Tổng số lượt xem trang

Thứ Tư, 4 tháng 12, 2013

Ngày 05/12/2013 - Bắc Kinh đang làm gì đấy?

TIN LÃNH THỔ

TIN XÃ HỘI

TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ

TIN THẾ GIỚI

VAMC chẳng khác gì… anh ve chai

Trong khi ông Đỗ Mạnh Hùng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội ví Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) chẳng khác gì bác sỹ của trung tâm y tế dự phòng trong thời điểm có dịch bệnh, thì TS. Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia (NFSC) ví Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) chẳng khác gì… anh ve chai. Thậm chí ông Hùng còn cho rằng, việc cứu chữa bệnh của bác sỹ trung tâm y tế dự phòng còn dễ hơn, hiệu quả đạt được từng ngày nếu phòng bệnh, chữa bệnh kịp thời, còn VAMC xử lý nợ xấu chưa biết hiệu quả ra sao do hiện tại định chế tài chính nhà nước này mới chỉ đi gom bệnh nhân vào một chỗ để cách ly chứ chưa tìm ra cách chữa hiệu quả. Cụ thể là VAMC hiện mới chỉ đi mua nợ xấu chứ chưa biết bán nợ thế nào, bán cho ai.
Nhưng với cách so sánh VAMC với… anh ve chai, theo TS. Lê Xuân Nghĩa, việc xử lý khối nợ xấu mua về không thể nóng vội mà cần phải có thời gian.
“Công việc của anh ve chai ban đầu là đi mua tất cả những thứ mà người khác bỏ đi (đồng nát), đem về nhà tiến hành phân ra từng loại, đồng riêng, sắt riêng, giấy riêng… sau đó mới gọi người đến bán chứ không thể bán hổ lốn cả mớ được. VAMC cũng vậy, công việc chính bây giờ là đi mua thứ mà ngân hàng muốn bỏ đi “cho khuất mắt” (nợ xấu), sau đó phân loại nợ rồi mới chào bán”, ông Nghĩa nói.
Nguyên Phó chủ tịch NFSC Lê Xuân Nghĩa cho biết, hiện có nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã tìm hiểu từng món đồng nát của anh ve chai VAMC và sẵn sàng bỏ tiền mua những món đồng nát lớn (nợ xấu) nếu xét thấy hiệu quả.
Trở lại với việc vì sao phải thành lập VAMC, ông Nghĩa cho biết đây là hậu quả tất yếu sau một thời gian phát triển thị trường tài chính quá nóng.
Năm 2006-2007, tổng tài sản của hệ thống ngân hàng mới bằng 60% GDP thì đến năm 2011 đã gấp 2 lần GDP – đứng đầu trong các nước ASEAN và đứng ở mức kỷ lục so với các nước có thu nhập trung bình trên thế giới chứ chưa nói đến nước có thu nhập thấp như Việt Nam.
Tổng tài sản của hệ thống ngân hàng tăng quá mạnh là do tư tư tưởng nóng vội trong việc nâng vốn điều lệ của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần. Cụ thể, trước năm 2007, vốn điều lệ của một ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn chỉ có 70 tỷ đồng, thì vài năm sau phải nâng lên 500 tỷ đồng, 1.000 tỷ đồng và 3.000 tỷ đồng.
Do không có tiền để nâng vốn theo yêu cầu, các ông chủ nhà băng thực hiện chiêu bài “lấy mỡ nó rán nó” bằng cách sử dụng chính tiền gửi của dân làm tiền của mình để góp vào ngân hàng cùng với việc thành lập công ty con để thực hiện các đòn bẩy tài chính, phát hành trái phiếu ảo và biến ngân hàng cổ phần thành ngân hàng cá nhân.
Sự phát triển thần tốc chưa từng có trong lịch sử tài chính nhân loại của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã tạo ra hậu quả khôn lường là khi quy mô vốn tăng lên, áp lực lợi nhuận tăng lên khủng khiếp nên các nhà băng đua nhau mở rộng quy mô cho vay bằng mọi giá, không cần tính tới khoản vay có an toàn hay không; mở rộng chi nhánh, phòng giao dịch không cần biết có hiệu quả hay không.
Và tệ hại hơn nữa là rất nhiều ông chủ nhà băng góp “tiền âm phủ” nhưng đã lũng đoạn nhà băng. Khi ngân hàng đã bị tư nhân hóa thì quản trị rủi, quản trị doanh nghiệp, chuẩn mực an toàn… bị vô hiệu hóa, muốn cho ai vay là quyền của ông chủ.
“Trong giai đoạn 2007-2011, phần lớn vốn trung dài hạn của ngân hàng là cho doanh nghiệp của vợ con, anh em nội ngoại vay của ông chủ nhà băng vay, nhưng khi tiến hành thanh tra, giám sát, ngay cả NFSC và Cơ quan Thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước cũng không thể phát hiện được. Có ngân hàng, NFSC và phát hiện 7.000-8.000 tỷ đồng cho vay không đúng quy định, trong đó chỉ phát hiện ông chủ nhà băng vay 150 tỷ đồng, số còn lại là doanh nghiệp của người thân ông chủ nhà băng vay nhưng rất khó phát hiện vì việc cho vay lòng vòng như vòng xoáy đa cấp. Đây là nguyên nhân dẫn đến nợ xấu và buộc Chính phủ phải nhảy vào xử lý nếu không sẽ có hàng loạt ngân hàng bị sụp đổ hoàn toàn”, ông Nghĩa nói.
Chia sẻ với các chuyên gia kinh tế tham dự Hội thảo Tổ chức kiểm toán quá trình thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế vừa được Kiểm toán Nhà nước và ACCA tổ chức, ông Nghĩa kể, trước thực tế hàng loạt ngân hàng sẽ bị giải thể, phá sản do nợ xấu, nhóm tư vấn chính sách kinh tế cho Thủ tướng Chính phủ đã đệ trình 3 phương án để Thủ tướng lựa chọn.
Thứ nhất là để ngân hàng thương mại và doanh nghiệp tự xử lý. Trong trường hợp này xử lý nợ xấu mất 10 năm đủ thời gian để thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán sụp đổ, tín dụng đóng băng và GDP rơi vào tăng trưởng 0% trong vòng 15-20 năm.
Thứ hai là mạnh tay dùng ngân sách nhà nước, vay tiền từ Quỹ Tiền tệ quốc tế, vay tiền của các định chế tài chính quốc tế và vay cả của dân để xử lý. Thực hện phương án này, xử lý nợ xấu chỉ mất 2 năm, sau đó, thị trường bất động sản, chứng khoán phục hồi, tăng trưởng kinh tế vào khoảng 7-8%/năm. Nhưng áp lực nợ công sẽ tăng cao khủng khiếp và cũng không thể thuyết phục được Quốc hội vì ngân sách không có tiền.
Thứ ba là dùng chính tiền của Ngân hàng Trung ương để xử lý nợ xấu bằng một trong 2 cách là bơm thẳng tiền cho ngân hàng thương mại hoặc thành lập một khâu trung gian hoạt động như một doanh nghiệp nhà nước để xử lý nợ xấu.
“Cuối cùng, mọi người đã biết, Thủ tướng lựa chọn phương án ba. Bởi phương án này không phải bơm tiền ngay cho ngân hàng mà phát hành trái phiếu đặc biệt nên tránh được áp lực về lạm phát và cũng tránh được tình trạng xin – cho như cách bơm thẳng tiền cho ngân hàng thương mại – ông Nghĩa chia xẻ – Hy vọng, trong thời gian ngắn tới, “anh ve chai” VAMC sau khi phân loại nợ sẽ bán được với “giá hời” hơn so với “mớ đồng nát” trị giá 17.300 tỷ đồng (tính đến ngày 15/11/2013) đã mua về.
MẠNH BÔN
THEO BÁO ĐẦU TƯ

Seabank – VƯƠNG QUỐC GIA ĐÌNH TRỊ

Seabank – cái tên ngân hàng được gắn liền với Bà Nguyễn Thị Nga dường như không còn xa lạ với giới tài chính ngân hàng và giới thượng lưu bậc nhất tại Việt Nam. Tuy nhiên, những đồn đoán gần đây về việc cổ đông chiến lược là Tập đoàn tài chính của Pháp Societe Generale “rục rịch” RÚT VỐN, cũng như việc khủng hoảng nhân sự cao cấp tại Seabank không phải không có lý do riêng của nó?
Thông tin báo chí về Seabank và Bà Nga không phải là ít, thế nhưng nó vẫn hấp dẫn quan tâm của dư luận bởi sự tò mò về những con số tài sản “bí ẩn” của người phụ nữ quyền lực giàu có nhất nhì này. Giống như chuyên gia đã giả thuyết nếu tất cả công ty của Bà Nga được niêm yết thì danh sách người giàu trên sàn chứng khoán có thể bị “đảo lộn”. Và cũng chính chuyên gia nổi tiếng Alan Phan từng nhắc đến Bà Nga khi so sánh với ông Phạm Nhật Vượng – “tỷ phú giàu nhất” của Việt Nam khi báo chí nước ngoài công bố.
Hẳn giới ngân hàng vẫn không quên việc “từ bỏ” ghế Chủ tịch để chuyển nhượng lại toàn bộ cổ phiếu cho cổ đông nước ngoài và nhóm cổ đông trong nước mà nhiều người thạo tin khi đó cho rằng là việc “thất thủ” nặng nề của Bà Nga tại ngân hàng Techombank. Tuy nhiên, thời gian đã chứng minh Bà Nga không hề sai lầm. Một “đối thủ” trước đây vẫn thừa nhận: “Chưa chắc gì bây giờ chị ấy muốn quay lại Techombank”. Nói ngược lại, giá trị tài sản và vị thế của Bà Nga tăng lên gấp “chục lần” tại Seabank so với số tiền từ thương vụ chuyển nhượng. Dù không công bố nhưng tại thời điểm đó ai cũng biết rằng Bà Nga đã chuẩn bị phương án cho riêng mình sau khi rời khỏi Techombank với chức danh “bà cố vấn” cho HĐQT của một ngân hàng nông thôn từ Hải Phòng mới dời trụ sở về Hà Nội từ tháng 03/2005. Vị chủ tịch Seabank khi đó là Ông Hoàng Minh Tân và Tổng Giám đốc Lê Văn Chí.
Trong bất kỳ cuộc họp quan trọng nào của Seabank, người ta đều thấy bóng dáng bà cố vấn trên hàng ghế danh dự cho đến thời điểm chín muồi nhậm chức Tân Chủ tịch Seabank là lúc Bà Nga chính thức rời Techombank. Một trang mới bắt đầu mở ra cho thương hiệu Seabank xâm nhập thị trường từ năm 2007. Khác với mười năm trước suýt phá sản tại ngân hàng Châu Á Thái Bình Dương thì Bà Nga lại “như diều gặp gió” với Seabank. Liên tục các năm 2006, 2007, 2008 mạng lưới Seabank phát triển rầm rộ. Tên Seabank liên tục xuất hiện là nhóm ngân hàng dẫn đầu lãi suất huy động cao. Giữa năm 2008, Seabank công bố 03 đối tác chiến lược là Công ty thông tin di động VMS – Mobifone nắm giữ 8%, Tổng công ty Khí Việt Nam – PVGas nắm giữ 2% và đặc biệt cổ động nước ngoài Societe Generale nắm 15%. Vốn điều lệ khi đó của Seabank được tăng liên tục từ 150 tỷ đồng lên các mức và đạt đến 4.068 tỷ đồng tại thời điểm cuối năm 2008. Giới thạo tin cho biết giá trị thương vụ cổ đông ngoại Societe Generale là 130 triệu đô la Mỹ mặc dù thông tin liên quan luôn được giữ kín.
Số lượng cổ đông chiến lược hầu như không thay đổi trong suốt 05 năm qua. Gần đây, Seabank công bố tăng vốn điều lệ 5.466 tỷ đồng. Trừ cổ đông ngoại tăng cổ phần nắm giữ 20%, còn tỷ lệ của Mobifone và PVGas lần lượt giám còn ở mức 6% – 1,5% và dự báo sẽ giảm theo lộ trình thoái vốn bắt buộc tại các tập đoàn nhà nước.
Sự kiện HDBank vừa công bố hoàn tất mua lại 100% Công ty tài chính Việt Societe Generale (SGVF) khiến dư luận đặt câu hỏi: Tại sao không phải là Seabank trong khi Seabank từng tuyên bố “tham vọng” con đường “ngân hàng bán lẻ hàng đầu” mà các chuyên gia Societe Generale dày công tư vấn và xây dựng trong suốt mấy năm qua? Sự thật gì đằng sau mối tình 05 năm?
Hẳn những ai nhạy cảm tính toán thì có thể nhẫm ngay con số tỷ lệ sở hữu 72,5% còn lại thuộc về ai? Khi hỏi mua cổ phiếu Seabank tại thị trường OTC, dân “buôn chứng” chuyên nghiệp đều chung câu trả lời: “Có ở đâu mà mua!!!?”. Câu hỏi dường như cũng là câu trả lời. Một số trường hợp rất hiếm hoi có cổ phiếu Seabank thì lại bắt buộc xác nhận thông qua Công ty đầu tư tài chính công đoàn Dầu khí (PVFI). Điều này trùng khớp với tỷ lệ nhỏ số cổ phiếu Seabank dành ưu đãi cho nhóm nhân viên ngành dầu khí có giới hạn việc chuyển nhượng. Theo Báo cáo thường niên, có nhóm “cổ đông khác” luôn nắm trên 70% tỷ lệ sở hữu. Vậy họ là ai trong khi giả thuyết khá chắc chắn là Seabank rất ít cổ đông cá nhân nhỏ lẻ, kể cả cổ đông lớn là cá nhân?
Không khó khăn khi tìm hiểu các thông tin có liên quan với Seabank. Nổi bật nhất là thông tin về Tập đoàn BRG mà Bà Nguyễn Thị Nga hiện là chủ tịch. Đây là một tập đoàn tư nhân có tiếng trong giới kinh doanh bất động sản, khách sạn, resort, sân golf, siêu thị… Đình đám nhất vẫn là các dự án sân golf Đồng Mô, Đồ Sơn, Sóc Sơn; khách sạn Hilton; siêu thị Intimex…và hàng chục cái tên dự án lớn nhỏ tại Hà Nội và lân cận. Ở đâu, người ta cũng thấy bóng dáng “bà cố vấn” như tại Seabank mười năm trước.
Đơn giản làm phép tính theo quy định của luật : cổ đông lớn là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết thì với tỷ lệ sở hữu còn lại trên 70% thì ít nhất cổ đông khác của Seabank có thể là 14 – 15 công ty trong nhóm Tập đoàn BRG mà Bà Nga đang sở hữu hoặc chia phối. Có thể Bà Nga không đứng tên sở hữu trực tiếp mà là thân cận, thậm chí người hưởng lương như cựu chủ tịch và tổng giám đốc trước đây.
Suy đoán trên hoàn toàn có cơ sở bởi việc cá nhân hoặc công ty sở hữu ít nhất 5% ngân hàng không phải là con số nhỏ. Người sở hữu cũng phải có tầm cỡ ở góc độ tài chính trong khi chưa bao giờ thấy Seabank công bố như các ngân hàng TMCP khác.
Và điều này càng đúng hơn khi hỏi bất kỳ ai từng làm việc cho Seabank thì đều khẳng định mọi quyết định do Madam – danh xưng mà tất cả nhân viên Seabank bắt buộc phải gọi theo đề xuất của Bà Nga. Gần đây, người ta còn nghe thêm danh xưng “Madam nhỏ” – để chỉ con gái Bà Nga là Lê Thu Thủy trước đây là Quyền Tổng Giám đốc, hiện tại là Phó Chủ tịch HĐQT kiêm Phó Tổng Giám đốc Thường trực.
Tìm hiểu về gia thế Bà Nga rất hiếm thông tin, ngoại trừ một số diễn đàn mạng “đồn đoán” bà là con dâu của Tổng Bí Thư Lê Duẫn. Sự thật ra sao thì chưa có thông tin kiểm chứng. Nói về chồng là Ông Lê Hữu Báu – có tên đại diện trong HĐQT, Chủ tịch Công ty chứng khoán Seabank và đại diện tại Techombank. Bà Nga có hai người con: con trai cả là Lê Tuấn Anh và con gái Lê Thu Thủy. Cả hai đều là Phó chủ tịch HĐQT của Seabank. Được biết gần đây, con trai đã không tham gia điều hành mà giao toàn bộ lại cho em gái mới sinh năm 1983, tốt nghiệp tại Mỹ. Mọi người đều có nhận định chung: Madam Thủy là “khuôn mẫu” của Bà Nga từ ngoại hình, tính cách, phong thái, cả lời ăn tiếng nói…Hiện tại, mọi việc lớn nhỏ tại Seabank hầu như phải thông qua Madam Thủy, từ tuyển dụng, đào tạo đến tài chính, nguồn vốn, tín dụng, quản trị, ngoại giao..
Cơ cấu hội đồng quản trị Seabank, ngoại trừ 02 vị chuyên gia nước ngoài đại diện cổ đông ngoại, còn lại hầu như thân cận của Bà Nga. Những cái tên hầu như không được biết đến trong giới tài chính nếu họ thật sự sở hữu lớn số lượng cổ phiếu ngân hàng. Người đáng chú ý là Bà Khúc Thị Quỳnh Lâm – đã từng giữ chức vụ Phó Tổng Giám đốc Seabank nhưng sau đó được cho “hạ cánh” vì liên quan đế “trọng án” của một Phó Tổng Giám đốc khác – mà người này hiện đang bị khởi tố và bỏ trốn.
Chức danh Tổng Giám đốc tại Seabank hầu như không nổi bật nhưng luôn tạo sự tò mò đối với dư luận. Vị Tổng giám đốc lâu nhất có thể kể đến là Ông Lê Văn Chí. Ông này cũng từng chao đảo khi cựu chủ tịch Ngân hàng TMCP Hải Phòng là Bà Phạm Thị Vân Toàn bị khởi tố tiếp tay khách hàng lừa đảo trước khi Bà Nga mua lại và đổi tên Seabank. Đầu năm 2008, những tưởng Ông Chí sẽ được cho về hưu khi Seabank công bố Tân Tổng Giám đốc là Ông Bùi Trung Dũng. Thông tin chưa ráo mực, người ta lại thấy Ông Dũng nghỉ việc và Ông Chí tiếp tục đảm đương cho đến khi “Madam nhỏ” tốt nghiệp trở về từ Mỹ với chức danh chuyển giao là Quyền Tổng Giám đốc.
Đến cuối năm 2012, khi dư luận bức xúc vụ việc Seabank từ chối thanh toán bảo lãnh cho VVF do Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Thị Hương Giang “ký khống” mà vẫn có Giấy ủy quyền của Bà Lê Thu Thủy, thì một lần nữa dư luận lại đặt câu hỏi: “Seabank có đứng ngoài pháp luật?” nhằm ám thị mẹ là Chủ tịch HĐQT, con gái là Tổng Giám đốc của một ngân hàng. Ngay sau đó, một hình ảnh Tổng Giám đốc Seabank mới được thay thế là Ông Đặng Bảo Khánh – từng giữ chức vụ Phó Tổng Giám đốc phụ trách dịch vụ thanh toán. Mặc dù hiện tại vẫn giữ chức vụ Tổng Giám đốc nhưng Ông Khánh không được phân quyền, kể cả tín dụng, ngoại trừ là hình ảnh đại diện phát ngôn theo chỉ định, ký quyết định bổ nhiệm nhân sự đã được phê duyệt, ký thanh toán chi phí hoạt động thường xuyên…. Mọi quyền quyết định tại Seabank do Phó chủ tịch kiêm Phó Tổng Giám đốc Thường trực chỉ đạo.
Khủng hoảng nhân sự cao cấp của Seabank dễ dàng thấy khi hàng loạt sự ra đi của nhân sự cao cấp như: Bà Khúc Thị Quỳnh Lâm “hạ cánh” sau vụ Phó Tổng giám đốc Nguyễn Thị Hương Giang bỏ trốn; Ông Vũ Nhật Lâm “đầu quân” chưa đầy năm đã xin nghỉ việc vì không chịu được áp lực; Phó Tổng Giám đốc và 05 vị Giám đốc Khối là chuyên gia hỗ trợ của Societe Generale vừa mãn nhiệm kỳ về nước; chỉ còn hai Phó Tổng Giám đốc là Ông Lê Quốc Long phụ trách tín dụng và Ông Nguyễn Tuấn Cường phụ trách công nghệ thông tin. Gần đây, Seabank vừa bổ sung một Phó Tổng giám đốc mới phụ trách xử lý nợ. Các vị trí quan trọng khác Kế Toán Trưởng, Trưởng Kiểm soát nội bộ, Giám đốc nhân sự… cũng chia tay Seabank sau nhiều năm làm việc. Hiện tại, lỗ hỏng rất nặng là Seabank thiếu nhân sự cao cấp tại các Khối/Phòng ban. Nguyên nhân được lý giải do quyền lực điều hành tập trung quá nhiều vào cô con gái của Bà Nga.
Mặc dù về danh nghĩa, cổ đông ngoại có quyền phủ quyết theo điều khoản hợp tác nhưng dường như các chuyên gia của Societe Generale đều tỏ ra bất lực trước “bộ máy chuyên chế” của gia đình Bà Nga và các thân cận. Một số chuyên gia còn tỏ ra thái độ bất hợp tác, chỉ đến Seabank nhận nhiệm vụ theo lệnh điều động từ Tập đoàn mẹ để lĩnh lương và nghỉ phép du lịch. Hình ảnh Seabank có sự thay đổi rõ nét trong giai đoạn đầu hợp tác từ hệ thống nhận diện, mô hình giao dịch, sản phẩm bán lẻ…. nhưng các năm tiếp theo hầu như không có sự thay đổi. Nguyên nhân được nhân viên Seabank cho biết: Bà Nga và con gái từ chối hoặc phớt lờ hết các đề xuất của chuyên gia ngoại. Điều này cũng lý giải một phần những đồn đoán gần đây Societe Generale sẽ rút vốn và sự kiện thương hiệu HDFinance xuất hiện trên nền tảng công ty tài chính SGVF!
Khi tìm hiểu thông tin qua các tay săn đầu người chuyên nghiệp, phần lớn các nhân sự cao cấp kinh nghiệm lâu năm trong ngành ngân hàng rất “ngán” khi được chào mời về đầu quân Seabank. Lý do không phải vì lương bổng. Có nhiều vị trí Seabank chào mức lương khá cao. Tuy nhiên, những nhân sự kinh nghiệm có thực lực vẫn ngần ngại nhận lời. Bản thân cái ghế vị trí Giám đốc nhân sự luôn nóng và liên tục thay đổi. Phần lớn do họ tự nguyện nghỉ việc. Khi được hỏi, họ đều không được trao quyền tại Seabank. Mọi việc lớn nhỏ khâu tuyển dụng đều do Bà Thủy phê duyệt. Thị trường lao động đang “truyền tai” là Bà Nga vừa mời được một chuyên gia nhân sự “đã nghỉ hưu” tại Techombank về giữ vị trí Giám đốc nhân sự thứ năm của Seabank với mong muốn cải thiện tình hình khủng hoảng nhân sự hiện tại.
Mặc dù, nội tại còn nhiều khía cạnh đáng tranh cãi, nhưng thời gian đã chứng minh vị thế, tiềm lực tài chính của Bà Nga và Seabank khá vững vàng. Những động thái của Bà Nga cho thấy Ngân Hàng chỉ là đòn bẫy để thực hiện những tham vọng lớn lao thị trường bất động sản, khách sạn, sân golf, những khu đất vàng…. thông qua việc tiếp cận nguồn vốn, ưu tiên cho vay dự án của Tập đoàn BRG và các công ty liên quan. “Ngân hàng bán lẻ” của Seabank chỉ công bố để hợp thức hóa hình ảnh cổ đông ngoại. Điều đó đã gây nên sự chán nản đối với các chuyên gia nước ngoài. Bước đi tiếp theo của Bà Nga sẽ đặt chân vào lĩnh vực viễn thông và dầu khí khi chính sách cổ phần hóa của Nhà nước được mở rộng thông qua các đối tác mà Seabank đang nhắm tới. Vậy với những người có nhiều tiền và hiểu biết tại Việt Nam, liệu có dám đầu tư vào một “vương quốc gia đình trị” như Seabank không? Liệu Societe Generale có dễ dàng chuyển nhượng cho đối tác khác không?
TÁC GIẢ XUÂN DUNG

Bắc Kinh đang làm gì đấy?



Trung Quốc đang làm gì? Đối với những người làm và quan sát chính trị chẳng có một câu hỏi nào quan trọng hơn điều này. Sự khủng hoảng trên Biển Hoa Đông làm câu hỏi này càng thêm rõ ràng hơn nữa, đặc biệt trong lúc những căng thẳng đang nổi lên sau ngày 23/11. Khi Trung Quốc (TQ) tuyên bố Thiết lập một vùng phòng không (VPK) bao gồm những khu vực đang tranh chấp với các nước láng giềng và đòi hỏi bất kỳ máy bay bay qua vùng này nộp kế hoạch bay với Bắc Kinh.
Hoa Kỳ đã cho ngay hai máy bay B52 bay qua khu này mà không báo trước (dù có nói đã có kế hoạch cho chuyến đi này từ lâu) cả Nhật và Hàn Quốc cũng đã phản đối vùng phòng không này.
Để làm sáng tỏ những ý định của TQ quả là khó. Chưa rõ cái vùng phòng không (VPK) là một phần của chiến lược đã được vạch ra kỹ và có được sự ủng hộ một cách rộng rãi (trong bộ máy), hay chỉ là một sáng kiến xuất phát từ quân sự ngày càng có ảnh hướng của TQ. Quá trình vạch ra chính sách ngoại giao của TQ đã từ lâu nổi tiếng là không rõ ràng, nhưng nó sẽ có ích để biết liệu những hành động gần đây của TQ có sự ủng hộ nhiệt tình của Chủ tịch Tập Cận Bình, là một ví dụ.
Nhưng, bất chấp chính sách này bắt nguồn từ đâu, tác giả của nó được coi là rất khiêu khích. Vì thế, có lẽ rủi ro tính trước có thể đặt giả thuyết là được thiết kế để kiểm tra những phản ứng. Trung Quốc chỉ đơn giản là có một đời hỏi như thế? Và nếu không, nó sẽ gây ra một phản ứng như thế nào?
Điều quan trọng là Hoa Kỳ sẽ làm gì? Nhìn vào ngắn hạn, VPK của TQ có vẻ là một sai lầm lớn trong phán đoán. Toàn khu vực đang bất ổn, về phía Hoa Kỳ đang tìm cách để lập lại sự ổn định và chiến lược chắc chắn. Trong những điều kiện như thế này Hoa Kỳ ít có lựa chọn nào ngoài việc gửi một thông điệp sẽ không thể bị đe dọa bởi TQ và sẽ tôn trọng những trách nhiệm đối với liên minh Nhật Bản.
Ở TQ có một số nhà chiến lược rất thông minh và chắc họ đã đoán được phản ứng này của Hoa Kỳ từ trước. Nếu không (tức là nếu TQ có hành vi không được lên kế hoạch kỹ từ trước) thì nó hàm ý một mức độ liều lĩnh táo bạo mà thực sự là đáng sợ, đặc biệt vì môi trường trong khu vực đã quá căng thẳng và vì sự vắng mặt của những cơ chế quản lý khủng hoảng hiệu quả. Nhưng, cách hiểu hào phóng này – mà giả sử VPK là một phần của một kế hoạch lâu dài được thiết kế để đẩy mạnh những quyền lực của TQ – có làm cho chúng ta thoải mái một chút nào không?
Nếu đúng, nó bao hàm một số trong những nhà chiến lược và nhà vạch ra chính sách ở TQ có ảnh hưởng nhất đã bắt tay trên một chiến dịch mà nó sẽ không chỉ mở rộng lãnh thổ, mà là một cách cố ý thử nghiệm sự quyết tâm và chung thủy của (Hoa Kỳ), đối thủ cạnh tranh duy nhất.
Đối với một số nhà quan sát, đặc biệt ở Mỹ, khả năng này sẽ chỉ xác nhận sự mong đợi đã có từ lâu và những lo sợ sâu sắc. Sự gia tăng sức mạnh kinh tế (của TQ), nhiều người tin, chắc chắn sẽ dẫn đến xung đột vì những “thế lực” tăng lên tìm cách thách thức hiện trạng.
Tuy nhiên, cũng có một cách hiểu lịch sử trước đây lạc quan hơn và có vẻ đặc biệt chính đáng. Bất chấp sự căng thẳng hiện nay, rất quan trọng để nhớ đã không có một xung đột nào lớn ở Đông Á từ chiến tranh biên giới ngắn ngủi của TQ và Việt Nam vào những năm 1970s. Chiến tranh giữa các nước ở Đông Á đã không thời trang nữa, cũng như đại đa số trong các khu vực trên thể giới. Sự phát triển kinh tế chưa từng có của vùng Đông Á đã là lý do chính cho niềm vui này. Các nước thực sự có quá nhiều thứ để mất và quá ít cái để đạt được qua xung đột lãnh thổ bành trướng kiểu cũ. (Dù không phải nếu những biên giới là không rõ, tranh chấp, và ở biên đảo)
Câu hỏi lớn nhất đối với TQ là về mức độ của những tác động “thái bình hóa” của sự gia tăng trong mức sống và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Có phải là những lợi ích của thương mại toàn cầu sẽ có ảnh hưởng hơn so với sự mong muốn để điều chỉnh những xúc phạm lịch sử?
Đối với quan hệ của TQ với Nhật Bản, chúng tôi có lý do để lo. Dù có những mức độ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế thật đáng kể, nhưng quan hệ song phương này đã rõ ràng không hoàn toàn thay đổi. Ngược lại, bất chấp việc cả hai nước có những lý do lớn để làm cho quan hệ kinh tế của họ ổn định, một làn sóng chủ nghĩa dân tộc ở hai quốc gia đang đe dọa nó. Đó là lý do tại sao những chính sách đối ngoại thực nghiệm hóa là rất nguy hiểm.
Không chỉ là những sự kiện gần đây có gây thiệt hại khổng lồ đối với danh tiếng của TQ là một cốt lỗi ngày càng cần thiết của sự phát triển kinh tế vùng, mà có nguy cơ gây ra một xung đột thực tế. Chắc chắn, thậm chí những nhà vạch ra chính sách diều hâu của TQ phải có những dự phòng về điều này. Dù nhỏ, nếu bất kỳ xung đột có xảy ra sẽ có những hậu quả khổng lồ, không thể kiểm soát được, và không thể biết trước được. Thậm chí có một xung đột có thể tình cờ được xử lý nhanh chóng, thì những thiệt hại thứ hai về tài sản sẽ gây ra một nền kinh tế toàn câu đang suy yếu và mờ nhạt sẽ rất lớn. Và TQ cũng sẽ chịu ảnh hưởng xấu tương đuơng như các nước khác.
Nguy cơ lớn, tất nhiên, là những tình cảm chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang tăng thêm sự mong muốn để điều chỉnh những xúc phạm lịch sử sẽ vượt qua tầm kiểm soát. Tất cả chúng ta phải hy vọng nếu những chính sách mới của TQ đã là được thiết kế kỹ do những nhà chiến lược của nó họ đã suy ngẫm về khả năng rằng sự “blowback” (gần như là “tự vã vào mặt mình”) cũng có thể có.
Mark Beeson là một giáo sư về Chính Trị Quốc Tế tại TĐH Murdoch, Úc (và người quen của tôi)
Xin biết ý kiến của các bạn!
Trong bối cảnh sự căng thẳng trong vùng đang nổi lên, xin trân trọng chia sẻ một bài đáng đọc của GSTS Mark Beeson do tôi đã dịch (dù thừa nhận chưa chuẩn 100%).
Jonathan London

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét