mình một cách vô điều kiện. Ai dám cưỡng lại và tìm cách chứng tỏ rằng mình đúng, kẻ đó phải rời hàng ngũ lãnh đạo và sau đó sẽ bị tiêu diệt về tinh thần và thể xác. Ðiều này đã xảy ra sau Ðại hội thứ XVII của đảng, khi rất nhiều lãnh tụ xuất sắc của đảng và các đảng viên nòng cốt - biết bao chiến sĩ trung thực và ngay thẳng của sự nghiệp cộng sản - đã là nạn nhân của sự bạo ngược của Stalin.
Chúng ta đều biết đảng đã phải đấu tranh quyết liệt chống bọn trốt-kít, bọn hữu khuynh và bọn quốc gia tư sản và bằng cuộc đấu tranh đó, đảng đã đánh bại về mặt tư tưởng mọi kẻ thù của chủ nghĩa Lênin. Cuộc tranh đấu tư tưởng này đã thành công, nhờ đó đảng được củng cố và vững vàng thêm. Trong cuộc tranh đấu ấy, Stalin đã có một vai trò tích cực.
Ðảng đã tiến hành cuộc tranh đấu chính trị lớn lao chống lại những đảng viên tuyên truyền các tư tưởng phi lê-nin-nít, và theo đường lối chống lại đảng và phản lại chủ nghĩa xã hội trong nội bộ đảng. Thật là một cuộc tranh đấu bền bỉ và khó khăn, nhưng cần thiết, bởi lập trường chính trị của bọn Trốtsky [7] - Dinôviép cũng như bọn Bukharin [8], về cơ bản là con đường đi tới chỗ tái lập chủ nghĩa tư bản và đầu hàng tư bản quốc tế [9]. Chúng ta thử tưởng tượng hồi 1928-1929, nếu chính sách của bọn hữu khuynh - chủ trương thuyết "chủ nghĩa xã hội tiến nhịp bước con rùa", hướng về bọn phú nông (cu-lắc) [10], v.v... - mà thắng thế thì kết quả sẽ ra sao ? Ngày nay, chúng ta làm gì có được nền công nghiệp nặng đồ sộ, làm gì có được các hợp tác xã, chúng ta sẽ yếu thế và bị giải giáp giữa môi trường tư bản chủ nghĩa.
Vì thế, đảng đã vận động một cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt, vì thế, đảng đã cố gắng giải thích cho mọi đảng viên và quần chúng ngoài đảng biết tầm nguy hại của những tàn dư phi lê-nin-nít của phe đối lập trốt-kít và bọn cơ hội hữu khuynh. Và công cuộc to lớn làm sáng tỏ đường lối của đảng đã đem lại thành quả tốt đẹp : cả bọn trốt-kít, cả lũ cơ hội hữu khuynh bị cô lập về chính trị ; đại đa số đảng viên ủng hộ lập trường lê-nin-nít, và đảng đã thành công trong việc thúc đẩy và tổ chức quần chúng lao động thực hiện đường lối lê-nin-nít của đảng và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhưng chúng ta không được phép quên rằng ngay trong thời kỳ đảng mở cuộc đấu tranh tư tưởng mãnh liệt chống bọn Trốtsky, bọn Dinôviép, bọn Bukharin và bè phái, đảng không áp dụng biện pháp đàn áp đối với họ. Cuộc đấu tranh diễn ra trên địa hạt tư tưởng. Nhưng vài năm sau, khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng căn bản trong nước, khi các giai cấp bóc lột đã bị thủ tiêu về cơ bản, khi cơ cấu xã hội Liên Xô đã thay đổi tận gốc rễ, khi không còn cơ sở xã hội cho sự ra đời của những đảng, những phong trào chính trị phản động, khi những kẻ thù tư tưởng của đảng đã bị đánh bại về chính trị từ nhiều năm về trước - khi ấy, những cuộc khủng bố lại khởi đầu chống họ.
Chính trong giai đoạn này (1936-1937-1938), sự đàn áp hàng loạt đã nảy sinh với sự giúp đỡ của bộ máy nhà nước. Thoạt tiên, người ta dùng biện pháp ấy để chống kẻ thù của chủ nghĩa Lênin : bọn Trốtsky, bọn Dinôviép, bọn Bukharin, những kẻ đã bị đảng đánh bại về mặt chính trị từ lâu ; sau là để đàn áp nhiều chiến sĩ cộng sản chân chính, những cán bộ đảng từng mang trên vai gánh nặng của cuộc nội chiến, của những năm đầu khó khăn nhất trong thời kỳ công nghiệp hóa, công hữu hóa. Ðây là những người đã tranh đấu tích cực chống bọn Trốtsky và bọn hữu khuynh để bảo vệ đường lối lê-nin-nít của đảng.



[1] Sau khi đọc cho thư ký viết bức thư này, Lênin cho hủy bản chính và trao hai bản sao đã niêm phong (với dấu "Tối mật") cho Krúpskaia và Ban Bí thư, ông dặn chỉ được mở và đọc trong Ðại hội đảng sau khi ông qua đời. Vì thế, bức thư trên còn mang tên Thư gửi Ðại hội.


[2] Thư gửi Ðại hội được đọc trong hội nghị ngày 22-5-1924 của Ban chấp hành Trung ương. Một quyết định được thông qua : không thảo luận bản Di chúc chính trị của Lênin trong Ðại hội lần thứ XIII và không công bố trước dân chúng. Bản Di chúc này được Mắc Istman (Max Eastman) - một đảng viên cộng sản Mỹ - đăng tải công khai lần đầu tiên trên tờ New York Times ngày 18-10-1926.


[3] Lép B. Kamênép (1883-1936) : đảng viên từ năm 1901, chủ tịch xô-viết Moskva, phó chủ tịch Hội đồng Dân ủy và ủy viên Bộ Chính trị thời kỳ 1919-1926. Bị bắt sau vụ ám sát Kirốp, bị tù đày và tử hình với lời buộc tội "hoạt động khủng bố".


[4] Lá thư Lênin gửi Trốtsky ngày 21-12-1922, chúc mừng Trốtsky đã đấu tranh thắng lợi khiến Ban chấp hành Trung ương thông qua quyết định nhà nước phải nắm trong tay độc quyền ngoại thương : Dường như đồng chí chiếm được các cứ điểm mà không tốn một phát súng nào. Ðề nghị đồng chí đừng dừng lại, chúng ta hãy tiếp tục tấn công.


[5] Grêgôri I. Dinôviép (1883-1936) : vào đảng năm 1901, đảng viên bônsêvích năm 1903, là học trò và cộng sự gần gũi nhất của Lênin. Chủ tịch xô-viết Pêtrôgrát sau cách mạng tháng Mười, ủy viên Bộ Chính trị, chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Quốc tế cộng sản (Ðệ tam). Bị bắt và tử hình cùng Kamênép trong "vụ án Moskva" năm 1936.


[6] Bức thư này đã được Lép Trốtsky đăng trong cuốn hồi ký Ðời tôi. Ðảng cộng sản Liên Xô và tất cả các đảng cộng sản trên thế giới vẫn giấu giếm trước dư luận. Ðây là lần đầu tiên đảng cộng sản Liên Xô công bố trước Ðại hội đảng. Ngày 7-3-1923, Stalin trả lời Lênin với giọng điệu khá ngang bướng ; lá thư này mới được công bố cách đây ít lâu. Cũng trong ngày hôm đó, Lênin bị chảy máu não lần thứ hai, ông bị cấm khẩu và liệt toàn thân.


[7] Lép D. (Brônstên) Trốtsky (1879-1940) : vào đảng Xã hội Dân chủ Nga năm 1897, bị tù và đày ải nhiều lần dưới thời Nga hoàng, chủ tịch xô-viết Pêtrôgrát trong cách mạng 1905 và cách mạng tháng Mười 1917, đóng vai trò quyết định trong việc tổ chức và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tháng Mười. Sau năm 1917, giữa các trọng trách Dân ủy Ngoại vụ, Dân ủy Quốc phòng và Hải quân, chủ tịch Hội đồng Quân sự Cách mạng, ủy viên Bộ Chính trị ; sáng lập và lãnh đạo Hồng quân trong cuộc nội chiến. Sau khi Lênin mất, Trốtsky là người đứng đầu các nhóm đối lập ở Liên Xô, bị Stalin khai trừ khỏi đảng năm 1926, đày đi Anma-Ata năm 1928 và trục xuất khỏi Liên Xô năm 1929. Trốtsky thành lập Ðệ tứ Quốc tế vào nửa cuối thập niên 30, bị Stalin phái người tới tận Mêhicô để ám sát ông vào năm 1940.


[8] Nikôlai I. Bukharin (1888-1938) : ủy viên thành ủy Mạc Tư Khoa từ năm 1908, thành viên Ban chấp hành Trung ương từ hè năm 1917, ủy viên Bộ Chính trị đến năm 1929, chủ tịch Quốc tế cộng sản (Ðệ tam) thời kỳ 1926-1929. Bị bắt năm 1937 và tử hình vì tội "gián điệp" trong vụ án Bukharin năm 1938.


[9] Ðây là một sự vu khống theo kiểu xta-lin-nít. Các sử gia đứng đắn, tôn trọng sự thật đều biết sau khi cách mạng tháng Mười thành công, Lép Trốtsky là người đầu tiên trong đảng đề ra khẩu hiệu Công nghiệp hóa và Công hữu hóa. Thoạt đầu, Stalin và Bukharin chống lại chủ trương ấy. Sau này, khi đã loại bỏ Bukharin, Stalin đem những khẩu hiệu của Trốtsky ra áp dụng, nhưng vẫn tiếp tục vu khống Trốtsky.
[10] Tầng lớp phú nông có ruộng đất ở Nga.
Ðoạn 3 : "Kẻ thù của nhân dân"
 (LÊN MẠNG THỨ SÁU 15 THÁNG SÁU 2001)
Stalin là người đề xướng quan niệm "kẻ thù của nhân dân". Thuật ngữ này tự nó loại trừ sự cần thiết phải chứng tỏ những sai lầm về tư tưởng của từng cá nhân hay đoàn thể. Nó tạo điều kiện cho việc vi phạm mọi chuẩn mực của pháp luật cách mạng, áp dụng những biện pháp khủng bố tàn bạo nhất với bất kỳ ai không đồng tình với Stalin trong bất kỳ một vấn đề nào, đối với những người mới chỉ bị nghi vấn là đang chuẩn bị hoạt động chống phá cũng như với những kẻ vô tăm tiếng.
Tự bản thân, quan niệm "kẻ thù của nhân dân", trong thực tế, đã loại bỏ khả năng mở ra bất kỳ một cuộc đấu tranh tư tưởng nào, hoặc ngăn cản người khác không được phát biểu ý kiến về một vấn đề nhất định, ngay cả khi vấn đề ấy là thực tiễn, chứ không mang tính lý luận. Trái hẳn với mọi nguyên tắc pháp lý, người ta chỉ dựa vào lời "thú tội" của bị cáo để buộc tội, coi đó là bằng chứng chính yếu và duy nhất trong thực tế. Các cuộc thẩm tra sau này đã chứng tỏ : bằng nhục hình, người ta đã cưỡng bức các bị cáo phải tuôn ra những lời "thú tội".
Ðiều này dẫn đến chỗ pháp lý cách mạng bị vi phạm trầm trọng, và nhiều người hoàn toàn vô tội - trong quá khứ từng bảo vệ đường lối của đảng - đã trở thành nạn nhân.
Phải nhớ rằng ngay cả đối với những người trước kia đã chống lại đường lối của đảng, lắm lúc, dù chẳng có lý do gì chính đáng, họ cũng bị giết hại. Quan niệm "kẻ thù của nhân dân" được áp dụng nhiều nhất chính là để sát hại thể xác những người như thế.
Một thực tế nữa là trong số những người bị thanh trừng như "kẻ thù của đảng và nhân dân", có nhiều người trước đây từng cộng tác với Lênin. Trong số đó, hồi sinh thời Lênin có vài người đã từng phạm những sai lầm, nhưng Lênin - thường thường hài lòng với công việc của họ - đã cố gắng giúp họ sửa chữa những sai lầm ấy và tìm mọi cách giữ họ lại trong hàng ngũ đảng ; đồng chí bao giờ cũng cố gắng thuyết phục họ theo lẽ phải của đồng chí.
Về điểm này, các đại biểu Ðại hội đảng cần được biết nội dung một bức thư - chưa bao giờ được công bố - mà đồng chí V.I. Lênin gửi đến Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương tháng 10-1920. Nhấn mạnh về nhiệm vụ của Ủy ban Kiểm tra, Lênin nói rằng ủy ban này phải trở nên một "cơ quan thực thụ của lương tri đảng và lương tri vô sản" :
Nhân danh nhiệm vụ đặc biệt của mình, Ủy ban Kiểm tra cần quan tâm chu đáo đến từng cá nhân, thậm chí phải coi mình như một liều thuốc chữa bệnh đối với các đại diện phe đối lập, những người bị khủng hoảng tinh thần sau những thất bại của họ trong chính quyền xô-viết hay trong đảng. Cần phải cố gắng an ủi họ, giải thích cho họ hiểu vấn đề trên tình đồng chí, tìm cho họ (nên tránh lối ra lệnh) một công tác phù hợp với đặc tính tâm lý của họ, phải đưa những hướng dẫn và chỉ thị về vấn đề này cho Ban Tổ chức trung ương, v.v...
 
Mỗi người chúng ta đều biết Lênin rất nghiêm khắc đối với những kẻ thù tư tưởng của chủ nghĩa Mác, với những ai đi sai đường lối đúng dắn của đảng. Nhưng đồng thời, cũng như tài liệu được trích dẫn nói trên chứng tỏ, trong quá trình lãnh đạo đảng, Lênin đòi hỏi đảng phải cư xử thật sâu sắc với những ai tỏ ra do dự hoặc chưa đồng tình với đường lối của đảng trong một giai đoạn tạm thời, nhưng sau này có thể trở về với đảng. Lênin khuyên nhủ chúng ta phải kiên nhẫn cải tạo những người này và đừng áp dụng những biện pháp cực đoan đối với họ.
Sự sáng suốt của Lênin trong quan hệ với con người đã bộc lộ rất rõ trong hành động đối với các cán bộ đảng. 
Nhưng trong mối quan hệ với mọi người, Stalin lại cư xử hoàn toàn trái ngược. Những phương pháp của Lênin hoàn toàn xa lạ đối với Stalin. Kiên nhẫn đối với con người, chú trọng việc thường xuyên cải tạo họ, tìm cách thuyết phục họ về với mình, không cưỡng chế mà chỉ dùng tác động tư tưởng thông qua tập thể đảng - đây là những điều Stalin không hề biết đến. 
Stalin đã bác bỏ phương pháp thuyết phục và giáo dục lê-nin-nít, vứt bỏ phương pháp đấu tranh tư tưởng và chỉ sử dụng phương pháp bạo lực hành chính, đàn áp và khủng bố hàng loạt. Dựa vào các cơ quan hình sự, Stalin đã áp dụng những phương pháp ấy, ngày càng trên diện rộng và ngày càng dai dẳng, giữa chừng, đồng chí ấy thường xuyên chà đạp lên mọi chuẩn mực đạo lý và pháp lý xô-viết.
Sự độc đoán của một cá nhân đã thúc đẩy và động viên hành vi độc đoán cho những kẻ khác. Những vụ bắt bớ đồng loạt hàng ngàn người, những vụ hành quyết không đem ra xét xử tại tòa án và không qua thẩm xét thông thường đã tạo nên trạng thái "bất an", tràn đầy nỗi lo âu, thậm chí khiếp đảm.
Tất nhiên, điều này không củng cố sự đoàn kết giữa các cán bộ đảng và mọi tầng lớp quần chúng lao động. Trái lại, nó dẫn đến việc khai trừ khỏi đảng và thủ tiêu nhiều chiến sĩ trung thành với đảng, chỉ vì họ không làm vừa ý Stalin.
Ðảng ta đã đấu tranh nhằm thực hiện những kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội của Lênin. Ðây là cuộc đấu tranh về ý thức hệ. Nếu trong cuộc đấu tranh này, những nguyên tắc lê-nin-nít được thực hiện và nếu sự tôn trọng nguyên tắc được hòa hợp đúng đắn với sự quan tâm, chăm sóc con người, nếu con người không bị gạt bỏ mà được đối xử phải lẽ, hiển nhiên là chúng ta đã không gặp phải sự vi phạm luật pháp cách mạng một cách thô bạo như thế, và hàng vạn người đã không trở thành nạn nhân của những phương pháp khủng bố. Lẽ ra, chỉ được dùng các biện pháp bất thường chống lại những kẻ quả thực có hành động phá hoại hệ thống xô-viết.
Ðoạn 4 : Lênin và tổ chức đảng
 (LÊN MẠNG THỨ BẢY 16 THÁNG SÁU 2001)
Chúng ta hãy nhớ lại vài sự kiện lịch sử.
Trong những ngày trước cách mạng tháng Mười, hai ủy viên Ban chấp hành trung ương đảng bônsêvích, Kamênép và Dinôviép đã chống lại kế hoạch khởi nghĩa vũ trang của Lênin(1). Hơn thế nữa, ngày 18-10, họ lại đăng trên tờ Nôvaia Giưdin(2) của phái mensêvích một lời tuyên bố, trong đó họ đề cập đến việc đảng bônsêvích đang chuẩn bị cuộc khởi nghĩa vũ trang mà họ (Kamênép và Dinôviép) coi là một hành động phiêu lưu mạo hiểm. Như thế, Kamênép và Dinôviép đã tiết lộ cho kẻ thù biết nghị quyết của Ban chấp hành trung ương về cuộc khởi nghĩa, nhất là họ công bố cuộc khởi nghĩa sẽ xảy ra trong vòng vài ngày. 
Ðó là một hành động phản bội đối với đảng và đối với sự nghiệp cách mạng. Về vấn đề này, Lênin đã viết :
Kamênép và Dinôviép đã tiết lộ nghị quyết của Ban chấp hành trung ương đảng về cuộc khởi nghĩa vũ trang cho Rốtdiankô và Kêrensky(3)...
Và Lênin đã đề nghị Ban chấp hành trung ương khai trừ Kamênép và Dinôviép khỏi đảng(4).
Nhưng sau khi cuộc đại cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười thành công, ai cũng biết Dinôviép và Kamênép đã giữ các chức vụ lãnh đạo. Lênin đã đưa họ vào những cương vị mà tại đó, họ đã chỉ đạo việc thực hiện những nghị quyết rất quan trọng của đảng. Họ cũng tham gia tích cực vào công tác lãnh đạo các tổ chức đảng và xô-viết.
Chúng ta cũng biết Dinôviép và Kamênép còn phạm hàng loạt sai lầm khác - không kém phần nghiêm trọng - trong lúc sinh thời Lênin. Trong Di chúc chính trị của mình, Lênin đã nhắc nhở : "Biến cố tháng Mười của Dinôviép và Kamênép tất nhiên không tình cờ."
Dù vậy, Lênin không đặt vấn đề bắt bớ họ và dĩ nhiên, càng không có chuyện xử tử họ.
Hoặc, hãy xem thí dụ của phái trốt-kít. Ngày nay, sau một giai đoạn lịch sử tương đối dài, chúng ta có thể hoàn toàn bình tĩnh nói về cuộc đấu tranh chống phái trốt-kít và có thể phân tích vấn đề này với độ khách quan cần thiết.
Trước tiên, những người đứng xung quanh Trốtsky, xét về thành phần xã hội, không thể liệt vào thành phần tư sản. Trong số họ, một số là trí thức và một số khác là những đảng viên có gốc rễ lao động. Chúng ta có thể nhắc đến tên nhiều người, thời xưa từng ủng hộ Trốtsky. Nhưng những người ấy - trước cách mạng và trong cuộc cách mạng tháng Mười - đã tham gia tích cực vào phong trào công nhân, sau đó, họ đã đấu tranh củng cố thắng lợi của cuộc cách mạng vĩ đại đó(5)
Nhiều người trong số họ đã đoạn tuyệt phái trốt-kít và quay về lập trường lê-nin-nít. Thử hỏi có cần thiết phải tàn sát họ hay không ? Chúng ta tin chắc nếu Lênin còn sống, không bao giờ những biện pháp cực đoan lại được mang ra áp dụng đối với họ.
Ðây chỉ là một vài sự kiện lịch sử. Nhưng phải chăng có thể nói Lênin đã không dùng những biện pháp nghiêm khắc đối với kẻ thù của cách mạng, khi quả thực điều đó là cần thiết ?
Không, chúng ta không thể nói như thế. Vlađimia Ilích không chấp nhận bất cứ một thỏa hiệp nào đối với những kẻ thù của cách mạng và của giai cấp công nhân, và khi cần thiết, đồng chí không ngần ngại sử dụng những phương pháp cương quyết nhất. 

Chúng ta hãy nhớ lại Lênin đã chiến đấu như thế nào để chống lại các tổ chức của bọn xã hội cách mạng(6) khi lũ này nổi dậy chống chính quyền xô-viết, chống lại phong trào phản cách mạng năm 1918 của bọn phú nông (cu-lắc) v.v... Trong những trường hợp đó, Lênin không ngần ngại dùng những phương pháp cứng rắn nhất.
Nhưng Lênin chỉ dùng các biện pháp này để chống lại kẻ thù giai cấp thực thụ. Ðồng chí không áp dụng nó với những cán bộ chỉ mắc sai lầm, có thể sửa chữa được bằng giáo dục tư tưởng, thậm chí sau đó còn có thể đặt họ và các cương vị lãnh đạo. 
Lênin chỉ sử dụng những biện pháp nghiêm khắc trong trường hợp cần thiết thực sự : khi giai cấp bóc lột còn tồn tại và chống đối cách mạng quyết liệt, khi cuộc đấu tranh cho sự sống còn được biểu lộ dưới những hình thức gay go nhất, kể cả hình thức nội chiến. 
Ngược lại, Stalin đã áp dụng những biện pháp đặc biệt và khủng bố hàng loạt khi cuộc cách mạng đã toàn thắng, khi nhà nước xô-viết đã được củng cố, khi giai cấp bóc lột đã hoàn toàn bị dẹp tan, khi nền móng vững chãi của những quan hệ xã hội chủ nghĩa đã cắm rẽ ở khắp các ngành của nền kinh tế quốc gia, khi đảng đã vững mạnh về phương diện chính trị và ngày càng được củng cố về mặt nhân sự cũng như về ý thức hệ.
Hoàn toàn rõ ràng, trong nhiều trường hợp, Stalin đã bộc lộ rõ rệt cách cư xử không thể dung thứ, bản tính lỗ mãng và lạm dụng chức quyền. Ðáng lẽ phải chứng tỏ đường lối chính trị đúng đắn, đáng lẽ phải động viên quần chúng, đằng này Stalin lại chọn con đường đàn áp và thủ tiêu thể xác, không chỉ với kẻ thù thực sự mà còn đối với những người không mảy may chống lại đảng hay chính phủ Liên Xô. Không thể coi đó là hành động sáng suốt, đây chỉ là biểu hiện của bản tính thô lỗ mà trước đây Lênin đã tiên đoán và đã lo ngại.
Sau này, nhất là sau khi bè lũ Bêrya bị vạch mặt, Ban chấp hành trung ương đã nghiên cứu nhiều vụ việc mà bọn này đã ngụy tạo ra(7). Kết quả cho thấy một bức tranh kinh hoàng của toàn bộ thể chế độc đoán, có liên quan mật thiết đến thái độ sai trái của Stalin.
Thực tế đã chứng tỏ, Stalin - trong khi sử dụng quyền hành vô giới hạn của mình - đã nhân danh Ban chấp hành trung ương mà không hỏi ý kiến các ủy viên Trung ương, thậm chí, đồng chí ấy cũng không xin ý kiến các ủy viên Bộ Chính trị. Nhiều khi, Stalin chẳng hề báo cáo cho các ủy viên Trung ương biết những quyết định cá nhân trong các vấn đề hệ trọng của đảng và của chính phủ.
Nghiên cứu vấn đề sùng bái cá nhân, trước hết chúng ta cần chỉ ra : thứ sùng bái cá nhân này đã gây những tai hại đến mức nào cho đảng chúng ta.
Lênin luôn luôn nhấn mạnh vai trò và tầm quan trọng của đảng trong việc lãnh đạo chính phủ xã hội chủ nghĩa của công nhân và nông dân ; đồng chí coi đó là điều kiện hàng đầu cho sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhấn mạnh trọng trách của đảng bônsêvích - trên vai trò một chính đảng lãnh đạo nhà nước xô-viết -, đồng thời Lênin đòi hỏi chúng ta phải nghiêm chỉnh tôn trọng những chuẩn mực trong sinh hoạt đảng, đòi hỏi chúng ta thực hiện nguyên tắc tập thể trong việc lãnh đạo đảng và nhà nước.

(1) Trong hội nghị lịch sử quyết định khởi nghĩa của Ban chấp hành Trung ương bônsêvích (ngày 10-10-1917), Dinôviép và Kamênép đã bỏ phiếu chống lại cuộc khởi nghĩa tháng Mười.
(2) Tờ báo của Mắcxim Gorky.
(3) Mikhain Rốtdiankô : chủ tịch Viện Ðuma trong cách mạng tháng Hai. Alếchsanđrơ Kêrensky (1881-1970) : lãnh tụ đảng Lao động (gần khuynh hướng với đảng Xã hội Cách mạng), nghị sĩ Viện Ðuma, bộ trưởng Tư pháp và Quốc phòng, chủ tịch Chính phủ Lâm thời tháng 7 đến tháng 10-1917. Bị lật đổ và chạy trốn trong cách mạng tháng Mười.
(4) Cuối cùng, hai người này chỉ bị khai trừ khỏi Ban chấp hành Trung ương.
(5) Trái với Stalin và những sự vu khống của các đảng cộng sản trên thế giới, Khrushốp công nhận Trốtsky và những người trốt-kít "không thể liệt vào thành phần tư sản". Nói cách khác, trốt-kít là những người trong giai cấp công nhân. Nhưng cũng như Stalin, Khrushốp không công nhận việc Trốtsky có quyền có khuynh hướng chính trị khác với ban lãnh đạo đảng. Những tấn thảm kịch - trong đó hàng triệu đảng viên cộng sản Liên Xô bị sát hại - là do quan niệm ngăn cấm sự tự do dân chủ vô sản. Ðó là quan niệm "độc đảng" và "đảng một khối" thịnh hành ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ thời xưa.
(6) Ðảng Xã hội Cách mạng thành lập năm 1901 từ những nhóm dân túy, gồm tiểu tư sản, nông dân, giáo học, bác sĩ v.v..., có nhiều ảnh hưởng trong nông dân. Không công nhận cách mạng tháng Mười, các thành viên đảng này đã tổ chức những cuộc đề kháng quân sự và khủng bố vũ trang, nhất là trong thời kỳ nội chiến 1918-1920.
(7) Trước khi Bêrya bị bắt, đảng đã mở cuộc điều tra về các vụ khủng bố dưới thời Stalin. Ngày 4-4-1953, "bọn áo choàng trắng" - do Stalin hạ lệnh bắt - đã được trả tự do.
Ðoạn 5 : Lãnh đạo tập thể
 (LÊN MẠNG THỨ BẢY 16 THÁNG SÁU 2001)
Sự lãnh đạo tập thể tất yếu xuất phát từ bản chất của đảng ta, xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Lênin viết :
Ðiều này có nghĩa tất cả mọi vấn đề của đảng - trực tiếp hoặc thông qua những người đại diện - phải do mọi đảng viên thực hiện, không trừ một ai, trên cơ sở bình đẳng về các quyền lợi ; lại nữa, tất cả những nhân viên hành chính, tất cả các cơ quan lãnh đạo, tất cả những cơ sở đảng đều được bầu cử, họ có trách nhiệm phúc trình những sinh hoạt của họ và có thể bị bãi bỏ bất kể lúc nào.
Chúng ta biết rõ bản thân Lênin luôn nêu tấm gương tôn trọng triệt để những nguyên tắc nói trên. Lênin không tự mình quyết định trong bất kỳ một vấn đề quan trọng nào, đồng chí luôn hỏi ý kiến đa số các ủy viên Ban chấp hành trung ương hay Bộ Chính trị và nhận được sự chấp thuận của họ.
Trong thời kỳ khó khăn nhất của đảng và của đất nước ta, Lênin không bao giờ quên triệu tập đều đặn những cuộc hội nghị, hội đàm của đảng và những hội nghị toàn thể của Ban chấp hành trung ương, nơi những vấn đề hệ trọng được đem ra thảo luận và những nghị quyết của toàn bộ Ban chấp hành trung ương được thông qua.
Chẳng hạn, chúng ta hãy nhớ lại năm 1918, khi đất nước ta bị hiểm họa tư bản nước ngoài can thiệp. Trong tình hình ấy, Ðại hội lần thứ VII được triệu tập để thảo luận một vấn đề sống còn, không thể trì hoãn : vấn đề hòa bình. Năm 1919, khi nội chiến đang ở độ ác liệt, Ðại hội lần thứ VIII thông qua cương lĩnh mới của đảng, trong đó đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng như mối quan hệ giữa đảng và quần chúng nông dân, tổ chức Hồng quân, sự lãnh đạo của đảng trong các xô-viết, việc cải tổ thành phần xã hội của đảng v.v...
Năm 1920, đảng họp Ðại hội lần thứ IX để thiết lập nền tảng vai trò lãnh đạo của đảng trong lĩnh vực phát triển kinh tế. Năm 1921, Ðại hội lần thứ X đã đưa ra quyết định về chính sách Tân kinh tế (N.E.P.)(1) và thông qua quyết nghị có tầm quan trọng lịch sử mang tựa đề Về sự thống nhất của đảng do Lênin khởi thảo.
Hồi sinh thời Lênin, các đại hội của đảng đã được triệu tập thường xuyên, mỗi lần lại đưa ra một thay đổi cấp tiến trong quá trình phát triển của đảng và đất nước. Lênin nhận thấy sự cần thiết tuyệt đối của việc đảng phải thảo luận tỉ mỉ về tất cả mọi vấn đề quan trọng dính líu đến đường lối đối nội và chính sách ngoại giao cùng những vấn đề liên quan đến cơ cấu của đảng và chính phủ.
Một điều rất đặc trưng là trong những bài nói chuyện, những thư từ và chỉ dẫn cuối cùng, Lênin hướng về đại hội đảng như cơ quan tối cao của đảng. Trong thời gian giữa hai đại hội, Ban chấp hành trung ương là cơ quan lãnh đạo có uy tín nhất, theo sát những nguyên tắc và thực hiện đường lối chính trị của đảng.
Ðảng đã hoạt động như thế trong thời kỳ Lênin còn sống.
Nhưng phải chăng sau khi Lênin mất, những nguyên tắc thiêng liêng của đảng vẫn được duy trì ?
Trong những năm đầu sau khi Lênin mất, các cuộc đại hội và các khóa họp Ban chấp hành trung ương còn được triệu tập tương đối đều đặn, nhưng sau này, khi Stalin bắt đầu và ngày càng lạm dụng quyền hành, những nguyên tắc đó bị vi phạm trắng trợn.
Ðiều này đặc biệt rõ rệt trong 15 năm cuối đời của Stalin. Có thể coi là một sự bình thường được không khi giữa Ðại hội XVIII và XIX là 13 năm, trong 13 năm ấy đảng và dân tộc ta đã trải qua biết bao biến cố quan trọng ? Những sự kiện đó đòi hỏi đảng phải thông qua những quyết định về phòng thủ trong chiến tranh vệ quốc và xây dựng đất nước sau khi hòa bình lập lại.
Vậy mà, ngay cả khi chiến tranh đã kết thúc rồi, cũng phải chờ đến hơn bảy năm nữa mới có một đại hội đảng được triệu tập.
Hầu như không có những khóa họp Ban chấp hành trung ương. Chỉ cần nhắc lại : trong những năm của cuộc chiến tranh vệ quốc, Ban chấp hành trung ương không họp một lần nào.
Ðúng hơn, vào tháng 10-1941, người ta định triệu tập một hội nghị Ban chấp hành trung ương. Các ủy viên của Ban đã về Moskva từ mọi miền của đất nước. Trong hai ngày, họ chờ đợi hội nghị khai mạc, nhưng vô ích. Stalin không muốn gặp và cũng không muốn trao đổi ý kiến với họ. Thực tế này chứng tỏ trong những tháng đầu của chiến tranh, Stalin đã có tâm trạng nao núng. Nó cũng chứng tỏ Stalin coi thường và khinh miệt các thành viên Ban chấp hành trung ương đến mức nào.
Trong thực tiễn, Stalin không đếm xỉa đến quy luật sinh hoạt của đảng và chà đạp những nguyên tắc lê-nin-nít trong sự lãnh đạo tập thể của đảng.
Thái độ bất thường của Stalin đối với đảng và Ban chấp hành trung ương đã biểu lộ hoàn toàn rõ rệt sau Ðại hội lần thứ XVII của đảng vào năm 1934.

(1) Chính sách do Lênin đề xướng cho phép kinh tế cá thể và đầu tư nước ngoài được hoạt động, xóa bỏ hệ thống phiếu và chế độ cưỡng bức giao nộp sản phẩm, nhờ đó mà nền kinh tế Liên Xô được chấn hưng.
Ðoạn 6 : Những vụ việc ngụy tạo
 (LÊN MẠNG THỨ BẢY 16 THÁNG SÁU 2001)
Thu thập được nhiều số liệu chứng tỏ sự độc đoán trắng trợn đối với các cán bộ đảng, Ban chấp hành trung ương đã lập ra một ủy ban - hoạt động dưới sự kiểm soát của Ðoàn Chủ tịch Ban chấp hành trung ương đảng - nhằm nghiên cứu những nguyên nhân đã gây nên các vụ đàn áp hàng loạt đối với đa số thành viên chính thức và dự khuyết của Ban chấp hành trung ương do Ðại hội nghị lần thứ XVII bầu ra. 
Ủy ban này, trong quá trình tìm hiểu một số lớn tài liệu lưu trữ của Bộ Dân ủy Nội vụ (N.K.V.D.)(1) và các tư liệu khác, đã đi đến nhận định sau : trong nhiều trường hợp, các vụ án ngụy tạo được bày đặt để đàn áp các đảng viên cộng sản, những lời buộc tội giả trá được đặt ra, luật pháp xã hội chủ nghĩa bị xâm phạm trắng trợn, dẫn đến việc nhiều người vô tội bị sát hại. Rõ ràng là nhiều chiến sĩ của đảng, của xô-viết, của các ngành kinh tế - bị lên án là "kẻ thù" trong những năm 1937- 38(2) - thực ra họ chưa bao giờ là kẻ thù, là gián điệp, là kẻ phá hoại v.v... mà luôn luôn là những người cộng sản chân chính. Nhưng họ đã bị vu khống và thường thường, vì không chịu nổi những đòn tra tấn dã man, họ đã tự gán cho mình (theo lệnh của lũ nhân viên điều tra man trá) những tội tày đình và vô lý nhất.
Ủy ban đã đệ trình lên chủ tịch đoàn Ban chấp hành trung ương một tư liệu đồ sộ và có cơ sở về các vụ đàn áp đại quy mô đối với các đại biểu Ðại hội lần thứ XVII và các thành viên Ban chấp hành trung ương do đại hội đó bầu ra. Ðoàn chủ tịch Ban chấp hành trung ương đã nghiên cứu cặn kẽ tư liệu trên.
Cuộc điều tra đã cho thấy 98 người trong số 139 ủy viên chính thức và dự khuyết của Ban chấp hành trung ương do Ðại hội thứ XVII bầu ra, nghĩa là 70 %, đã bị bắt bớ và bị xử bắn (phần đông vào những năm 1937-38). (Cả phòng họp xôn xao công phẫn)
Thử xem thành phần các đại biểu ở Ðại hội lần thứ XVII ra sao ? Ta được biết 80% đại biểu có quyền biểu quyết ở Ðại hội thứ XVII đã gia nhập đảng trong những năm đảng còn ở trong vòng bí mật, trước cuộc cách mạng hoặc trong cuộc nội chiến, nghĩa là trước năm 1921. Về thành phần xã hội, đa số các đại biểu ở Ðại hội (60% số đại biểu có quyền bỏ phiếu) là công nhân. 
Chúng ta không thể tưởng tượng được một đại hội với thành phần như trên đã bầu ra một Ban chấp hành trung ương mà đa số thành viên là kẻ thù của đảng. Lý do độc nhất làm 70% ủy viên chính thức và dự khuyết của Ban chấp hành trung ương bị tố cáo là kẻ thù của đảng và nhân dân là ở chỗ các chiến sĩ cộng sản trung thực đã bị vu khống dựa trên những lời buộc tội bịa đặt, khiến pháp lý cách mạng bị vi phạm trầm trọng. 
Bên cạnh những ủy viên Ban chấp hành trung ương, đa số đại biểu Ðại hội lần thứ XVII của đảng cũng chịu số phận ấy. Trong số 1956 đại biểu đại biểu chính thức và dự thính, 1108 người (nghĩa là đại đa số đại biểu Ðại hội) bị bắt và bị kết án phản cách mạng. Ngay bản thân sự kiện này chứng tỏ tính phi lý, ngược đời, trái với lương tri của những lời buộc tội "phản cách mạng" gán cho đa số đại biểu Ðại hội lần thứ XVII. (Cả phòng nhôn nhao phẫn nộ) 
Chớ quên rằng Ðại hội lần thứ XVII được biết đến trong lịch sử như "đại hội của những người chiến thắng". Các đại biểu trong Ðại hội này đã từng tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Số đông đã chịu đựng gian khổ và đã đấu tranh cho lợi ích của đảng trong những năm tiền cách mạng, trong vòng bí mật và trên các mặt trận thời cuộc nội chiến. Họ đã anh dũng chống lại kẻ thù và thường xuyên trực diện với cái chết. Làm sao chúng ta có thể tin được những người như thế lại là những kẻ giả dối và gia nhập phe thù địch của chủ nghĩa xã hội, ở thời kỳ mà bè phái Dinôviép, Trốtsky và bọn hữu khuynh đã bị thủ tiêu về mặt chính trị và ở thời kỳ mà nhiều công trình xây dựng xã hội chủ nghĩa đã được thực hiện.
Ðó là hậu quả của việc Stalin lạm dụng quyền hành, dùng khủng bố hàng loạt đối với các cán bộ đảng.
Thử hỏi vì sao những cuộc đàn áp đại quy mô đối với cán bộ đảng tích cực lại càng ngày càng trở nên trầm trọng hơn sau Ðại hội đảng lần thứ XVII ? 

Bởi vì vào thời kỳ đó, Stalin đã tự đặt mình lên địa vị tối cao, trên đảng và nhà nước, và không đếm xỉa gì đến Ban chấp hành trung ương hay đảng nữa. Vào thời kỳ trước Ðại hội thứ XVII, Stalin phần nào còn tôn trọng dư luận của tập thể. Nhưng khi các bè phái Dinôviép, Trốtsky và Bukharin đã bị thủ tiêu hoàn toàn về mặt chính trị, khi cuộc đấu tranh đã mang lại những thắng lợi xã hội chủ nghĩa, đảng đã xây dựng được sự thống nhất, thì Stalin lại càng không đếm xỉa gì đến các thành viên Ban chấp hành trung ương đảng và ngay cả các ủy viên Bộ Chính trị. Khi đó, Stalin cho rằng từ nay tự mình có thể định đoạt được tất cả mọi việc và chỉ cần đến một số bù nhìn mà thôi. Trong sự đối xử với mọi người, Stalin chỉ coi họ có vai trò vâng lệnh và tán dương mình.
Sau vụ ám sát Kirốp(3), những cuộc đàn áp hàng loạt và những hành động vi phạm một cách thô bạo luật pháp xã hội chủ nghĩa bắt đầu diễn ra. Tối mùng 1-12-1934, theo đề xuất của Stalin (không có sự đồng ý của Bộ Chính trị - Bộ Chính trị chỉ thông qua sau đó hai ngày), bí thư Ban Chấp hành Trung ương Ênukítdê đã ký một chỉ thị như sau :
1. Các cơ quan điều tra phải xúc tiến việc thực hiện thủ tục hình sự đối với những kẻ bị kết tội chuẩn bị hoặc tiến hành các hành động khủng bố.
2. Các cơ quan tư pháp không được làm chậm trễ việc thi hành các án tử hình vì cớ muốn xét lại để ân xá đối với những bị can thuộc loại này. Ðoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Liên Xô không chấp nhận việc xét lại để ân xá như thế.
3. Các cơ quan của Bộ Dân ủy Nội vụ phải thi hành tức khắc các bản án tử hình đối với lũ can phạm thuộc loại đã nói trên.
Chỉ thị này, trong vô số trường hợp, là cơ sở của những hành động vi phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong nhiều vụ án ngụy tạo, các bị cáo bị buộc tội "chuẩn bị" những cuộc bạo động. Bản thân chỉ thị nói trên đã khiến trường hợp của họ không thể được thẩm tra lại, cho dù họ đã tuyên bố trước tòa án rằng những lời "thú tội" của họ là do họ bị tra tấn, và mặc dầu họ đã chứng tỏ một cách xác đáng rằng những lời buộc tội họ là bịa đặt.
Phải nhấn mạnh rằng tới nay, nhiều điều khó hiểu và bí ẩn trong hoàn cảnh xảy ra vụ ám sát Kirốp và cần phải được điều tra thật kỹ càng. Có nhiều lý do để nói Nikôlaiép(4) - kẻ đã hạ sát Kirốp - đã được một kẻ trong số những người có nhiệm vụ bảo vệ cho Kirốp tiếp tay. Một tháng rưỡi trước ngày xảy ra vụ ám sát, Nikôlaiép bị bắt vì bị "tình nghi", nhưng rồi được thả ra, thậm chí cũng không bị thẩm tra gì cả. Ðáng nghi ngờ hơn nữa là chuyện một trinh sát viên Chêka(5) - thuộc đội bảo vệ Kirốp - "bị tai nạn" xe hơi chết giữa đường đi lấy khẩu cung ngày 1-12-1934, trong lúc những người cùng ngồi xe hơi với hắn không hề bị thương tổn gì(6). Sau vụ án Kirốp, những người đứng đầu N.K.V.D. vùng Lêningrát bị kết án rất nhẹ, nhưng đến năm 1937, họ đều bị tử hình. Có thể giả thiết bằng việc bị xử bắn họ, người ta muốn xóa hết các dấu vết của những kẻ thực thụ đã tổ chức vụ ám sát Kirốp.(7) (Phòng họp xôn xao)
Từ cuối năm 1936, những cuộc đàn áp hàng loạt ngày càng gia tăng(8) ở quy mô khủng khiếp. Ngày 25-9-1936, Stalin và Giơđanốp gửi điện tín từ Sôchi cho Kaganôvích(9), Môlôtốp(10) và những ủy viên khác của Bộ Chính trị. Nội dung bức điện ấy như sau :
Chúng tôi nhận thấy việc cất nhắc đồng chí Êgiốp vào cương vị Dân ủy Nội vụ là cần thiết và cấp bách. Yagôđa(11) đã tỏ ra hoàn toàn bất lực trong việc vạch mặt khối Trốtsky - Dinôviép. Cục Chính trị Thống nhất Quốc gia (O.G.P.U.)(12) đã để vấn đề này trậm trễ bốn năm. Tất cả mọi đảng viên và số đông các đại diện Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) đều nhận thấy điều này.
Phải nhấn mạnh rằng sự thật là Stalin chẳng bao giờ tiếp xúc với các đảng viên, như thế làm sao đồng chí ấy biết được ý kiến của họ.
Nhận xét của Stalin - "O.G.P.U. đã trậm trễ bốn năm" trong việc thi hành đàn áp trên quy mô lớn, và "phải bù đắp" những thiếu sót - đã đẩy N.K.V.D. vào con đường bắt bớ và giết hại hàng loạt.
Ðáng lưu ý là cách diễn đạt nói trên cũng đã được áp đặt trong hội nghị Ban chấp hành trung ương đảng vào tháng Hai, tháng Ba năm 1937. Dựa trên căn bản báo cáo tổng kết "những bài học rút ra từ các hoạt động phá hoại, xuyên tạc và do thám của bọn gián điệp Nhật - Ðức - trốt-kít" của Êgiốp, Ban chấp hành trung ương đã thông qua quyết định sau : 

Hội nghị Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô nhận thấy cuộc điều tra về trung tâm trốt-kít chống lại nhà nước xô-viết và những hoạt động của bè lũ tay chân ở các tỉnh chứng tỏ N.K.V.D. đã có sự trậm trễ, ít nhất là bốn năm, trong việc lột mặt nạ những kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân(13).
Từ thời kỳ này, những cuộc đàn áp hàng loạt đã diễn ra dưới khẩu hiệu chống những người trốt-kít. Nhưng thử hỏi hồi đó phái trốt-kít có thực sự nguy hiểm đến thế đối với đảng và nhà nước xô-viết không ? Chúng ta cần nhớ rằng vào năm 1927, trước Ðại hội lần thứ XV của đảng, phe đối lập Trốtsky - Dinôviép chỉ có 4.000 phiếu trong khi 724.000 phiếu thông qua cương lĩnh của đảng.
Trong khoảng thời gian mười năm giữa Ðại hội lần thứ XV và khóa họp tháng Hai, tháng Ba của Ban chấp hành trung ương, chủ nghĩa trốt-kít đã hoàn toàn bó giáo quy hàng, nhiều người trốt-kít đã đoạn tuyệt những quan niệm trước kia của họ và đã lao động trong mọi lãnh vực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Rõ ràng, trong khung cảnh chủ nghĩa xã hội thắng lợi, không có lý do gì buộc ta phải dùng đến khủng bố đại quy mô trong cả nước.
Báo cáo của Stalin trong khóa họp của Ban chấp hành trung ương tháng Hai, tháng Ba năm 1937 về Những thiếu sót trong công tác đảng và những phương pháp thủ tiêu bọn trốt-kít và những bọn giả dối khác là một thử nghiệm đặt nền móng lý thuyết cho chính sách khủng bố hàng loạt. Viện cớ càng tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh giai cấp nhất thiết càng gia tăng, Stalin cố chứng tỏ đó là điều lịch sử và Lênin đã dạy.
Thật ra, Lênin chỉ rằng việc sử dụng bạo lực cách mạng là do nhu cầu quyết định, khi các giai cấp bóc lột ra mặt chống đối ; hơn nữa, điều này liên quan đến thời kỳ mà các giai cấp bóc lột còn tồn tại và còn mạnh. Nhưng một khi tình hình chính trị của đất nước đã tiến triển tốt, khi mà tháng Giêng năm 1920 Hồng quân đã chiếm được Rôstốp và đạt được thắng lợi quan trọng nhất - chiến thắng Ðênikin(14) -, Lênin ra lệnh cho Giécginsky(15) đình chỉ khủng bố hàng loạt và hủy bỏ án tử hình. Trong bản báo cáo tại hội nghị Ban Chấp hành Trung ương ngày 2-2-1920, Lênin đã giải thích biện pháp chính trị quan trọng ấy của nhà nước xô-viết như sau :
Chúng ta đã buộc phải dùng tới biện pháp khủng bố để chống lại chủ nghĩa khủng bố của bọn đế quốc liên minh, khi các cường quốc - không ngần ngại bất kỳ một phương tiện gì - tấn công chúng ta. Chúng ta không thể cầm cự nổi trong hai ngày nếu chúng ta không đáp trả một cách quyết liệt những mưu đồ của bọn sĩ quan và lũ Bạch vệ, và đây là khủng bố, nhưng sự khủng bố ấy do những phương pháp khủng bố của bọn đế quốc liên minh bắt buộc chúng ta.
Nhưng một khi chúng ta đạt được những chiến thắng quyết định, ngay trước khi kết thúc nội chiến, sau khi chúng ta vừa chiếm được thành phố Rôstốp, chúng ta đã hủy bỏ án tử hình và bằng hành động này, chúng ta chứng tỏ chúng ta thực hiện chương trình như lời đã hứa. Chúng ta nói việc áp dụng bạo lực là để dẹp tan các giai cấp bóc lột, dẹp tan bọn đại điền chủ và bọn tư bản. Khi công việc này xong xuôi, chúng ta dẹp bỏ hết thảy mọi biện pháp có tính chất đặc biệt. Chúng ta đã chứng tỏ điều này bằng hành động cụ thể.
Stalin đã bỏ qua những lời chỉ giáo sáng suốt và rõ ràng ấy của Lênin. Stalin buộc đảng và Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) dùng những biện pháp khủng bố hàng loạt, khi ở trong nước, giai cấp bóc lột không còn chút dấu vết gì và không có bất cứ một lý do chính đáng nào để áp dụng tràn lan những biện pháp bất thường.
Sự thật, khủng bố không nhắm mục đích loại trừ những tàn tích của giai cấp bóc lột đã thất bại, nó chỉ chống lại những viên chức trung thực của đảng và nhà nước xô-viết. Ðối với họ, người ta đã ngụy tạo ra những lời buộc tội vu khống và phi lý như bảo họ là "giả dối", "gián điệp","phá hoại","chuẩn bị những cuộc mưu sát" giả định với những phương tiện bất hợp pháp v.v...
Trong khóa họp Ban chấp hành trung ương tháng Hai, tháng Ba năm 1937, nhiều ủy viên Ban chấp hành trung ương đã thực sự tỏ ý ngờ vực tính chất đúng đắn của đường lối khủng bố, dưới cái chiêu bài "chống bọn giả dối". Ðồng chí Pôstưshép(16) đã phát biểu sự ngờ vực này một cách chí lý như sau : 

Tôi nghĩ rằng những năm đấu tranh khó khăn đã đi qua, những đảng viên xa rời đường lối của đảng và chạy theo kẻ thù đã bị chúng ta đánh gục ; những phần tử lành mạnh đang tranh đấu cho đảng. Ðó là những năm xây dựng công nghiệp hóa và công cộng hóa. Tôi không bao giờ nghĩ rằng sau thời kỳ khó khăn đó, Kácpốp và những người như anh lại ngả theo kẻ thù (Kácpốp là thành viên Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản (bônsêvích) Ukraina, bạn của Pôstưshép). Và vừa đây, theo những bằng chứng, Kácpốp đã gia nhập bọn trốt-kít từ năm 1934. 

Về phần mình, tôi không tin một đảng viên trung thực như Kácpốp, đã từng đi trọn con đường dài của cuộc tranh đấu liên tục chống kẻ thù, phụng sự đảng và chủ nghĩa xã hội, năm 1934 lại có thể đứng về phía kẻ thù. Tôi không tin như thế... Tôi không tưởng tượng nổi, làm sao một người có thể theo đảng trong những năm khó khăn để rồi đến 1934 lại gia nhập bọn trốt-kít. Ðó là một điều kỳ lạ. (Cả phòng họp xôn xao)
Áp dụng định đề của Stalin - cho rằng càng tiến gần đến chủ nghĩa xã hội, chúng ta càng có nhiều kẻ thù - và lợi dụng nghị quyết của khóa họp Ban chấp hành trung ương tháng Hai, tháng Ba, về cơ bản được thông qua dựa trên bản báo cáo của Êgiốp, những tên khiêu khích cùng với những tên háo danh bất lương trà trộn vào các cơ quan an ninh quốc gia, nhân danh đảng, chúng khủng bố các cán bộ đảng, cán bộ nhà nước xô-viết và thường dân trong nước. Chỉ cần biết số những người bị bắt bớ vì tội "phản cách mạng" đã tăng lên gấp mười từ năm 1936 tới năm 1937. 

Chúng ta được biết những cán bộ lãnh đạo đảng đã bị đối xử oan uổng và tàn nhẫn như thế nào. Ðiều lệ đảng - được Ðại hội đảng lần thứ XVII thông qua, dựa trên những nguyên tắc lê-nin-nít của Ðại hội lần thứ X - khẳng định : muốn áp dụng biện pháp kỷ luật tối đa đối với một ủy viên chính thức hoặc dự khuyết, hay một thành viên Ủy ban Kiểm tra của đảng - như khai trừ họ khỏi đảng -, phải triệu tập hội nghị toàn thể của Ban chấp hành trung ương, phải mời mọi ủy viên dự khuyết của Ban chấp hành trung ương và mọi thành viên của Ủy ban Kiểm tra đến họp ; chỉ có diễn đàn tối cao này của các cán bộ đảng có trọng trách - trong trường hợp hai phần ba đa số phiếu - mới có quyền quyết định việc khai trừ một ủy viên Trung ương ra khỏi đảng. Ða số ủy viên chính thức và dự khuyết Ban chấp hành trung ương được bầu trong Ðại hội lần thứ XVII và bị bắt năm 1937-1938, đã bị khai trừ khỏi đảng một cách bất hợp pháp do sự vi phạm thô bạo Ðiều lệ đảng, bởi vấn đề trục xuất họ chưa bao giờ được đưa ra xem xét ở một khóa họp nào của Ban chấp hành trung ương. 

Giờ đây, sau khi khảo sát vài trường hợp của những người bị dán nhãn "gián điệp" và "phá hoại", ta có thể thấy rõ những trường hợp nọ đều là những vụ ngụy tạo. Trong số những người bị bắt giữ vì tội "hoạt động phản cách mạng", nhiều người phải "thú nhận" vì bị hành hạ tàn nhẫn và vô nhân đạo.
Ngoài ra, như các thành viên Bộ Chính trị hồi đó cho biết, Stalin không cho họ xem đơn từ của nhiều đảng viên cốt cán, cụ thể là những đơn trong đó các bị cáo rút lại những "lời thú tội" của họ trước Tòa án Quân sự và đòi hỏi thẩm xét khách quan trường hợp của họ. Có nhiều đơn đề nghị như thế và và chắc chắn là Stalin đã biết đến chúng. 
Ban chấp hành trung ương nhận thấy cần thiết phải thông báo cho Ðại hội về nhiều vụ án ngụy tạo chống lại những ủy viên Ban chấp hành trung ương do Ðại hội lần thứ XVII bầu ra.
Một thí dụ của sự khiêu khích đê hèn, sự man trá bỉ ổi và sự vi phạm tội lỗi luật pháp cách mạng là trường hợp của đồng chí Âykhê(17), chiến sĩ của đảng từ năm 1905, cựu ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, một cán bộ xuất sắc của đảng và chính phủ Liên Xô. (Trong phòng, mọi người ngạc nhiên)
Ðồng chí Âykhê bị bắt ngày 29-4-1938 trên cơ sở những tài liệu vu khống, không có lệnh bắt của công tố viên Liên Xô (lệnh bắt này chỉ có 15 tháng sau khi Âykhê bị bắt).
Phiên tòa xét xử đồng chí Âykhê đã diễn ra với sự vi phạm trắng trợn nhất pháp chế xô-viết, kèm theo những bịa đặt có chủ mưu.
Bị tra tấn, Âykhê bắt buộc phải ký nhận một biên bản điều tra "thú tội" được chuẩn bị từ trước, trong đó Âykhê và vài cán bộ đảng có uy tín khác bị buộc tội "hoạt động chống lại chính thể xô-viết".
Ngày 1-10-1939, Âykhê gửi cho Stalin lá đơn trong đó đồng chí ấy kiên quyết phủ nhận lời buộc tội và yêu cầu thẩm xét lại trường hợp của mình. Trong lá đơn, đồng chí Âykhê viết :
Ðối với tôi, không gì đau đớn hơn là bị giam cầm trong ngục tù của nhà nước mà tôi đã luôn luôn đấu tranh để xây dựng nó.
Lá đơn thứ hai của Âykhê gửi cho Stalin ngày 27-10-1939 cũng được lưu trữ, trong đó Âykhê đưa ra những bằng chứng và phủ nhận một cách rất xác đáng những lời buộc tội vu khống đồng chí. Âykhê chứng tỏ lời buộc tội mang tính khiêu khích này một phần là sản phẩm của bọn trốt-kít thực thụ vì bọn ấy đã bị đồng chí bắt giam trên cương vị Bí thư thứ nhất thành ủy vùng Tây Sibia và do đó, chúng âm mưu báo thù đồng chí ; phần kia do kết quả việc man trá tài liệu điều tra.
Âykhê viết như sau trong lá đơn này : 
Ngày 25-10 năm nay, vụ điều tra về trường hợp của tôi đã kết thúc. Tôi được biết nội dung những tài liệu điều tra. Nếu tôi chỉ làm một phần trăm những hành vi phạm pháp mà người ta buộc cho tôi, không bao giờ tôi dám gửi đến đồng chí lá đơn trước khi tôi chết. Nhưng tôi không hề phạm một tội gì trong tất cả những tội mà người ta gán cho tôi. Lương tâm tôi trong sạch, không hề gợn một vết nhơ. Trong đời tôi, chưa bao giờ tôi nói dối đồng chí, và ngay cả bây giờ, khi tôi sắp sửa bước xuống mồ, tôi cũng không giấu giếm đồng chí một điều gì. Trường hợp của tôi là thí dụ điển hình của một cuộc khiêu khích, vu khống và vi phạm những điều căn bản nhất của pháp chế cách mạng. 

Những lời thú tội đã được ghi lại và làm nên "vụ" của tôi chẳng những phi lý mà nó chứa đựng những điều vu khống đối với Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô, với Hội đồng Dân ủy, bởi những nghị quyết thực thụ của Ban chấp hành trung ương và của Hội đồng Dân ủy - vốn không phải do tôi đề xướng, tôi không tham dự gì vào quá trình thảo luận - đã được trình bày như hành động thù địch của các tổ chức phản cách mạng mà tôi là kẻ khởi xướng. 

Bây giờ tôi xin đề cập đến giai đoạn nhục nhã nhất của đời tôi : một tội lỗi nặng nề đối với đảng và đối với đồng chí mà quả thực tôi đã thực hiện. Ấy là lời thú tội của tôi về hoạt động phản cách mạng... Nhưng sự thật là như thế này : vì không chịu đựng nổi những sự hành hạ của Ushakốp và Nikôlaiép, nhất là Ushakốp biết tôi gãy xương sườn và chưa lành hẳn, hắn lợi dụng điều này trong quá trình thẩm cung, gây cho tôi những đau đớn khủng khiếp và cưỡng bức tôi phải tự lừa dối mình và tố cáo những kẻ khác (bằng lời thú tội của tôi).
Phần lớn những lời thú tội của tôi là do Ushakốp "đề nghị" hoặc trắng trợn đọc cho tôi viết, phần kia là do tôi nhớ lại tập hồ sơ do Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) vùng Tây Sibia thu thập và tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về chúng. Mỗi lần trong truyền thuyết do Ushakốp bịa đặt và buộc tôi phải ký nhận, có những điều gì không khớp với nhau, thì người ta lại bắt tôi ký nhận một dị bản hoang đường khác và cứ thế tiếp diễn. Người ta cũng làm như thế đối với Rukhimôvích : thoạt tiên đồng chí ấy bị coi là thành viên của một mạng lưới trù bị, sau đó người ta gạch tên đồng chí ấy đi nhưng lại không hề nói cho tôi biết. Củng như trường hợp một người bị coi là người lãnh đạo mạng lưới trù bị, tuồng như do Bukharin thành lập năm 1935. Buổi đầu tôi phải ký nhận, tự xưng là người lãnh đạo nọ ; sau đó người ta ra lệnh thay tên tôi bằng Mêgiơlaúc. Còn nhiều những thí dụ tương tự như vậy.
Tôi yêu cầu đồng chí, tôi van xin đồng chí hãy xét lại trường hợp của tôi, không phải tôi mong muốn được tha thứ, mà để vạch mặt âm mưu khiêu khích hèn hạ này, nó như con rắn cuốn lấy nhiều người do sự yếu hèn của tôi và sự vu khống đầy tội lỗi của tôi. Tôi thề không bao giờ phản bội đồng chí. Tôi không bao giờ phản bội đảng. Tôi biết tôi sắp ra đi vì những vu cáo xảo quyệt, đê tiện chống tôi, do kẻ thù của đảng và nhân dân bày đặt ra.
Một lá đơn quan trọng như thế thiết tưởng phải được Ban chấp hành trung ương biết đến và thế nào cũng phải được bàn bạc. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Lá đơn được chuyển đến tay Bêrya và đồng chí Âykhê - ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị - vẫn bị tiếp tục tra tấn tàn nhẫn.
Phiên tòa xử đồng chí Âykhê diễn ra ngày 2-2-1940. Trước tòa, Âykhê không nhận một tội lỗi nào. Ðồng chí tuyên bố như sau :
Trong tất cả cái gọi là "lời thú tội" của tôi, không một từ nào là sự thật, không một chữ nào tự tay tôi viết ra, ngoại trừ chữ ký của tôi ở dưới tờ biên bản mà người ta đã dùng nhục hình để cưỡng bức tôi. Tên công an điều tra, là tên đã hành hạ tôi từ ngày tôi bị bắt, đã buộc tôi phải "thú nhận". Sau những lần bị tra tấn, tôi đã ký nhận tất cả những điều thô thiển này... Ðiều quan trọng là tôi phải tuyên bố trước tòa án, trước đảng và trước Stalin : tôi vô tội. Tôi không bao giờ chủ trương một âm mưu nào cả. Tôi sẽ chết với lòng tin tưởng ở chính sách đúng đắn của đảng, cũng như tôi đã tin tưởng trong suốt cuộc đời tôi.
Âykhê bị hành quyết ngày 4-2. (Phẫn nộ trong phòng)
Hiện nay, chúng ta biết chính xác : vụ án Âykhê hoàn toàn bịa đặt, ngụy tạo. Ðồng chí đã được phục hồi sau khi mất. 
Ðồng chí Rútdutác, ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, đảng viên từ năm 1905 và là người đã từng bị mười năm tù khổ sai dưới chế độ Nga hoàng, đứng trước toà án cũng cương quyết rút lại những lời thú tội bị ép buộc của mình. Biên bản khóa họp Tòa án Quân sự Tối cao đã ghi chép lời tuyên bố sau đây của Rútdutác : 
... Ðề nghị duy nhất của y với tòa án : Tòa hãy thông báo cho Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô biết ở Bộ Nội vụ (N.K.V.D.), có một trung tâm chưa được thủ tiêu. Trung tâm này vẫn bịa đặt, chế tạo một cách tinh vi các vụ án, buộc những kẻ vô tội phải thú nhận những tội không bao giờ họ vi phạm ; các bị cáo không hề có một phương tiện nào để chứng minh họ không tham gia những hành vi phạm pháp được nhắc đến trong lời thú nhận do bị tra tấn mà khai ra của nhiều người khác nhau. 
Những phương pháp điều tra đã đi tới chỗ cưỡng ép người ta phải dối trá và vu khống cho những người hoàn toàn vô tội ; chưa kể chuyện vu khống những người đã bị buộc tội.
Y yêu cầu Tòa cho phép y viết thư thông báo điều này cho Ban chấp hành trung ương đảng. Y cam đoan với Tòa rằng bản thân y không bao giờ có ý đồ thù địch đối với chính sách của đảng, vì y luôn đồng tình với đường lối của đảng trên mọi lĩnh vực của công cuộc xây dựng kinh tế và văn hóa. 
Không ai để ý đến lời tuyên bố nói trên của Rútdutác, mặc dầu thời kỳ đó Rútdutác là chủ tịch Ủy ban Kiểm tra Trung ương, được thành lập theo ý Lênin để đấu tranh cho sự thống nhất của đảng. Người đứng đầu một cơ quan cao cấp, đầy uy tín của đảng đã bị triệt hạ như thế đấy ; trở thành nạn nhân của sự độc đoán, Rútdutác còn không được mời đến dự hội nghị Bộ Chính trị bởi Stalin không muốn nói chuyện với đồng chí ấy. Bản án tử hình được đưa ra trong vòng 20 phút và Rútdutác bị xử bắn. (Cả phòng họp xôn xao phẫn nộ) 
Năm 1955, sau khi thẩm tra kỹ trường hợp này, chúng ta được biết những lời buộc tội đồng chí Rútdutác là gian dối và dựa trên những tài liệu có tính cách vu khống. Ðồng chí Rútdutác đã được phục hồi danh dự sau khi mất. 

Phương pháp khiêu khích do những cựu nhân viên Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) sử dụng để bày đặt ra "những trung tâm chống lại nhà nước xô-viết" và những "khối" giả mạo đã được vạch rõ qua lời "thú tội" của đồng chí Rôdenblum, đảng viên từ năm 1906, bị N.K.V.D. bắt vào năm 1937 ở Lêningrát.
Năm 1955, trong phiên tòa phúc thẩm trường hợp của đồng chí Kômarốp(18), Rôdenblum đã tiết lộ sự thật sau đây : khi bị bắt vào năm 1937, đồng chí đã phải chịu đựng những cuộc tra tấn khủng khiếp và buộc phải xác nhận những điều bịa đặt về đồng chí cũng như về một số người khác. Rôdenblum bị gọi vào văn phòng của Dakốpsky(19) và được tên này hứa sẽ trả tự do nếu trước tòa án, đồng chí chịu thú nhận những "hoạt động phá hoại, gián điệp và gây rối" do "trung tâm khủng bố ở Lêningrát" tổ chức. Cả vụ việc này do Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) bày đặt ra năm 1937. (Cả phòng họp xôn xao)
Bằng một cách trơ tráo không thể tưởng tượng nổi, Dakốpsky đã giảng giải "bộ máy" ghê tởm mà người ta dùng để dựng nên những "âm mưu chống Liên Xô". 
Ðồng chí Rôdenblum kể lại :
Ðể tôi có thể hình dung được cơ chế đó, Dakốpsky đã đưa ra vài giả thuyết khả dĩ về cách tổ chức "trung tâm" này và các chi nhánh của nó.
Sau khi mô tả chi tiết, Dakốpsky nói Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) đang sửa soạn vụ án trung tâm này và y nói thêm : vụ án sẽ được xử công khai.
Trước tòa án, người ta đưa tới bốn hay năm thành viên của trung tâm giả mạo này : Chuđốp, Ugarốp, Smôrôđin, Pôdécnơ, Shapôgiơnikôva (vợ Chuđốp)(20) và những người khác, cùng hai ba thành viên những chi nhánh của trung tâm... 
Hồ sơ vụ án trung tâm Lêningrát phải được biên soạn một cách kỹ càng và vì vậy, cần thiết lời khai của các nhân chứng. Nguồn gốc xã hội (trong quá khứ, cố nhiên) và chức vụ trong đảng của những chứng nhân đóng một vai trò không nhỏ.
Bản thân anh - Dakốpsky nói - không cần phải đặt chuyện gì cả. N.K.V.D. sẽ sửa soạn sẵn cho anh một sơ đồ về mọi chi nhánh của trung tâm. Anh phải nghiên cứu kỹ càng và phải nhớ rõ mọi câu hỏi và trả lời mà tòa án sẽ đặt ra cho anh. Hồ sơ vụ này sẽ được xếp đặt trong vòng bốn, năm hoặc sáu tháng. Anh phải tận dụng mọi thời gian để chuẩn bị, đừng để liên lụy đến người điều tra và bản thân anh. Số phận sắp tới của anh phụ thuộc vào tiến trình và kết quả của phiên tòa. Nếu anh nhầm lẫn và khai báo sai, anh sẽ thiệt mạng. Nếu anh vượt qua thử thách, anh cứu được mạng mình, chúng tôi sẽ chu cấp cho anh đến cuối đời.
Thế đấy, những việc ghê tởm như thế xảy ra vào hồi đó. (Cả phòng họp xôn xao)
Ở tỉnh lỵ, việc giả mạo còn thô bạo hơn nữa. Phòng N.K.V.D. tỉnh Svéclốpsk đã "phát hiện" một nhóm người gọi là "bộ tham mưu của phong trào khởi nghĩa vùng Uran", tổ chức của khối trốt-kít, hữu khuynh, xã hội cách mạng và tăng lữ. Kabakốp(21) - bí thư đảng bộ tỉnh Svéclốpsk, ủy viên Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Liên Xô, gia nhập đảng từ năm 1914 - bị coi là người lãnh đạo giả tưởng của tổ chức này. Những hồ sơ điều tra thời ấy cho ta thấy trong hầu hết các vùng biên ải, các huyện, các nước cộng hòa đều có những tổ chức và trung tâm gián điệp, khủng bố, biệt kích và phá hoại (giả tưởng) của bọn trốt-kít và bọn hữu khuynh. Thường thường, đứng đầu những tổ chức này, không biết vì lý do gì, đều là các bí thư thứ nhất đảng ủy các vùng, các địa hạt biên ải hoặc các nước cộng hòa. (Cả phòng họp xôn xao)
Hàng ngàn chiến sĩ cộng sản trung thực và vô tội đã bị giết hại do những "vụ án" ngụy tạo khủng khiếp như thế, do người ta dùng đến những lời buộc tội mang tính vu khống và do việc áp dụng các biện pháp điều tra để cưỡng bức các bị can phải đưa ra những lời "thú nhận" buộc tội chính mình và những người khác. Bằng cách đó, người ta bày đặt các vụ án xử các lãnh tụ uy tín của đảng và nhà nước như Kốtsiô(22), Chuba(23), Pôstưshép, Kốtsarép(24) và nhiều người khác.
Trong những năm đó, những cuộc đàn áp khủng bố trên quy mô lớn đã xảy ra, không dựa trên một bằng chứng cụ thể nào, gây ra tổn thất rất nặng nề trong hàng ngũ cán bộ đảng.
Một cách đáng lên án, Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) đã sửa soạn các danh sách về những người sau đó trở thành bị cáo dưới thẩm quyền của Tòa án Quân sự. Hơn nữa, những bản án cũng được định đoạt trước khi xử. Êgiốp thường xuyên đệ trình những danh sách này lên Stalin và nói chung, Stalin chuẩn y những hình phạt được đề nghị. Năm 1937-1938, có 383 danh sách - mang tên hàng ngàn thành viên của đảng, của các xô-viết, của Ðoàn Thanh niên cộng sản Lênin (Komsomol), của quân đội và các cơ quan kinh tế - như thế đã được gửi đến tay Stalin. 

Số lớn những vụ án nói trên hiện đang được thẩm xét lại, và đa số đã bị bác bỏ vì chúng được dựng nên trên cơ sở những điều bịa đặt và không có bất cứ một sở cứ nào. Chỉ cần nói rằng từ năm 1954 đến nay, Ủy ban Quân sự của Tòa án Tối cao đã phục hồi cho 7.679 người, trong đó nhiều người đã thiệt mạng.
Việc bắt bớ hàng loạt những cán bộ của đảng, của xô-viết, của nền kinh tế và quân sự đã gây nên thiệt hại vô cùng to lớn cho đất nước ta và cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những vụ khủng bố đại quy mô đã ảnh hưởng lớn đến tình hình đạo đức-chính trị của đảng, tạo ra bầu không khí hoang mang, góp phần làm tăng hoài nghi không tốt, reo rắc sự ngờ vực lẫn nhau giữa những người cộng sản. Ðiều này có lợi cho việc thăng tiến của lũ người vu khống và mưu lợi thuộc đủ mọi hạng. 

Nghị quyết của khóa họp Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Liên Xô tháng 1-1938 phần nào đã sửa đổi hiện trạng nội bộ của các cấp bộ đảng. Nhưng những vụ đàn áp hàng loạt vẫn tiếp diễn trong năm 1938. 
Chỉ nhờ sức mạnh đạo đức-chính trị to lớn, Ðảng ta mới vượt nổi những thử thách nặng nề của những năm 1937-1938 và đã huấn luyện được nhiều cán bộ mới. Tuy vậy, một điều chắc chắn : đà tiến của chúng ta đến chủ nghĩa xã hội và công cuộc phòng bị quốc gia còn thành công hơn nhiều, nếu đội ngũ cán bộ của ta không bị những tổn thương lớn bởi các cuộc thanh trừng hoàn toàn vô nghĩa thời kỳ 1937-1938.

(1) Bộ Dân ủy Nội vụ, cơ quan trung ương phụ trách nội vụ và an ninh quốc gia ở Liên Xô, hậu duệ của O.G.P.U., thành lập năm 1934, hoạt động như Bộ Nội vụ trong thời gian 1946-1953.
(2) Khrushốp nói tới nhiều "vụ án" do Stalin bày đặt trong những năm 1937-1938. Nhưng ông vẫn giấu giếm, không đả động tới những "vụ án" Mạc Tư Khoa từ 1935 đến 1936, trong đó đại đa số cựu đồng chí của Lênin bị triệt ha :
- Tháng Giêng 1935 : "vụ án" một số người bị buộc tội "tả khuynh" và "chịu trách nhiệm tinh thần về vụ ám sát Kirốp".
- Tháng Tám 1936 : "vụ án" Dinôviép và Kamênép và 14 đồng phạm (đều là ủy viên Ban chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị). Tất cả các bị cáo, do bị tra tấn tàn bạo, đã thú nhận họ là "gián điệp cho cơ quan tình báo Gestapo Ðức" và đều bị tử hình.
- Tháng Giêng 1937 : "vụ án" Rađếch, Piatakốp và đồng phạm (các ủy viên Ban chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị). Họ bị buộc tội "tổ chức những trung tâm trốt-kít phản cách mạng". Tất cả đều thú nhận những "tội lỗi" mà họ không làm. 13 (trên tổng số 17) bị cáo bị tử hình.
- Tháng Sáu 1937 : "vụ án" Tổng tư lệnh Hồng quân - nguyên soái Tukhachépsky - và bảy đại tướng. Bị buộc tội "làm gián điệp cho ngoại bang", tất cả đều bị xử bắn.
- Tháng Ba 1938 : "vụ án" Bukharin, Rưkốp và 19 đồng phạm, bị buộc tội "hữu khuynh và trốt-kít". 18 người bị xử bắn. Còn nhiều vụ án nữa tiếp theo, mục đích tảy trừ "tả", "hữu". Nhưng mục đích chính là nhằm chống lại Trốtsky (bị lưu đày ở nước ngoài). Tất cả các "vụ án" nói trên, tuy là vu khống, bịa đặt, nhưng đã được mọi đảng cộng sản trên thế giới (kể cả đảng cộng sản Việt Nam) và một số đông nhân sĩ năm châu ủng hộ. Sau những "vụ án" ấy, ba phần tư số đồng chí kỳ cựu của Lênin đã bị sát hại.
(3) Sécgây M. Kirốp (1886-1934) : đảng viên từ năm 1904, thành viên Ban chấp hành Trung ương năm 1923, bí thư thành ủy Lêningrát năm 1926, ủy viên Bộ Chính trị từ năm 1930, bí thư Ban chấp hành Trung ương đảng Cộng sản (bônsêvích) Nga, bị ám sát ngày 1-12-1934.
(4) "Hung thủ" Nikôlaiép là một đảng viên cộng sản trẻ. Y đã hai lần bị các vệ sĩ Kirốp bắt vì có hành động khả nghi. Khi bị bắt, người ta tìm thấy trong chiếc túi da của y một khẩu súng lục đã lên đạn và tấm sơ đồ những con đường Kirốp hay đi. Sau khi hỏi cung Nikôlaiép, Dapôrôgiétxơ - phó phòng N.K.V.D. vùng Lêningrát - gọi điện lên Mạc Tư Khoa và báo cáo tình hình cho Yagôđa. Nhưng vài giờ sau, Yagôđa hạ lệnh trả tự do cho Nikôlaiép.
(5) Theo truyền thống, người ta vẫn gọi các nhân viên những cơ quan an ninh quốc gia Liên Xô là "trinh sát viên Chêka", dù Chêka đã được thay thế bởi (O). G.P.U., N.K.V.D., K.G.B., ... "Trinh sát viên Chêka" này - vốn là một nhân viên N.K.V.D., chỉ huy đám vệ sĩ của Kirốp - tên là Bôrisốp. Nghi ngờ vì sự "dễ dãi" của N.K.V.D. trong việc thả tự do hai lần cho Nikôlaiép, Bôrisốp đã kể mọi chuyện cho Kirốp biết. Ðó là lý do khiến Bôrisốp bị sát hại về sau này. (Xin xem bài Vụ ám sát Kirốp của R. Métvêđép)
(6) Theo sử gia Liên Xô R. Métvêđép, tên này bị đánh chết bằng gậy sắt, nhưng các bác sĩ đưa ra ý kiến giám định ngụy tạo, như thể y chết trong tai nạn xe hơi ngày 2-12-1934, trên đường về Lêningrát để lấy khẩu cung. (Xin xem bài Vụ ám sát Kirốp của R. Métvêđép)
(7) Khrushốp có ý nói vụ ám sát Kirốp là do N.K.V.D. tổ chức và do Stalin gián tiếp hay trực tiếp điếu khiển. Stalin đã lợi dụng vụ Kirốp để mở cuộc thanh trừng các địch thủ khác, quan trọng hơn, như Dinôviép, Kamênép, Bukharin, Rađếch, Tômsky, Rưkốp, Piatakốp, v.v... Ngày 20-1-1935, Tòa án Quân sự Tối cao buộc tội các nhân viên trách nhiệm Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) vùng Lêningrát (Métvêđép và đồng sự) "không đề phòng cẩn mật, để xảy ra vụ ám sát Kirốp". Các bị cáo bị tù từ hai đến ba năm, trừ Banxêvích bị mười năm. Tới năm 1937, tất cả những người này - trừ Dapôrôgiétxơ - đều bị giải về Lêningrát rồi bị xử bắn.
(8) Những cuộc "đàn áp hàng loạt" chia làm hai thời kỳ :
- Thời kỳ thứ nhất : bắt đầu từ vụ ám sát Kirốp tới mùa thu năm 1936. Dân ủy Nội vụ lúc ấy là Yagôđa, kiêm phụ trách Bộ Nội vụ (N.K.V.D.)
- Thời kỳ thứ hai : Êgiốp được cử thay thế Yagôđa, tới năm 1938 cũng bị cách chức và bị xử bắn. Người thay thế là Bêrya.
(9) Lada L. Kaganôvích (1893-1991) : gia nhập đảng năm 1911, ủy viên Ban chấp hành Trung ương từ năm 1923, bí thư Ban chấp hành Trung ương năm 1924, bí thư thành ủy Mạc Tư Khoa năm 1930, phó chủ tịch Hội đồng Dân ủy từ năm 1944, cộng sự trung thành của Stalin.
(10) Viachesláp M. Môlôtốp (1890-1986) : chủ tịch Hội đồng Dân ủy từ năm 1930, Dân ủy Ngoại vụ thời kỳ 1939-1940, bộ trưởng Bộ Ngoại giao 1953-1956, một trong những cộng sự thân tín của Stalin.
(11) Ghenrích Yagôđa (1891-1938) : lãnh đạo G.P.U. trong thập niên 30, tổ chức vụ án ngụy tạo Mạc Tư Khoa năm 1936, bị cách chức ngày 29-9-1936 rồi bị tử hình trong vụ án Bukharin.
(12) Cơ quan an ninh quốc gia Liên Xô, thành lập năm 1922, hậu duệ của Chêka.
(13) Hội nghị này chính thức bắt đầu ngày 23-2 và kéo dài đến ngày 5-3-1937. Nhưng thực ra nó bắt đầu từ ngày 10-2. Công khai chỉ có một nghị quyết được chuẩn y, dựa theo báo cáo của Giơđanốp về "nhiệm vụ của các tổ chức đảng trong cuộc bầu cử theo Hiến pháp mới". Sự thật, hội nghị có mục đích thông qua hai báo cáo chính : một của Êgiốp (Dân ủy Nội vụ) về "việc tổ chức O.G.P.U." và một của Stalin về "thiếu sót trong công tác thủ tiêu bọn trốt-kít". Chính trong giai đoạn này, Óocgiônikítdê, bạn thân của Stalin đã "tự vẫn" hoặc bị ám sát.
(14) A.I. Ðênikin (1872-1947) : tướng Bạch vệ, tổ chức và chỉ huy Ðạo quân Tự nguyện vùng sông Ðông chống chính quyền bônsêvích, thua trận và trốn ra nước ngoài năm 1920.
(15) Phêlích E. Giécginsky (1877-1926) : gốc Ba Lan, đảng viên đảng Xã hội Dân chủ Ba Lan, bị Nga hoàng đày đi Sibérie năm 1897. Sau đó bị giam ở Mạc Tư Khoa, được cách mạng tháng Hai giải phóng năm 1917. Tham gia cách mạng tháng Mười, ủy viên Ban chấp hành Trung ương từ năm 1917, được Lênin giao trách nhiệm lãnh đạo Chêka và G.P.U., giữ chức Dân ủy Giao thông và chủ tịch Hội đồng Kinh tế Nhân dân.
(16) Paven P. Pôstưshép (1888-1938) : xuất thân công nhân, gia nhập đảng năm 1904, ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị sau Ðại hội lần thứ XVII. Bị bắt rồi bị xử tử năm 1938.
(17) Rôbe J. Âykhê(1890-1940) : đảng viên bônsêvích năm 1905, nhiều lần bị tù tội và đày ải biệt xứ dưới thời Nga hoàng. Ủy viên Ban chấp hành Trung ương năm 1930, ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị năm 1935.
(18) Nikôlai P.Kômarốp (1886-1937) : đảng viên năm 1909, ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương sau Ðại hội lần thứ XII (1923). Bạn thân của Kirốp. Bị bắt năm 1937.
(19) Lêpít Dakốpsky : chủ tịch N.K.V.D. ở Lêningrát (1934-1938) rồi ở Mạc Tư Khoa, là một tên sát nhân không gờm tay. Bị bắt và mất tích sau khi Bêrya lên chức Dân ủy Nội vụ.
(20) Mikhain S.Chuđốp (1893-1937) : đảng viên từ năm 1913, ủy viên Ban chấp hành Trung ương.
- Phiôđô Y. Ugarốp (1887-1937) : đảng viên từ năm 1905, bí thư Thành ủy Lêningrát.
- Piốt P. Smôrôđin (1897-1937) : đảng viên từ năm 1917, ủy viên Thành ủy Lêningrát, ủy viên Ban chấp hành Trung ương.
- Bôrít P.Pôdécnơ (1881-1937) : đảng viên từ năm 1903, có nhiều công lao trong cuộc nội chiến, bí thư Thành ủy Lêningrát, ủy viên Ban chấp hành Trung ương từ năm 1934.
- Lútmila K. Shapôgiơnikôva (1895-1937) ; đảng viên từ năm 1917, bí thư Công đoàn Lêningrát, thành viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương đảng. Tất cả các "thành viên" kể trên của "trung tâm chống Liên Xô" ở Lêningrát đều là người thân cận Kirốp, bị bắt và tử hình năm 1937.
(21) Ivan D.Kabakốp (1891-1938) : bí thư đảng ủy miền Uran, ủy viên Ban chấp hành Trung ương từ năm 1925, bị bắt năm 1937.
(22) Stanisláp V.Kôssiô (1891-1938) : nhập đảng từ năm 1907, ủy viên Bộ Chính trị từ năm 1924, bí thư Ban chấp hành Trung ương trong thời gian 1925-1928, tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Ukraina từ năm 1928. Bị bắt năm 1938.
(23) Vlát Y. Chuba (1892-1938) : đảng viên từ năm 1907, bí thư Hội đồng Dân ủy Ukraina thời gian 1923-1932, ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị từ năm 1932. Bị bắt năm 1938.
(24) Alếchsanđrơ V. Kốtsarép (1903-1939) : đảng viên từ năm 1919, ủy viên Ban chấp hành Trung ương Ðoàn Thanh niên cộng sản Lênin, bị tử hình năm 1939. 

Ðoạn 7 : Ai phải chịu trách nhiệm về khủng bố ?
 (LÊN MẠNG CHỦ NHẬT 17 THÁNG SÁU 2001)
Chúng ta hoàn toàn đúng đắn khi lên án Êgiốp đã sử dụng những phương pháp khốn nạn trong năm 1937. Nhưng chúng ta còn phải trả lời một câu hỏi : thử hỏi Êgiốp có thể ra lệnh bắt Kốtsiô chẳng hạn, mà Stalin không biết ? Thử hỏi đã có sự trao đổi ý kiến hay quyết định trong Bộ Chính trị về vụ này hay không ? Không, không có như thế và cũng không có trong những trường hợp tương tự như thế. Thử hỏi Êgiốp có thể tự mình định đoạt vận mệnh của những cán bộ kiệt xuất của đảng hay không ? Không, nếu cho rằng Êgiốp có thể một mình làm điều đó thì thật ngây thơ. Rõ ràng mọi việc đều do Stalin quyết định, và nếu không có lệnh và sự chấp thuận của Stalin, Êgiốp không thể hành động như thế.
Chúng ta đã thẩm xét lại trường hợp các đồng chí Kốtsiô, Rútdutác, Kốtsarép và nhiều đồng chí khác và đã phục hồi danh dự cho họ. Họ đã bị bắt và bị kết án tử hình dựa trên những lý do gì ? Các tài liệu được khảo sát cho thấy không hề có lý do gì cả. Họ cũng như nhiều người khác, bị bắt mà không có lệnh của Viện Kiểm sát. Trong hoàn cảnh như thế, thực ra cũng không cần một thứ phê chuẩn nào. Nhưng nói làm chi đến chuyện phê chuẩn, khi trong mọi chuyện, Stalin là người có toàn quyền định đoạt ! Chính Stalin nắm vai trò ủy viên kiểm sát tối cao. Chẳng những đã góp phần bắt bớ các đồng chí nói trên, tự thân Stalin cũng đề xướng, cũng hạ lệnh bắt bớ. Chúng ta phải nói rõ sự việc này để các đại biểu Ðại hội thấu triệt tình hình và tự rút ra những kết luận thích hợp.
Những sự kiện chứng tỏ nhiều vụ đàn áp độc đoán được thực hiện theo lệnh của Stalin ; người ta đã hoàn toàn bỏ qua các chuẩn mực pháp lý, trong đảng và cả trong nhà nước xô-viết. Stalin rất hay ngờ vực và đa nghi đến mức bệnh hoạn ; chúng tôi biết rõ điều đó qua công việc chung. Có khi đồng chí ấy nhìn thẳng vào mặt người khác rồi hỏi : "Tại sao cái nhìn của anh hôm nay lại bối rối thế ?", hoặc "Tại sao hôm nay anh cứ lánh mặt tôi và không nhìn thẳng vào mắt tôi ?" Căn bệnh đa nghi ấy làm cho Stalin nghi ngờ hết thảy mọi người, kể cả các thành viên xuất sắc của đảng mà đồng chí ấy quen biết từ lâu. Ở mọi nơi, Stalin đều thấy những "kẻ thù", những tên "dối trá" và những "gián điệp".
Với quyền hạn vô biên trong tay, Stalin trở nên độc đoán đến cực điểm trong việc triệt hạ kẻ khác về tinh thần cũng như thể xác. Tình trạng không ai dám phát biểu ý kiến riêng của mình đã diễn ra.
Khi Stalin bảo phải bắt người này hay kẻ nọ, và ai nấy đều phải công nhận người đó là "kẻ thù của nhân dân", bởi vì không thể phản đối. Trong lúc ấy, bè lũ Bêrya - cầm đầu cơ quan an ninh của nhà nước - tự vượt mình trong việc chứng minh tội trạng những người bị bắt và tính xác thực của các tài liệu giả mạo. 

Và người ta đã kèm thêm những bằng cớ như thế nào ? Ðó là những lời "thú tội" của bị cáo. Và quan tòa chấp nhận những lời "thú tội" đó. Những làm sao con người lại thú nhận những tội lỗi mà họ hoàn toàn không phạm phải ? Chỉ có một cách duy nhất : áp dụng những phương pháp nhục hình, khiến các bị cáo mất hết tri giác, mất hết khả năng phán đoán, quên đi phẩm giá con người. Người ta đã tạo ra những lời "thú tội" như thế đó. 
Vào năm 1939, khi làn sóng bắt bớ hàng loạt đã dịu xuống và khi lãnh đạo các tổ chức đảng các địa phương tố cáo những nhân viên Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) đã dùng những biện pháp tra tấn đối với những người bị bắt, ngày 20-1-1939, Stalin đã gửi một bức điện mật cho đảng ủy các tỉnh hạt và vùng biên ải, cho bí thư Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản các nước cộng hòa xô-viết, cho các Dân ủy Nội vụ và lãnh đạo các tổ chức N.K.V.D. 
Bức điện ấy có nội dung như sau :
Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô thông báo việc áp dụng các phương pháp nhục hình trong khi hành sự của Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) đã được Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô cho phép từ năm 1937...
Ai cũng biết tất cả các tổ chức tình báo tư sản đều dùng những phương pháp nhục hình đối với đại diện giai cấp vô sản xã hội chủ nghĩa, hơn thế nữa, bọn chúng đã dùng nó dưới những hình thức ghê tởm nhất. Vấn đề được đặt ra là thử hỏi tại sao các cơ quan an ninh quốc gia xã hội chủ nghĩa lại phải nhân đạo hơn với lũ tay sai hung hãn của giai cấp tư sản, với những kẻ thù nguy hiểm của giai cấp công nhân và nông dân tập thể ?
Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô cho rằng các phương pháp dùng áp lực thể xác - trong tình thế đặc biệt - cần được sử dụng để chống lại những kẻ thù công khai nhân dân và trong trường hợp này, nó là một phương pháp được cho phép và đúng đắn.
Bằng việc này, nhân danh Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô, Stalin đã thông qua sự vi phạm pháp lý xã hội chủ nghĩa một cách thô bạo nhất và chấp nhận sự tra tấn và dùng vũ lực, điều này - như chúng ta đã thấy - khiến những người vô tội phải tự buộc tội cho mình và vu cáo kẻ khác.
Gần đây - vài ngày trước Ðại hội này - chúng tôi đã gọi tới trước hội nghị Ban chấp hành trung ương và truy hỏi tên nhân viên điều tra Rôđôxơ, người đã thẩm tra và lấy khẩu cung Kốtsiô, Chuba, Pôstưshép, Kốtsarép. Ðây là một con người vô giá trị, óc chim sẻ, tư cách hoàn toàn đồi bại, và chính một kẻ như thế đã định đoạt số phận những cán bộ xuất chúng của đảng ! Y còn xét xử đường lối chính trị của họ, bởi chứng thực những "tội trạng" của các bị cáo, y đã cung cấp bản hồ sơ mà qua đó, có thể rút ra những kết luận mang tính chính trị.
Một câu hỏi được đặt ra : một kẻ như thế có thể đơn phương tiến hành điều tra với những biện pháp kể trên để buộc tội những người như Kốtsiô và nhiều người khác được không ? Không, y không thể làm được việc đó nếu không có những mệnh lệnh đặc biệt. Trong khóa họp của Ban chấp hành trung ương, Rôđôxơ đã nói với chúng tôi : "Người ta bảo tôi Kốtsiô và Chuba là "kẻ thù của nhân dân". Bởi thế, trên tư cách nhân viên điều tra, tôi có bổn phận bắt họ phải thú nhận tội lỗi." (Cả phòng họp công phẫn)
Ðể có được những lời thú nhận như thế, Rôđôxơ phải dùng biện pháp tra tấn thường xuyên, và y cũng đã làm điều đó theo chỉ thị chi tiết từ Bêrya. Tôi cũng phải nhắc lại là trong hội nghị Ban chấp hành trung ương, y đã trơ tráo tuyên bố : "Tôi tưởng tôi đã thực hiện mệnh lệnh của đảng".
Mệnh lệnh của Stalin về việc áp dụng nhục hình đối với những người bị bắt giữ đã được thi hành trong thực tiễn như thế đó.
Cùng nhiều thực tế khác, những sự việc này cho thấy chuẩn mực của đảng - nhằm giải quyết vấn đề một cách đúng đắn - đã bị vi phạm ; tất cả đều tùy thuộc ở sự chuyên quyền của một con người.

Ðoạn 8 : Stalin và cuộc chiến tranh
 (LÊN MẠNG CHỦ NHẬT 17 THÁNG SÁU 2001)
Việc quyền lực bị thâu tóm trong tay một người duy nhất - Stalin - đã tạo nên những hậu quả năng nề trong thời kỳ chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Khi xem các tiểu thuyết, phim ảnh và những công trình "khoa học" về lịch sử của chúng ta, ta thấy Stalin có vai trò hầu như không thể tưởng tượng nổi trong cuộc chiến tranh vệ quốc. Theo đó, Stalin đã tiên đoán tất cả. Quân đội Liên Xô theo kế hoạch chiến lược do Stalin định sẵn từ lâu, đã sử dụng chiến thuật "phòng ngự tác chiến" (nghĩa là chiến thuật cho phép lính Ðức tràn vào tận Moskva và Stalingrát). Áp dụng chiến thuật này, hình như chỉ nhờ thiên tài của Stalin, quân đội Liên Xô đã chuyển thế thủ thành thế công và đánh bại quân thù. Chiến thắng mang tầm quan trọng lịch sử do các lực lượng vũ trang xô-viết và do nhân dân Liên Xô anh dũng đạt được, đã bị coi là kết quả thiên tài quân sự của Stalin(1) trong những thứ sách vở, phim ảnh và các "công trình khoa học" như thế.
Chúng ta cần phân tích kỹ vấn đề này vì nó có tầm quan trọng vô cùng lớn lao, chẳng những về phương diện lịch sử, mà cả về góc độ đào tạo chính trị và thực tiễn.
Về điểm này sự thật ra sao ?
Trước chiến tranh, báo chí trong nước và tất cả công tác đào tạo chính trị đều hướng theo một giọng ngạo mạn : nếu kẻ thù dám xâm phạm lãnh thổ thiêng liêng của Liên Xô, khi chúng đánh ta một đòn, ta sẽ trả lại gấp ba và sẽ cho chúng đại bại ngay trên lãnh thổ của chúng, ta sẽ chiến thắng mà không tổn hại gì mấy. Nhưng những lời tuyên bố ấy không dựa trên sự thật nào, khả dĩ có thể đảm bảo sự bất khả xâm phạm của biên cương chúng ta trong thực tế.
Trong và sau cuộc chiến tranh, Stalin đã đưa ra ý kiến cho rằng thảm trạng mà nhân dân ta phải trải qua trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh là hậu quả cuộc tấn công "bất thình lình" của quân đội Ðức chống Liên Xô. Nhưng thưa các đồng chí, điều này hoàn toàn không đúng sự thật. Ngay khi Hítle nắm quyền chính ở Ðức, y đã tự đặt cho mình sứ mệnh thủ tiêu chủ nghĩa cộng sản. Bọn phát-xít đã tuyên bố một cách thẳng thừng về điều đó, không hề giấu giếm những ý đồ của chúng.
Ðể đạt được mục đích xâm lăng, chúng đã thiết lập đủ các loại hiệp ước và khối trục. Thí dụ : "trục" Berlin - Rôma - Tôkiô khét tiếng. Nhiều sự kiện xảy ra ở thời kỳ trước chiến tranh chứng tỏ Hítle chuẩn bị ráo riết cuộc tấn công chống nhà nước xô-viết và y đã tập trung những lực lượng quân sự lớn (trong đó có các quân đoàn thiết giáp) ở dọc biên giới Liên Xô.
Nhiều tài liệu mới công bố hiện nay cho thấy từ ngày 3-4-1941, Sớcsin - thông qua ông Cripps, đại sứ Anh ở Liên Xô - đã nhắc Stalin việc nước Ðức Quốc xã bắt đầu tổ chức lại quân lực nhằm mở cuộc tấn công Liên Xô. Dĩ nhiên, Sớcsin hành động như thế không phải vì ông ta có thiện cảm với nhân dân xô-viết. Những mục tiêu đế quốc của cá nhân Sớcsin đã dẫn dắt ông trong việc này : xô đẩy nước Ðức Quốc xã và Liên Xô vào cuộc chiến đẫm máu, từ đó củng cố cho địa vị đế quốc Anh.
Tuy vậy, Sớcsin kể lại trong hồi ký của mình là ông cố gắng "yêu cầu Stalin chú ý đến hiểm họa đang đe dọa"(2). Sớcsin nhấn mạnh điểm này trong các điện tín gửi ngày 18-4 và những ngày sau đó. Nhưng Stalin không hề để ý, thậm chí còn hạ lệnh cho mọi người đừng tin vào những thông tin kiểu ấy để tránh "gây ra những cuộc hành quân".
Chúng ta cần nhận định rằng những thông tin về việc nước Ðức đang chuẩn bị một cuộc tấn công vũ trang vào lãnh thổ Liên Xô, cũng đã được các nguồn tin quân sự và ngoại giao của chúng ta đưa ra. Nhưng như chúng ta thấy, ban lãnh đạo đã nhận được lệnh không được tin vào những tin đó. Cho nên, với một nỗi lo âu nhất định, các tin này chỉ được gửi đi cùng những nhận định rất dè dặt về tình thế lúc bấy giờ.
Chẳng hạn, trong báo cáo gửi từ Berlin ngày 6-5-1941, tùy viên quân sự Liên Xô, đại úy Vôrônxốp viết :
Một công dân Liên Xô tên là Bôde đã báo cho phó tùy viên phụ trách hải quân : như một sĩ quan Ðức - làm việc ở Tổng Hành dinh của Hítle - được biết, nước Ðức chuẩn bị tấn công Liên Xô vào ngày 14-5 từ hướng Phần Lan, các nước Bantơ và nước Lítva. Cùng một lúc, không quân Ðức sẽ tấn công ồ ạt Moskva và Lêningrát, và quân nhảy dù sẽ chiếm cứ các thành phố dọc biên giới...
Trong báo cáo ngày 22-5-1941, phó tùy viên quân sự ở Berlin, Khlôpốp thông báo :
Cuộc tấn công của quân đội Ðức đã được ấn định vào ngày 15-6, nhưng cũng có thể sẽ diễn ra trong những ngày đầu tháng Sáu.
Bức điện tín từ tòa đại sứ của ta ở Lônđơn gửi về ngày 18-6-1941, viết :
Cripps tin chắc rằng đụng độ vũ trang giữa Ðức và Liên Xô là không thể tránh khỏi, và cuộc chiến tranh này sẽ xảy ra chậm nhất là vào khoảng giữa tháng Sáu. Theo Cripps, quân Ðức hiện đang tập trung 147 sư đoàn (kể cả không quân và các lực lượng trợ ứng) dọc biên giới Liên Xô...
Phó mặc những lời nhắc nhở nghiêm trọng như thế, không có một biện pháp thiết yếu nào được đưa ra để nước ta có thể chuẩn bị một cách thích đáng công cuộc tự vệ và chống trả cuộc tấn công bất ngờ(3).
Chúng ta có đủ thì giờ và khả năng thực hiện công cuộc chuẩn bị này không ? Tất nhiên, có ! Chúng ta có thì giờ và đủ khả năng. Nền công nghiệp của chúng ta đã phát triển đến mức có thể cung cấp mọi nhu cầu cho quân lực Liên Xô. Ðiều này được chứng minh bởi thực tế sau : trong những năm đầu thời chiến tranh, mặc dầu chúng ta bị mất phân nửa nền công nghiệp cùng những vùng công nghiệp và nông nghiệp quan trọng ở Ukraina và phía Bắc Kápkadơ và những vùng miền Tây đất nước do sự chiếm đóng của quân thù, nhà nước xô-viết vẫn tổ chức được việc sản xuất quân nhu ở các vùng nông thôn phía Ðông, vẫn đưa vào hoạt động những thiết bị được chuyển từ các khu công nghiệp miền Tây và đã cung cấp cho quân đội mọi nhu cầu thiết yếu để tiêu diệt kẻ địch. 
Nếu nền công nghiệp chúng ta được vận động kịp thời và đúng mức để cung cấp quân đội ta những khí cụ cần thiết thì các tổn thất của ta trong thời chiến hẳn đã giảm bớt rất nhiều. Nhưng cuộc vận động này không được thi hành đúng lúc. Ngay trong những ngày đầu chiến tranh, rõ ràng là quân lực ta được vũ trang tồi tệ, không đủ đại bác, chiến xa và phi cơ để đẩy lùi quân địch. 
Ngay từ thời kỳ trước chiến tranh, nền khoa học và kỹ thuật Liên Xô đã phát triển các loại chiến xa và đạc bác tuyệt diệu. Có điều việc sản xuất hàng loạt những loại vũ khí này đã không được tổ chức kịp thời và trong thực tế, ta chỉ bắt đầu hiện đại hóa vũ khí trước ngày chiến tranh bùng nổ mà thôi. Thành thử, khi quân thù tấn công lãnh thổ xô-viết, chúng ta chẳng có những thiết bị cũ - không còn được sử dụng trong công nghiệp quân sự -, và cũng chưa có những thiết bị mới, khi ấy mới bắt đầu được chế tạo trong các xưởng khí cụ. Ðặc biệt, pháo binh của ta rất yếu ; ta cũng chưa tổ chức sản xuất đạn dược chống xe bọc thép. Nhiều vùng chiến lược được phòng thủ kiên cố, nhưng rút cục không đương đầu nổi sức tấn công của quân thù vì những loại vũ khí cũ đã bị loại bỏ, nhưng vũ khí loại mới chưa được sản xuất. 

Sự kiện này, đáng tiếc, không chỉ xảy ra với chiến xa, pháo binh và phi cơ. Ðầu cuộc chiến, ta còn không đủ cả súng trường để cung cấp cho số binh lính mới được điều động. Tôi còn nhớ trong những ngày đó, tôi đã gọi điện thoại từ Kiép cho đồng chí Malenkốp(4) và nói : "Nhiều chiến sĩ tình nguyện xin nhập ngũ và họ đòi cấp súng đạn. Yêu cầu gửi vũ khí cho chúng tôi."
Ðồng chí Malenkốp trả lời : "Chúng tôi không thể gửi vũ khí cho đồng chí được. Chúng tôi đã gửi tất cả súng trường cho Lêningrát. Các đồng chí phải tự vũ trang lấy." (Cả phòng họp xôn xao)
Tình trạng về vũ khí là như thế. 
Liên quan đến vấn đề này, chúng ta không nên quên sự kiện sau đây. Ít lâu trước khi quân Hítle mở cuộc tấn công chống Liên Xô, đồng chí Kóocpônốp - thời ấy là Tư lệnh Quân sự Ðặc biệt Quân khu Kiép (sau này hy sinh ở trận tuyến) - báo cáo cho Stalin biết quân Ðức đang dừng chân ở bờ sông Bugơ và đang chuẩn bị lực lượng, chắc chắn chúng sẽ mở cuộc tấn công trong những ngày gần tới. Do đó, đồng chí đề nghị phải thiết lập một hệ thống phòng thủ lớn, di tản khoảng 800 ngàn dân sự khỏi các vùng giáp biên giới và xây dựng hàng loạt những đầu mối phòng ngự bằng cách thiết lập những công sự chống chiến xa, những chiến hào, v. v... 

Moskva trả lời rằng những biện pháp như thế là một hành động khiêu khích, không nên khởi sự bất kỳ hành động phòng thủ gì dọc biên giới để quân Ðức mượn cớ mở cuộc hành quân chống lại ta. Do đó, các vùng biên giới của ta không được chuẩn bị đầy đủ để đẩy lùi cuộc tấn công của quân địch
Khi quân đội phát-xít thực sự xâm lấn lãnh thổ xô-viết và những cuộc hành quân của chúng đã khởi đầu, Moskva vẫn ra lệnh không được bắn trả những cuộc pháo kích của quân đội Ðức. Thử hỏi tại sao ? Vì Stalin, mặc dầu sự việc đã rành rành, vẫn cứ tưởng chiến tranh chưa xảy ra, tất cả những điều này chỉ là hành động khiêu khích của vài đơn vị binh lính vô kỷ luật trong quân đội Ðức, đòn giáng trả của chúng ta sẽ là cái cớ cho người Ðức làm bùng nổ cuộc chiến.
Sự thật sau đây cũng được nhiều người biết đến. Ngay trước khi quân Ðức xâm chiếm lãnh thổ Liên Xô, một công dân Ðức đã vượt biên giới và cho biết quân Ðức được lệnh tấn công Liên Xô vào lúc 3 giờ sáng ngày 22-6. Tin này được thông báo ngay cho Stalin nhưng Stalin vẫn hoàn toàn bỏ qua.
Chúng ta có thể thấy Stalin đã khinh thường những lời nhắc nhở của một số lãnh đạo quân sự, những thông báo của lính Ðức đào ngũ và ngay cả những hành động thù địch lộ liễu. Thử hỏi đó có phải là tinh thần cảnh giác gương mẫu của một lãnh tụ đảng và nhà nước trong một khoảng khắc lịch sử nghiêm trọng như thế ?
Thái độ thản nhiên, khinh thường những sự kiện rành rành ấy đã đem lại hậu quả ra sao ? Kết quả là ngay trong những ngày giờ đầu cuộc chiến, ở các vùng biên giới, kẻ thù đã phá hủy phần lớn không quân, pháo binh và các trang bị quân sự khác của chúng ta. Chúng đã sát hại một phần đáng kể các cán bộ quân sự và phá hoại Bộ Tham mưu Quân sự của ta. Tất cả những điều này dẫn đến hậu quả là chúng ta không ngăn nổi quân thù tiến sâu vào nội địa đất nước.(5)
Những hậu quả rất đáng buồn, nhất là trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, xảy ra do việc Stalin - do bản tính đa nghi và dựa trên những lời buộc tội bịa đặt - đã thủ tiêu nhiều người trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo quân sự và chính trị vào thời kỳ 1937-1941. Trong những năm đó, các cuộc đàn áp đã triệt hạ những tầng lớp cán bộ quân sự nhất định : hầu như từ đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng đến những lãnh đạo quân sự cấp cao nhất. Trong thời kỳ đó, các nhà lãnh đạo quân đội - từng kinh qua chiến trận ở Tây Ban Nha và Viễn Ðông - đã bị thủ tiêu gần hết.(6)
Những cuộc khủng bố trên diện rộng lớn đối với các cán bộ quân sự đã phá hủy kỷ luật quân sự, vì trong mấy năm liền, người ta đã gợi ý sĩ quan các cấp, thậm chí cả binh lính trong đảng và trong đoàn Thanh niên cộng sản (Komsomol), phải "vạch mặt" chỉ huy của họ như kẻ thù giấu mặt. (Phòng họp náo động). 

Tất nhiên, chính sách này đã làm tan vỡ kỷ luật quân đội trong giai đoạn đầu của chiến tranh.
Và, cũng như các đồng chí đã biết, trước chiến tranh chúng ta có nhiều cán bộ quân sự lỗi lạc, họ là những người trung thành tận tụy với đảng và với Tổ quốc. Chỉ cần nói : những người sống sót qua những vụ tra tấn tàn bạo trong ngục tù đã tỏ ra là những người yêu nước chân chính và đã anh dũng chiến đấu cho vinh quang của tổ quốc, từ những ngày đầu của chiến tranh. Tôi muốn nói đến đồng chí Rôkôsốpsky(7) (như các đồng chí biết, đã bị giam cầm trong tù), đồng chí Gôrơbatốp, Marétskốp (là đại biểu ở Ðại hội này), đồng chí Pốtlát (một tư lệnh tuyệt vời đã bỏ mình nơi trận tuyến) và nhiều, rất nhiều đồng chí khác. Tuy nhiên, nhiều tướng lĩnh chỉ huy đã bị thiệt mạng trong các trại lao động khổ sai hoặc trong nhà tù, và quân đội ta không bao giờ gặp lại họ nữa.
Tình trạng ấy đã diễn ra vào đầu cuộc chiến và tạo nên mối hiểm họa lớn cho tổ quốc chúng ta.
Chúng ta không nên quên rằng sau những thất bại và những tổn thất khốc hại đầu tiên ở chiến trường, Stalin đã mất lòng tin và tưởng rằng nước ta đã lâm vào đường cùng.(8) Trong một bài diễn văn hồi đó, Stalin tuyên bố : "Chúng ta đã đánh mất vĩnh viễn tất cả những gì Lênin tạo ra".
Sau đó, trong một thời gian dài, trong thực tế Stalin không điều khiển các cuộc hành quân, nói chung đồng chí ấy không làm gì cả. Stalin chỉ nắm lại quyền chỉ huy quân sự sau khi một số ủy viên Bộ Chính trị tới gặp đồng chí ấy yêu cầu thi hành cấp tốc một số biện pháp để cải thiện tình hình ngoài trận tuyến. Như thế, mối nguy hiểm khôn lường đe dọa tổ quốc chúng ta trong thời kỳ đầu chiến tranh, phần lớn bởi Stalin đã thực hiện những phương pháp sai lầm trong việc lãnh đạo đảng và nhà nước.
Cố nhiên, chúng ta không thể chỉ nói đến những hoàn cảnh khi cuộc chiến tranh mới nổ ra, đã phá hủy trầm trọng quân đội và gây ra nhiều thiệt hại nặng nề cho chúng ta. Về sau này, sự mất bình tĩnh và chuyện Stalin can thiệp loạn xạ vào công việc chỉ đạo quân sự cũng làm quân đội ta bị thiệt hại nhiều.
Stalin hoàn toàn không hiểu những sự kiện diễn ra ở trận tuyến. Và cũng không thể ngạc nhiên về điều này, nếu chúng ta để ý là trong suốt thời kỳ chiến tranh vệ quốc, Stalin không hề đi kinh lý một trận tuyến nào, hay một thành phố nào vừa được giải phóng, ngoại trừ một cuộc thăm viếng đoạn đường ngắn trên quốc lộ Môgiaisk, khi tình thế đã ổn định trên trận tuyến. Nhiều tác phẩm văn học đã đề cập kỹ lưỡng về chuyến đi này, thêm thắt mọi thứ chuyện bịa đặt ; đây cũng là đề tài cho lắm tác phẩm nghệ thuật tạo hình.
Cùng lúc đó, Stalin can thiệp vào việc thực hiện những cuộc hành quân, đưa ra các mệnh lệnh không căn cứ vào tình hình thực tế của trận tuyến, đem lại rất nhiều tổn thất có thể tránh khỏi cho quân đội ta.
Liên quan đến vấn đề này, tôi xin kể một trường hợp điển hình, chứng tỏ Stalin đã điều khiển những cuộc hành quân ngoài trận tuyến như thế nào. Tham dự Ðại hội hôm nay có nguyên soái Bagramian(9), chỉ huy các cuộc hành quân ở Tổng hành dinh mặt trận phía Tây Nam, và đồng chí có thể chứng thực những điều tôi sẽ nói sau đây.
Năm 1942, khi tình hình trở nên đặc biệt nghiêm trọng cho quân đội ta ở vùng Kháckốp, chúng tôi đã có quyết định đúng đắn : ngừng cuộc hành quân nhằm bao vây Kháckốp, tình thế thực tế hồi đó cho thấy tiếp tục chiến sự có thể gây tai hại thảm khốc cho quân đội ta. Chúng tôi đề xuất ý kiến này với Stalin, lập luận rằng tình hình hiện tại đòi hỏi phải xét lại kế hoạch hành quân, chớ để quân thù có khả năng phá hoại các cứ điểm quân đội của ta.
Trái với lý trí thông thường, Stalin bác bỏ đề nghị của chúng tôi và ra lệnh tiếp tục cuộc hành quân bao vây Kháckốp, mặc dầu lúc đó nhiều nơi tập trung quân đội ta đang bị đe dọa bao vây và tiêu diệt.
Tôi gọi điện thoại và đề nghị với đồng chí Vassilépsky(10) như sau : "Alếchsanđrơ Mikhailôvích (đồng chí Vassilépsky có mặt trong phòng họp này), đồng chí hãy cầm lấy bản đồ và chỉ cho đồng chí Stalin biết thực trạng tình hình."
Tôi lưu ý là Stalin bày kế hoạch hành binh trên bề mặt một quả địa cầu dùng cho học trò. (Phòng họp xôn xao)
Ðúng như vậy các đồng chí ạ, Stalin kiếm một quả địa cầu dùng cho học trò thông thường và theo dõi tình hình các mặt trận trên đó. Tôi nói với đồng chí Vassilépsky : "Ðồng chí hãy chỉ tình hình cho đồng chí Stalin trên một chiếc bản đồ ; trong điều kiện hiện nay chúng ta không thể tiếp tục cuộc hành quân như dự định. Phải thay đổi quyết định cũ cho hợp với thời cuộc."
Vassilépsky trả lời vấn đề này đã được Stalin nghiên cứu và đồng chí không muốn thảo luận với Stalin nữa vì Stalin không muốn bàn cãi thêm nữa.
Sau khi nói chuyện với Vassilépsky, tôi gọi điện về nhà nghỉ Stalin. Nhưng Stalin không trả lời. Malenkốp đến nhấc điện thoại. Tôi nói với đồng chí Malenkốp là tôi gọi điện từ mặt trận và muốn nói chuyện trực tiếp với Stalin. Qua Malenkốp, Stalin bảo tôi hãy bàn bạc với với đồng chí Malenkốp. Lần thứ hai, tôi nhấn mạnh là tôi muốn báo cáo trực tiếp với Stalin về tình hình nguy cấp của chúng tôi ở mặt trận. Nhưng Stalin cho rằng không cần cầm lấy ống nghe và một lần nữa, Stalin cho biết tôi phải nói chuyện với đồng chí ấy thông qua Malenkốp, mặc dầu lúc đó Stalin chỉ đứng cách điện thoại có vài bước.
Sau khi đã "lắng nghe" đề nghị của tôi bằng cách ấy, Stalin trả lời : "Cứ để nguyên mọi thứ như cũ".
Và kết quả ra sao ? Ðúng như chúng tôi dự tính. Quân Ðức đã bao vây các khu tập trung quân đội ta và chúng ta đã bị thiệt hại hàng trăm hàng ngàn quân lính. Thế đấy, một thí dụ về "thiên tài" quân sự của Stalin và nó đã mang lại hậu quả cho chúng ta như thế nào ! (Cả phòng họp xôn xao)
Sau chiến tranh, một bận Stalin gặp gỡ các ủy viên Bộ Chính trị, Anastasi Ivanôvích Mikôian(11) có nhắc đến chuyện Khrushốp đã có lý khi đồng chí ấy gọi điện báo cáo về vấn đề hành quân vùng Kháckốp, và thật đáng tiếc ý kiến của Khrushốp đã không được chấp thuận. 

Các đồng chí hãy tưởng tượng Stalin nổi khùng như thế nào ! Làm sao có thể giả thiết là Stalin không có lý ? Bởi Stalin là một "thiên tài", mà một "thiên tài" luôn luôn phải có lý ! Bất kỳ ai đều có thể sai lầm, nhưng Stalin tự cho mình không bao giờ sai lầm, đồng chí ấy luôn luôn có lý. Stalin không bao giờ nhận mình sai, sai lớn hoặc sai nhỏ, mặc dầu đồng chí ấy đã mắc nhiều sai lầm cả trong những vấn đề lý thuyết cũng như về mặt thực hành. Sau khi Ðại hội bế mạc, chắc chắn chúng ta cần khảo sát lại nhiều cuộc hành quân và trình bày nó dưới ánh sáng thích hợp. 

Các sách lược dính líu đến Stalin, người vốn không hề để tâm đến những điều căn bản của nghệ thuật lãnh đạo quân sự, đã làm chúng ta hao tổn nhiều xương máu, cho đến lúc chúng ta ngăn chặn được quân thù và chuyển sang phản công. 
Các nhà quân sự đều biết ngay từ cuối năm 1941, đáng lý phải đẩy mạnh cuộc tổng hành quân đánh chặn ngang quân địch để tiến vào hậu tuyến của chúng, Stalin lại ra lệnh đánh trực diện để chiếm từ vùng này sang vùng nọ. Chiến thuật này gây cho chúng ta nhiều tổn hại nặng nề, cho đến khi các đại tướng của ta - hai vai mang mọi gánh nặng của chiến tranh - đã biến đổi tình hình và chuyển sang những cuộc hành quân mềm dẻo hơn, mang lại những thay đổi lớn tức thì, có lợi cho chúng ta.
Bởi vậy, thật là nhục nhã khi sau những chiến thắng lớn, phải trả bằng giá rất đắt, Stalin lại đặt dấu hỏi về công trạng của nhiều nhà chỉ huy quân sự, những người đã có công đánh bại quân thù ; đồng chí ấy không thể nào coi những công lao ở mặt trận lại lại có thể do người khác làm nên.
Stalin rất muốn biết sự đánh giá của mọi người về đồng chí Giukốp(12), nhà lãnh đạo quân sự của ta. Nhiều lần đồng chí ấy hỏi ý kiến tôi về đồng chí Giukốp. Khi ấy tôi đáp : "Tôi biết Giukốp từ lâu. Ðồng chí là một vị tướng có tài năng và một lãnh đạo quân sự giỏi."
Sau chiến tranh, Stalin bắt đầu gieo rắc nhiều tiếng xấu về Giukốp, chẳng hạn : "Ðồng chí đã khen ngợi Giukốp, nhưng đồng chí ấy có gì đáng được khen ngợi đâu. Người ta kể, trước mỗi cuộc hành quân, đồng chí ấy vớ một nắm đất, đưa lên mũi ngửi rồi nói : "Chúng ta có thể tấn công" hoặc ngược lại : "Chưa thể thực hiện kế hoạch dự định !"
Hồi đó, tôi đã trả lời Stalin như sau : "Thưa đồng chí Stalin, tôi không biết ai đã bịa đặt điều đó, nhưng không phải là như thế."
Có thể chính Stalin đã bịa đặt ra những chuyện kiểu ấy để hạ thấp vai trò và tài năng quân sự của nguyên soái Giukốp.
Cùng lúc đó, Stalin rất sốt sắng tự tỏ ra mình là một tướng lĩnh giỏi ; bằng những phương cách khác nhau, Stalin đã gieo rắc trong đầu óc quần chúng ý nghĩ rằng mọi chiến thắng của đất nước Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đều do lòng quả cảm, sự can đảm và thiên tài lỗi lạc của Stalin. Chẳng khác anh chàng Kryuchkốp(13) huyền thoại, chém một nhát kiếm chết bảy kẻ địch. (Phòng họp xôn xao)
Cũng trong phạm vi vấn đề này, chúng ta thử xem các phim ảnh lịch sử và quân sự và một vài tác phẩm văn học của chúng ta. Thật là chán ngấy : mục đích thực sự của chúng là tụng ca thiên tài quân sự của Stalin. Chúng ta hãy thử nhớ lại cuốn phim Berlin thất thủ(14). Trong đó, Stalin là nhân vật duy nhất hành động ; đồng chí ấy ra lệnh trong một gian phòng có nhiều ghế bỏ trống, chỉ có một người đến gần Stalin và báo cáo gì đó. Người đó là Pôskrêbưshép(15), kẻ hầu cận trung thành của Stalin. (Tiếng cười trong phòng họp)
Còn ban chỉ đạo quân sự ở đâu ? Bộ Chính trị ở đâu ? Chính phủ ở đâu ? Họ làm gì và đang bận việc gì ? Cuốn phim không đả động tới. Stalin đã hành động thay tất cả mọi người, chẳng quan tâm đến ai, chẳng hỏi ý kiến ai. Trong cuốn phim này, mọi việc đã bị bịa đặt trước mắt nhân dân. Vì sao ư ? Bởi, không thèm để tâm đến thực tế và sự thật lịch sử, người ta muốn trình bày Stalin trong vầng hào quang.
Một câu hỏi được đặt ra : những người lính vác trên hai vai mọi gánh nặng chiến tranh ở đâu ? Họ hoàn toàn vắng mặt trong cuốn phim ; Stalin không chừa cho họ một chỗ đứng nào.
Trong cuộc chiến tranh cứu nước vĩ đại, chiến thắng không phải là sản phẩm của Stalin, nó thuộc về toàn đảng, toàn chính phủ Liên Xô, thuộc về quân đội anh hùng, những tướng lĩnh tài ba và những người lính quả cảm, thuộc về toàn thể nhân dân Liên Xô. (Vỗ tay kéo dài)
Các ủy viên Ban chấp hành trung ương, các Dân ủy, các nhà lãnh đạo kinh tế, các đại diện xuất sắc của nền văn hóa xô-viết, những người đứng đầu tổ chức đảng và xô-viết địa phương, các kỹ sư và các chuyên viên - mỗi người trên cương vị của mình, đã mang hết sức lực và khả năng của mình để làm nên chiến thắng.
Hạt nhân của xã hội chúng ta đã tỏ ra anh dũng khác thường : giai cấp công nhân vinh quang, nông dân tập thể, giới trí thức Liên Xô - dưới sự lãnh đạo các tổ chức của đảng - đã vượt qua những khó khăn khôn lường của thời chiến và đã mang hết sức bình sinh bảo vệ tổ quốc.
Những phụ nữ xô-viết - nhận về mình gánh nặng của công tác sản xuất trong các nhà máy, các nông trang và các ngành kinh tế và văn hóa - cũng đã làm nên những chiến công hiển hách và vẻ vang. Nhiều phụ nữ đã tham gia trực tiếp vào cuộc chiến đấu ở tiền tuyến. Giới thanh niên chúng ta cũng đóng góp vô biên ngoài mặt trận cũng như ở hậu phương, trong công cuộc bảo vệ đất nước xô-viết và dẹp tan quân thù.
Những người lính xô-viết, những tướng lãnh và các chiến sĩ chính trị ở mọi cấp đã có những công lao bất diệt. Sau các thiệt hại đáng kể của quân đội ta trong những tháng đầu của cuộc chiến, họ vẫn bình tĩnh chỉnh đốn hàng ngũ trong quá trình chiến đấu, họ đã tạo ra và củng cố trong thời chiến một đạo quân hùng mạnh và chiến đấu anh dũng, chẳng những đã đẩy lùi kẻ thù hùng mạnh và xảo quyệt mà còn đập tan bọn chúng.
Những chiến tích tuyệt vời của hàng trăm triệu dân chúng ở miền Ðông và miền Tây trong cuộc đấu tranh chống họa nô lệ phát-xít sẽ còn sống mãi trong ký ức của nhân loại biết ơn, hàng thế kỷ, hàng thiên niên kỷ sau này. (Vỗ tay kéo dài)
Vai trò và công trạng chính của chiến thắng vĩ đại này thuộc về đảng cộng sản ta, thuộc về các lực lượng vũ trang xô-viết, thuộc về hàng chục triệu nhân dân Liên Xô do đảng đào tạo.

(1) Sau Thế chiến thứ hai, tất cả những văn kiện của đảng cộng sản Liên Xô (và các đảng cộng sản khác trên thế giới) đều đề cao "thiên tài quân sự lỗi lạc" của Stalin và coi Stalin là người độc nhất đã sáng lập ra Hồng quân xô-viết trong cuộc cách mạng tháng Mười năm 1917. (Sự thật, người sáng lập Hồng quân là Lép Trốtsky)
Nguyên soái Bunganin viết trong cuốn sách Stalin và lực lượng vũ trang xô-viết :
Stalin là người sáng lập quân đội Liên Xô và đồng chí là một nhà quân sự đại tài của thời đại này. Tất cả những cuộc hành quân trong cuộc chiến tranh vệ quốc đều do đồng chí Stalin định đoạt và đều được thực hiện dưới sự chỉ huy của đồng chí.
Malenkốp viết trong tờ Prápđa số ra ngày 21-12-1949 :
Trong cuộc Ðại chiến thế giới thứ hai, khi quân đội phát-xít tràn ngập và bao trùm các nước trong vòng đen tối, đe dọa nền văn minh nhân loại, đồng chí Stalin, đứng đầu Liên Xô, đã đứng ra chỉ huy sự nghiệp dẹp tan bọn Hítle hung hãn. Ðồng chí đã đem lại thắng lợi cho các dân tộc yêu chuộng hòa bình. Ðồng chí là một đại tướng tài giỏi, đã cứu thoát nhân loại khỏi gông cùm phát-xít.
Những tuyên truyền bịa đặt khổng lồ này, chẳng những gây ấn tượng trong đầu óc những người cộng sản mà còn gieo rắc ảnh hưởng ngay trong giới trí thức thật tâm và nhiều sử gia đứng đắn trên thế giới. Ai ai cũng tin Stalin là một "nhà quân sự đại tài". Riêng có Lép Trốtsky đã vạch rõ sự thật trong những cuốn Stalin hay Ðời tôi.
(2) Nội dung bức thư của Sớcsin như sau :
Tôi nhận được tin chắc chắn quân đội Ðức sẽ xâm chiếm Nam Tư sau ngày 20-3 và sau đó, họ vận dụng ba trong năm sư đoàn chiến xa từ Roumanie tiến qua miền Nam Ba Lan. Khi được tin cuộc cách mạng Nam Tư bùng nổ, họ tạm hoãn và cho lùi thời điểm nói trên. Tôi mong ngải sẽ nhận thức rõ ý nghĩa của sự kiện này.
(3) Stalin tin ở Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau đã ký năm 1939 với Hítle. Vì vậy, Stalin đã chia Ba Lan với Hítle và để Hítle rảnh tay về phương Tây. Dân ủy Ngoại giao Liên Xô Môlôtốp từng công khai chào mừng những chiến thắng của Hítle ở Pháp. Dựa vào Hiệp ước kể trên, Stalin đem quân tràn vào Phần Lan, chiếm cứ ba nước Bantơ và chiếm miền Bétsarabi của Rumani. Ông ta không ngờ nước Ðức lại trở mặt và cũng không tính chuyện có thể hợp tác với các nước phương Tây để chống lại Hítle. (Xin xem cuốn Chủ nghĩa Stalin của sử gia Liên Xô R. Métvêđép do Nhà xuất bản Le Seuil ở Paris dịch và phát hành năm 1972)
(4) G.M. Malenkốp (1902-1988) : bí thư Ban chấp hành Trung ương năm 1937, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô thời kỳ 1953-1955, ủy viên Bộ Chính trị đến năm 1957, cộng sự thân tín của Stalin.
(5) Khrushốp cải chính huyền thoại cho rằng Stalin đã dùng chiến thuật chống Napôlêông của nguyên soái Kutudốp thời trước : nhử quân thù tiến sâu vào nội địa rồi để chúng bị sa lầy trên trận địa. Sự thật, vì Liên Xô không chuẩn bị mà quân đội Ðức đã tiến sâu vào lãnh thổ xô-viết một cách dễ dàng, gây nhiều tổn thất (không cần thiết và lẽ ra có thể tránh khỏi) cho nhân dân và Hồng quân.
(6) Khrushốp công nhận những cuộc khủng bố xta-lin-nít không đem lại sự củng cố chế độ như nhiều người lầm tưởng. Sự thật, nó đã dẫn tới kết quả tệ hại là gây hoang mang và làm mất lòng tin trong quân đội. Nhưng Khrushốp không nói hết tên những sĩ quan cao cấp đã bị triệt hạ : các nguyên soái Tukhachépsky, Bliukhe, Êgôrốp ; các đại tướng Ansơnít, Biêlốp, Kachirin, Korơkơ, Ubôrêvích, Âydêman, Phenman, Primakốp, Pútna ; các thủy sư đô đốc Ôrơlốp, Víchtôrốp, Sípkốp, v.v... Trong năm 1938, những cuộc thanh trừng đã thủ tiêu tất cả 80 thành viên Hội đồng Quân sự (thành lập năm 1934) và nhiều tướng tá khác. Người ta ước tính có tới 30.000 thượng và hạ sĩ quan bị xử bắn.
(7) Nguyên soái Kônstantin K. Rôkôsốpsky bị bắt năm 1937 ở Lêningrát, bị tra tấn và cầm tù tới năm 1941 mới được thả. Năm 1956 được cử làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng ở Ba Lan. Trong giai đoạn "tẩy trừ", nhiều đại tướng khác như Alếchsanđrơ V. Góocbatốp nhiều nguyên soái khác như Cyrin A. Mêrétskốp cũng ở trường hợp như Rôkôsốpsky.
(8) Khrushốp cải chính huyền thoại cho rằng Stalin cũng quyết tâm đấu tranh đến cùng và do đó, đã củng cố được tinh thần quân đội và nhân dân. Huyền thoại này cũng đã được chính con gái Stalin cải chính. Sau này, để không ai biết đến việc mình mất lòng tin, Stalin đã tìm cách thủ tiêu tất cả những nhân chứng từng chứng kiến sự thật ngày đó.
(9) Ivan K. Bagramian : đảng viên từ năm 1938, nguyên soái Hồng quân năm 1955, thứ trưởng Bộ Quốc phòng năm 1956.
(10) Alếchsanđrơ Vassilépsky : đảng viên từ năm 1938, nguyên soái Hồng quân năm 1943, ủy viên Ban chấp hành Trung ương năm 1952.
(11) Anastasi I. Mikôian (1895-1978) : nhập đảng năm 1915, thành viên Ban chấp hành Trung ương từ năm 1923, ủy viên Bộ Chính trị thời kỳ 1935-1966, phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng từ năm 1955, chủ tịch nước thời kỳ 1964-1965. Bạn thân của Khrushốp.
(12) Ghêorghi Giukốp (1896-1974) : nguyên soái Hồng quân năm 1943, thứ trưởng Bộ Quốc phòng năm 1955, ủy viên Bộ Chính trị tháng 6-1957. Bị truất bỏ hết mọi chức vụ tháng 10-1957.
(13) Kudơma Ktiútchkốp : kỵ binh ở vùng sông Ðông, tham gia du kích chống Ðức trong Thế chiến thứ nhất (1914). Ðược báo chí đề cao như một vị anh hùng cứu nước. Sau này, tên tuổi Ktiútchkốp tượng trưng cho chủ nghĩa sô-vanh.
(14) Bộ phim Berlin thất thủ của đạo diễn Mikhain Chiaureli, quay năm 1949. Nguyên soái Giukốp - người lãnh đạo Hồng quân chinh phục Berlin - chỉ xuất hiện vài phút để nhận mệnh lệnh của Stalin. Sau Ðại hội lần thứ XX, cuốn phim này bị thu hồi.
(15) Alếchsanđrơ N. Pốtskrêbưshép : đảng viên từ năm 1917, ủy viên Ban chấp hành Trung ương, bí thư đặc biệt của Stalin.
Ðoạn 9 : Diệt chủng và khủng bố
 (LÊN MẠNG THỨ HAI 18 THÁNG SÁU 2001)
Thưa các đồng chí,
Bây giờ tôi xin được đề cập đến vài sự việc khác. Liên bang xô-viết đã được đánh giá là tấm gương một quốc gia gồm nhiều dân tộc vì trong thực tế, chúng ta đã đảm bảo quyền bình đẳng và tình đoàn kết giữa tất cả các dân tộc sống chung trên tổ quốc rộng lớn của chúng ta. 

Như thế, ta càng thấy những hành động do Stalin đề xướng - đã vi phạm trắng trợn những nguyên tắc lê-nin-nít căn bản về chính sách cùng chung sống giữa các dân tộc của nhà nước Liên Xô - mới kinh khủng biết nhường nào ! Chúng tôi muốn nói đến việc đày ải hàng loạt các dân tộc khỏi mảnh đất quê hương của họ, trong số đó có cả những người cộng sản, những đoàn viên Komsomol, không loại trừ một ai ; không một quan điểm quân sự nào có thể biện minh cho sự đày ải đó. 
Chẳng hạn, cuối năm 1943, khi những cuộc tấn công liên tục trên các trận tuyến của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đã quyết định kết thúc cuộc chiến, một nghị quyết được đưa ra nhằm đày ải dân tộc Karachai(1) khỏi những mảnh đất họ đang cư trú. Quyết định này đã được thực hiện.
Cũng vào thời kỳ đó, khoảng cuối tháng 12-1943, tất cả dân chúng nước Cộng hòa Tự trị Kanmức(2) cũng chịu chung một số phận. Tháng 3-1944, tất cả dân tộc Chêchen và Ingushơ(3) bị xua đuổi, còn nước Cộng hòa Tự trị Chêchen-Ingushơ bị giải tán. 

Tháng 4-1944, tất cả dân Bankarơ bị đuổi khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa Tự trị Kabácđô-Bankarơ đến các vùng khác, bản thân nước cộng hòa này bị đổi tên thành Cộng hòa Tự trị Kabácđô.
Dân tộc Ukraina chỉ thoát được số phận trên bởi họ quá đông và không biết đưa họ đi đâu. Nếu không thì họ cũng bị đày ải rồi. (Tiếng cười và náo động trong phòng) 
Không chỉ người mác-xít - lê-nin-nít mà ai ai có chút suy nghĩ cũng không hiểu nổi tại sao có thể buộc tội phản bội cho cả một dân tộc, kể cả phụ nữ, trẻ nhỏ, người già, người cộng sản, đoàn viên Komsomol, v.v... ; làm sao có thể áp dụng các biện pháp khủng bố trả đũa đối với cả một dân tộc - khiến họ phải đau khổ và chịu đựng - vì những hành vi của một số người hay một số tập đoàn chống lại ta.(4) 
Sau cuộc chiến tranh cứu quốc, đất nước ta đã tự hào nhớ lại những chiến thắng vẻ vang, đạt được nhờ sự hy sinh vô bờ bến và những cố gắng vĩ đại của toàn dân. Cả nước như sống trong một cơn sảng khoái chính trị. Ðảng ta sau chiến tranh lại càng gắn bó hơn trước. Trong lửa đạn chiến tranh, đội ngũ cán bộ đảng đã được tôi luyện và vững mạnh. Trong những điều kiện đó, không ai trong đảng có thể nghĩ tới khả năng một âm mưu gì.
Và chính trong thời kỳ này, cái gọi là "vụ án Lêningrát" đã nảy ra. Ngày nay chúng ta đã chứng tỏ được đây chỉ là một vụ ngụy tạo. Trong số các đồng chí bị sát hại hoàn toàn oan uổng, có Vôdơnêsensky, Kudơnétsốp, Rôđiônốp, Pốpkốp(5) và nhiều người khác.
Như chúng ta đã biết, đồng chí Vôdơnêsensky và Kudơnétsốp là những lãnh đạo tài ba và xuất sắc. Họ đã có lúc rất gần gũi Stalin. Chỉ cần nhắc đến việc Stalin đã giao phó trọng trách Phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng Chính phủ cho đồng chí Vôdơnêsensky và đồng chí Kudơnétsốp đã được bầu làm bí thư Ban chấp hành trung ương đảng. Ngay việc Stalin ủy nhiệm Kudơnétsốp lãnh đạo các tổ chức an ninh nhà nước(6) cũng chứng tỏ Kudơnétsốp được tin cẩn đến mức nào.
Làm sao có thể xảy ra chuyện những người này bị tố cáo là "kẻ thù của nhân dân" và bị thủ tiêu ? Những sự kiện xảy ra đã chứng minh "vụ án Lêningrát" là một biểu hiện của sự độc đoán sta-lin-nít đối với các cán bộ đảng.
Nếu hồi đó, trong Ban chấp hành trung ương và Bộ Chính trị tình hình diễn ra bình thường thì những việc như thế đã được bàn bạc theo cách làm thực tiễn của đảng và những sự việc liên quan đến nó đã được cân nhắc. Như thế, vụ việc này - cũng như các vụ tương tự - đã không thể nào xảy ra được.
Tôi cần phải nói rằng sau chiến tranh, tình hình ngày càng phức tạp. Stalin ngày càng thất thường hơn, nóng nảy hơn và hung hãn hơn ; đặc biệt là tính đa nghi ngày càng tăng lên. Căn bệnh săn đuổi cuồng bạo của đồng chí ấy đã đạt tới mức độ không thể tưởng tượng được. Trước mắt Stalin, nhiều cộng sự đã trở thành kẻ thù. Sau chiến tranh, Stalin ngày càng tách rời tập thể. Stalin một mình định đoạt mọi việc, không để ý đến một ai hoặc một sự kiện nào cả.
Tính đa nghi không thể tưởng tượng nổi này của Stalin được một tên khiêu khích hạ đẳng và đê tiện là Bêrya lạm dụng một cách rất khôn khéo. Y đã sát hại hàng ngàn người cộng sản và thường dân xô-viết trung thành. Sự thăng chức nhanh chóng của Vôdơnêsensky và Kudơnétsốp khiến Bêrya lo ngại. Cũng như hiện nay, ta đã có bằng chứng Bêrya là người đã "xung phong" phục vụ Stalin về việc y và các đồng sự đã bày đặt một tài liệu dưới hình thức những lời tuyên bố, những thư nặc danh cùng mọi thứ đồn đại và đơm đặt khác.(7)
Ban chấp hành trung ương đảng đã xem xét lại vụ án giả mạo mà người ta gọi là "vụ án Lêningrát" ; những người vô tội bị hành hạ đã được minh oan và danh dự vẻ vang của tổ chức đảng vùng Lêningrát được phục hồi. Những kẻ bày đặt vụ án này như Abakumốp(8) và bè lũ bị đưa ra tòa án ; chúng bị xét xử ở Lêningrát và đã đền tội một cách đích đáng.
Có người đặt câu hỏi : tại sao đến giờ chúng ta mới thấy rõ cốt lõi của vụ này, tại sao trước kia - lúc sanh thời Stalin - chúng ta không làm gì để ngăn cản việc những người vô tội bị giết hại ? Bởi Stalin đã đích thân để tâm đến "vụ án Lêningrát" và đa số ủy viên Bộ Chính trị hồi đó đã không biết mọi chi tiết của vụ này, vì vậy họ không thể can thiệp.
Khi Stalin nhận được những tài liệu do Bêrya và Abakumốp chuyển đến, đồng chí ấy không hề xem xét những lời vu khống mà lập tức hạ lệnh chấm dứt mọi điều tra về "vụ việc" của Vôdơnêsensky và Kudơnétsốp. Ðiều này định đoạt số phận của họ. 

Trên phương diện này, vụ án tổ chức quốc gia Mingrêlia - dường như hoạt động ở vùng Grudya - cũng rất có tính tiêu biểu. Như chúng ta biết, những nghị quyết về vụ này đã được Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Liên Xô thông qua hồi tháng 11-1951 và tháng 3-1952, nhưng không hề được thảo luận trước ở Bộ Chính trị. Stalin đã đích thân đọc chúng cho người ta viết, và những nghị quyết ấy đã kết án rất nặng nề nhiều người cộng sản nhiệt huyết. Theo những tài liệu được đưa ra, người ta bảo rằng ở Grudya có một tổ chức quốc gia đặt mục đích thủ tiêu chính quyền xô-viết với sự viện trợ của các siêu cường đế quốc. 

Dựa vào đó, hàng loạt cán bộ lãnh đạo đảng và xô-viết đã bị bắt giam. Sau này, chúng ta có những bằng cớ chứng tỏ đây chỉ là chuyện vu khống nhằm chống lại tổ chức đảng ở Grudya.
Chúng ta biết ở Grudya cũng như tại nhiều vùng khác, thỉnh thoảng chủ nghĩa quốc gia tư sản mang tính địa phương lại bùng lên. Một câu hỏi được đề ra : thử hỏi ở vào thời kỳ những nghị quyết nói trên được thông qua, những xu hướng quốc gia có đến mức khiến việc Grudya tách rời khỏi Liên bang Xô Viết và sát nhập với Thổ Nhĩ Kỳ trở thành một mối họa thực sự hay không ? (Tiếng ồn ào và tiếng cười trong phòng họp )
Dĩ nhiên, tất cả những điều ấy chỉ là nhảm nhí. Hoàn toàn loại trừ khả năng có người nào đó nghĩ đến một chuyện như thế. Ai cũng biết vùng Grudya đã phát triển như thế nào trên địa hạt kinh tế và văn hóa dưới sự chế độ xô-viết. Sản lượng công nghiệp của Cộng hòa Grudya đã tăng gấp 27 lần so với thời kỳ trước cách mạng. Nhiều ngành công nghiệp mới - trước đây không có ở Grudya - đã xuất hiện : công nghiệp gang thép, công nghiệp dầu lửa, chế tạo cơ khí, v.v... Nạn mù chữ, trước cách mạng chiếm tỷ lệ 78% dân chúng Grudya, đã được thanh toán từ lâu. 

Khó có thể tưởng tượng được dân Grudya lại đi phấn đấu để sát nhập với Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi so sánh hoàn cảnh của họ với tình cảnh nặng nề của quần chúng lao động Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1955, tính theo đầu người, Grudya sản xuất thép gấp 18 lần Thổ Nhĩ Kỳ. Về điện lực, Grudya sản xuất gấp chín lần Thổ Nhĩ Kỳ, cũng tính theo đầu người. Theo kê khai dân số năm 1950, 65% dân số Thổ Nhĩ Kỳ mù chữ ; tỉ lệ này lên đến 80% ở phụ nữ. Nước Grudya có 19 trường đại học và cao đẳng với 39 ngàn sinh viên, nghĩa là nhiều gấp tám lần Thổ Nhĩ Kỳ (tính theo một ngàn nhân khẩu). Ðời sống sung túc của công nhân nước Grudya được nâng cao chưa từng thấy dưới chế độ xô-viết.
Hiển nhiên là khi nền kinh tế và văn hóa - cũng như nhận thức chủ nghĩa xã hội của quần chúng lao động - phát triển ở nước Grudya, nguồn suối nuôi dưỡng động lực của chủ nghĩa quốc gia tư sản càng bị cạn kiệt.
Những biến cố xảy ra sau đó chứng tỏ không có một tổ chức quốc gia nào ở Grudya cả. Hàng ngàn người vô tội đã trở thành nạn nhân của chính sách độc đoán và vô luật pháp. Và tất cả những điều này đã xảy ra dưới sự lãnh đạo "thiên tài" của Stalin, "người con vĩ đại của dân tộc Grudya", như dân chúng Grudya vẫn thích gọi Stalin như thế. (Phòng họp náo động)

(1) Người Karachai xuất xứ từ một dân tộc thiểu số Thổ Nhĩ Kỳ ở miền Tây Kápkadơ, bị Nga chiếm vào thế kỷ 19. Dân tộc này có chừng 75.000 người. Phần lớn đất đai của họ bị sát nhập vào nước Grudya.
(2) Dân tộc Kanmức sống ở vùng thảo nguyên phía Tây cửa sông Vônga, tiếng nói của họ thuộc hệ Mông Cổ.
(3) Chêchen và Ingushơ là hai dân tộc sống ở phía Bắc sườn núi Kápkadơ, có tiếng nói thuộc hệ ngôn ngữ Kápkadơ.
(4) Người phụ trách việc đày ải các dân tộc này là Bêrya. Sau khi chiếm được vùng Kápkadơ, phát-xít Ðức hứa sẽ mang lại nền độc lập cho người Chêchen,Ingushơ, Banka và Kanmức ; vì vậy, một số người thuộc các dân tộc này theo quân Ðức. Dựa vào cớ đó, Stalin đã thực hiện những vụ đày ải đại quy mô và đẫm máu đối với các dân tộc nói trên.
(5) Nikôlai Vôdơnêsensky (1903-1950) : viện sĩ, ủy viên Ban chấp hành Trung ương năm 1939, chủ tịch Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, ủy viên Bộ Chính trị năm 1947, phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

- Alếchxây Kudơnétxốp : bí thư thành ủy Lêningrát năm 1945, bí thư Ban chấp hành Trung ương và ủy viên phụ trách Ban tổ chức Trung ương năm 1946.

- Mikhain Rôđinốp : thủ tướng Cộng hòa Liên Xô, ủy viên phụ trách Ban tổ chức Trung ương năm 1946.

- Piốt Pốpkốp : ủy viên Ban chấp hành Trung ương năm 1939, bí thư thứ nhất thành ủy Lêningrát năm 1949.
(6) Kudơnétxốp lãnh đạo hai cơ quan an ninh : Bộ An ninh Quốc gia và Bộ Nội vụ.
(7) Ðổ cho Bêrya và Abakumốp mọi tội lỗi trong "vụ án Lêningrát" là một quan điểm thường thấy ở Liên Xô ngày xưa. Kỳ thực, Stalin chỉ đạo trực tiếp vụ này, vì ông ta lo ngại Vôdơnêsensky và Kudơnétxốp, hai nhà lãnh đạotrẻ xuất sắc và có tầm nhìn độc lập sẽ có thể trở nên một đe dọa cho quyền uy của mình.
(8) Victor S. Abakumốp : bộ trưởng Bộ An ninh Quốc gia thời kỳ 1947-1951, bị xử tử năm 1954.

Ðoạn 10 :Xung đột với Nam Tư
 (LÊN MẠNG THỨ HAI 18 THÁNG SÁU 2001)
Bản tính độc đoán của Stalin không những đã bộc lộ trong các quyết định liên quan đến sinh hoạt nội bộ của đất nước, mà còn cả trong những mối quan hệ quốc tế của Liên Xô.
Hội nghị toàn thể Ban chấp hành trung ương hồi tháng Bảy đã xem xét cặn kẽ những lý do gây ra cuộc xung đột với Nam Tư(1). Ở đây, Stalin đã đóng một vai trò vô lý. Những vấn đề đặt ra trong "vụ Nam Tư" đều có thể giải quyết bằng sự tranh luận mang tính đảng giữa các đồng chí với nhau. Không có một nguyên cớ đáng kể nào khiến "vụ" này phát triển : hoàn toàn có thể tránh sự đoạn tuyệt với Nam Tư hồi đó. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các lãnh tụ Nam Tư không phạm phải sai lầm và thiếu sót. Nhưng những sai lầm và thiếu sót đó đã được Stalin thổi phồng lên một cách ghê gớm, và việc này đã dẫn tới sự đoạn tuyệt với một nước anh em. 
Tôi còn nhớ những ngày đầu khi cuộc xung đột giữa Liên Xô và Nam Tư bắt đầu được thổi phồng một cách giả tạo. Một bận từ Kiép về Moskva, tôi được Stalin mời đến hội kiến. Cho tôi xem bản sao bức thư gửi Titô mới nhận được, Stalin hỏi tôi : "Ðồng chí đã đọc thư này chưa ?" Rồi không đợi tôi trả lời, đồng chí ấy nói : "Tôi chỉ cần vẩy ngón tay út là Titô không còn nữa. Hắn sẽ đổ !"
Chúng ta đã trả một giá đắt cho việc "vẩy ngón tay út" của Stalin. Lời tuyên bố này phản ảnh bệnh vĩ nhân cuồng của Stalin, nhưng đồng chí ấy vẫn luôn làm như thế : "Tôi chỉ cần vẩy ngón tay út là Kốtsiô sẽ biến mất" ; "Tôi chỉ cần vẩy ngón tay út một lần nữa - là Vôdơnêsensky, Kudơnétsốp và nhiều đứa khác sẽ tiêu".
Nhưng điều này đã không xảy ra với Titô. Mặc dầu Stalin ra sức vẩy - chẳng những ngón út mà mọi thứ có thể lay chuyển khác -, Titô vẫn không đổ. Vì sao ? Bởi lẽ ở trường hợp xung đột xảy ra với các đồng chí Nam Tư, sau lưng Titô có cả một nhà nước và một dân tộc đã trải qua trường học gian khổ của cuộc chiến đấu cho tự do và độc lập, một dân tộc ủng hộ những lãnh tụ của họ.(2)
Các đồng chí có thể thấy tính huyênh hoang tự đại điên cuồng của Stalin đã đưa chúng ta đến đâu : đồng chí ấy đã mất hẳn cảm giác thực tế. Stalin bộc lộ tính kiêu căng và đa nghi của mình không những đối với một số cá nhân ở Liên Xô, mà còn đối với các đảng và các nhà nước khác nữa.
Chúng tôi đã nghiên cứu kỹ càng trường hợp Nam Tư và chúng tôi đã tìm được một giải pháp đúng đắn được các dân tộc Liên Xô và Nam Tư ủng hộ, được quần chúng lao động các nước Dân chủ Nhân dân và cả nhân loại tiến bộ chấp nhận. Việc xóa bỏ những mối quan hệ bất thường với Nam Tư đã phục vụ các quyền lợi của phe xã hội chủ nghĩa và những lợi ích của hòa bình thế giới.

(1) Sau cuộc xung đột chính trị giữa Liên Xô và Nam Tư, năm 1950, Nhóm trốt-kít Việt Nam ở Pháp - cơ quan điều khiển Hiệp đoàn thợ Việt Nam ở Pháp - đã tổ chức một nhóm Việt kiều vùng Paris lấy tên Ðoàn tháng Mười (gồm hơn ba mươi người) qua Nam Tư "tìm sự thật". Sau một tháng khảo sát ở Nam Tư, Ðoàn tháng Mười tuyên bố một bản Quyết nghị phản đối việc vu cáo Nam Tư là nước phát-xít, nhận định nước Nam Tư đồng tính chất như Liên Xô, Trung Hoa và các nước dân chủ nhân dân khác.
Trong thời kỳ này, nhiều tờ báo Việt ngữ ở Pháp như Công nhân (của Công nhân Tương trợ), Văn hóa Liên hiệp v.v... - dưới ảnh hưởng của đảng cộng sản - đã tố cáo Nhóm trốt-kít Việt Nam ở Pháp theo "phát-xít Titô". Họ tuyên truyền khẩu hiệu Hiệp đoàn trốt-kít phát-xít Titô.
(2) Sự đoạn tuyệt giữa Stalin và Titô không phải là sự tuyệt giao giữa hai cá nhân. Nó có ý nghĩa lịch sử quan trọng do sự mâu thuẫn nội bộ của phong trào xta-lin-nít trên thế giới. Vào thời ấy, Nhóm trốt-kít Việt Nam tại Pháp đã xuất bản nhiều tài liệu nghiên cứu ý nghĩa sâu xa của vụ xung đột này và tiên đoán sẽ có những cuộc xung đột khác giữa các đảng cộng sản (và các nước do đảng cộng sản điều khiển). Khrushốp chỉ buộc tội Stalin nhưng ông ta quên rằng hầu hết các đảng và các lãnh tụ cộng sản trên thế giới đều đua nhau thóa mạ Titô và nước Nam Tư một cách vu cáo, hèn hạ. Thí dụ nguyên soái quân đội Liên Xô Bunganin đã tuyên bố trong bài diễn văn ngày 9-9-1949 :
Tên Giuđa Titô và bọn đồng lõa là những tên phản bội đê hèn đã bỏ hàng ngũ các nước xã hội chủ nghĩa chạy qua hàng ngũ các nước đế quốc và phát-xít. Chúng đã biến nước Nam Tư thành nhà ngục của bọn Gestapo. Tất cả nhân loại tiến bộ nhìn bộ mặt hèn hạ và xấu xa của bọn đồng lõa đế quốc đều không khỏi ghê tởm. Bọn chúng sẽ không tránh khỏi sự hỏi tội của nhân dân nước này. Chúng sẽ bị xử án về những tội ác đẫm máu, về sự phản bội của chúng đối với dân tộc Nam Tư và nhân dân các nước Mặt trận Dân chủ.
Ðoạn 11 : Khủng bố
 (LÊN MẠNG THỨ BA 19 THÁNG SÁU 2001)
Bây giờ, chúng ta hãy xét lại "vụ các bác sĩ khủng bố". (Phòng họp náo động)
Thật ra, hoàn toàn không có "vụ" gì ở đây, ngoài lời tố giác của nữ bác sĩ Timashuk, tức lá thư bà ta viết cho Stalin - hẳn do ai đó xúi bẩy hoặc ra lệnh (tuy Timashuk chính là cộng tác viên không chính thức của các cơ quan an ninh quốc gia) -, trong đó bà ta viện đến những phương pháp không thể dung thứ (giả định) của các bác sĩ.(1)
Chỉ một bức thư như thế cũng đủ để Stalin rút ra kết luận tức khắc : ở Liên Xô có những bác sĩ chủ trương khủng bố... đồng chí ấy ra lệnh bắt giam một nhóm chuyên gia y tế có uy tín và đích thân ra chỉ thị về cách thức điều tra cũng như phương pháp dùng trong quá trình khảo cung những người bị bắt. Stalin nói rằng phải cùm Viện sĩ Hàn lâm Vinôgrađốp(2) bằng xích sắt và đánh đập những người khác. Ðồng chí Igơnatiép(3) - cựu bộ trưởng Bộ An ninh Quốc gia - hôm nay tham dự Ðại hội nghị này với tư cách đại biểu. Stalin đã cao giọng với đồng chí : "Chúng tôi sẽ chặt đầu anh nếu anh không lấy được lời nhận tội của bọn bác sĩ !" (Phòng họp xôn xao).
Stalin đã đích thân gọi cán bộ điều tra vụ này đến gặp mình để truyền lệnh và chỉ bảo phương pháp điều tra. Những phương pháp ấy rất đơn giản : đánh, đánh và đánh thêm nữa. 
Ít lâu sau khi các bác sĩ bị bắt, chúng tôi - những thành viên Bộ Chính trị - nhận được những biên bản chứa những lời thú tội của các bác sĩ. Sau khi phát cho chúng tôi những biên bản đó, Stalin nói : "Các anh mù như lũ mèo con chưa mở mắt. Nếu không có tôi thì sự việc sẽ ra sao ? Ðất nước sẽ bị tiêu vong chỉ vì các anh không nhận biết được kẻ thù." 
Vụ này được bố trí để không ai có thể kiểm tra những bằng chứng mà qua đó, quá trình điều tra đã được xây dựng. Chúng tôi cũng không thể tìm cách kiểm tra những sự kiện bằng cách liên lạc với những người đã thú nhận tội lỗi của họ.
Nhưng dầu sao chúng tôi cũng đã cảm thấy vụ bắt bớ các bác sĩ thật đáng ngờ. Chúng tôi có quen biết cá nhân một số người trong số đó vì thời trước họ đã chữa bệnh cho chúng tôi. Sau khi Stalin chết, chúng tôi điều tra lại "vụ án" này, và rút ra kết luận : đây là một vụ ngụy tạo từ đầu chí cuối.
Stalin đã bịa đặt ra "vụ án" nhục nhã này. Nhưng Stalin không có đủ thì giờ để đi tới đích (như đồng chí ấy hằng mong muốn), và do đó các bác sĩ mới còn sống sót. Hiện nay chúng tôi đã minh oan cho tất cả các bác sĩ ấy ; họ vẫn tiếp tục làm việc ở cơ quan cũ. Các bác sĩ vẫn chữa bệnh cho những cán bộ cao cấp, kể cả những thành viên chính phủ ; được chúng tôi hoàn toàn tin tưởng, họ thực hiện bổn phận của mình một cách lương thiện, cũng như họ đã làm trong quá khứ.(4)

(1) Liđya Timashúk là một bác sĩ thuộc điện Kremli. Lá thư của bà ta tố cáo các bác sĩ đã không tận tình chạy chữa cho Giơđanốp. Sau này, Timashúk được thưởng Huân chương Lênin vì công trạng vu khống các đồng sự của mình.
(2) Giáo sư Vinôgrađốp chính là bác sĩ điều trị riêng của Stalin.
(3) Igơnatiép : bộ trưởng Bộ An ninh Quốc gia (thế chân Abakumốp), ủy viên thường vụ Ban chấp hành Trung ương, bí thư Ban chấp hành Trung ương năm 1953. Hai ngày sau khi vụ "bọn áo choàng trắng" được rửa án, Igơnatiép bị hạ xuống chức bí thư Cộng hoà Tự trị Bashơkiri.
(4) Thông qua vụ "bọn áo choàng trắng", Stalin nhằm thủ tiêu một số người thân cận mình trong số các ủy viên Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương. Phương pháp này cũng giống thủ đoạn Stalin đã lợi dụng vụ "ám sát Kirốp" để thanh trừng các cựu đồng chí của Lênin.
Ðoạn 12 : Bêrya
 (LÊN MẠNG THỨ TƯ 20 THÁNG SÁU 2001)
Bêrya(1), tay sai của các tổ chức gián điệp ngoại bang, kẻ thù độc ác của đảng ta, đã đóng vai trò đê tiện nhất trong việc tổ chức các vụ việc nhơ bẩn và nhục nhã này. Y đã chiếm được lòng tin cẩn của Stalin. Tên khiêu khích ấy làm thế nào đoạt được địa vị trong đảng và nhà nước, để rồi trở thành Phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng Chính phủ Liên Xô và ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương đảng ? Hiện nay chúng ta được biết là tên đốn mạt này đã dẫm lên không biết bao nhiêu xác chết để leo ngày một cao lên các bậc thang chính quyền.(2) 
Có những bằng chứng nào cho ta thấy Bêrya là kẻ thù của đảng ? Có, có những bằng chứng như thế ! Ngay từ năm 1937, trong một hội nghị toàn thể của Ban chấp hành trung ương, đồng chí Kaminsky(3) - cựu Dân ủy Bộ Y tế - tuyên bố Bêrya làm việc cho tổ chức gián điệp Mussavát(4). Có điều, ngay khi cuộc họp Ban chấp hành trung ương vừa chấm dứt, đồng chí Kaminsky đã bị bắt và xử bắn.
Stalin có xem xét lời tuyên bố của Kaminsky không ? Không, vì Stalin tin cậy Bêrya và đối với Stalin, thế là đủ. Và khi Stalin tin một người hay một điều gì đó, không ai có thể đưa ra ý kiến khác với đồng chí ấy, dù chỉ một câu : ai dám bày tỏ sự bất đồng, kẻ ấy cũng chịu chung một số phận như đồng chí Kaminsky.
Ngoài ra, còn nhiều dấu hiệu khác nữa. Ðáng để ý đến lời báo cáo của đồng chí Snegốp(5) ở Ban chấp hành trung ương đảng (nên nhắc lại là Snegốp đã được phục hồi trong thời gian gần đây, sau khi bị tù 17 năm ở các trại lao động trừng giới). Trong lá đơn này, đồng chí Snegốp viết như sau :
Về dự định phục hồi cho đồng chí Cácvelichơvili-Lavrentiev(6), cựu ủy viên Ban chấp hành trung ương, tôi đã trao cho đại diện Ủy ban An ninh Quốc gia một bản khai kỹ lưỡng về vai trò của Bêrya trong quá trình quyết định vụ án Cácvelichơvili và những nguyên ủy tội lỗi đã dẫn dắt Bêrya trong việc này.
Theo ý tôi, không thể để trôi vào quên lãng một sự kiện quan trọng dính líu đến vụ này và cần thông báo cho Ban chấp hành trung ương được biết, vì tôi thấy việc kèm tài liệu này với những hồ sơ điều tra là không nên.
Ngày 30-10-1931, trong cuộc họp của Ủy ban Tổ chức của Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô, đồng chí Cácvelichơvili - bí thư Ủy ban Liên tỉnh miền Trans-Kápkadơ - đọc bản tường trình. Tất cả thành viên Ban Chấp hành liên tỉnh đều có mặt hôm đó, trong số đó chỉ mình tôi còn sống sót. Trong khóa họp này, sau khi chấm dứt bài diễn văn, Stalin đề nghị tổ chức lại Ban Bí thư của Ủy ban Liên tỉnh miền Trans-Kápkadơ như sau : bí thư thú nhất - Cácvelichơvili ; bí thư thứ hai - Bêrya (đây là lần đầu tiên trong lịch sử đảng, cái tên Bêrya được đưa ra ứng cử giữ một chức vụ trong đảng). Cácvelichơvili trả lời : đồng chí đã biết nhiều về Bêrya và vì thế, đồng chí dứt khoát từ chối làm việc với Bêrya. Khi đó, Stalin đề nghị hãy để vấn đề này lại đấy đã, sẽ quyết định sau trong quá trình công tác. Hai ngày sau, chúng tôi nhận được quyết định cử Bêrya giữ chức vụ trong đảng, còn Cácvelichơvili bị trục xuất khỏi miền Trans-Kápkadơ.
Hai đồng chí Mikôian và Kaganôvích có mặt trong khóa họp đó có thể chứng thực điều này.
Ai cũng biết là giữa Cácvelichơvili và Bêrya đã có bất hòa từ lâu ; điều này nảy sinh từ thời đồng chí Sécgô (biệt hiệu bình dân của Óocgiônikítdê) còn làm việc ở vùng Trans-Kápkadơ : Cácvelichơvili là cộng sự gần gũi nhất của đồng chí Sécgô. Quan hệ thù nghịch với Cácvelichơvili đã thúc đẩy Bêrya tạo ra "vụ án Cácvelichơvili".
Một điều đặc trưng là trong "vụ án" này, Cácvelichơvili bị buộc tội có hành động khủng bố nhằm ám hại Bêrya.
Bản cáo trạng trong vụ án Bêrya chứa đựng toàn bộ danh sách những tội ác của y. Tuy nhiên, cần nhắc riêng vài sự việc vì các đại biểu dự Ðại hội có lẽ chưa có cơ hội đọc tài liệu này. Tôi muốn nói đến những quyết định nhẫn tâm của Bêrya trong "vụ án" xử các đồng chí Kêđrốp(7), Gôlubiép và bà Baturina, mẹ nuôi của Gôlubiép ; họ muốn thông báo cho Ban chấp hành trung ương biết hoạt động phản bội của Bêrya. Họ đều bị xử bắn không qua xét xử, bản án chỉ được đưa ra sau khi họ đã bị hành quyết.
Ðồng chí Kêđrốp, một chiến sĩ cộng sản lão thành đã viết những dòng sau đây cho Ban chấp hành trung ương, thông qua đồng chí Anđrêép(8) (đồng chí Anđrêép lúc đó là bí thư Ban chấp hành trung ương ) :
Từ xà-lim tối tăm của nhà tù Lêphôrơtôvô, tôi gửi lời cầu cứu các đồng chí. Hi vọng rằng tiếng kêu tuyệt vọng của tôi lọt đến tai các đồng chí và các đồng chí sẽ không bịt tai trước lời kêu ấy ; hãy che chở cho tôi. Xin các đồng chí giúp tôi chấm dứt cơn ác mộng của các vụ lấy cung và chỉ ra rằng tất cả những điều này đều sai lầm.
Tôi hoàn toàn vô tội. Xin các đồng chí hãy tin ở tôi. Thời gian sẽ minh chứng cho tôi. Tôi không phải là một kẻ khiêu khích thuộc tổ chức Okhrana(9) của Nga hoàng ; không phải gián điệp ; không phải là thành viên của một tổ chức chống lại nhà nước xô-viết nào cả, như người ta buộc tội tôi qua những lời tố cáo. Tôi là một người bônsêvích cựu trào và trong sạch. Suốt gần bốn chục năm liên tục, tôi đã tranh đấu trung thành trong hàng ngũ đảng cho sự phồn vinh và thịnh vượng của đất nước.
Hôm nay, tôi - một ông già 62 tuổi - đang bị các nhân viên điều tra đe dọa bằng những phương pháp nhục hình ngày càng tàn ác hơn, tàn nhẫn hơn và nhục nhã hơn. Họ - tức là những nhân viên điều tra - không đủ khả năng nhìn nhận sai lầm của mình và công nhận những hành động trái pháp luật và không được phép mà họ đã áp dụng trung trường hợp tôi. Họ cố biện minh những việc làm của mình bằng cách coi tôi như một kẻ thù ngoan cố và tàn bạo, và đòi hỏi những biện pháp tra tấn mới - ác liệt hơn - đối với tôi. Nhưng đảng cần biết tôi là người vô tội và không thế lực nào có thể biến một đứa con trung thực thành kẻ thù của đảng, dầu nó đang thở những hơi cuối cùng. Ðối với tôi, không còn đường ra. Tôi không thể chống cự được những đòn - mới và mạnh hơn - đang đe dọa tôi.
Nhưng mọi thứ đều có giới hạn của nó. Tôi đã bị tra tấn tột độ. Sức khỏe tôi đã suy sụp. Sức lực và nhiệt huyết của tôi đang kiệt quệ, đời tôi sắp tàn.
Chết trong nhà ngục của Liên Xô, bị mang theo cái nhãn hiệu "kẻ phản bội tổ quốc" - thử hỏi còn gì kinh khủng hơn đối với một con người trung thực ? Mọi điều này mới đáng sợ làm sao ! Nỗi đau và niềm cay đắng vô bờ bến ngập tràn trái tim tôi. Không ! Không ! Không thể như thế được ! Không thể được ! - tôi phải thét lên. Ðảng, chính phủ Liên Xô và đồng chí Dân ủy Bêrya không thể để xảy ra một sự bất công ác độc và không thể bù đắp như thế này được ! Và tôi tin tưởng sắt đá rằng nếu trường hợp của tôi được xem xét từ tốn, khách quan, minh bạch và nếu không có những lời xỉ vả thô bạo, những tràng gào rống cuồng nộ và những vụ tra tấn ghê sợ, có thể chứng minh một cách dễ dàng tính vô căn cứ trong những lời buộc tội tôi. Tôi tin tưởng sâu sắc là công lý và bộ máy tư pháp sẽ chiến thắng. Tôi tin tưởng như thế. Tôi tin tưởng như thế.
Chiến sĩ bônsêvích lão thành, đồng chí Kêđrốp, đã được Tòa án Quân sự công nhận là vô tội. Dầu vậy, đồng chí vẫn bị hành quyết theo lệnh của Bêrya. (Phòng họp công phẫn).
Bêrya còn thanh trừng tàn nhẫn với gia đình đồng chí Óocgiônikítdê. Vì sao ? Vì đồng chí Óocgiônikítdê đã muốn ngăn cản, không cho Bêrya thi hành những ý đồ đê tiện của hắn, Bêrya đã gạt bỏ tất cả những ai có thể là trở ngại trên con đường của hắn. Ðồng chí Óocgiônikítdê luôn luôn là địch thủ của Bêrya và đồng chí cũng nói thẳng điều ấy với Stalin. Nhưng, đáng lý phải khảo sát vụ này và thực hiện những biện pháp cần thiết thì Stalin lại để cho người em của đồng chí Óocgiônikítdê bị thủ tiêu và đưa đồng chí Óocgiônikítdê vào một trạng thái khiến đồng chí đành phải tự vẫn.(10) (Cả phòng họp phẫn nộ)
Bêrya là con người như thế đó.
Bêrya đã bị Trung ương đảng vạch mặt sau khi Stalin chết. Sau khi thẩm xét kỹ lưỡng mọi hành vi của Bêrya, tòa án nhận định hắn đã phạm nhiều tội ác tàn bạo. Do đó, Bêrya đã bị xử bắn.
Vấn đề đặt ra là làm sao trong lúc sinh thời Stalin, Bêrya không bị vạch mặt dù khi ấy, y đã thủ tiêu hàng vạn cán bộ cao cấp của đảng và xô-viết ? Sở dĩ Bêrya không bị lột mặt nạ sớm vì hắn đã biết lợi dụng rất khéo léo những nhược điểm của Stalin : khêu gợi sự ngờ vực, tính đa nghi của Stalin, Bêrya đã phục vụ Stalin trong mọi việc và đã hành động với sự ủng hộ của Stalin.(11)

(1) Lavrenti P. Bêrya (1899-1953) : tay chân đắc lực của Stalin trong các vụ thanh trừng thập niên 30. Giữa lúc lên án những phương pháp tố cáo bịa đặt của Stalin, Khrushốp cũng dùng những biện pháp này đối với Bêrya : tố giác Bêrya là "tay sai của các tổ chức gián điệp ngoại bang". Sự thật, Bêrya là một tên quan liêu, xuất thân từ giai cấp công nhân như Khrushốp. Là đảng viên từ năm 1920, thành viên (O.) G.P.U. năm 1922, ủy viên Ban chấp hành Trung ương năm 1934 cùng một lượt với Khrushốp và Bunganin, Dân ủy Nội vụ từ cuối năm 1938, ủy viên Bộ Chính trị từ năm 1939, nguyên soái công an Liên Xô, phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng Chính phủ. Bêrya là một trong ba ủy viên Bộ Chính trị được đọc điếu văn trong đám tang Stalin. Bị bắt và tử hình sau khi Stalin chết.
(2) Chẳng những Bêrya đã "dẫm lên không biết bao nhiêu xác chết để leo ngày một cao lên các bậc thang chính quyền", những kẻ khác cũng có hành vi tương tự, chẳng hạn Kaganôvích và Mikôian đã "dẫm lên xác chết" của Dinôviép và Kamênép ở Bộ Chính trị. Và chính nhờ việc Stalin thủ tiêu các cựu đồng chí của Lênin mà Khrushốp được đề cử làm bí thư Ban chấp hành Trung ương đảng bộ Ukraina, thay thế Kốtsiô bị xử bắn.
(3) G.N. Kaminsky (1895-1938) : gia nhập đảng năm 1913, ủy viên Ban chấp hành Trung ương năm 1930, Dân ủy Bộ Y tế. Bị bắt và bị tử hình năm 1938.
(4) Phong trào quốc gia thân Thổ Nhĩ Kỳ ở vùng Aderbaigian. Chống lại cách mạng tháng Mười năm 1917, bị đè bẹp năm 1920.
(5) Alếchsanđrơ Snegốp : đảng viên từ năm 1917, chủ tịch Ban Tổ chức đảng miền Trans-Kápkadơ năm 1931.
(6) Lavrentiép Cácvelichơvili (1891-1938) : gia nhập đảng từ năm 1910, ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương năm 1930, chủ tịch Hội đồng Dân ủy vùng Grudya thời kỳ 1927-1929, bí thư thứ nhất đảng ủy vùng Trans-Kápkadơ..
(7) Mikhain S. Kêđrốp (1878-1940) : gia nhập đảng từ năm 1901. Ðược Lênin giao nhiệm vụ xuất bản cuốn Trong mười hai năm, thâu tóm các văn kiện của Lênin. Thành viên cao cấp của cơ quan Chêka thời kỳ 1918-1924. Biệt tích trong một thời gian dài. Sau khi Bêrya bị xử án, người ta mới được biết Kêđrốp đã bị hành quyết năm 1940.
(8) Anđrây Anđrêiép (1895-1971) : ủy viên Ban chấp hành Trung ương từ năm 1920, ủy viên Bộ Chính trị từ năm 1932.
(9) Bộ phận do thám chính trị của cơ quan mật vụ Nga hoàng trong thời kỳ 1880-1917.
(10) Grêgôri Óocgiônikítdê (1886-1937) : biệt hiệu là Sécgô, cùng quê (miền Grudya) và là bạn thân của Stalin, từng cộng tác với Stalin trong việc thanh trừng tàn nhẫn đảng bộ Grudya, khiến Lênin phải lên tiếng phê phán nghiêm khắc. Trong thư viết cho Ban chấp hành Trung ương ngày 31-12-1922, Lênin nói :
Phải trừng phạt đồng chí Óocgiônikítdê để làm gương.... Về mặt chính trị, dĩ nhiên phải coi Stalin và Gierginsky là những người chịu trách nhiệm trong chiến dịch tuyên truyền chủ nghĩa quốc gia - Ðại Nga.
Óocgiônikítdê đã tiếp tay cho Stalin trong việc thủ tiêu các cựu đồng chí của Lênin. Ðược cử vào Bộ Chính trị cùng lượt với Kaganôvích và Mikôian. Óocgiônikítdê "tự vẫn" sau khi người bạn thân - Piatakốp - bị bắt. Nhiều sử gia cho là bị ám sát.
(11) Ở đây, Khrushốp có phần biện hộ cho Stalin, đổ tội lỗi cho Bêrya. Kỳ thực, Bêrya - cũng như Yagôđa và Êgiốp - chỉ là thủ hạ trung thành của Stalin và thực hiện mọi nhiệm vụ do Stalin giao phó. Thành thử, không thể có chuyện "vạch mặt" Bêrya lúc "sinh thời Stalin", trừ phi Stalin muốn điều đó.
Ðoạn 13 : Tóm lược tiểu sử
 (LÊN MẠNG THỨ SÁU 22 THÁNG SÁU 2001)
Thưa các đồng chí,
Tệ sùng bái cá nhân sở dĩ đạt đến mức độ khốc hại là vì chính bản thân Stalin đã dùng mọi phương pháp để thúc đẩy sự tán dương cá nhân mình. Ðiều này đã được vô số sự kiện chứng minh. Một trong những thí dụ tiêu biểu nhất của sự tôn thờ bản thân và sự thiếu khiêm tốn ở mức cơ bản của Stalin là cuốn Tóm lược tiểu sử Stalin ấn hành vào năm 1948.(1)
Cuốn sách này là thứ xu nịnh ghê tởm nhất, là điển hình cho việc làm thế nào để biến một người - Stalin - thành một vị thánh sống, một hiền nhân không thể sai lầm, một "lãnh tụ vĩ đại nhất", một "chiến lược gia đại tài của mọi thời đại và mọi dân tộc". Cuối cùng, người ta không tìm nổi từ ngữ để tâng bốc Stalin lên tận mây xanh.
Chẳng cần nói dài dòng về sự tôn sùng thần tượng ghê tởm đầy rẫy trong cuốn sách. Chỉ cần nói rằng tất cả những thứ nói trên đã được Stalin chấp thuận và biên tập, thậm chí chính đồng chí ấy còn tự tay bổ sung vào bản in thử của cuốn sách.
Trong cuốn sách ấy, Stalin coi điều gì là mấu chốt ? Ðồng chí ấy có muốn giảm bớt nhiệt tình của những kẻ xu nịnh biên soạn cuốn Tóm lược tiểu sử ấy không ? Hoàn toàn không ! Stalin đã có những nhận xét ở chính các đoạn, mà theo đồng chí ấy, người ta khen ngợi chưa đầy đủ công trạng của mình.
Vài thí dụ sau đây có thể cho ta thấy tính chất của những phần "bổ khuyết" do Stalin tự tay viết :
Sau khi Lênin rời chiến trường, trong cuộc đấu tranh chống bọn nhu nhược và bọn đầu hàng, bọn trốt-kít và bè lũ Dinôviép, bọn Bukharin và bọn Kamênép, đã hình thành vĩnh viễn nhóm hạt nhân lãnh đạo đảng. Bảo vệ ngọn cờ vinh quang của Lênin, nhóm này đã đoàn kết đảng quanh di chúc của Lênin và dẫn dắt nhân dân Liên Xô trên con đường rộng mở của công nghiệp hóa và hợp tác hóa nông nghiệp. Ðồng chí Stalin là người lãnh đạo nhóm hạt nhân ấy, là động lực lãnh đạo đảng và nhà nước.
 
Chính Stalin đã tự mình viết ra những câu trên ! Rồi đồng chí ấy còn chua thêm :
Stalin thực hiện một cách tài tình những nhiệm vụ của người lãnh đạo đảng và dân tộc và được sự ủng hộ toàn diện của nhân dân Liên Xô, tuy thế, đồng chí không hề cho phép mình kiêu ngạo, khoe khoang hay tán tụng cá nhân.
Ðã ở đâu và khi nào, người ta thấy một lãnh tụ tự tán tụng mình như thế chưa ? Thử hỏi điều ấy có xứng đáng với một người lãnh đạo mác-xít - lê-nin-nít hay không ? Không ! Chính Mác và Ăngghen đã cương quyết chống lại việc đó. Lênin cũng luôn luôn lên án nghiêm khắc những hành động như thế.
Trong bản thảo cuốn Tóm lược tiểu sử nói trên, có một câu như sau : "Stalin là Lênin của thời đại ngày nay." Có điều Stalin thấy nhận định ấy còn quá nhẹ, vì vậy đồng chí ấy đã tự tay sửa lại : "Stalin là người kế tục xứng đáng sự nghiệp của Lênin, hoặc - như người ta thường nói trong đảng -, Stalin là Lênin của thời đại ngày nay." Câu nói thật hay, nhưng không phải từ nhân dân mà tự Stalin đã nói ra.
Ta có thể đưa ra nhiều thí dụ do chính tay Stalin viết - nhằm tán dương mình - trong bản thảo cuốn Tóm lược tiểu sử đó. Stalin đặc biệt hào phóng khi tự tặng cho mình những lời khen ngợi về thiên tài quân sự, về tài năng cầm quân, v.v...
Tôi xin kể thêm một đoạn bổ sung do Stalin tự tay chêm vào về thiên tài quân sự của mình :
Ðồng chí Stalin tiếp tục phát triển khoa học quân sự xô-viết, vốn đứng hàng đầu. Ðồng chí Stalin đã thảo ra luận đề về những yếu tố thường xuyên quyết định vận mệnh chiến tranh và hàng loạt học thuyết khác : về sự phòng thủ tích cực và các quy luật của phản công và tấn công, về sự cộng tác giữa các binh chủng quân đội và kỹ thuật quân sự cạnh những điều kiện của chiến tranh đương đại, về vai trò của những đoàn chiến xa và phi cơ trong chiến tranh hiện đại, về vai trò của pháo binh - binh chủng hùng mạnh nhất của quân đội. Trong mỗi giai đoạn khác nhau của cuộc chiến, thiên tài Stalin luôn tìm ra những giải pháp đúng đắn, hoàn toàn căn cứ vào các đặc điểm của tình hình. (Phòng họp xôn xao)
Rồi Stalin tiếp tục :
Nghệ thuật cầm quân của Stalin đã được thể hiện trong phòng thủ cũng như tấn công... Bằng sự sáng suốt anh tài, đồng chí Stalin đã nhận biết và làm thất bại những kế hoạch của địch. Những trận giáp chiến - khi đồng chí Stalin điều khiển quân đội Liên Xô - là những bài học xuất chúng của nghệ thuật quân sự.
Stalin tự tâng bốc bản thân như một lãnh tụ quân sự. Và ai đã làm tất cả những việc này ? Chính Stalin, không phải trên địa vị một thống soái mà như một tác giả kiêm chủ biên, như tác giả chính của cuốn tiểu sử đầy rẫy những lời ca tụng bản thân.
Thưa các đồng chí, những sự thật là như thế. Và tôi phải nói một cách chắc chắn rằng đó là những sự thật đáng hổ thẹn.
Và còn thêm một sự kiện nữa từ cuốn Tóm lược tiểu sử này. Như mọi người đều biết, cuốn Tóm tắt lịch sử đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô đã được một ủy ban của Ban chấp hành trung ương thảo ra.(2)
Một nhóm tác giả đã được lựa chọn để viết cuốn sách này, họ cũng bị tác động của tệ sùng bái cá nhân. Sự kiện này được thể hiện trong đoạn sau đây của bản in thử của cuốn Tóm lược tiểu sử :
Một ủy ban của Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô - dưới sự lãnh đạo và tham gia tích cực nhất của cá nhân đồng chí Stalin - đã soạn thảo cuốn "Tóm tắt lịch sử đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô".
Tuy vậy, nhận định trên vẫn không làm Stalin thỏa mãn. Nó được Stalin bổ sung như sau trong bản in cuối cùng của cuốn sách :
Năm 1938, cuốn "Tóm tắt lịch sử đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô" được phát hành. Cuốn sách do đồng chí Stalin viết(3) và được ủy ban đặc biệt của Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô thông qua.
 
Thử hỏi ta còn có thể nói thêm được điều gì nữa ? (Phòng họp ồn ào)
Như các đồng chí có thể thấy, một sự sửa đổi lạ lùng đã biến một công trình tập thể thành cuốn sách do Stalin viết. Thiết tưởng không cần phải nói là sự sửa đổi này đã diễn ra như thế nào và tại sao.
Muốn hay không, một câu hỏi được đặt ra : nếu quả thực Stalin là tác giả cuốn sách, tại sao phải tán tụng cá nhân Stalin đến thế, tại sao phải biến đổi toàn bộ giai đoạn lịch sử sau cách mạng tháng Mười của đảng cộng sản vinh quang của chúng ta thành sự nghiệp của riêng "thiên tài Stalin" ?
Thử hỏi cuốn sách này có phản ánh một cách đúng đắn những cố gắng của đảng ta trong công cuộc biến đổi xã hội, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, công nhiệp hóa và công cộng hóa đất nước, cũng như những biện pháp khác do đảng chủ trương theo đúng con đường Lênin đã vạch ra ? Cuốn sách này chủ yếu chỉ nói về Stalin, về những bài diễn văn, những bản báo cáo của đồng chí ấy. Không hề có một ngoại lệ, dù nhỏ mọn nhất : mọi sự việc đều gắn liền với tên tuổi Stalin.
Và khi bản thân Stalin tuyên bố chính mình đã viết cuốn Tóm tắt lịch sử đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô, người ta không khỏi ngạc nhiên. Một người mác-xít - lê-nin-nít có thể đề cao cá nhân mình lên tận mây xanh như thế được không ?
Hoặc chúng ta hãy xem xét những Giải thưởng Stalin. (Phòng họp xôn xao)
Ngay cả các Nga hoàng cũng chưa bao giờ lấy tên mình để đặt cho các giải thưởng như thế.
Stalin đã chọn, coi như hay nhất, một bản quốc thiều cho nhà nước Liên Xô, trong /1 không có một câu nào nói đến đảng cộng sản, ngược lại, có một đoạn vô song về Stalin như sau :
Và Stalin dạy dỗ chúng ta trung thành với nhân dân. Ðể trong công việc cũng như trong chiến trận, chúng ta thành người anh hùng.(4)
Trong những vần thơ này của bản quốc thiều, toàn thể sự nghiệp của đảng lê-nin-nít trên các lĩnh vực giáo dục, chỉ đạo và động viên đều thuộc về Stalin. Cố nhiên, điều này sai lạc hẳn với học thuyết Mác-Lênin, là sự coi thường và hạ thấp rõ rệt vai trò của đảng. Tôi xin thông báo với các đồng chí là Ðoàn Chủ tịch Ban chấp hành trung ương đã thông qua một nghị quyết về việc viết lời mới cho bản quốc thiều, phản ánh vai trò của nhân dân và của đảng. (Vỗ tay rầm rộ và kéo dài)
Phải chăng Stalin không hề biết gì về việc người ta đã lấy tên đồng chí ấy đặt cho nhiều nhà máy và thành phố lớn ? Phải chăng Stalin không hề biết gì về việc người ta đã xây đắp trong toàn quốc những tượng đài Stalin - những đài kỷ niệm cho một người còn sống ? Một điều ai cũng biết là chính Stalin - ngày 2-7-1951 - đã ký quyết định của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô về việc xây dựng bức tượng Stalin đồ sộ bên bờ kênh đào Vônga-Ðôn ; ngày 4-9 cũng năm ấy, Stalin hạ lệnh nấu chảy 33 tấn đồng để xây dựng bức tượng kỳ vĩ đó. Ai có dịp đến thăm vùng Stalingrát, chắc chắn đều thấy pho tượng khổng lồ, dù nó được xây đắp ở một nơi không mấy ai qua lại. Những khoản tiền khổng lồ bị tiêu phí trong việc xây dựng đài kỷ niệm này trong khi dân chúng vùng đó - từ hồi chiến tranh - còn sống trong lều tranh vách đất(5). Các đồng chí hãy nghĩ xem, Stalin nói thật hay không khi đồng chí ấy viết trong cuốn tiểu sử của mình :
Ðồng chí không hề cho phép mình kiêu ngạo, khoe khoang hay tán tụng cá nhân mình.(6)
Thêm vào đó, Stalin đã tỏ ra thiếu kính trọng đối với kỷ niệm về Lênin. Không phải tình cờ, mặc dầu quyết nghị về việc xây dựng Cung xô-viết để kỷ niệm đồng chí Vlađimia Ilích đã được thông qua trước đây 30 năm, công trình ấy vẫn không được xây dựng, công việc ngày càng bị trì hoãn và kế hoạch này bị chìm dần vào quên lãng.
Chúng ta không thể không nhắc lại nghị quyết ngày 14-8-1925 của chính phủ Liên Xô về việc thành lập Giải thưởng Lênin cho công tác giáo dục. Quyết định ấy được đăng tải trong báo chí, nhưng đến nay vẫn chưa hề có Giải thưởng Lênin. Việc này cũng cần phải sửa chữa. (Vỗ tay rầm rộ và kéo dài)
Lúc Stalin còn sống, nhờ những phương pháp mà tôi từng nhắc đến - chẳng hạn các sự kiện trích từ cuốn Tóm lược tiểu sử Stalin -, ta thấy hết thảy mọi biến cố đều được trình bày như thể Lênin chỉ đóng vai trò thứ yếu, ngay cả trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười. Trong nhiều phim ảnh và sách vở, Lênin được miêu tả một cách sai lạc sự thật và bị hạ thấp một cách không thể chấp nhận được.(7)
Stalin thích coi bộ phim Năm 1919 bất diệt, trong đó ta thấy Stalin đứng trên bậc chiếc tàu bọc thép(8) và đánh tan quân thù với thanh đoản kiếm của mình. Tốt biết mấy nếu bạn thân của chúng ta, đồng chí Klimen Êphrêmôvích Vôrôshilốp(9) hãy lấy hết can đảm và viết sự thật về Stalin ; dầu sao đồng chí cũng biết thực ra Stalin đã chiến đấu như thế nào ! Ðối với đồng chí, làm việc ấy hơi khó nhưng tốt biết mấy nếu đồng chí vẫn làm. Mọi người - kể cả nhân dân và đảng - sẽ tán thành đồng chí. Cháu chắt đồng chí cũng sẽ biết ơn đồng chí. (Vỗ tay kéo dài) 
Nói đến những sự kiện của cuộc cách mạng tháng Mười và thời nội chiến, người ta tạo ra cảm tưởng dường như Stalin đóng vai trò chính yếu, dường như bất kể lúc nào và ở đâu, Stalin cũng luôn luôn nhắc Lênin phải làm gì và làm bằng cách nào. Thật là một sự mạ lị Lênin. (Vỗ tay kéo dài)
Không xa sự thật là bao nếu tôi nói là các đồng chí có mặt ở đây, ít ai nghe và biết đến Stalin trước năm 1924(10), nhưng mọi người đều biết Lênin. Toàn đảng, toàn dân, từ trẻ em đến các cụ già tóc bạc răng long đều biết Lênin. (Vỗ tay rầm rộ và kéo dài) 
Cần duyệt lại kỹ càng tất cả những điều này để lịch sử, văn học và nghệ thuật phản ánh đúng đắn vai trò của Lênin và những công trình vĩ đại do đảng cộng sản của chúng ta và nhân dân xô-viết đã thực hiện, với tinh thần sáng tạo. (Vỗ tay)

(1) Sự tôn sùng Stalin thực ra khởi đầu từ năm 1929, nhân sinh nhật lần thứ 50 của Stalin. Tất cả các cơ quan ngôn luận, báo chí của đảng thi nhau ca tụng công trạng và thiên tài của Stalin. Trong tờ Prápđa, Óocgiônikítdê (nạn nhân sau này của Stalin) viết :
Ngày hôm nay, toàn thể thế giới nói về Stalin. Sau khi Lênin mất, Stalin sừng sững, cao vời lồng lộng trước chúng ta. Dưới sự lãnh đạo của Người, chúng ta diệt trừ được bọn trốt-kít và bọn tả khuynh.
Bútnốp - một nạn nhân khác sau này của Stalin - cũng viết :
Những văn kiện của Stalin có tác động trau giồi cho học thuyết Mác-Lênin. Nó làm căn bản cho đường lối chính trị của đảng để đi tới thắng lợi.
Trong Ðại hội lần thứ XVII năm 1934, Kirốp tuyên bố :
Stalin là người lãnh đạo ngày nay của hết thảy các dân tộc.
Khrushốp đã không nói tới sự việc rằng cũng chính năm ấy, ông ta đã dùng hai chữ "thiên tài" để ca ngợi bài diễn văn của Stalin.
(2) Cũng như cuốn Tóm lược tiểu sử Stalin, Tóm tắt lịch sử đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô đã được dịch ngay và ấn hành với số lượng lớn trong đa số đảng cộng sản trên thế giới. Ðây là một cuốn sách chứa đầy rẫy những sai lầm hay xuyên tạc lịch sử. Trong Ðại hội lần thứ XX, Mikôian yêu cầu phải viết lại. Nữ sử gia Pankdôtava tố cáo đó là một cuốn sách "ngụy tạo lịch sử". Trước năm 1945, cuốn sách này đã được dịch ra tiếng Việt và đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của các đảng viên đảng cộng sản Việt Nam. (Xin xem cuốn Những chặng đường lịch sử của Võ Nguyên Giáp). Sau Ðại hội lần thứ XX, một tiểu ban gồm 11 nhân viên được cử ra để viết lại cuốn sách. Cuốn sách mới đã sửa lại nhiều điều xuyên tạc. Tuy nhiên, nó vẫn còn nhiều điều sai lầm và bịa đặt. (Xin xem tạp chí Nghiên cứu số 6, tháng 6-1981, bài Ba mươi câu trả lời về cuốn "Lịch sử đảng cộng sản Nga Xô")
(3) Khrushốp quên không nói, không những Stalin đã "biến công trình tập thể thành công trình riêng của mình", mà ông ta còn biến công trình của Lép Trốtsky thành công trình của mình.
Trong cuốn Tóm tắt lịch sử đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô Stalin được coi là người lãnh đạo binh bị bên cạnh Lênin đoạt chính quyền trong cách mạng tháng Mười ! Kỳ thực, đó là Trốtsky.
Về vấn đề biến "công trình tập thể thành công trình riêng của mình" trong phong trào cộng sản xta-lin-nít, có vô số bằng chứng. Thí dụ : cuốn Người Con Của Nhân Dân của Môrixơ Tôrê không phải do Tôrê mà do Giăng Phrêvin viết thay, nhưng ký tên Tôrê. Một nguyên lý thường được áp dụng trong các đảng cộng sản xta-lin-nít là đảng "tạo ra lịch sử", "tạo ra vĩ nhân", mỗi lần đảng nhận thấy lịch sử cần phải viết như thế nào thì "vĩ nhân" cần phải được trình bày sao cho hợp với đường lối của đảng.
(4) Ở đây, Khrushốp vô tình chỉ trích một thói tục của hầu hết các đảng cộng sản khi họ đã lên nắm quyền ở một nước. Ấy là thói tục ca ngợi lãnh tụ tối cao của đảng một cách vô lối bằng những bài hát, thơ ca...
(5) Ở đây, Khrushốp vô tình chống lại hành động của nhiều đảng cộng sản, trong lúc nhân dân đói khổ "ở trong những lều lá", đảng đã xây dắp tượng đồng hoặc những lăng tẩm đồ sộ, tốn kém để sùng bái các lãnh tụ.
(6) Stalin đã khai trương trong phong trào cộng sản một thứ nghệ thuật lừa dối trong việc tuyên truyền. Ðặc biệt hơn nữa là về phương diện chính trị : phong trào cộng sản xta-lin-nít thường nói một đàng là một nẻo. Sau đó, họ phô bày như một nghệ thuật để chứng tỏ đường lối của họ lúc nào cũng đúng.
(7) Khrushốp quên không nói việc Stalin đã trá mạo các tranh ảnh thời kỳ cách mạng tháng Mười bằng cách đặt mình ngồi hoặc đứng cạnh Lênin, thay chỗ những đồng chí khác.
(8) Thực ra, chiếc tàu hỏa bọc thép lừng danh này là của Trốtsky : thời nội chiến, ông đi khắp chiến trường, tổ chức và lãnh đạo Hồng quân (do ông thành lập) trên chiếc xe lửa đó !
(9) Klimen Ê. Vôrôshilốp (1881-1969) : ủy viên Ban chấp hành Trung ương năm 1921, ủy viên Bộ Chính trị năm 1926, Dân ủy Quốc phòng từ năm 1925, nguyên soái Hồng quân năm 1935, chủ tịch xô-viết tối cao thời kỳ 1933-1960. Một trong những người tán dương Stalin nhiều nhất. Trong cuốn Stalin và quân đội xô-viết, Vôrôshilốp đã đề cao Stalin đến nỗi coi ông ta là người duy nhất lãnh đạo Hồng quân trong cách mạng 1917 (một điều hoàn toàn sai sự thật) cho tới năm 1945. Vôrôshilốp kết luận :
Chúng ta có thể nói khoa học quân sự ngày nay là khoa học quân sự Stalin.
(10) Trong cuốn Stalin, Lép Trốtsky đã đề cập tới vấn đề này và bác bỏ mọi tuyên truyền dối trá về vai trò Stalin trong cuộc cách mạng tháng Mười.
Ðoạn 14 (hết) : Sùng bái cá nhân và những tổn thất do nó gây ra
 (LÊN MẠNG THỨ HAI 25 THÁNG SÁU 2001)
Thưa các đồng chí,
Sự sùng bái cá nhân đã dẫn đến việc sử dụng những nguyên tắc sai lầm trong công tác đảng và sinh hoạt kinh tế. Nó đã đem lại những hậu quả như xâm phạm nặng nề dân chủ trong nội bộ đảng và xô-viết, tạo ra tổ chức hành chính tê liệt, dẫn đến những đường lối lệch lạc đủ thứ : che giấu thiếu sót, tô son điểm phấn sự thật. Trong dân chúng, có đầy rẫy những kẻ nịnh hót, bợ đỡ, chuyên nghề lừa phỉnh và đánh lạc hướng.
Nhưng cũng không nên quên là vì vô số cán bộ lãnh đạo đảng, nhà nước và lãnh đạo kinh tế bị bắt, nhiều đảng viên dè dặt trong công việc, trở nên quá thận trọng trong lời nói và việc làm, sợ mọi thứ đổi mới. Họ sợ ngay cả cái bóng của mình và kém hẳn sáng kiến trong công tác.
Chẳng hạn, hãy xem xét những nghị quyết của đảng và của xô-viết. Chúng được thảo ra theo khuôn mẫu nhất định, nhiều khi hoàn toàn không đếm xỉa gì đến tình hình cụ thể. Và mọi sự đến nỗi là ngay cả trong những cuộc hội thảo nhỏ, các cán bộ đảng cũng đọc những bài diễn văn viết sẵn. Tất cả những điều này đem lại hiểm họa : công tác đảng và xô-viết trở nên hình thức, toàn thể bộ máy tổ chức bị quan chế hóa.
Cách thức lãnh đạo nông nghiệp của Stalin chứng tỏ đồng chí ấy không có ý quan sát thực tế và thiếu hiểu biết hoàn cảnh thực tại của đất nước đến mực nào.
Những ai đã chú ý - dầu chỉ một chút - những điều diễn ra trên đất nước, đều thấy hiện trạng rất khó khăn của nền nông nghiệp chúng ta. Nhưng Stalin chẳng bao giờ để tâm đến chuyện này. Chúng tôi có nói với Stalin về vấn đề này không ? Có, nhưng không được đáp ứng. Vì sao ? Bởi Stalin chẳng bao giờ chịu đi thăm các nơi, chẳng bao giờ gặp gỡ công nhân và nông dân nông trang tập thể. Stalin chẳng hiểu gì về thực trạng ở nông thôn.
Stalin chỉ biết đất nước và nền nông nghiệp qua phim ảnh. Nhưng những bộ phim này đã tô điểm sự thật trong địa hạt nông nghiệp. Thậm chí, nhiều bộ phim còn miêu tả đời sống các nông trang tập thể dường như thịt gà thịt ngỗng đầy rẫy trên các bàn ăn sắp làm chân bàn đổ sụp. Hẳn Stalin tin là điều này cũng diễn ra trong thực tế.
Lênin quan sát thực tế đời sống một cách hoàn toàn khác : đồng chí luôn gần gũi nhân dân, đón tiếp các phái đoàn nông dân và thường xuyên phát biểu ở các buổi họp trong các nhà máy, xí nghiệp. Lênin cũng đích thân đi thăm các làng mạc và chuyện trò với nông dân.
Ngược lại, Stalin xa rời nhân dân và chẳng đi thăm viếng nơi nào cả. Sự kiện này kéo dài hàng mấy chục năm. Stalin đi thăm nông thôn lần cuối cùng vào tháng 1-1928, nhân dịp đồng chí ấy đến Sibia giải quyết vấn đề ngũ cốc. Như thế, làm sao Stalin có thể hiểu biết hiện trạng ở các tỉnh ?
Trong một cuộc thảo luận, chúng tôi báo cáo với Stalin về tình hình khó khăn ở các làng mạc, đặc biệt là việc chăn nuôi gia súc và sản xuất thịt rất tồi. Một ủy ban được thành lập với nhiệm vụ thảo ra dự án nghị quyết Những biện pháp cần được áp dụng để phát triển mức chăn nuôi gia súc ở các nông trang tập thể(1) và nông trường quốc doanh(2). Chúng tôi đã thảo ra dự án đó.
Tất nhiên, những đề nghị của chúng tôi thời ấy không đề cập đến tất cả mọi khả năng, nhưng chúng tôi cũng đã vạch ra những phương hướng nhằm nâng cao mức chăn nuôi gia súc trong các nông trang tập thể và nông trường quốc doanh. Chúng tôi đề nghị tăng giá các sản phẩm chế biến từ thịt và như thế, khiến những nông trang viên, những công nhân các trạm máy cày và những người lao động trong nông trường quốc doanh có liên quan về mặt vật chất với công việc. Nhưng dự án của chúng tôi không được chấp thuận và bị bác bỏ hoàn toàn vào hồi tháng 2-1953.
Thậm chí, trong khi bàn bạc dự án của chúng tôi, Stalin còn đề nghị tăng thuế của các nông trang tập thể và của các nông trang viên lên 40 tỉ rúp ; đồng chí ấy cho rằng tầng lớp nông dân sống quá thoải mái và một nông trang viên chỉ cần bán một con gà là đủ trả số tiền thuế của anh ta.
Chúng ta thử nghĩ như thế là sao ? Bốn mươi tỉ rúp, số tiền lớn như thế, các nông trang viên - dù bán tất cả sản phẩm của mình cho nhà nước - cũng chẳng đào đâu ra được. Vào năm 1952 chẳng hạn, các nông trang tập thể và người lao động ở đây chỉ thu được 26 tỉ 280 triệu rúp sau khi đã cung cấp hoặc bán hết thảy sản phẩm của mình cho nhà nước.
Thử hỏi khi đưa ra ý kiến này, Stalin có dựa trên những số liệu cụ thể nào không ? Dĩ nhiên là không.
Trong những trường hợp như thế, Stalin không cần chú trọng đến những sự kiện và con số. Một khi Stalin đã nói một điều gì, điều đó phải là như thế, bởi lẽ Stalin là bậc "thiên tài" và một thiên tài không cần tính toán, chỉ liếc mắt nhìn qua là đã có thể luận ra cách giải quyết mọi việc. Khi Stalin đưa ra một ý kiến, ai nấy đều phải lặp lại và tâng bốc sự sáng suốt của đồng chí ấy. Nhưng thử hỏi Stalin có sáng suốt chút nào khi đề xuất việc tăng thuế nông nghiệp lên 40 tỉ rúp ? Không, hoàn toàn không có chút sáng suốt nào, bởi đề nghị ấy không căn cứ ở sự đánh giá và cân nhắc hiện trạng thực tế mà chỉ là ý định hão huyền của một kẻ xa rời thực tế.
Hiện nay, chúng ta đang dần dần thoát khỏi tình trạng khó khăn trong nông nghiệp. Diễn văn của các đại biểu trong Ðại hội lần thứ XX này làm tất cả chúng ta lạc quan ; chúng ta vui mừng khi thấy nhiều có đại biểu phát biểu, chúng ta vui mừng vì thấy đã có các điều kiện để chỉ trong vòng hai hay ba năm hoàn thành kế hoạch năm năm lần thứ sáu của ngành chăn nuôi gia súc. Chúng tôi tin chắc những nhiệm vụ của kế hoạch năm năm mới sẽ được thực hiện với kết quả tốt. (Vỗ tay kéo dài)
Thưa các đồng chí,
Nếu hôm nay chúng ta phê phán nghiêm khắc tệ sùng bái cá nhân đã lan tràn mọi nơi khi Stalin còn sống, nếu hôm nay chúng ta vạch ra nhiều hiện tượng tiêu cực xuất phát từ tệ sùng bái cá nhân - vốn xa lạ với tinh thần học thuyết Mác-Lênin -, một vài người có thể đặt câu hỏi : vì sao điều này có thể xảy ra ?
Stalin đứng đầu đảng và đất nước trong suốt ba mươi năm và đã đạt được nhiều thắng lợi trong đời. Chúng ta có thể phủ nhận được điều đó không ?
Tôi tin rằng chỉ những người bị tệ sùng bái cá nhân làm mù quáng và chi phối đến mức vô vọng, chỉ những người không hiểu bản chất cuộc cách mạng và nhà nước xô-viết, không biết nắm bắt vai trò của đảng và nhân dân theo quan niệm lê-nin-nít trong quá trình phát triển của xã hội, mới đặt câu hỏi như thế.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân và nông dân nghèo thực hiện, với sự ủng hộ của một bộ phận trung nông. Chiến thắng này do nhân dân giành được dưới sự lãnh đạo của đảng bônsêvích. Công lao của Lênin nằm ở chỗ đồng chí đã thành lập một đảng chiến đấu của giai cấp công nhân ; Lênin đã nắm vững các quy luật phát triển xã hội theo quan điểm mác-xít và khoa học dẫn dắt giai cấp vô sản đến thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản ; đồng chí đã tôi luyện đảng trong lò lửa chiến đấu cách mạng của quần chúng nhân dân. Trong cuộc đấu tranh này, đảng đã luôn luôn bảo vệ các quyền lợi của nhân dân, đã trở thành người lãnh đạo giàu kinh nghiệm của nhân dân và đã đưa quần chúng lao động lên chính quyền, dẫn dắt họ thiết lập nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên.
Các đồng chí chắc hẳn còn nhớ nhận định sáng suốt của Lênin. Lênin nói :
Sức mạnh của nhà nước xô-viết tiềm ẩn trong sự giác ngộ của quần chúng nhân dân, rằng lịch sử là do hàng triệu, hàng chục triệu con người làm ra.
Chúng ta đã đạt được những chiến thắng lịch sử nhờ công tác tổ chức của đảng, của những tổ chức địa phương và sự hy sinh quên mình của nhân dân vĩ đại. Những chiến thắng ấy là kết quả sự cố gắng vô biên và công tác của toàn thể nhân dân và đảng, và tuyệt nhiên không phải thành quả lãnh đạo của Stalin như người ta từng khẳng định trong thời kỳ sùng bái cá nhân.
Nếu chúng ta nghiên cứu vấn đề này như những người mác-xít - lê-nin-nít, phải tuyên bố một cách không úp mở : hệ thống lãnh đạo được áp dụng trong những năm cuối đời Stalin đã thành một trở ngại nghiêm trọng trên con đường phát triển của xã hội Liên Xô.
Nhiều khi, Stalin thường trì hoãn trong nhiều tháng những vấn đề rất quan trọng - đáng ra phải giải quyết cấp thời - liên quan đến sinh hoạt của đảng và nhà nước. Trong thời kỳ Stalin lãnh đạo, những mối quan hệ hòa bình giữa nước ta và các dân tộc khác lắm lúc bị đe dọa bởi quyết định của một cá nhân độc nhất có thể gây ra (và đã hay gây ra) nhiều phiền phức lớn.
Trong những năm gần đây, khi chúng ta thoát khỏi những thực tế tai hại của tệ sùng bái cá nhân và khi chúng ta áp dụng nhiều biện pháp thích ứng trên lĩnh vực đối nội và đối ngoại, mọi người đều có thể thấy : sự tích cực và các sáng kiến của đông đảo quần chúng lao động tăng tiến và phát triển như thế nào ở mọi nơi. Tất cả những điều này đã có ảnh hưởng tốt đến sự phát triển kinh tế và văn hóa. (Vỗ tay)
Một vài đồng chí có thể đặt câu hỏi : "Thử hỏi các ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương lúc đó ở đâu ? Sao không thấy các đồng chí ấy lên tiếng kịp thời chống tệ sùng bái cá nhân ? Tại sao điều này đến giờ mới diễn ra ?"
Trước hết, cần phải chú ý tới một hoàn cảnh : các ủy viên Bộ Chính trị nhìn nhận những vấn đề này một cách khác nhau trong các thời kỳ khác nhau. Thoạt đầu, nhiều người trong số họ ủng hộ tích cực Stalin vì đồng chí ấy là một trong những nhà mác-xít đáng kể nhất và lý luận, sức mạnh và nghị lực của Stalin có ảnh hưởng lớn đến các cán bộ đảng và công tác đảng.
Ai cũng biết sau khi Lênin mất, đặc biệt vào thời kỳ đầu, Stalin đã đấu tranh tích cực bảo vệ học thuyết lê-nin-nít, chống lại kẻ thù và những người rời bỏ học thuyết này. Xuất phát từ chủ nghĩa Lênin, đảng ta - đứng đầu là Ban chấp hành trung ương - đã triển khai sự nghiệp vĩ đại nhằm công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa đất nước, tập thể hóa nền nông nghiệp và thực hiện cuộc cách mạng văn hóa. Hồi đó, Stalin rất được lòng dân, được quần chúng cảm tình và ủng hộ. Ðảng đã phải đấu tranh chống những kẻ muốn đưa xứ sở chúng ta khỏi đường lối lê-nin-nít ; đảng đã phải đấu tranh chống bè lũ trốt-kít, Dinôviép, bọn hữu khuynh và lũ quốc gia tư sản. Cuộc đấu tranh này là cần thiết. Nhưng về sau Stalin ngày càng ỷ vào quyền hành của mình, mở cuộc tấn công những lãnh tụ uy tín của đảng, chính phủ và sử dụng những phương pháp khủng bố chống lại những công dân xô-viết trung thực. Như chúng ta đã thấy, Stalin đã áp dụng những biện pháp như thế với những lãnh đạo xuất sắc của đảng và chính phủ, như các đồng chí Kốtsiô, Rútdutác, Âykhê, Pôstưshép và nhiều người khác.(3)
Nếu ai đó thử phản đối những nghi hoặc và buộc tội hoàn toàn vô cơ sở, người ấy sẽ là nạn nhân của những cuộc đàn áp khủng bố. Trường hợp của đồng chí Pôstưshép rất đặc trưng về phương diện đó.
Trong một bài phát biểu, Stalin lên tiếng chỉ trích Pôstưshép - vì đồng chí này tỏ vẻ bất bình - và đặt câu hỏi cho đồng chí Pôstưshép : "Anh thử nói xem, thật ra anh là ai ?" Ðồng chí Pôstưshép cứng rắn đáp : "Là người bônsêvích, thưa đồng chí Stalin, tôi là người bônsêvích".
Lời nói quả quyết này, thoạt đầu được coi là thiếu lễ độ đối với Stalin ; sau đó trở thành hành động phá hoại và cuối cùng dẫn đến kết quả Pôstưshép bị xử tử. Ðồng chí bị buộc tội một cách vô cớ là "kẻ thù của nhân dân".
Hồi ấy, tôi thường đàm luận về hiện trạng thực tế với Nikôlai Alếchsanđrôvích Bunganin ; một bận, khi hai chúng tôi cùng đi đâu đó bằng xe hơi, đồng chí Bunganin bảo tôi : "Ðôi khi, ai đó được Stalin mời đến gặp mặt như một người bạn. Nhưng lúc đối diện với Stalin, anh ta không biết sau đó mình sẽ đi đâu : về nhà mình hay vào nhà tù."
Dễ hiểu là trong những hoàn cảnh như thế, các ủy viên Bộ Chính trị ở trong tình thế rất khó khăn. Và nếu chúng ta xét đến chuyện trong những năm gần đây, những khóa họp toàn thể Ban chấp hành trung ương không hề được triệu tập và Bộ Chính trị cũng chỉ thỉnh thoảng mới họp, chúng ta có thể hiểu : rất khó cho một thành viên Bộ Chính trị nếu đồng chí ấy lên tiếng chỉ trích một biện pháp bất công hay sai trái nào đó, hoặc chống lại những sai lầm và thiếu sót nghiêm trọng trong công tác lãnh đạo.
Cũng như chúng tôi đã nhắc đến, nhiều quyết nghị chỉ do một cá nhân định đoạt, hoặc chỉ được định đoạt gián tiếp, không thông qua thảo luận tập thể. Mọi người đều biết số phận thảm thương của đồng chí Vôdơnêsensky, ủy viên Bộ Chính trị, nạn nhân của nạn khủng bố sta-lin-nít. Việc khai trừ đồng chí Vôdơnêsensky khỏi Bộ Chính trị đã được quyết định gián tiếp, không hề có một cuộc thảo luận nào cả. Quyết định khai trừ các đồng chí Kudơnétsốp và Rôđiônốp cũng được định đoạt theo lối ấy.
Vai trò quan trọng của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương bị thu hẹp và công việc của cơ quan này bị xáo trộn vì ngay trong Bộ Chính trị, người ta đã tạo lập nên đủ thứ ủy ban hẹp hơn với những nhãn hiệu như "Ủy ban năm người", "Ủy ban sáu người", "Ủy ban bảy người" và "Ủy ban chín người". Chẳng hạn, chúng ta thử coi nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 3-10-1946 :
Ðề nghị của đồng chí Stalin :
1. Trong thời gian tới, Ban đối ngoại thuộc Bộ Chính trị ("Ủy ban sáu người") - ngoài vấn đề ngoại giao - sẽ trách nhiệm thêm về những vấn đề dính líu đến xây dựng nội bộ và đối nội.
2. Chỉ định thêm đồng chí Vôdơnêsensky - chủ tịch Ủy ban Kinh tế Kế hoạch Nhà nước - vào "Ủy ban sáu người". Ủy ban này sẽ trở thành "Ủy ban bảy người".
Ký tên : Bí thư Ban chấp hành trung ương. J. Stalin
Thật là thứ ngôn ngữ cờ bạc ! (Tiếng cười trong phòng họp)
Dĩ nhiên, việc tạo lập trong Bộ Chính trị những ủy ban hẹp hơn theo cách đó ("Ủy ban năm người", "Ủy ban sáu người", "Ủy ban bảy người", "Ủy ban chín người") trái với nguyên tắc lãnh đạo tập thể. Hậu quả của việc này là vài ủy viên Bộ Chính trị bị loại khỏi các cuộc thảo luận về những vấn đề quan trọng nhất của đất nước.
Một trong những thành viên kỳ cựu nhất của đảng, đồng chí Vôrôshilốp đã từng rơi vào hoàn cảnh không thể chịu nổi. Trong nhiều năm ròng, đồng chí thực sự mất quyền tham dự các buổi họp của Bộ Chính trị. Stalin đã cấm đồng chí dự các buổi họp và xem xét các tài liệu. Cứ mỗi lần biết Bộ Chính trị sửa soạn hội họp, đồng chí Vôrôshilốp lại gọi điện thoại cho Stalin hỏi xem mình có được phép tham dự hội nghị hay không. Ðôi khi Stalin cho phép, nhưng luôn luôn từ chối.
Do bản tính nghi ngờ quá đỗi, Stalin còn có ý nghĩ phi lý và nực cười rằng đồng chí Vôrôshilốp là gián điệp Anh. (Tiếng cười trong phòng họp)
Thật thế, điệp viên Anh quốc ! Người ta đã đặt ở nhà đồng chí Vôrôshilốp một dụng cụ đặc biệt, có thể ghi âm tất cả các cuộc nói chuyện. (Phẫn nộ trong phòng họp)
Với một quyết định độc đoán, Stalin còn loại thải một đồng chí khác ra ngoài Bộ Chính trị. Ðó là đồng chí Anđrêêvích Anđrêép. Ðây là một trong những biểu hiện độc đoán nhất của sự chuyên quyền.
Tôi còn nhớ hội nghị toàn thể đầu tiên sau Ðại hội lần thứ XIX của Ban chấp hành trung ương. Trong bài phát biểu của mình, Stalin phân tích về Môlôtốp và Mikôian và tỏ ý rằng hai cán bộ kỳ cựu này của đảng ta đã phạm những sai lầm nào đó chưa được chứng tỏ. Không loại trừ khả năng nếu Stalin còn nắm chính quyền thêm vài tháng nữa, có lẽ các đồng chí Môlôtốp và Mikôian không thể đọc tham luận ở Ðại hội hôm nay.
Rõ ràng Stalin đã muốn "thanh toán" tất cả các thành viên cũ của Bộ Chính trị. Stalin thường tuyên bố cần thay thế các ủy viên kỳ cựu của Bộ Chính trị bằng những người mới.
Ðề nghị của Stalin sau Ðại hội lần thứ XIX - về vấn đề Ban chấp hành trung ương lựa chọn một Ðoàn Chủ tịch gồm 25 người - nhằm loại bỏ mọi ủy viên cũ của Bộ Chính trị và thâu nhập vào đó những kẻ kém kinh nghiệm, nhưng sẵn sàng tâng bốc Stalin ở mức độ cao nhất.(4)
Cũng có thể giả thiết rằng Stalin còn chủ định thanh toán các thành viên cũ của Bộ Chính trị và như thế, cố giấu diếm những hành vi đáng hổ thẹn mà hôm nay, chúng ta đang phân tích ở đây.
Thưa các đồng chí,
Ðể những sai lầm của quá khứ khỏi lặp lại, Ban chấp hành trung ương cương quyết tuyên bố chống tệ sùng bái cá nhân. Chúng ta nhận thấy Stalin đã được tán dương một cách quá đáng. Nhưng, trong quá khứ, không thể chối cãi được là Stalin đã có những công trạng lớn đối với đảng, với giai cấp công nhân và phong trào lao động quốc tế.
Vấn đề trở nên phức tạp ở chỗ tất cả những điều chúng ta vừa thảo luận đã xảy ra lúc sinh thời Stalin, dưới sự lãnh đạo và ủng hộ của Stalin ; Stalin tin chắc điều đó là cần thiết cho việc bảo vệ những quyền lợi của giai cấp công nhân trước những mưu mô của kẻ thù và những đợt tấn công đe dọa từ phe đế quốc.
Trong mọi hành động, Stalin tuân thủ lợi ích của giai cấp công nhân, lợi ích của người lao động và của thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chúng ta không thể nói những hành động của Stalin là hành động của một kẻ chuyên quyền điên rồ. Stalin tin chắc đó là việc làm cần thiết cho quyền lợi của đảng, của quần chúng cần lao, để bảo vệ những thành quả của cách mạng. Thảm trạng chính là ở chỗ đó !
Thưa các đồng chí,
Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh : sự khiêm nhường là đức tính không thể thiếu được của một người bônsêvích chân chính. Bản thân Lênin là hiện thân của sự khiêm tốn ở mức cao nhất. Không thể nói là trong mọi phương diện, chúng ta đã noi theo tấm gương này của Lênin. Nhiều thành phố, nhà máy, cơ sở công nghiệp, nông trang tập thể, nông trường quốc doanh, các cơ quan xô-viết và các tổ chức văn hóa dường như - nếu tôi có thể so sánh như thế - là sở hữu cá nhân ; chúng mang tên các lãnh tụ đảng và thành viên chính phủ, mặc dầu những người này vẫn hoàn toàn khỏe mạnh và công tác tích cực. Nhiều người trong số chúng ta đã để người ta lấy tên mình đặt cho các thành phố, các quận huyện, các xí nghiệp và nông trang tập thể. Cần chấn chỉnh lại điều này. (Vỗ tay)
Nhưng chúng ta phải làm việc đó một cách bình tĩnh và từng bước một. Ban chấp hành trung ương sẽ điều tra và thảo luận kỹ càng về vấn đề này để tránh những sai lầm và tổn thất. Tôi còn nhớ ở Ukraina hồi xưa, chúng tôi đã biết tin Kốtsiô bị bắt bằng cách nào. Ðài phát thanh tỉnh Kiép thường mở đầu chương trình bằng những lời như sau : "Ðây là tiếng nói của Kốtsiô". Một bận, chương trình bắt đầu nhưng cái tên Kốtsiô không được nhắc tới, lập tức ai nấy đều hiểu hẳn có chuyện gì đã xảy ra với Kốtsiô, chắc là đồng chí ấy đã bị bắt giam và có lẽ đã bị bắn.
Chính vì thế, nếu hôm nay chúng ta quyết định đổi tên ở mọi nơi, thiên hạ sẽ tưởng những đồng chí - có tên đặt cho các thành phố, xí nghiệp, nông trang tập thể - cũng chịu số phận hiểm nghèo và có lẽ đã bị bắt giữ. (Phòng họp xáo động)
Hiện nay, chúng ta thường đánh giá quyền hành và tầm quan trọng của một người trên cơ sở gí ? Tùy theo số lượng các thành phố, các nhà máy, các nông trang tập thể và nông trang quốc doanh mang tên người đó. Phải chăng đã đến lúc cần loại bỏ những thứ "sở hữu cá nhân" đó và "quốc hữu hóa" lại các nhà máy, các nông trang tập thể và nông trường quốc doanh. (Tiếng cười, tiếng vỗ tay, tiếng hô "Ðúng lắm !")
Ðiều này chỉ có lợi cho sự nghiệp của chúng ta. Bởi tệ sùng bái cá nhân cũng biểu hiện ở đây.
Chúng ta cần phải nghiên cứu thật cẩn trọng vấn đề sùng bái cá nhân. Chúng ta không thể để vấn đề này lọt ra ngoài phạm vi đảng ; nhất là chớ để giới báo chí biết tin này. Vì thế chúng ta bàn bạc ở đây, trong khóa họp kín của Ðại hội. Việc gì cũng có giới hạn của nó. Chúng ta phải biết có thể đi xa tới đâu, không được nối giáo cho giặc, không được giặt áo bẩn trước mắt kẻ thù. Tôi tin rằng các đại biểu Ðại hội sẽ diễn giải và thấu hiểu đúng đắn những đề nghị này của tôi. (Vỗ tay dữ dội)
Thưa các đồng chí,
Chúng ta cần chấm dứt tệ sùng bái cá nhân một cách cương quyết nhất, thật dứt khoát ; chúng ta cần rút ra những kết luận đúng đắn trên phương diện tư tưởng - lý thuyết cũng như công tác thực tiễn.
Nhắm mục tiêu đó, chúng ta cần :
1. Phải bàn bạc và loại trừ tệ sùng bái cá nhân như một hiện tượng xa lạ với học thuyết Mác-Lênin và không thích hợp với những nguyên tắc lãnh đạo đảng và những chuẩn mực của sinh hoạt đảng. Phải nhất quyết đấu tranh chống lại các mưu toan hòng khôi phục thói tục đó dưới hình thức này khác.
Phải lập lại và đưa ra thực hiện - trong toàn bộ công tác tư tưởng - những nguyên lý quan trọng nhất của khoa học mác-xít - lê-nin-nít : coi nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, sáng tạo ra mọi cơ sở vật chất và tinh thần cho nhân loại, coi đảng mác-xít đóng vai trò quyết định trong cuộc đấu tranh cách mạng nhằm biến đổi xã hội, tiến tới thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.
Trong tinh thần đó, chúng ta bắt buộc phải thực hiện một công việc đồ sộ - dưới ánh sáng học thuyết Mác-Lênin - nhằm khảo sát chi tiết và sửa chữa những tư tưởng sai lệch về vấn đề sùng bái cá nhân, rất thịnh hành trong lĩnh vực lịch sử, triết học, kinh tế và các ngành khoa học khác, cũng như trong văn học và nghệ thuật thuật.
Ðặc biệt quan trọng, trong giai đoạn sắp tới, chúng ta phải xuất bản một cuốn sách giáo khoa đứng đắn về lịch sử đảng ta, theo tính khách quan của chủ nghĩa Mác khoa học ; cũng như phải xuất bản một cuốn sách về lịch sử xã hội Liên Xô và một cuốn về những sự kiện thời nội chiến và chiến tranh vệ quốc.
2. Phải tiếp tục công việc do Ban chấp hành trung ương tiến hành trong những năm gần đây một cách thường xuyên và hợp lý. Những đặc điểm của công tác này là :
Áp dụng nghiêm ngặt những nguyên tắc lê-nin-nít về việc lãnh đạo đảng trong mọi cơ sở đảng, từ gốc tới ngọn, nhất là nguyên tắc lãnh đạo tập thể ; áp dụng nghiêm ngặt những quy tắc sinh hoạt đảng (được ghi trong điều lệ tổ chức đảng) và sau cùng, áp dụng hình thức phê và tự phê.
3. Phải lập lại tức khắc những nguyên tắc lê-nin-nít của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa xô-viết, được ghi nhận trong Hiến pháp Liên Xô ; phải tranh đấu chống lại sự độc đoán của một số cá nhân lạm dụng quyền hành. Phải chấn chỉnh ngay những tai họa, xuất phát từ các hành động vi phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong nhiều năm trời do tệ sùng bái cá nhân gây ra.
Thưa các đồng chí,
Ðại hội lần thứ XX của đảng cộng sản Liên Xô, với một sinh lực mới, đã biểu lộ sự thống nhất không gì phá vỡ nổi của đảng, sự gắn bó quanh Ban chấp hành trung ương, đã chứng tỏ quyết tâm thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Bản thân việc chúng ta khảo sát trên mọi phương diện những vấn đề chính của quá trình khắc phục tệ sùng bái cá nhân, vốn xa lạ với học thuyết Mác-Lênin, cũng như vấn đề thanh toán các hậu quả trầm trọng của quan niệm đó, đã chứng tỏ sức mạnh đạo lý và chính trị phi thường của đảng ta. (Vỗ tay kéo dài)
Chúng ta tin chắc rằng đảng ta, dưới ánh sáng những nghị quyết lịch sử của Ðại hội lần thứ XX, sẽ đưa nhân dân Liên Xô đến những thành công mới, đến những thắng lợi mới trên con đường Lênin đã vạch ra cho chúng ta. (Vỗ tay rầm rộ và kéo dài)
Chủ nghĩa Lênin - ngọn cờ bách chiến bách thắng của đảng ta - muôn năm ! (Vỗ tay dồn dập và kéo dài, mỗi lúc một rầm rộ. Mọi người đứng lên hoan hô)

(1) Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, xuất hiện cuối thập niên 20 trong quá trình tập thể hoá ở Liên Xô.
(2) Trang trại sản xuất nông nghiệp thuộc sở hữu và quản lý của nhà nước, xuất hiện trong quá trình tập thể hóa nông nghiệp ở Liên Xô.
(3) Ðoạn này, Khrushốp muốn chứng tỏ sau khi đã thủ tiêu các cựu đồng chí của Lênin, Stalin quay ra tìm cách thanh trừng các bộ hạ của mình. Một "vụ án" đang được xếp đặt để loại trừ những ủy viên Ban chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, trong đó có Khrushốp, Malenkốp, Mikôian, Môlôtốp, v.v... Ðây cũng là một trong những lý do khiến Khrushốp lên tiếng tố cáo Stalin.
(4) Stalin mở rộng Bộ Chính trị thành một thứ Ðoàn Chủ tịch và thành lập trong Ðoàn Chủ tịch đó một Văn phòng thu hẹp, có chức năng như Bộ Chính trị cũ. Môlôtốp và Mikôian bị loại khỏi Văn phòng này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét