Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

Ngày 10/11/2013 - Tại Sao Việt Nam … Lại Như Vậy… “Không Giống Ai”

TIN LÃNH THỔ


TIN XÃ HỘI


TIN KINH TẾ

TIN GIÁO DỤC

TIN ĐỜI SỐNG

TIN CÔNG NGHỆ

TIN VĂN HÓA GIẢI TRÍ

TIN THẾ GIỚI

Bão Hải Yến đổi hướng và dự đoán của các chuyên gia quốc tế

Cùng chung dự báo với các chuyên gia khí tượng trong nước, nhiều hãng truyền thông nước ngoài cũng cho rằng, siêu bão Hải Yến sẽ đổi hướng tâm bão từ miền Trung đổ thẳng ra miền Bắc Việt Nam.
Theo Cơ quan khí tượng Nhật Bản, tâm bão ngày 10.11 sẽ rơi vào khoảng 18°00′ (18.0°)N, 107°05′(107.1°) E, tốc độ gió gần tâm bão lên tới 40m/s, tiến thẳng vào vịnh Bắc Bộ và ảnh hưởng tới các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Vùng bão này được dự đoán với xác xuất khoảng 75%.
Cùng nhận định, Trung tâm Không quân và Hải quân Mỹ cũng dự báo bão Hải Yến sẽ đổ bộ vào Việt Nam lúc 12:000 GMT ngày 10.11 (khoảng 7h sáng ngày 11.11 theo giờ Hà Nội), ở vĩ độ 18,1 N , 107,4 E. Đáng lưu ý, khi cơn bão đổ bộ vào đất liền lại vẫn giữ sức gió bền khá lớn khoảng 175km/h (119mph).
Tuy không đánh thẳng vào miền Trung, song theo các chuyên gia cảnh báo, siêu bão Hải Yến vẫn gây ra mưa lớn ở đây. Hãng tin CNN (Mỹ) dự đoán, riêng Đà Nẵng sẽ có mưa lớn kéo dài hơn 1 tuần kể từ tối ngày 9.11 đến ngày 18.11.
Trước đó, tâm bão liên tiếp được các hãng truyền thông trong và ngoài nước dự báo có thể sẽ hướng thẳng vào miền Trung Việt Nam, trực tiếp nhất là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Huế.
Hướng đi của bão Hải Yến theo dự đoán của các đài khí tượng quốc tế:
HAIYAN-HANOI
Siêu bão đổi hướng theo dự báo của Cơ quan khí tượng Nhật Bản

Theo dự đoán của các chuyên gia Mỹ, Hải Yến sẽ hướng ra miền Bắc Việt Nam

Nó sẽ xoáy vào các tỉnh miền Bắc và đi qua Hà Nội

Hãng tin CNN dự báo cơn bão vẫn gây ra mưa lớn ở Đà Nẵng

Hãng BBC cho hay cơn bão sẽ đổ bộ vào Việt Nam vào Chủ nhật



Hướng di chuyển của cơn bão nhìn từ vệ tinh theo Cơ quan khí tượng Nhật Bản



Trước đó, bão Hải Yến được dự báo đi vào miền Trung Việt Nam



THEO ĐẤT VIỆT

Tại Sao Việt Nam … Lại Như Vậy… “Không Giống Ai”

Phải nói là buồn…thật là buồn, khi nghe nói các quầy ăn Viking ( all you can eat ) ở Thái Lan nơi có các đoàn du khách Việt Nam thường đến đã phải ghi chú là…sẽ phạt tiền nếu…“khách lấy quá nhiều mà ăn không hết”, cũng như tại Nhật những nơi có nhiều cư dân Việt thì các siêu thị phải đặt bảng nhắc nhở là nếu…“ăn cắp thì sẽ bị cảnh sát bắt”. Những nơi này người ta có thường gặp các đám người Việt Nam tụ tập ăn nói lôi thôi, nhiều khi tục tắn…rất khó mà dám đến gần để nhìn nhận là đồng bào.
Phải chăng là có phải vì mình đã bị quá “ngoại hóa” chăng.. vì đã xa rời đất nước quá lâu rồi chăng, đến nỗi có cái cảm giác kỳ lạ như vậy. Thật ra, thỉnh thoảng cũng nghe thấy một số người Việt Nam sống ở nước ngoài, hay cả từ trong nước ra nước ngoài, cũng cho biết có cái cảm giác kỳ lạ này. Cái cảm giác không muốn nhìn nhận mình là đồng bào Việt Nam khi nhìn gặp nhau.
Trong khi đó các dân tộc khác thì dù không quen biết nhau trước cũng thường mừng rỡ bắt chuyện hỏi han nhau khi gặp nhau ở nước ngoài, hay ít nhất cũng không phải lánh xa nhau.. Họ sẵn sàng cho biết quốc tịch một cách bình thường và sẵn sàng bắt chuyện hàn huyên với nhau trông rất tâm đầu ý hợp. Trong khi đó, ở người Việt Nam thì chuyện này rất khó có được..
Dù sao đi nữa cũng phải nói là buồn…thật buồn…Có thể là ở mỗi người Việt Nam có những đặc tính quá cá biệt quá đặc thù đến nỗi phải ngại ngùng để tránh đụng chạm khi bắt chuyện hỏi han nhau, nhất là ở nước ngoài, một khi chưa được quen biết nhau trước.
Nhưng một khi có được dịp để tiếp chuyện nhau thì lại thường có lối xưng hô quá nịnh bợ kiểu cách nhiều khi đến phải nực cười. Một anh bạn Việt Nam nói cho biết là một bà Phó Chủ Tịch Nước đến Nhật Bản lại xưng “em” với anh ấy, dù anh này chỉ là một người bình thường hoàn toàn xa lạ. Như vậy không biết khi gặp các cao cấp nước khác các viên chức cao cấp của Việt Nam như bà ấy sẽ xưng hô với họ như thế nào.
Thế nhưng khi đọc báo chí ở Việt Nam thì thấy có nhiều bài viết chê bai các nước Á Phi khác như nào là…Myanmar kém ta 30 năm (?) v.v…Và không thiếu gì bài viết tâng bốc Việt Nam theo kiểu …đại gia này nọ sắm xe khủng hay máy bay riêng, hoa hậu Việt Nam rực rỡ sáng ngời …hay một cầu thủ Việt Nam xứng đáng danh xưng …dù chỉ đến Nhật Bản để đá ở một đội hạng nhì và chỉ lâu lâu mới có dịp đươc vào đá thay thế mà thôi. Vậy mà sao phải “thổi phồng” lên như vậy.
Ở Việt Nam, vì vậy, người ta thường cho tán tụng sùng bái những người có quyền có của…nên đã tạo ra một tình trạng tham quyền tham tiền dù có phải làm những điều gian dối ác đức “không giống ai” mà không phải lo sợ “lương tâm cắn rứt”(?).
Cũng vậy người ta thường thấy ở Việt Nam có “hiện tượng tự ca ngợi”… nào là “dân tộc mình anh hùng” đánh đuổi nước này nước nọ…và luôn tự khen mình “là ngon là giỏi….với danh tướng này nọ ”. Điều này thường khó thấy ở các nước khác.
Đau buồn hơn nữa là hai nước Nga và Tàu lại không ca ngợi “Việt Nam anh hùng” cho lắm dù đã là nguồn cung cấp súng ống bom đạn chính yếu cho cuộc chiến chinh mấy mươi năm nay.
Rồi từ đó có sự ca ngợi đất nước Việt Nam là văn minh tiến bộ dưới sự lãnh đạo sáng suốt anh minh (?) nhưng du khách đến Việt Nam mà đi đứng lớ ngớ là tức khắc bị cướp giựt, vào các quán ăn uống là có thể bị “tính giá trên trời dưới đất”, đồ đạt để xuống mà không chú ý coi chừng là hình như nó có chân bò đi đâu không biết. Ra ngoài đường phố thì xe cộ chạy tứ tung đến nỗi nhiều du khách đã phải bỏ mạng khi đi qua đường trước tình trạng “tự do dân chủ” này.
Thật ra Việt Nam không thiếu gì chuyện tốt để mà phát huy để người ta khen thưởng cho như biết bao phong cảnh mỹ miều ở ba miền Bắc Trung Nam, tình cách đa dạng của đa văn hóa do nhiều thành phần dân tộc hiện diện, có vũ khúc, âm nhạc và kịch nghệ loại cỗ điển truyền thống tự lâu đời, có các món ăn bình dị rẽ tiền mà ngon miệng, Và có cả các đền thành với kiến trúc của nhiều thời đại đáng xem. Nhưng những “món này” lại ít được cho tận tình phát huy.
Còn phải nói là Việt Nam thiếu hẳn một sự niềm nở chào đón du khách như một số các nước khác. Trái lại du khách khi đến đất nước này thì tinh thần phải luôn luôn đặt trong tình trạng căng thẳng báo động…sợ cướp giựt, sợ tai nạn v.v…. Nhưng người ta vẫn thấy báo chí ở đây ca ngợi tình hình du lịch Việt Nam và các viên chức trách nhiệm ban ngành này vẫn hãnh diện với tình trạng này. Và cũng chẳng ai đoái hoài đến làm gì.
Buồn là như vậy. Đến nỗi ở các trận đá bóng của cả học sinh, sinh viên đi nữa thì… hầu như là có đánh nhau không thương tiếc. Hình như cả dân tộc đều bị cái ảnh hưởng “anh hùng” nên rất thích đánh nhau, nhiều khi đánh ghen xé quần xé áo…ở ngoài đường phố.
Buồn là việc phụ nữ Việt Nam, chỉ vì nghèo khó, phải đứng ra phô bày lõa thể để cho những người nước ngoài đến từ Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc xem mà lựa chọn đem về làm vợ sau khi chỉ phải trả một số tiền nào đó cho gia đình đàng gái. Chuyện như thời buôn bán nô lệ mấy trăm năm về trước. Người vợ được mua bằng tiền như vậy thì chắc chắn không thể nào được tôn trọng sau đó.
Không biết đến khi nào thì người Việt Nam mới có thể ra nước ngoài nói “tôi là người Việt Nam” một cách hãnh diện như người Nhật Bản khi tự giới thiệu. Có lẽ họ làm được như vậy vì đất nước họ không có những cái “không giống ai” như ở Việt Nam.
Dù kỹ cương quy cũ đã có từ lâu, nhưng nay Nhật Bản vẫn phải đang cho phát động tinh thần “Omotenashi” (Niềm nở hiếu khách) để sửa soạn cho Thế vận hội Tokyo 2020 sắp đến. Bởi vì họ, tất cả dân tộc, không muốn người nước ngoài chê bai Nhật Bản
Điều này đang không có ở Việt Nam. Và cũng không được chú trọng trong các chương trình giáo dục từ căn bản trong nước. Tại sao vậy? Có lẽ bởi vì Việt Nam chỉ thích “không giống ai” mà quên đi bài học văn từ thời xưa cũ .
“An-di ơi, ngày nay còn bé con chưa hiểu thế nào là lòng yêu nước. Rồi một ngày nào đó khi nghe người nước khác nói nhục mạ đất nước con và làm cho con phải nóng mặt. Đó là lòng yêu nước…”
Vì vậy, trước hết là Việt Nam đừng có làm những điều những chuyện làm cho người nước khác phải mở miệng chê bai. Đó là điều chính yếu vậy.
Tác giả Võ Ngọc Phước 
Theo www.erct.com 

Sự thật phũ phàng sau thành công của ông Dũng “lò vôi”

Ông Huỳnh Uy Dũng (tức ông Dũng “lò vôi”) phải “dứt áo” ra đi khỏi tỉnh này để chuyển hộ khẩu về TP.HCM, trở thành một nhà đầu tư “bất đắc dĩ” tại tỉnh Bình Dương.
Mấy ai ở đời biết được một đại gia có tiếng tăm lừng lẫy trong giới kinh doanh, là chủ của nhiều Khu công nghiệp Sóng Thần 1, 2, 3, nhiều khu dân cư, Khu du lịch Đại Nam và là nhân vật có nhiều đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế của tỉnh Bình Dương như ông Huỳnh Uy Dũng (tức ông Dũng “lò vôi”) lại phải “dứt áo” ra đi khỏi tỉnh này để chuyển hộ khẩu về TP.HCM, trở thành một nhà đầu tư “bất đắc dĩ” tại tỉnh Bình Dương. Sự thật phũ phàng sau sự thành công của ông Dũng “lò vôi” đã dần hé lộ…

“Quả đắng” bị bội tín của ông Dũng “lò vôi”

Ông Dũng “lò vôi” nhớ lại thời điểm đầu năm 2004, tỉnh Bình Dương gặp nhiều khó khăn với món nợ khổng lồ cả 1.000 tỷ đồng đến hạn phải trả cho Bộ Tài chính nhưng không đủ khả năng gồng gánh món nợ phải trả này nên đã vận động ông mua lại khu đất trong Khu liên hợp công nghiệp – dịch vụ – đô thị Bình Dương (sau đây xin gọi tắt là Khu liên hợp) để một mặt khi thấy ông vào đầu tư thì thu hút thêm nhiều nhà đầu tư khác cùng nhảy vào và mặt khác cũng để tỉnh có thêm tiền trả nợ đúng hạn.
“Thật tình lúc đó tôi không muốn làm nữa, cộng thêm vì đã đuối sức do đang làm Khu du lịch Đại Nam. Muốn mua khu đất mà tỉnh vận động thì tôi phải vay ngân hàng hơn 400 tỷ đồng, một số tiền rất lớn vào thời điểm đó. Tuy nhiên, tôi nghĩ cần phải giúp tỉnh trong những lúc khó khăn như thế này nên cuối cùng tôi cũng đồng ý” – ông Dũng “lò vôi” nhớ lại.
Lâu nay, người ta cứ nghĩ ông Dũng “lò vôi” được tỉnh Bình Dương ưu ái trong mọi hoạt động kinh doanh chứ có ai ngờ đâu ông Dũng “lò vôi” lại đâm đơn tố cáo ông chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương Lê Thanh Cung? Trao đổi với chúng tôi, ông Dũng “lò vôi” bảo rằng, ông bị một “quả lừa” của UBND tỉnh Bình Dương trong việc mua lại đất trong Khu liên hợp.
“Hồi đó, trước khi mua khu đất, tôi đã hỏi và tỉnh bảo với tôi đất này của tỉnh nên tôi mới mua để giúp tỉnh Bình Dương giữ “chữ tín”, có tiền trả nợ Bộ Tài chính 1.000 tỷ đồng, chứ tôi mà biết sau này tỉnh giao lại cho Becamex làm chủ đầu tư Khu liên hợp thì một đồng tôi cũng không mua vì trên đầu một DN chỉ có chính quyền chứ không thể là một DN khác cùng ngành nghề được. Tuy nhiên, sau khi có tiền trả nợ cho Bộ Tài chính 1.000 tỷ đồng thì UBND tỉnh Bình Dương đã “bội tín”, quay ngoắt lại, giao cho Becamex làm chủ đầu tư Khu liên hợp”.
Đó là mốc thời gian khởi đầu cho những “tấn bi kịch trò đời” trong kinh doanh mà ông Dũng “lò vôi” phải gánh chịu. Ở đời, “được chim quăng ná, được cá quăng nôm” cũng là lẽ thường tình. Sau khi chủ đầu tư KCN Sóng Thần 3 là Công ty Cổ phần phát triển KCN Sóng Thần (công ty của ông Dũng “lò vôi”, sau này đổi tên là Công ty Cổ phần Đại Nam, sau đây xin gọi tắt là công ty) thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, UBND tỉnh Bình Dương đã phê duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2.000 KCN Sóng Thần 3 thuộc Khu liên hợp.
Theo định hướng của tỉnh cần giảm bớt diện tích KCN chuyển sang phát triển dịch vụ để đảm bảo cảnh quan cho khu hành chính của tỉnh Bình Dương (tại thông báo số 11/TB –UBND ngày 17.1.2008 của UBND tỉnh Bình Dương), chủ đầu tư KCN Sóng Thần 3 đã có văn bản xin UBND tỉnh Bình Dương chấp thuận cho điều chỉnh, chia tách KCN Sóng Thần 3 thành 2 dự án: Khu dân cư đô thị Đại Nam và KCN Sóng Thần 3. Và đây cũng chính là thời điểm mà nhiều nhà đầu tư hiện có mặt trong Khu liên hợp chịu chung số phận tương tự như ông Dũng “lò vôi”. Tuy nhiên, sau một thời gian chờ đợi không được phê duyệt, ông Dũng “lò vôi” đã từ bỏ ý định chia tách, chỉ đề nghị làm đúng như những gì tỉnh đã phê duyệt tại quy hoạch chi tiết 1/2000.

“Ngâm” quy hoạch chi tiết 1/500

Khu công nghiệp Sóng Thần 3.
Khu công nghiệp Sóng Thần 3.

Tại thời điểm mà đoàn kiểm tra của tỉnh đến làm việc, có lập biên bản làm việc vào ngày 25.8.2009, ông Huỳnh Uy Dũng kiến nghị: “Chủ đầu tư chính thức đề nghị thực hiện theo quy hoạch được duyệt, không đề nghị chuyển đổi một phần đất KCN thành đất ở, không chuyển đổi mục đích sử dụng đất”.
Sau khi kiểm tra, Sở Xây dựng đã có báo cáo kết quả (số 2021/BC-SXD ngày 4/9/2009) cho UBND tỉnh Bình Dương. Theo đó, Đoàn kiểm tra thống nhất việc thỏa thuận góp vốn của chủ đầu tư là phù hợp với quy định của pháp luật. Trong văn bản này, Sở Xây dựng nêu rõ như sau: Kiến nghị UBND tỉnh chỉ đạo Công ty Cổ phần Đại Nam lập quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 cho khu đất hành chính – dịch vụ – kho bãi và khu ở trong KCN với diện tích 71,388ha (chủ đầu tư đã đồng ý nội dung này tại buổi làm việc với Đoàn kiểm tra ngày 26.8.2009).
Xin nhấn mạnh lại là lập quy hoạch chi tiết 1/500 cho khu đất hành chính – dịch vụ – kho bãi và khu ở trong KCN với diện tích 71,388ha (đúng với quy hoạch chi tiết 1/2000 mà tỉnh Bình Dương đã phê duyệt cho chủ đầu tư KCN Sóng Thần 3). Sau kiến nghị này, ngày 21.10.2009, ông Lê Thanh Cung (thời điểm đó là phó chủ tịch thường trực, nay là chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương) đã ban hành văn bản 3184/UBND – KTTH trong đó có nội dung: “Yêu cầu chủ đầu tư KCN Sóng Thần 3 khẩn trương lập và trình cấp thẩm quyền phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 đối với khu chức năng (hành chính – dịch vụ, kho bãi và khu ở), đến tháng 12.2009 phải hoàn thành để làm cơ sở triển khai thực hiện đúng mục đích”.
Sau chỉ đạo này 1 ngày, chủ đầu tư KCN Sóng Thần 3 đã có văn bản (số 341/CV.ĐN) về việc xin phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/500 Khu hành chính – dịch vụ – kho bãi và khu ở trong KCN Sóng Thần 3 (không phải quy hoạch chi tiết 1/500 cho Khu dân cư Đại Nam như trả lời của tỉnh tại cuộc họp nói trên) với tổng diện tích 136,6 ha nhưng vẫn đảm bảo đúng như quy hoạch chi tiết 1/2000 đã được phê duyệt chứ không hề thay đổi. Dù chủ đầu tư đã đáp ứng mọi yêu cầu của tỉnh đề ra nhưng kể từ đó đến nay, quy hoạch chi tiết 1/500 KCN Sóng Thần vẫn chưa được UBND tỉnh Bình Dương phê duyệt.

Kiểu này, 100 ông Dũng “lò vôi” cũng chết!

Ông Dũng “lò vôi” bức xúc cho biết: “Khu đất có diện tích 61,49ha đã có chủ quyền trong KCN của chúng tôi được tỉnh Bình Dương công nhận là đất ở và được phép sử dụng lâu dài nhưng từ khi ông chín Cung (tức ông Lê Thanh Cung – thời điểm này là phó chủ tịch thường trực UBND tỉnh Bình Dương) về làm lãnh đạo tỉnh, ông ta đã ban hành một văn bản cấm chuyển nhượng dưới bất cứ hình thức nào là trái với luật đất đai 2003 và đồng nghĩa với việc giết chết một doanh nghiệp”.
Do bị “giam hãm” quy hoạch chi tiết 1/500, gần 50% CBCNV tham gia góp vốn đã đòi lại tiền. Chủ đầu tư KCN Sóng Thần 3 đã phải trả lại toàn bộ số tiền góp vốn kể cả lãi suất ngân hàng gần 400 tỷ đồng. Suốt nhiều năm chờ đợi cái quy hoạch chi tiết 1/500, đến nay vẫn chưa được UBND tỉnh Bình Dương phê duyệt, với lãi suất ngân hàng cho số tiền vay 400 tỷ đồng là một con số không nhỏ đối với một doanh nghiệp.
“Nếu không đủ uy tín và tiền bạc thì 100 Công ty cổ phần Đại Nam, kể cả 100 ông Dũng “lò vôi” cũng chết dưới tay của ông Lê Thanh Cung và Becamex. Chúng tôi đã làm văn bản kiến nghị nhiều lần nhưng hình như họ không nghe thấy gì!” – ông Dũng “lò vôi” bức xúc nói.
Vụ việc đã lên cao trào, những vướng mắc, khó khăn, bức xúc đã không còn là chuyện của cá nhân ông Dũng “lò vôi” nữa mà hàng vạn doanh nghiệp trong cả nước cũng đang “sống dở chết dở” vì “cái lệ” ở địa phương đè nặng. Sau khi ông Dũng “lò vôi” gửi đơn tố cáo lên Thủ tướng Chính phủ, ông Vũ Đức Đam – Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ cho hay, Thủ tướng Chính phủ đang xem xét đơn tố cáo của ông Huỳnh Uy Dũng để xử lý theo quy định của Luật tố cáo. Quan điểm của Chính phủ là sẽ xử lý nghiêm nếu phát hiện cá nhân nào có sai phạm để đảm bảo môi trường đầu tư thật sự lành mạnh.

“Cái tát” cho UBND tỉnh Bình Dương

Ngày 23.10, UBND tỉnh Bình Dương đã gửi thư mời ông Dũng “lò vôi” đến “Họp giải quyết các vấn đề vướng mắc dự án KCN Sóng Thần 3”. Tuy nhiên, sau khi nhận được giấy mời này, ông Dũng “lò vôi” đã chính thức từ chối không đến dự.
Trao đổi với chúng tôi, ông Dũng chia sẻ: “Nếu trước đây nhiều năm, tôi nhận được một thư mời như thế này thì tôi “trăm trân nghìn trọng” UBND tỉnh Bình Dương. Còn bây giờ, sau nhiều năm chờ đợi không hồi âm đã hết kiên nhẫn tới mức tôi phải làm đơn tố cáo gửi đến Thủ tướng Chính phủ. Có lẽ vì vậy mà UBND tỉnh Bình Dương mời tôi đến gặp để giải quyết vướng mắc khó khăn. Tôi xin cảm ơn sự quan tâm này. Tuy nhiên, sự quan tâm của UBND tỉnh Bình Dương đã quá muộn màng.
Chúng tôi chờ đợi mòn mỏi đã nhiều năm nay rồi thì có chờ thêm một thời gian nữa cũng không sao. Tôi nghĩ rằng, nếu không có đơn tố cáo của tôi và công luận lên tiếng mấy ngày qua, liệu UBND tỉnh Bình Dương có “trân trọng” mời chúng tôi đến họp bàn giải quyết các vấn đề vướng mắc, khó khăn trong triển khai dự án KCN Sóng Thần 3 hay vẫn tiếp tục im lặng một cách khó hiểu như nhiều năm nay?
Tôi mong muốn các cơ quan chức năng vào cuộc để làm rõ, tháo gỡ “cái lệ” lâu nay đã đè nặng lên hàng vạn doanh nghiệp, chứ không riêng gì tôi. Vì thế, nó không còn là chuyện của cá nhân tôi nữa. Đó là lý do tôi từ chối lời mời họp giải quyết vướng mắc của UBND tỉnh Bình Dương. Việc từ chối của ông Dũng “lò vôi” được dư luận bình phẩm đó như một “cái tát” vào UBND tỉnh Bình Dương. Nó phơi bày một sự thật phũ phàng mà ông Dũng “lò vôi” đã chịu đựng nhiều năm qua, góp phần đưa đẩy ông rời khỏi tỉnh Bình Dương – mảnh đất mà ông luôn cho rằng đó là một phần máu thịt của mình.
THEO DÂN VIỆT

Giữ quyền tự do tăng giá xăng dầu tới 7%


Trong chỉ đạo mới nhất xây dựng Nghị định mới về kinh doanh xăng dầu, doanh nghiệp có thể sẽ tiếp tục được điều chỉnh giá bán lẻ theo biên độ hiện hành, được tự quyết tăng tới 7%, không “co” lại mức 5%.

Một lần được tăng tới 7%

Hôm 28/10 vừa qua, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã chủ trì cuộc họp về vấn đề chính sách xăng dầu. Đại diện Bộ Công Thương cho hay, cuộc họp đã thống nhất, nguyên tắc điều hành giá bán lẻ xăng dầu sẽ vẫn tiếp tục thực hiện quy định thương nhân đầu mối điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu trong biên độ như pháp luật hiện hành.
“Điều này có nghĩa, đề xuất co lại biên độ tăng, giảm giá bán lẻ xăng dầu từ mốc 7, 12% hiện hành xuống các mốc biến động 5% và 8% như trong dự thảo Nghị định mới do Bộ Công Thương trình đã bị bác bỏ”, vị đại diện này cho biết.
Nghị định 84 hiện nay quy định, khi các biến động đầu vào làm tăng giá cơ sở so với giá bán lẻ xăng dầu trong phạm vi 7% thì DN sẽ được quyền tự quyết định tăng giá tương ứng.
Nếu các biến động đầu vào làm giá cơ sở tăng từ 7% đến 12% so với giá bán lẻ, các doanh nghiệp sẽ được tăng trong phạm vi 7% cộng với 60% của khoảng chênh lệch từ 7-12%, 40% mức chênh giá tiếp theo sẽ được bù đắp từ Quỹ bình ổn giá. Nếu giá thành xăng dầu tăng trên 12%, Nhà nước sẽ công bố áp dụng các biện pháp bình ổn giá, thông qua các công cụ như thuế, phí, quỹ bình ổn.
Ngược lại, khi giá thành xăng dầu giảm trong phạm vi 12%, doanh nghiệp phải giảm giá bán lẻ tương ứng. Nếu giá thành xăng dầu giảm tiếp trên 12%, Nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp điều tiết tài chính.
Có thể thấy, việc giữ nguyên các biên độ điều hành giá bán lẻ như vậy là nhằm đảm bảo khoảng không gian đủ rộng để giá xăng dầu trong nước diễn biến theo cơ chế thị trường. Nếu co lại biên độ này, nghĩa là quyền định giá của doanh nghiệp sẽ co lại theo và mức độ can thiệp của Nhà nước sẽ sâu hơn, sớm hơn.
Tuy nhiên, các chuyên gia giá kinh tế lo ngại, khi giữ nguyên biên độ điều chỉnh giá như hiện nay, giá xăng dầu bán lẻ trong nước chắc chắn sẽ tăng rất mạnh.
Ví dụ, với mức giá 23.880 đồng/lít xăng hiện nay, giả thiết giá cơ sở chênh lệch lên 7%, doanh nghiệp sẽ được phép chủ động tăng tương ứng tới 1.671 đồng/lít. Còn nếu áp dụng tỷ lệ 5% như đề xuất trong dự thảo của Bộ Công Thương, doanh nghiệp chỉ được tăng tối đa 1.194 đồng. Phần chênh lệch còn lại, Nhà nước sẽ tính toán điều tiết. Khi đó, người tiêu dùng sẽ được lợi hơn.

Giãn tần suất điều chỉnh giá lên 15 ngày

Cũng tại cuộc họp này, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã đồng ý thay đổi tần suất điều chỉnh giá xăng dầu, từ 10 ngày hiện nay tăng lên 15 ngày. Dự trữ lưu thông xăng dầu vẫn tiếp tục áp dụng là 30 ngày, trong đó, 20 ngày dự trữ theo yêu cầu của Nhà nước để đảm bảo an ninh năng lượng ,10 ngày là dự trữ lưu thông bắt buộc của thương nhân.
Giãn tần suất điều chỉnh giá đồng nghĩa, người dân sẽ có lợi khi giá xăng dầu thế giới tăng lên, giá trong nước chưa phải tăng sớm. Tuy nhiên, khi giá xăng dầu thế giới giảm, người tiêu dùng cũng sẽ chịu thiệt vì các doanh nghiệp sẽ được ‘neo giá’ tới nửa tháng mới giảm.
Nói cách khác, khi khoảng thời gian giữa 2 lần điều chỉnh giá càng dài, cơ hội được hưởng mức giá thật sự bám theo thị trường của người dân cũng sẽ thấp đi nhưng bù lại, người dân được hưởng mức giá ổn định hơn, ít biến động. Sau cuộc họp này, Bộ Công Thương cũng sẽ phải nghiên cứu lại cả công thức tính giá cơ sở, chu kỳ tính giá để phù hợp với nguyên tắc trên.
doanh nghiệp xăng dầu, giá xăng dầu, lọc dầu, tăng giá xăng
Một vấn đề mới đã được các Bộ thảo luận và được Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải thông qua, đó là hệ thống phân phối lưu thông xăng dầu sẽ có thêm hình thức nhà phân phối mua đứt bán đoạn của thương nhân đầu mối, thay vì, các hệ thống phân phối bán lẻ bắt buộc phải theo mô hình chiều dọc, hưởng chiết khấu.
Theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng, với mô hình này, các nhà phân phối xăng dầu có thể được mua sản phẩm của nhiều thương nhân đấu mối khác nhau. Quy định này sẽ mở hơn rất nhiều so với chính sách phân phối xăng dầu hiện nay. Các Tổng đại lý và đại lý chỉ được phép mua xăng dầu của một doanh nghiệp đầu mối.
Như vậy, thị trường xăng dầu Việt Nam sẽ hình thành 2 mô hình hệ thống phân phối khác nhau, qua đó, giúp thị trường bán lẻ xăng dầu cạnh tranh hơn.
Cùng đó, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải còn yêu cầu phải có định hướng quy hoạch thương nhân đầu mối xuất nhập khẩu xăng dầu, đảm bảo nâng cao năng lực cho doanh nghiệp, nâng cao tính cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh xăng dầu.
Theo Bộ Công Thương, Nhà máy lọc dầu Dung Quất mới chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu trong nước, 70% xăng dầu nhâp khẩu từ bên ngoài, do 13 doanh nghiệp đầu mối thực hiện. Tương lai, khi Việt Nam tự chủ được xăng dầu thì vấn đề nhập khẩu xăng dầu tiêu dùng sẽ phải tính toán lại.
Việt Nam đã có tới 7 dự án nhà máy lọc dầu, bên cạnh nhưng nhà máy đã nằm trong chiến lược của ngành dầu khí như Nghi Sơn, Long Sơn, còn có nhiều dự án của các nhà đầu tư nước ngoài. Tới năm 2020, Việt Nam không chỉ tự chủ xăng dầu và còn dư thừa sản lượng dầu. Khi đó, chắc chắn, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu xăng dầu hiện nay sẽ phải cạnh tranh gay gắt để tồn tại. Và chắc chắn sẽ có những tiêu chuẩn cao hơn về số lượng và năng lực doanh nghiệp đầu mối xăng dầu.
THEO VEF

Quỹ rỗng sao lại đẩy trách nhiệm sang Bộ Công thương?


Tiền về quỹ nhưng rừng vẫn mất?

Làm thế nào để tiền về quỹ là trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp. Tại sao lại đẩy sang Bộ Công thương? – Ông Lê Tuấn Phong, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Năng lượng cho hay.
PV: – Tại buổi họp báo Bộ Công thương chiều 4/11, ông cho biết, Bộ Công thương đang thực hiện chế tài để yêu cầu các chủ đầu tư phải nộp trả số tiền trồng hoàn gần 20.000ha rừng chuyển đổi làm thủy điện. Thưa ông, việc đó Bộ đã thực hiện tới đâu rồi?
Ông Lê Tuấn Phong: – Bộ Công thương có làm đâu, phải là chủ đầu tư với địa phương và Bộ NN&PTNT làm chứ.
Việc quy hoạch trồng rừng là việc của Bộ NN&PTNT. Nếu các địa phương không có quỹ đất thì Bộ NN&PTNT phải có trách nhiệm thu tiền từ các địa phương đưa vào quỹ để trồng hoàn rừng ở nơi khác.
Bộ Công thương chỉ có trách nhiệm quản lý các dự án và nhắc nhở chủ đầu tư nộp đủ, nộp đúng số tiền và thực hiện nghiêm chỉnh việc trồng hoàn rừng với địa phương. Bộ Công thương không liên quan tới Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng.
PV: – Trách nhiệm nhắc nhở các chủ đầu tư nộp đúng, nộp đủ nhưng tới nay rừng không trồng, tiền không về quỹ, Bộ Công thương sẽ xử lý thế nào? Ai sẽ chịu trách nhiệm, thưa ông?
Ông Lê Tuấn Phong: – Đó là do quy chế quản lý giữa tỉnh với địa phương và Bộ NN&PTNT là chưa chặt chẽ. Về phía chủ đầu tư đã nộp cũng khá nhiều rồi.
Làm thế nào để tiền về quỹ là việc của Bộ NN&PTNT. Nếu kêu ca không có tiền về quỹ chứng tỏ Bộ NN&PTNT đã không làm hết chức năng, nhiệm vụ của mình.
PV: – Vậy, số tiền đã nộp về cho quỹ trồng hoàn rừng là bao nhiêu, thưa ông?
Ông Lê Tuấn Phong: – Tôi khẳng định, trong năm 2012, hầu hết các địa phương có các dự án thủy điện lớn, đều thu được hàng trăm tỉ đồng từ các dự án thủy điện. Những địa phương có thủy điện vừa và nhỏ như Sơn La, các tỉnh miền núi phía Bắc cũng thu được hàng chục tỉ đồng. Số tiền này đều nộp về quỹ phát triển rừng của địa phương.
Chỉ có một số ít thủy điện nhỏ do gặp khó khăn về tài chính nên họ khất nợ. Tôi khẳng định, không ai có thể trốn được nợ.
PV: – Số tiền hàng trăm tỉ chủ đầu tư đã nộp được thực hiện, chi trả thế nào, thưa ông?
Ông Lê Tuấn Phong: – Toàn bộ số tiền này đã được địa phương chi trả cho người dân để trồng lại rừng, phát triển rừng.
PV: – Vậy tại sao 20.000ha rừng chuyển đổi làm thủy điện mới trồng hoàn rừng được 1.000ha. Vậy số tiền đó đi đâu? Với những chủ đầu tư không nộp tiền, Bộ Công thương sẽ xử lý như thế nào?
Ông Lê Tuấn Phong: – Tôi đã nói, hầu hết các chủ đầu tư đều đã nộp tiền rồi. Hàng mấy trăm tỉ. Không có chuyện các chủ đầu tư không nộp, chỉ có một số thủy điện nhỏ do họ gặp khó khăn về tài chính. Nhưng hiện Bộ Công thương đã có chế tài tính vào giá nên chắc chắn là phải nộp.
Việc tại sao 20.000ha rừng chuyển đổi lại chỉ trồng được 1.000ha rừng là trách nhiệm của Bộ NN&PTNT. Bộ Công thương không trồng rừng thay.
Bộ NN&PTNT phải có trách nhiệm quy hoạch điều phối cho doanh nghiệp họ trồng lại rừng ở đâu. Làm thế nào để tiền về quỹ là trách nhiệm của Bộ NN. Tại sao lại đẩy sang Bộ Công thương?
PV: – Nhưng, trước đó tại buổi họp báo ông cho rằng đây là số tiền Bộ NN&PTNT đã có công văn yêu cầu EVN và các doanh nghiệp thủy điện phải trả 300 tỉ tiền phí môi trường chứ không phải tiền trồng hoàn gần 20.000ha rừng, thưa ông?
Ông Lê Tuấn Phong: – Đó không phải phí môi trường. Đó là số tiền trồng hoàn rừng các chủ đầu tư đã nộp cho địa phương.
PV: Vậy, cụ thể là những chủ đầu tư, những địa phương nào đã thực hiện nghĩa vụ nộp số tiền trồng hoàn rừng này, Bộ Công thương có thể công khai danh sách đó được không?
Ông Lê Tuấn Phong: – Không phải danh sách. Đó là số liệu Bộ Công thương đã thực hiện điều tra và đã có cả các con số chủ đầu tư nộp cho địa phương và con số địa phương đã chi trả cho người dân trồng rừng rồi.
PV: – Cụ thể là những địa phương nào và diện tích trồng hoàn rừng ở từng địa phương là bao nhiêu thưa ông?
Ông Lê Tuấn Phong: – Thôi, thôi. Danh sách nó dài lắm. Phía Bộ Công thương chỉ có trách nhiệm nhắc nhở các chủ đầu tư thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Còn việc trồng rừng là Bộ NN&PTNT và cái quỹ đó cũng là do Bộ NN&PTNT quản lý chứ có phải ai đâu.

Phát ngôn bất nhất:

Trước thông tin của Bộ NN&PTNT cho rằng, EVN và các chủ đầu tư xây dựng thủy điện chưa đóng hàng trăm tỉ phí sử dụng môi trường, cùng với con số hàng ngàn ha rừng chuyển đổi sang làm thủy điện không được trồng hoàn lại, nhưng cũng không chịu nộp tiền về quỹ. Trong chuyện này có một phần trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong đó có Bộ Công thương.
Tại buổi họp báo Bộ Công thương ngày 4/11, ông Đinh Thế Phúc, Phó cục trưởng Cục điều tiết điện lực (Bộ Công thương), giải thích EVN đã hoàn trả hết nợ, các doanh nghiệp khác thuộc quản lý của địa phương.
“Con số nợ đọng 300 tỷ phí sử dụng môi trường rừng của EVN và nhiều chủ đầu tư xây dựng thủy điện khác đã được hoàn trả cho Quỹ bảo vệ và phát triển rừng từ đầu năm 2012. Đồng thời EVN cũng cam kết sẽ thực hiện nghiêm chi phí phát sinh nếu có theo đúng hợp đồng”, ông Phúc cho hay.
Với trách nhiệm của Bộ Công thương, ông Lê Tuấn Phong, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Năng lượng khẳng định: “Bộ NN&PTNT đang thực hiện, Bộ Công thương cùng phối hợp thực hiện những chế tài để buộc các chủ đầu tư phải hoàn trả số tiền trồng hoàn rừng tương ứng với diện tích rừng bị chuyển đổi sang làm thủy điện”.
Ông Phong cho biết thêm, hiện đã có hàng trăm tỉ phí môi trường đã được các chủ đầu tư dự án thủy điện nộp về quỹ phát triển rừng của địa phương.
THEO ĐẤT VIỆT

Trả món nợ của Vinashin bằng cách nào?

Trước việc tái cơ cấu Vinashin, đổi tên thành Tổng Cty Công nghiệp tàu thủy (SBIC) và giảm đầu mối từ hơn 240 DN xuống còn 8 DN thì câu hỏi mà dư luận đang rất quan tâm là liệu SBIC có đảm đương được chiến lược phát triển ngành công nghiệp tàu thủy VN, hay chỉ là chuyện “bình mới rượu cũ” và làm thế nào để trả được khoản nợ 86.000 tỉ đồng của Vinashin?

Vẫn đủ năng lực đóng tàu

Đó là khẳng định của Vụ Quản lý DN – Bộ GTVT khi nói về năng lực của SBIC. Bởi 8 DN thành viên của TCty đang nắm giữ phần lớn năng lực đóng và sửa chữa tàu thủy của cả nước. Đây là những DN có truyền thống, đã được đầu tư kết cấu hạ tầng, dây chuyền công nghệ, thiết bị nâng hạ, gia công cơ khí và một số công nghiệp phụ trợ tương đối đồng bộ.
Những DN này trong thời gian tới sẽ duy trì ở mức độ phù hợp, có thể đóng được tàu đến 70.000 tấn và nhiều loại tàu chuyên dùng, sửa chữa được tàu trọng tải đến 200.000 tấn. Mục tiêu dài hạn, các DN này sẽ đáp ứng yêu cầu mở rộng, tăng năng suất lao động, đảm bảo phát triển trong tương lai khi thị trường phục hồi.
Theo Vụ trưởng Vũ Chiến Thắng, khẳng định được vấn đề nêu trên là do Bộ GTVT dựa trên cơ sở đánh giá lại thực trạng của 8 DN được giữ lại với các lợi thế như: Mặt bằng, luồng lạch, độ sâu tự nhiên, khả năng sa bồi; cơ sở hạ tầng; phương tiện, thiết bị, công nghệ; nguồn nhân lực; năng lực quản lý và tổ chức sản xuất… qua đó lựa chọn phương án sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, có khả năng cạnh tranh.
Thực hiện chuyên môn hóa sản phẩm đối với từng DN, đóng tàu theo loạt, gia công tổng đoạn và mở rộng hợp tác liên doanh, liên kết với nước ngoài. Bộ GTVT cũng chỉ đạo một số DN chuyển hướng vào lĩnh vực sửa chữa tàu, gia công cơ khí, tiếp cận các đối tác tìm kiếm cơ hội liên doanh, liên kết, gia công các tổng đoạn, … để tận dụng năng lực cơ sở vật chất kỹ thuật và tạo việc làm, thu nhập cho người lao động.

Trả nợ “khủng” bằng cách nào

Trả lời câu hỏi của PV Báo Lao Động về việc SBIC sẽ có trách nhiệm giải quyết như thế nào khoản nợ của Vinashin (86.000 tỉ đồng), Vụ trưởng Vụ Quản lý DN – Bộ GTVT cho biết: ”Với kết quả tái cơ cấu tài chính đã đạt được trong thời gian qua, TCty đang tiếp tục đàm phán, thỏa thuận, thống nhất với các tổ chức tín dụng, các khách hàng để tái cơ cấu các khoản nợ nhằm mục tiêu giảm nợ, giảm lãi suất, kéo dài thời gian trả nợ phù hợp với tình hình tài chính của doanh nghiệp”.
Được biết, tại buổi họp báo công bố phát hành thành công trái phiếu quốc tế để tái cơ cấu khoản nợ 600 triệu USD hôm 10.10.2013, ông Nguyễn Ngọc Sự – Chủ tịch Hội đồng thành viên Vinashin – đã cho biết: “600 triệu USD trái phiếu phát hành từ năm 2007 là món nợ nhức nhối và khó khăn nhất với Vinashin suốt mấy năm qua, vì đây là nợ nước ngoài”.
Được biết, món nợ nước ngoài và lãi (tổng cộng 626 triệu USD) đã được hoán đổi lấy trái phiếu do Cty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) thuộc Bộ Tài chính phát hành, được lưu ký tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán New York và niêm yết tại sàn chứng khoán Singapore. Số trái phiếu này có thời hạn trả gốc là 12 năm với lãi suất 1%/năm.
Cũng tại thời điểm này, lãnh đạo tập đoàn đã khẳng định: “Hết năm 2014 cơ bản sẽ cơ cấu xong nợ của Vinashin” – điều đó cũng có nghĩa là 86.000 tỉ đồng nợ đã cơ cấu xong”.
Nói rõ thêm về các biện pháp khắc phục số nợ của Vinashin, lãnh đạo Vụ Quản lý DN cho biết: Sau tái cơ cấu tài chính, các khoản nợ của SBIC cơ bản sẽ được giảm nợ, xóa lãi, giảm lãi suất.
Một số khoản nợ sẽ được SBIC thực hiện mua lại nợ, số nợ còn lại cơ bản được kéo dài, gia hạn thời gian trả nợ đến năm 2023 và 2025. Trong quá trình tái cơ cấu, SBIC sẽ tích lũy để trả nợ từ các nguồn thu từ tái cơ cấu, sắp xếp lại (bán, chuyển nhượng, chuyển giao, thoái vốn …) 236 DN không nằm trong mô hình của TCty.
SBIC cũng sẽ lấy nguồn thu từ chuyển giao DN sang Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam và TCty Hàng hải Việt Nam; thu từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của SBIC (khấu hao tài sản, lợi nhuận doanh nghiệp, bán, thanh lý tài sản, dự án…); thu từ cổ phần hóa 8 DN thuộc TCty. Theo tính toán của Bộ GTVT thì tổng cộng các nguồn thu cơ bản đáp ứng được kế hoạch trả nợ của SBIC.
Tuy nhiên, ngoài khoản nợ được tái cơ cấu thành trái phiếu quốc tế để trả nợ, cho đến nay Vinashin vẫn chưa công bố đã trả được khoản nợ nào trong khối nợ ”khủng” nêu trên. Hầu như những gì liên quan đến tài chính của Vinashin cho đến thời điểm này vẫn chỉ là đảo nợ, xóa nợ, hoãn, dãn… nợ mà thôi.
THEO LAO ĐỘNG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét