CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT
- Trông đợi gì vào chuyến thăm VN của Tổng thống Putin? (RFA).
KINH TẾ
- Ngân hàng tiếp sức doanh nghiệp (HQ).
- Thị trường bất động sản: Thời của giá trị thực (DĐDN). - Nhu cầu nhà ở xã hội chưa được đáp ứng đủ (TN).
- Thủy sản Sông Hậu lún vào nợ nần (TTXVN).
- Người Hà Nội chuẩn bị thực phẩm phòng bão (PT). - Hà Nội “cháy chợ” thực phẩm, rau củ trước siêu bão Haiyan (Infonet).
- Thấy gì qua vụ “cướp” taxi tại TP HCM? (DĐDN).
- Cứu ngành cà phê: Cách nào? (VOV).
- Trung Quốc cải cách doanh nghiệp quốc doanh đầy gian nan (Tầm nhìn).
VĂN HÓA-THỂ THAO
- Sư trụ trì giải thích tượng Phật “giống mình” (VNN). - Sư Thích Minh Phượng: “Tôi tổn thương thể xác lẫn tinh thần’ (ĐV).
- Lựa chọn quốc phục: Đường dài, đi chậm! (PL&XH).
- Sổ tay văn hóa: Vì sao Trương Thị May “tay trắng”? (LĐ). - Đồng loạt bầu Trương Thị May là “Hoa hậu” sau Miss Universe 2013 (GDVN).
GIÁO DỤC-KHOA HỌC
- Tiếp đà phát triển giáo dục vùng khó (GD&TĐ).
- Nỗ lực đưa học sinh dân tộc tới trường (GD&TĐ).
- Bão số 14: Ngày mai, học sinh Hà Nội nghỉ học tránh bão Haiyan (LĐ). - Nghệ An: trên 600.000 học sinh nghỉ học để tránh bão Haiyan (GD&TĐ).
XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG
- Đối diện với trận cuồng phong lịch sử (ĐĐK). - Ngư dân ven biển “chế” đê, đắp kè đối phó siêu bão Haiyan (Soha). - Thoát bão Haiyan, miền Trung vẫn có 10 người thiệt mạng (LĐ). - Hà Nội họp khẩn ứng phó với siêu bão (PT). - Vụ tai nạn thương tâm ở TPHCM, thai phụ thiệt mạng (VOV).
- Xót xa xác người nằm rải rác trên phố ở Tacloban, Philippines (DT). - Hải Yến có thể là siêu bão gây chết nhiều người nhất lịch sử Philippines (TN). - Người Philippines trên thế giới mong tin người thân (TP). - Một thị trấn có 300 người chết, 2.000 người mất tích (TP). - Philippines: Siêu bão đi cửa trước, siêu cướp bóc đến cửa sau (DV). - 1 tỉnh 10 ngàn người chết, cướp bóc hoành hành Philippines sau bão 14 (GDVN). - Khủng hoảng nhân đạo sau siêu bão Haiyan tại Philippines (VOV).
QUỐC TẾ Một số nhầm lẫn của Mác
GS TS Nguyễn Đình Cống
Mác
là một triết gia lớn, được nhiều người đánh giá rất thông minh, có đạo
đức tốt, rất yêu mến giai cấp vô sản, suốt đời phấn đấu cho tự do và
giải phóng vô sản. Mác là con người tuyệt vời được hàng tỷ người ngưỡng
mộ. Những kết luận do Mác đưa ra đã trở thành lý luận cách mạng của
nhiều đảng cộng sản và những đồ đệ của Mác cho rằng đó là những điều duy
nhất đúng, còn cái gì ngược lại là sai, là phản động. Hàng tỷ người,
trong đó có nhiều người thông minh, ưu tú, trong thời gian dài đã tin
vào điều đó, ca ngợi điều đó.
Người ta tin, rất
tin vào Mác vì động cơ rất tốt đẹp của ông, vì sự chứng minh, sự suy
luận có hình thức bên ngoài chặt chẽ, vì lý thuyết của Mác phù hợp với
lòng mong ước của số đông. Lý thuyết đó đã thắng lợi lớn ở một số nước,
nhưng rồi Liên xô và Đông Âu sụp đổ, Trung Quốc đưa ra thuyết ba đại
diện mà thực chất là không còn theo Mác một cách tuyệt đối. Tại sao lại
như vậy? Phải chăng trong lý thuyết của Mác có cái gì đó không đúng,
phải chăng Mác có nhầm lẫn điều gì?
Năm 1922, trong bài giảng về “Chủ nghĩa tam dân”, Tôn Trung Sơn nhận xét như sau: Mác
là người rất giỏi và có đạo đức tốt, chỉ tiếc rằng luận thuyết đấu
tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội loài người của ông là một
sai lầm nghiêm trọng.
Tôi
không phải người nghiên cứu triết học và sử học, càng không phải người
hoạt động chính trị nên không có những nghiên cứu sâu về Mác. Thời trẻ
tôi học và thi các học thuyết của Mác đạt điểm khá cao, rất tin vào các
học thuyết đó, nguyện suốt đời phấn đấu theo các học thuyết đó. Lớn lên
tôi thấy một số điều trong thực tế cách mạng không giống như lý thuyết,
về già tôi ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm thực tế, xem một số tài liệu viết về
chủ nghĩa Mác mới cảm nhận thấy Mác có thể đã nhầm một cái gì đó. Tôi
chỉ viết ra những cảm nhận để trao đổi với bạn bè chứ không phải công bố
một tài liệu nghiên cứu khoa học. Mà đã là cảm nhận thì không cần chứng
minh.
Theo tôi Mác đã có nhầm lẫn.
Tiếc rằng những nhầm lẫn đó là do lòng tốt của ông tạo ra, nó được ẩn dấu rất kín đáo và ngấm ngầm tạo ra hạt giống độc hại.
Khi
tuyên truyền, khi tiếp xúc với chủ nghĩa Mác người ta chỉ chú ý đến,
chỉ thấy, chỉ nói về những mặt tốt đẹp của nó mà chưa thấy được hạt
giống độc hại còn ẩn dấu rất kín. Chưa thấy được vì quá tin, quá yêu,
quá tôn sùng hoặc vì trình độ chưa đủ, chưa có con mắt và trí tuệ thật
tinh tường. Những hạt giống này chỉ có thể nẩy mầm khi có điều kiện
thuận lợi, đó là khi đảng cộng sản đã chiếm được độc quyền lãnh đạo xã
hội và thi hành sự toàn trị. Nếu chưa có điều kiện thuận lợi thì hạt
giống đó cứ nằm yên, được giấu kín, nhiều người không thể biết, chỉ có
một số rất ít người, nhờ điều kiện khách quan thuận lợi hoặc nhờ có linh
tính cao mới biết được (ví dụ như Tôn Trung Sơn, Gandhi, Bertrand Russell, Mandela, v.v.). Khi hạt đã nảy mầm, thành cây, có cành lá, hoa quả thì mọi người mới thấy.
Tôi cũng vừa mới thấy trong thời gian gần đây thôi!
Khi
hoa lá tiết ra chất độc làm hủy hoại môi trường người ta mới đi tìm
nguyên nhân. Nhưng phần lớn chỉ thấy nguyên nhân ở hoa lá mà không thể,
không muốn hoặc không dám tìm đến gốc rễ, đến hạt giống. Người ta đổ lỗi
cho môi trường, cho hoàn cảnh mà không dám đụng đến bản chất là hạt
giống.
Tôi tạm dừng lại một chút để kể hai câu chuyện.
1-
Chuyện của anh Ngữ, giảng viên của trường Đại học Xây dựng. Ngữ sinh ra
khỏe mạnh, thông minh, học giỏi từ phổ thông đến đại học, được giữ lại
làm giảng viên. Anh là một giảng viên có nhiều năng lực, được tập thể
tin cậy, đánh giá cao và đặt nhiều hy vọng. Anh rất tự tin vào thể trạng
và trí tuệ của mình, thường than phiền về người anh ruột hơi bị tâm
thần. Thế nhưng, đùng một cái, Ngữ phát bệnh tâm thần, chữa trị một thời
gian không khỏi và qua đời. Nhiều người tiếc thương cho một tài năng,
đổ lỗi cho môi trường đã gây ra bệnh, họ có biết đâu mầm bệnh đã được
nằm sẵn ở gen từ trong bào thai, chẳng qua mấy chục năm trời nó được
giấu kín mà thôi, nó chỉ phát bệnh khi đã tích lũy được năng lượng cần
thiết, gặp được điều kiện phù hợp.
2-
Chuyện Tề Hoàn Công. Là một ông vua khỏe mạnh, giỏi giang, làm bá chủ,
ông rất tự tin vào năng lực, uy tín và sức khỏe của mình. Một hôm Tần
Hoãn vào chầu, thưa với Tề Hoàn là vua đang có bệnh. Tần Hoãn là một
thầy thuốc nhờ có Tiên giúp mà có khả năng chỉ nhìn người mà biết bệnh.
Vua không nghe, tin rằng mình khỏe mạnh, chẳng có bệnh gì. Một thời gian
sau Tần Hoãn lại tâu là mầm bệnh đã phát triển, vua vẫn gạt đi vì không
những tự tin mà còn tin vào lời tâu của các quan, các thái y trong
triều là vua vẫn mạnh khỏe. Sau thời gian nữa Tần hoãn lại nài nỉ xin
vua cho chữa bệnh thì bị đuổi đi. Đến khi vua phát bệnh nặng cho tìm Tần
Hoãn thì ông đã bỏ trốn. Sau khi bị tìm được, bắt về chữa bệnh thì Tần
Hoãn thưa: Ban đầu bệnh của Hoàng thượng mới là mầm mống, có thể uống
thuốc để chữa. Tiếp đến, bệnh phát triển vào máu, có thể dùng châm cứu
để chữa, nhưng vì không chữa nên để nặng thêm. Đến khi bệnh phát ra da,
tuy nặng rồi nhưng trong uống, ngoài xoa vẫn còn có thể chữa. Còn đến
bây giờ bệnh đã vào đến tủy thì hạ thần đành chịu bó tay. Tề Hoàn Công
và thân tín của ông trong thời gian dài không dám nói là ông có bệnh,
chỉ có một người biết và dám nói thì bị đuổi đi.
Mầm
bệnh của chủ nghĩa Mác cũng giống như của hai người vừa kể, nó đã tồn
tại rất lâu, ngay từ lúc chủ nghĩa mới hình thành, ngay cả lúc chủ nghĩa
tỏa hào quang rực rỡ, làm say đắm hàng triệu chiến sỹ cách mạng. Hình
như một lúc nào đó Mác cũng cảm nhận được là nếu không khéo thì sau khi
cách mạng thành công sẽ phát sinh những bệnh không mong muốn. Nhưng Mác,
vì bị lòng tốt và tình cảm với giai cấp vô sản chi phối mà đã tin rằng
bệnh có thể được ngăn ngừa. Mác tưởng rằng những người theo học thuyết
của ông để làm cách mạng đều có được nhận thức và đạo đức như ông. Nếu
quả như thế thì đó là một nhầm lẫn lớn!
Nhiều học
thuyết về xã hội, về triết học thường bắt đầu bằng việc đánh giá con
người (nhân chi sơ tính bổn thiện hoặc là tính bổn ác). Mác cũng đánh
giá: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Mác thấy con người
của xã hội tư hữu có nhiều đức tính xấu xa, tham lam, ích kỷ, không dung
hòa được mâu thuẩn giữa quyền lợi cá nhân và cộng đồng, là cá lớn nuốt
cá bé, v.v. Mác thấy giai cấp vô sản không những đáng thương vì bị bóc
lột mà còn đáng yêu, đáng tin, đáng kính trọng vì họ đoàn kết, thương
yêu, đùm bọc nhau, sẵn sàng hy sinh vì quyền lợi giai cấp. Mác bị ảnh
hưởng nhiều bởi học thuyết Đac–uyn, cho rằng môi trường, hoàn cảnh có
ảnh hưởng quyết định đến sự tiến hóa của muôn loài. Mác tin chắc thói
xấu của con người là do tư hữu sinh ra. Khi làm được cách mạng vô sản,
đưa người vô sản lên cầm quyền để quản lý xã hội, xóa bỏ tư hữu, thiết
lập nền công hữu thì giai cấp vô sản dễ dàng xử lý mâu thuẩn giữa quyền
lợi cá nhân và cộng đồng, xóa bỏ thói tham lam ích kỷ, mọi người sẽ đoàn
kết, thương yêu nhau, làm việc tự giác, đối xử công bằng.
Mác
đã nhận thức nhầm về bản chất con người, đánh giá quá cao những đức
tính của giai cấp vô sản. Điều này cũng do vận dụng học thuyết duy vật
của ông. Ông cho rằng vật chất có trước và quyết định ý thức, ông phủ
định phần tâm linh nơi con người, ông không biết rằng tính tham lam, ích
kỷ đã được hình thành từ trong bào thai, là một phần thuộc tiên thiên,
hoàn cảnh xã hội chỉ làm tăng thêm hoặc giảm bớt mà thôi. Ông không biết
rằng một con người khi còn là vô sản có nhiều đức tính tốt vì hạt giống
xấu chưa có điều kiện nẩy mầm, nhưng khi đã trở thàmh người có quyền,
mà lại là độc quyền thì các hạt giống tốt sẽ thui chột đi, nhường miếng
đất màu mỡ cho các hạt giống tư lợi, độc đoán phát triển.
Khi
quan sát sự nghèo đói của vô sản, Mác quá đề cao nguyên nhân không có
tư liệu sản xuất mà coi nhẹ một nguyên nhân khác cũng vô cùng quan
trọng, đó là những người nghèo đói nhất trong giai cấp vô sản thường là
do ngu dốt, lười biếng.
Mác quá tin, quá đề cao
vai trò của vô sản nên đã suy đoán rồi rút ra kết luận là cách mạng vô
sản là tất yếu. Đã hơn 150 năm kể từ khi Mác công bố Tuyên ngôn của các
đảng cộng sản, lời dự đoán về cách mạng vô sản đã không được kiểm chứng.
Mác là người tạo ra tiên đề để Lênin rút ra kết
luận tất yếu phải thiết lập chuyên chính vô sản, cho rằng chính quyền
nhà nước là của giai cấp này nhằm thống trị giai cấp khác đối lập. Đó là
những kết luận rất sai lầm, nó tạo ra sự độc quyền, chuyên chế, đàn áp
những tư tưởng và xu hướng khác biệt. Nhà nước của giai cấp theo Lênin
có lẽ chỉ xảy ra dưới thời phong kiến và cộng sản, còn bình thường thì
nhà nước là cơ quan quản lý xã hội, nhằm dung hòa quyền lợi và nghĩa vụ
giữa các tầng lớp. Lý luận về đấu tranh giai cấp, về chuyên chính vô
sản, về công hữu hóa tư liệu sản xuất do Mác và Lênin vạch ra đã được
những người kế tiếp như Stalin, Mao Trạch Đông phát triển thành những
thảm họa như cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, cách mạng văn hóa, đàn
áp những xu hướng tư tưởng và xã hội khác biệt.
Trong
khi đảng cộng sản thắng lợi ở một số nước nông nghiệp nghèo như Nga,
Trung Quốc, Việt Nam thì ở nhiều nước tư bản phát triển, các đảng xã hội
đi ngược lại với Mác, chủ trương không làm cách mạng vô sản mà tiến
hành cải cách xã hội theo phương hướng dung hòa quyền lợi. Họ đã tạo nên
xã hội tốt đẹp, phát triển như các nước Na Uy, Đan Mạch, Thụy Điển, Hà
Lan, Đức, Anh, Thụy Sĩ, v.v.
Mác đã rất tin vào
thắng lợi tất yếu và rất tốt đẹp của cách mạng vô sản mà không thấy hết
sự phá hoại nhiều thứ do cuộc cách mạng đó mang lại. Mác đã rất đơn giản
khi tin và cố chứng minh rằng trong xã hội do vô sản lãnh đạo với sự
công hữu tư liệu sản xuất thì mọi thứ đều phát triển tốt đẹp. Mác rất
nhầm khi cho rằng giai cấp công nhân là đại diện cho nền sản xuất hiện
đại, đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến. Mác đã không dự đoán
được rằng một số không nhỏ những người, mới hôm qua, lúc đang vận động
làm cách mạng thì tỏ ra rất tốt, rất ưu tú, nhưng hôm nay, khi đã nắm
quyền lực thì trở nên tư lợi, độc đoán, họ lại đi theo vết xe của bọn
thống trị đã bị họ lật đổ trước đó. Điều ấy là nằm trong bản chất của số
đông con người chứ không phải thuộc bản chất giai cấp.
Tôi
nhớ ở đâu đó Mác có viết là độc quyền sẽ dẫn đến thoái hóa, điều đó là
đúng cho mọi lĩnh vực, thế nhưng người ta lại chỉ vận dụng cho kinh tế
tư bản, còn đối với chính trị cộng sản và kinh tế quốc doanh thì người
ta lại cố bảo vệ sự độc quyền.
Khi phân tích sự
sụp đổ của Liên xô, nhiều người chỉ ra 2 nguyên nhân cơ bản là sự thiếu
dân chủ trong đảng cộng sản cầm quyền, là cán bộ cấp cao chưa thực sự
giác ngộ về giai cấp, thiếu rèn luyện nên thoái hóa, biến chất. Khi phân
tích những tiêu cực, những tệ hại của xã hội VN hiện nay người ta cũng
cho rằng nguyên nhân cơ bản là một số đông đảo cán bộ các cấp, các ngành
thoái hóa, biến chất, không giữ được đạo đức cách mạng. Tôi nghĩ rằng
những nguyên nhân đó chỉ là lá, là ngọn, dễ thấy, còn có nguyên nhân của
nguyên nhân, là thân, là gốc được ẩn dấu trong đất sâu mà người ta
không thấy hoặc thấy mà không dám đụng tới, không dám đào bới.
Thử
hỏi một đảng cộng sản hùng mạnh như của Liên xô, của VN, điều lệ viết
rõ ràng về quyền dân chủ, về phê bình và tự phê bình, về nghĩa vụ tu
dưỡng đạo đức, mỗi lần đại hội đều nêu cao khẩu hiệu chọn người đủ đức,
đủ tài vào cấp ủy, thế thì cái gì sinh ra và dung dưỡng cái bọn mất dân
chủ, cái bọn thoái hóa ấy? Tôi đoán rằng chúng được sinh ra từ hạt giống
đã được gieo từ trước, đã được dấu kín trong một thời gian từ trong bản
chất của học thuyết. Đó là hạt giống chuyên chính, hạt giống độc quyền.
Hạt giống này do Mác và Lênin do vô tình hoặc cố ý đã gieo vào học
thuyết chuyên chính vô sản, nó cứ nằm im, nằm im mãi, chờ cho đến khi
đảng cộng sản nắm được quyền lực thống trị thì mới nẩy mầm và phát
triển.
Có một câu châm ngôn từ xưa như sau:
“muốn biết đạo đức một người như thế nào hãy trao cho quyền lực và xem
họ sử dụng quyền ấy như thế nào”. Ngày nay có thể suy ra, muốn biết thực
chất một đảng như thế nào, hãy xem họ sử dụng quyền lực ra sao. Còn
việc nói cho hay, tuyên truyền cho giỏi để lừa nhân dân thì tầng lớp
thống trị nào cũng nói được rất tốt, kể cả Napoléon, Hitler, Nhật hoàng
phát xít, Pol Pot…
Trong tác phẩm Karl Marx, Peter Singer viết “Quan niệm của Mác về bản tính con người là sai lầm, nó không dễ thay đổi như ông tưởng”. Peter còn nhận xét “chúng ta có những bằng chứng mà Mác không có”
do đó chúng ta phát hiện ra sai lầm của Mác. Trong tác phẩm Giai cấp
mới, Milovan Djilas vạch ra tính tất yếu của việc “toàn trị của một giai
cấp mới, đó là các đảng cộng sản cầm quyền”.
Nguyễn
Ái Quốc đưa chủ nghĩa Mác – Lênin vào VN với mong muốn vận dụng để lãnh
đạo nhân dân đánh đuổi thực dân, giành độc lập, làm cách mạng dân tộc
phản đế. Ông cũng nhận thấy chuyên chính vô sản có thể gây ra những bệnh
tật không mong muốn nên đã sớm viết tài liệu “Sửa đổi lề lối làm việc”
để huấn luyện đảng viên, cán bộ nhằm ngăn ngừa các thói hư tật xấu từ
độc quyền đến mất dân chủ, từ độc quyền đến thoái hóa, biến chất, tham
ô, lãng phí. Thế nhưng ông đã phải chấp nhận lý thuyết đấu tranh giai
cấp mà làm luôn cách mạng dân chủ phản phong, cách mạng vô sản xây dựng
XHCN. Ông đã rất muốn ngăn ngừa sự thoái hóa biến chất nhưng rồi không
thể nào ngăn được vì nó đã có sẵn trong chủ thuyết.
Chủ
nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam mang theo sự chuyên chính, sự độc quyền
của đảng cộng sản, làm phát sinh một giai cấp mới với đặc quyền đặc lợi,
với sự độc đoán và tham nhũng, làm chậm lại sự phát triển của đất nước.
Trong tình hình của thế giới hiện nay nhiều điều cơ bản của chủ nghĩa
Mác tỏ ra không còn đúng.
Trong phương châm phát
triển đất nước, trong dự thảo hiến pháp vẫn nêu quyết tâm kiên trì chủ
nghĩa Mác – Lê nin, kết hợp tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong
một hội thảo khoa học của Hội Cựu giáo chức tôi có liều mạng phát biểu
là để bảo vệ sự đúng đắn và trong sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh thì nên
tách tư tưởng đó ra khỏi chủ nghĩa Mác, và để phát triển đất nước trong
giai đoạn mới thì nên từ bỏ chủ nghĩa Mác. Lời phát biểu ấy đã bị một số
người lên án một cách thầm lặng hoặc công khai, nhưng cũng được nhiều
người tỏ ra tán thành một cách dè dặt.
N. Đ. C.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
KẾ HOẠCH 383 CỦA TRUNG HOA CHỈ LÀ MỴ DÂN VÀ THẾ GIỚI
Bài đọc liên quan:
Với bẫy thu nhập trung bình, và tình trạng hủy hoại tài nguyên, thiên
nhiên đã buộc chính quyền mới của Trung Hoa phải cải cách. Hội nghị lần
thứ 3 đang diễn ra tại Bắc Kinh trong 3 ngày 9 đến 12/11/2013 đã đưa ra
một đề án gọi là 383. Với mộng ước tăng gấp đôi thu nhập trung bình từ
hơn 6.000USD/đầu người lên đến 12.616USD/đầu người trong vòng 10 năm tới
cho hơn 1,3 tỷ dân, để chiếm vị trí quán quân của cường quốc kinh tế số
1 toàn cầu cho giấc mộng Trung Hoa.
Vậy kế hoạch 383 có những gì về mặt bản chất và hiện tượng chúng ta cần
nghiên cứu để nhìn thấy tư tưởng của thế hệ thứ 6 Trung Hoa đang muốn
gì? Họ sẽ làm gì? Và tương lai kinh tế, chính trị của Trung Hoa, khu vực
và toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng ra sao. Đó là 3 câu hỏi cần nên giải quyết
trong ngắn và dài hạn đối với các cường quốc và nước nhỏ, không chỉ
trong khu vực và trên toàn thế giới.
Với 383, đầu tiên, nó mô tả mối quan hệ giữa ba thành phần chính của nền
kinh tế Trung Quốc: Chính phủ, doanh nghiệp, và thị trường.
Thứ hai, nó xác định 8 lĩnh vực quan trọng của cải cách: quản lý, chính
sách cạnh tranh, đất đai, ngân hàng tài chính, tài chính công, tài sản
nhà nước, đổi mới, và tự do hóa thương mại và tài chính quốc tế.
Thứ ba, nó làm nổi bật ba mục tiêu tương quan: giảm bớt áp lực bên ngoài
cho thay đổi chính sách trong nước, xây dựng toàn diện xã hội thông qua
một chương trình an sinh xã hội cơ bản, và giảm tình trạng không hiệu
quả, bất bình đẳng, và tham nhũng thông qua cải cách ruộng đất ở nông
thôn.
Về hiện tượng, đây là một sự cải cách to lớn nhất, mà chính quyền Trung
Hoa đang tuyên truyền rằng kể từ năm 1978, sau khi Đặng Tiểu Bình đưa
Trung Hoa có 3 thập kỷ tăng trưởng thần kỳ. Nhưng, thực chất là, họ Đặng
dễ dàng thành công hơn thế hệ hiện tại. Vì chuyển đổi từ nền kinh tế tự
cung, tự cấp với dân số đông nhất thế giới, giá nhân công rẻ, sang nền
kinh tế thị trường định hướng mang màu sắc văn hóa phong kiến Trung Hoa,
giao lưu mở cửa đầu tư với toàn cầu, sẽ dễ dàng hơn việc mà thế hệ hiện
nay sẽ làm.
Về mặt bản chất, cái mà chính quyền hiện nay ở Trung Hoa hoàn toàn không
cải cách gì. Về kinh tế, họ vẫn khẳng định sở hữu công tư liệu sản
xuất. Về chính trị
để bảo vệ quyền lợi của giai cấp cầm quyền tiếp tục tham nhũng, và độc
quyền kinh tế ăn chia, họ tiếp tục giữ một chế độ chính trị đơn nguyên
tập quyền phong kiến kiểu mới.
Dưới cái nhìn triết học, thế hệ thứ 6 đang cai trị ở Trung Hoa dưới hiện
tượng của màu cờ cộng sản, nhưng bản chất là tư bản hoang dã, một kiểu rượu cũ, nhưng bình mới.
Cũng dưới cái nhìn triết học, thế hệ thứ 6 đang cầm quyền của Trung Hoa
đang giơ ra chiêu bài mỵ dân và cả thế giới là cải cách, nhưng đó chỉ là
hiện tượng, còn bản chất thì họ vẫn giữ nguyên bản chất của một tập
đoàn phong kiến kiểu mới để tiếp tục ăn chia tài nguyên, mồ hôi nước mắt của nhân dân Trung Hoa như các thế hệ trước đây.
Qua Trung Hoa, chúng ta cũng dễ dàng thấy 2 việc lớn đối với Việt Nam nói riêng, và khu vực và thế giới nói chung như sau:
Thứ nhất là, các chuyến công du của lãnh đạo mới của Trung Hoa, trong đó
có Việt Nam là ý đồ xoa dịu, và áp đặt ý muốn cai trị của họ đến các
quốc gia láng giềng, và trên toàn cầu. Điều này thể hiện qua, hiến pháp
Việt Nam hầu như không thay đổi gì, dù đã tốn tiền bạc, sức người trong 1
năm qua, mà quốc hội Việt Nam đang tốn kém của cải đóng thuế của dân để
bàn chuyện ngoài lề luật pháp như: bác sỹ Cát Tường hủy xác bệnh nhân
sau tai biến; chuyện phù thủy giả danh ăn chia tiền chính sách đi tìm
liệt sỹ; v.v...
Thứ hai là, các quốc gia láng giềng của Trung Hoa cần phải cảnh giác về
giấc mộng bá chủ châu Á, và đi đến bá chủ toàn cầu trong sự trổi dậy
trong hung hãn của Trung Hoa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét