Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 16 tháng 12, 2013

‘VN không hai lòng trong quan hệ với TQ’ & Dự án vận động: Phong trào dân sự bảo vệ dân sinh môi trường

‘VN không hai lòng trong quan hệ với TQ’

Đôi lời: Chỉ hai chữ thôi – “hai lòng” là lộ rõ một thái độ hèn hạ của một kẻ lệ thuộc và cung cúc chấp nhận lệ thuộc toàn diện. Đọc vào cả bài phỏng vấn càng lộ rõ điều đó. 
Cả bài chỉ có 3 điều, bao gồm mấy chữ “không hai lòng”, ” vấn đề phức tạp” và việc kể lể về hàng loạt những cuộc gặp gỡ cấp cao, những cố gắng này nọ, rồi đường dây nóng, v.v.. cứ như thể cả hai đảng, nhà nước VN, TQ đều tử tế với nhau, chỉ có bọn nào đó, ở đâu đó gây ra những mâu thuẫn, căng thẳng trên Biển Đông, được gọi chỉ với hai chữ “phức tạp”, được lảm nhảm lặp đi lặp lại. 
Suốt hai năm 2011-2012, cho tới 2013 là bắt bớ, giết hại ngư dân VN, cắt cáp tàu dầu khí VN, ngang nhiên thành lập chính quyền Tây Sa, Nam Sa, … và đểu cáng nhất là hành động tuyên bố “đường lưỡi bò”, thế mà chúng chỉ được gói gọn trong hai chữ “phức tạp”. Kẻ ăn ở hai lòng chính là chính quyền Cộng sản Trung Quốc, nhưng ông Đại sứ đã không hé răng được nửa lời để độc giả thấy được điều đó.
Để cảm thông chút xíu với ông ta, đành đoán già đoán non rằng bên trong, đằng sau những lời lẽ hèn hạ, dối trá đó, là những cuộc họp, các bản báo cáo nội bộ, gần nhất là Hội nghị ngoại giao bắt đầu từ hôm nay, nói lên những thực tế cực kỳ nguy hiểm, là những lúng túng của nhà cầm quyền VN.
Thế nhưng, đúng với bản chất của chế độ CS lừa bịp này, là họ luôn cố che đậy những thực tế tệ hại, dối lừa người dân, làm ngơ trước những mất mát, thiệt hại và đời sống cùng cực của của dân để vẫn một mục tiêu tối thượng: giữ ổn định chính trị.
Cũng cuộc phỏng vấn này, mời đọc thêm bài trên Sài Gòn tiếp thị, để biết với cả vấn đề “nhập siêu” triền miên, ngày càng khủng khiếp của VN với TQ, ông Đại sứ cũng đổ tại … nước mình và thằng “cơ chế thị trường” hết, rồi vẫn bài xoa dịu, rằng “phải từng bước, không phải một chốc một lát”. Vâng, thưa ngài đại sứ, cứ từng bước để chỉ trong 12 năm qua, mức nhập siêu từ TQ đã tăng lên … 100 lần rồi. Đó có phải là thành công to lớn của chính quyền CSVN dần đưa nước mình trở thành thuộc quốc của TQ?
BT
VietnamNet
16/12/2013 00:08 GMT+7
 - “Chính sách nhất quán của Việt Nam là coi trọng phát triển quan hệ hữu nghị, tăng cường hợp tác toàn diện với Trung Quốc. Chúng ta không có hai lòng. Thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện với Trung Quốc cũng góp phần vào hòa bình, ổn định trong khu vực và thế giới”.
Trước thềm Hội nghị ngoại giao 28 khai mạc chính thức sáng nay (16/12) tại Hà Nội, Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Văn Thơ trao đổi với VietNamNet về quan hệ Việt – Trung trong năm 2013. 
Thúc đẩy quan hệ ổn định, lành mạnh
Thưa Đại sứ, quan hệ Việt – Trung hai năm trước 2013 có những vấn đề phức tạp nổi lên như tàu cá, ngư dân, tranh chấp trên biển. Nhưng năm nay, quan hệ song phương đã có những cải thiện tích cực. Đánh giá của ông về những những nét tích cực nổi bật?
Quan hệ Việt – Trung từ khi bình thường hóa đến nay có những bước phát triển tích cực trên nhiều mặt. Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được những nhận thức chung, những thỏa thuận rất quan trọng, làm sao làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước.
1
Tuy nhiên trong năm 2011-2012 có những vấn đề phức tạp nổi lên trong quan hệ hai nước, đặc biệt là tranh chấp ở Biển Đông. Chúng ta luôn xác định đây là vấn đề phức tạp, lâu dài, tế nhị, phải từng bước giải quyết trên cơ sở hiệp thương hữu nghị, giải quyết trên cơ sở căn cứ luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982.
Trong năm qua tiếp xúc cấp cao có điện đàm của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng với Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình, chuyến thăm cấp nhà nước Trung Quốc của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, cuộc gặp của Thủ tướng hai nước tại Nam Ninh, và gần đây nhất là chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Lý Khắc Cường, qua đó quan hệ song phương có những bước phát triển mới.
Hai bên đã đạt được nhận thức quan trọng làm sao thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác hai nước một cách ổn định và lành mạnh. 
Đặc biệt, trong chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Lý Khắc Cường, hai bên nhất trí thành lập 3 nhóm công tác về cơ sở hạ tầng, về hợp tác tiền tệ và nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển trong khuôn khổ đoàn đàm phán cấp chính phủ về biên giới lãnh thổ. 
Chính sách nhất quán của Việt Nam là coi trọng phát triển quan hệ hữu nghị, tăng cường hợp tác toàn diện với Trung Quốc. Chúng ta không có hai lòng. Đấy là lợi ích của nhân dân Việt Nam, thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện với Trung Quốc cũng góp phần vào hòa bình, ổn định trong khu vực và thế giới.
Những tiến triển trong quan hệ Việt – Trung là mong muốn của lãnh đạo cũng như của nhân dân Việt Nam, làm sao xây dựng quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Tôi cho rằng trong năm 2013, quan hệ hai nước đã có những bước phát triển tích cực.
Tôn trọng luật pháp quốc tế
Với Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển, cụ thể hai bên sẽ làm việc với nhau thế nào, thưa Đại sứ?
Nhiệm vụ của nhóm này là bám sát Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc đã đạt được trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng năm 2011 và nhận thức chung của lãnh đạo hai nước, căn cứ luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982.
2
Theo đó hai bên cùng làm việc trên nguyên tắc tuần tự từng bước, từ dễ đến khó, bàn bạc, nghiên cứu khả năng hợp tác cùng phát triển tại Biển Đông. 
Trước tiên phải thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. 
Thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển như nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ, hợp tác trên các lĩnh vực bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và kết nối giao thông trên biển…
Từng bước giải quyết vấn đề Biển Đông
Với nguyên tắc xác định rõ ràng như vậy, liệu dư luận ở Trung Quốc có hiểu chệch theo hướng “gác tranh chấp cùng khai thác” không, thưa ông?
Chúng ta nói hợp tác cùng phát triển trên Biển Đông nhưng hợp tác gì cũng phải phù hợp với luật pháp của Việt Nam, với luật pháp quốc tế, Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982. Và hợp tác gì thì hợp tác cũng trên cơ sở quốc tế, hữu nghị, chứ không phải hợp tác chung chung.
Chúng ta luôn xác định vấn đề Biển Đông là vấn đề phức tạp, lâu dài, tế nhị. Thiết lập nhóm công tác trên cũng là thể hiện tinh thần chủ động, tích cực, thiện chí của Việt Nam với mong muốn từng bước giải quyết ổn thỏa vấn đề Biển Đông, đóng góp thiết thực vào việc duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các bên liên quan. 
Tuy nhiên, bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển là một quá trình lâu dài và phức tạp. Điều quan trọng là các bên liên quan cần phải có thiện chí và phải tuân thủ luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước LHQ về Luật Biển 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
Một trong những kết quả của chuyến thămTrung Quốc của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang năm nay, đó là thiết lập đường dây nóng giải quyết các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển giữa hai nước. Việc triển khai thực hiện đường dây nóng ra sao, thưa ông?
Thỏa thuận thiết lập đường dây nóng nhằm giải quyết các vấn đề nổi lên trong quan hệ hai nước liên quan đến hoạt động nghề cá của ngư dân. Thỏa thuận này đang được thúc đẩy triển khai góp phần tạo ngư trường thuận lợi cho ngư dân Việt Nam tiến hành hoạt động đánh bắt cá.
Linh Thư

Dự án vận động: Phong trào dân sự bảo vệ dân sinh môi trường

Tác giả dự án: Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng
Ý tưởng dự án:
- Cần giải thích trung thực và thẳng thắn rằng tác giả không xây dựng dự án này để tạo ảnh hưởng cá nhân, mà chỉ muốn đóng góp cho xã hội dân sự Việt Nam bằng vào những phong trào dân sự hành động vì người nghèo, những người bị tổn thương do vấn nạn thu hồi đất và nạn nhân môi trường.
- Dự án này có thể được vận dụng tại nhiều địa phương tùy theo các đặc điểm và điểu kiện, với nhiều tên gọi và hình thức khác nhau.

- Trước mắt, có thể dùng hình thức “phong trào” cho dự án như một phương thức mang tính tập hợp rộng rãi nhiều thành phần.
- Trong giai đoạn đầu, Phong trào có thể được triển khai ở miền Bắc với sự tham gia của giai tầng dân oan đất đai Văn Giang, Trịnh Nguyễn, Dương Nội…, cùng một số trí thức đồng cảm với nông dân. Tác giả dự án đề xuất một số trong những trí thức này có thể đảm nhận vai trò lãnh đạo Phong trào như luật sư Lê Thị Công Nhân, bà Lê Hiền Đức, nhà văn Nguyễn Tường Thụy, TS. Nguyễn Xuân Diện, TS. Nguyễn Quang A, luật sư Nguyễn Văn Đài… 
- Phong trào cũng cần được triển khai ngay ở khu vực miền Trung với người dân các tỉnh Đắc Lắc, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên… là nạn nhân của đợt xả lũ thủy điện vào nửa cuối năm 2013.
Dưới đây là bản luận chứng khung về Phong trào:
  • Tính cấp bách của Phong trào:
Sau gần bốn chục năm từ khi đất nước thu về một mối, chưa bao giờ Việt Nam lại rơi vào tình cảnh kinh tế lụn bại, nạn tham nhũng và các nhóm lợi ích mặc sức hoành hành, xã hội nhiễu nhương đạo lý, chính trị bất nhất đạo đức, người dân phẫn uất… như hiện thời.
Những người dân mất đất do nạn trưng thu đất đai vô lối, những người dân phải chịu thảm cảnh môi trường do thái độ và hành vi vô trách nhiệm của quan chức chính là nạn nhân đỉnh điểm của cơn khủng hoảng xã hội.
Trong cơn khủng hoảng đầy u uất đó, rất nhiều người muốn có một sự thay đổi lớn lao.
Làm sao để có được sự thay đổi ấy?
Xã hội dân sự và các phong trào dân sự là một trong những phương cách tốt nhất để tạo nên sự thay đổi cấp thiết đó.
Được sinh ra từ lòng xã hội dân sự, phong trào dân sự không phải là một khái niệm cao siêu mà giai cấp nông dân và công nhân không thể với tới được. Ngược lại, hoạt động dân sự trong xã hội dân sự là những gì thiết thân và gần gũi nhất với đời sống dân sinh, nhằm hỗ trợ giải quyết một cách thấu tình đạt lý những bức xúc của dân chúng liên quan đến nhiều chủ đề thiết thực trong hiện tồn Việt Nam như tham nhũng, đất đai, môi trường, quyền lợi người lao động, thị trường, các chính sách công bất hợp lý…
Đó là những cơ sở để thành lập một phong trào hỗ trợ nông dân, công nhân và nạn nhân môi trường.
Phong trào dân sự có thể có một trong những tên gọi sau:
Phong trào Dân quyền
Phong trào Dân quyền Việt Nam
Phong trào Dân quyền và nhân quyền
Phong trào Bảo vệ dân sinh môi trường
Phong trào Dân sinh, Dân chủ và Dân trí
……..
  • Tính pháp lý của Phong trào:
Phong trào hoạt động dựa trên:
- Hiến pháp năm 2013 về các quyền công dân về việc lập hội.
- Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Nhà nước Việt  Nam đã ký kết vào năm 1982, về các quyền dân sự của người dân như lập hội nhằm mục tiêu hoạt động xã hội.
- Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc mà Nhà nước Việt Nam trở thành thành viên chính thức vào tháng 11/2013 với nhiệm kỳ 2014-2016.
  • Định hướng của Phong trào:
- Phong trào hướng đến việc hỗ trợ, giúp đỡ những người dân, khu vực dân cư bị tổn thương, thiệt hại bởi các tác động tiêu cực từ thu hồi đất, môi sinh, môi trường làm việc và môi trường tự nhiên.
- Những lĩnh vực mà Phong trào chú trọng tác động là đất đai, môi trường.
- Những đối tượng mà Phong trào tác động là nông dân chịu tác động tiêu cực bởi việc thu hồi đất, công nhân chịu tác động tiêu cực bởi điều kiện làm việc, người dân chịu tác động tiêu cực bởi sự tàn phá môi trường; các doanh nghiệp là chủ thể gây ra những bất công về dân sinh, đất đai môi trường; các cơ quan quản lý nhà nước cùng các chính sách, văn bản bất hợp lý, bất công liên quan; các tổ chức quốc tế liên quan đến những lĩnh vực hoạt động của Phong trào.
- Phong trào có phạm vi hoạt động trên toàn quốc, tập trung vào những tỉnh, thành phố xảy ra tình trạng tiêu cực gay gắt đối với dân sinh, đất đai và môi trường.
  • Mục tiêu của Phong trào:
- Hỗ trợ người dân giải quyết phần nào những thiệt thòi phải gánh chịu từ các chính sách bất hợp lý và bất công, quá trình thực hiện chính sách thiếu công bằng hoặc phát sinh tiêu cực
- Hỗ trợ nông dân và thị dân giải quyết những bất hợp lý và bất công liên quan đến đất đai như cơ chế thu hồi đất, giá cả bồi thường, chế độ cưỡng chế, tái định cư, việc làm sau giải tỏa, hành động khiếu kiện và khiếu tố, những trường hợp bị bắt giữ, bắt giam và chịu án do đấu tranh phản đối bất công trong thu hồi đất…
- Hỗ trợ công nhân giải quyết những bất hợp lý và bất công liên quan đến điều kiện làm việc như chế độ lương, cường độ làm việc, chế độ nghỉ việc, bị đối xử thô bạo hoặc bị bạo hành tại nơi làm việc…
- Hỗ trợ người dân giải quyết những bất hợp lý và bất công liên quan đến môi trường như nạn ô nhiễm môi trường trong không khí, sông hồ và dưới lòng đất, tình trạng xả lũ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh mạng và môi trường, tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi gây ảnh ưởng đến môi trường sống và môi trường tự nhiên…
- Kêu gọi, vận động các tổ chức quốc tế liên quan đến những lĩnh vực hoạt động của Phong trào, kể cả những nhà nước tiến bộ trên thế giới ủng hộ Phong trào và tác động đến Nhà nước Việt Nam nhằm giải quyết và khắc phục tình trạng tiêu cực về dân sinh, đất đai và môi trường.
  • Phương châm hành động của Phong trào:
- Phong trào là một thành phần của Xã hội dân sự ở Việt Nam, lấy mục tiêu xã hội làm trọng yếu.
- Phong trào hành động theo phương châm “Công bằng, bền vững và vì mọi người” của các tổ chức phi chính phủ tại các quốc gia phát triển trên thế giới.
- Phong trào hoạt động theo phương châm ôn hòa, bất bạo động, không nhằm mục tiêu thay thực hiện hành vi chính trị như thay thế hoặc lật đổ chính quyền.
  • Phương pháp hành động của Phong trào:
- Vận dụng hệ thống truyền thông với vai trò đặc biệt của báo chí trong nước và quốc tế nhằm chuyển tải những nội dung cần cảnh báo, phân tích, điều tra, tố cáo.
- Tiếp cận chặt chẽ với người dân và những đối tượng bị tổn thương bởi bất công xã hội. Xây dựng các nhóm hành động công bằng trong nông dân, công nhân và thị dân.
- Thực hiện hình thức thu thập chữ ký trên mạng và trên giấy đối với các văn bản liên quan đến đến nội dung hoạt động của Phong trào như Tuyên bố, Kiến nghị, Thông báo… Tổng hợp chữ ký được gửi đến các cơ quan chức năng của chính quyền và những doanh nghiệp liên quan.
- Gửi đơn thư khiếu nại và kiến nghị trực tiếp đến các cơ quan chính quyền và doanh nghiệp, hoặc gián tiếp qua mạng Internet hoặc bưu điện.
- Trong hình thức kiến nghị trực tiếp, Phong trào tổ chức nhóm làm việc, trao đổi, đối thoại với các cơ quan chính quyền và doanh nghiệp liên quan.
- Phối hợp và liên kết với các tổ chức phi chính phủ quốc tế nhằm tác động đến các cơ quan chính quyền, doanh nghiệp có liên quan ở Việt Nam.
- Tổ chức sinh hoạt về các chủ đề kinh tế, xã hội, giáo dục, văn hóa, khoa học với hình thức diễn giả và hội thảo, tọa đàm.
- Thực hiện những hình thức phản biện và phản đối khác nếu thấy cần thiết.
  • Tổ chức của Phong trào:
- Phong trào là tập hợp tự nguyện của trí thức, công nhân và nông dân – những người tự nguyện dấn thân vì cộng dồng, không phân biệt thành phần và tôn giáo. Phong trào mong mỏi nhận được sự tham gia và hỗ trợ của thành phần trí thức đương nhiệm trong hệ thống đảng và chính quyền.
- Ban điều hành: Phong trào được đại diện bởi ban điều hành. Ban điều hành được phân công hợp lý theo các lĩnh vực phụ trách.
- Địa điểm sinh hoạt: Phong trào cần có một địa điểm thường xuyên để sinh hoạt về thông tin và phương thức, cách thức đấu tranh đòi quyền lợi.
- Tài chính: do sự đóng góp tự nguyện của các thành viên tham gia. Phong trào kêu gọi tấm lòng hảo tâm tương thân tương ái của các doanh nghiệp, trí thức và người dân trong nước và hải ngoại.
- Đào tạo: Phong trào chú trọng đến hoạt động đào tạo về kỹ năng truyền thông, vận động, diễn giả, đối thoại với cơ quan công quyền và doanh nghiệp, luật pháp…
* Lộ trình và hành động cụ thể của Phong trào:
- Phong trào ra tuyên bố hình thành.
- Dân oan và người chịu tổn thương ký tên vào Tuyên bố của Phong trào.
- Phong trào ký tên bên cạnh kiến nghị, khiếu nại của dân oan.
- Các cuộc khiếu kiện của dân oan mang danh nghĩa Phong trào, có biểu ngữ của phong trào.
- Gửi Tuyên bố của Phong trào cho các các tổ chức nhân quyền và môi trường quốc tế, được dịch sang tiếng Anh và Pháp.
- Vận động giới truyền thông quốc tế đưa tin bài về các vụ việc khiếu kiện.
- Người của Phong trào và dân oan phối hợp đến các cơ quan công quyền, đại biểu, doanh nghiệp và báo chí để gửi đơn thư khiếu nại, tổ chức đối thoại và chất vấn.
- Tổ chức văn phòng pháp lý giúp dân oan.
- In tờ rơi về nội dung khiếu nại và quyền con người để phát cho người dân.
- Tổ chức sinh hoạt chuyên đề, trao đổi thông tin, hội thảo, tọa đàm và định hướng đưa tin bài.
- Tổ chức đào tạo các kỹ năng, phối hợp với các tổ chức quốc tế.
- Tổ chức đào tạo và thực hành kỹ năng diễn thuyết.
- Tổ chức cho thành viên đi học ở nước ngoài về xã hội dân sự và hoạt động phi chính phủ.
- Vận động trí thức trong đảng và người dân tham gia Phong trào.
- Liên kết với một số hội đoàn nhà nước như Hội đất đai, Hội thủy lợi, Hội thủy sản, Hội môi trường, Liên đoàn lao động…
- Kiến nghị với ngành công an về một số vấn đề bảo vệ trật tự trị an xã hội.
- Hỗ trợ người dân hiểu biết hơn về quyền con người và các quyền dân sự mà họ có để khiếu kiện và đấu tranh. Hỗ trợ người dân biết và hiểu những kết quả có được từ đấu tranh chủ yếu xuất phát từ tác động của dân chúng và quốc tế chứ không phải từ các cơ quan công quyền vô cảm.
- Phong trào có thể phối hợp với các nhóm xã hội trong tôn giáo như Công giáo, Phật giáo hòa hảo thuần túy, Phật giáo.
- Vận động các tổ chức quốc tế bảo trợ và tài trợ cho hoạt động nghiên cứu về xã hội dân sự và phong trào dân sự quần chúng tại Việt Nam.
  • Liên kết và hợp tác quốc tế:
- Phong trào tiến hành mối liên kết và hợp tác sâu rộng với những tổ chức phi chính phủ quốc tế về những vấn đề dân sinh, đất đai và môi trường.
- Phong trào cần đặc biệt lưu tâm để có mối quan hệ gắn bó với những tổ chức phi chính phủ quốc tế có mối quan tâm đến tình trạng bất bình đẳng trong xã hội Việt Nam như DANIDA (Đan Mạch), SIDA (Thụy Điển), Global Witness (trụ sở tại Anh), Tổ chức Hòa bình xanh, Chữ thập đỏ quốc tế…
- Phong trào hướng đến việc tiếp nhận sự hỗ trợ của các nhà nước và cơ quan ngoại giao quốc tế để hình thành và phát triển xã hội dân sự tại Việt Nam.
——————-
Tác giả dự án này mong đợi những phong trào dân sự bảo vệ quyền lợi và sinh mạng người nghèo sẽ được triển khai tại các địa phương trong tương lai không xa.
Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng
ĐT: 01235459338
Email: vietleminhquan@gmail.com

THƯ CON GÁI GỬI BA NHÂN DỊP LỄ NÔ-EN




Đặng Huy Văn: Năm nào đến dịp Giáng Sinh, Hà Nội trời cũng lạnh. Có năm nhiệt độ xuống thấp nhất năm. Năm nay, tôi đoán đêm Nô-en Hà Nội sẽ lạnh hơn vì còn 9 ngày nữa mới đến Giáng Sinh mà nhiệt độ đã xuống dưới 14 độ C rồi. Sáng nay, có việc phải đi qua trại giam Thanh Xuân ngay gần khu đô thị Xa La nơi tôi ở, tôi chợt nhớ ra, tù nhân lương tâm Đỗ Thị Minh Hạnh vừa bị chuyển trại ra Bắc hôm đầu tháng 10/2013 đang bị giam tại đây. Trời ơi! Một cô gái trẻ Miền Nam chưa quen chịu lạnh lại đang bị bệnh mà nằm trong tù thiếu chăn, thiếu áo ấm thì khổ cực đến thế nào? Tôi vội về nhà lục các trang tài liệu về Minh Hạnh đọc một mạch và không cầm được nước mắt. Tại sao một cô gái trẻ đã giúp công nhân đòi giới chủ tăng lương lại bị bắt? Năm 1930, bố tôi đi rải truyền đơn kêu gọi công nhân nhà máy Trường Thi, Nghệ An đình công đòi giới chủ tăng lương đã bị Pháp bắt giam tù 5 năm tại Kon Tum thì đã đành.

Đằng này, một “đảng của giai cấp công nhân” lại đi bỏ tù một người bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân là sao? Một dân tộc đã phải hi sinh hơn 4 triệu người để đảng ấy thực hiện khẩu hiệu “chống ngoại xâm” lại đi bắt một người chống giặc Tàu, kẻ thù truyền kiếp đang xâm chiếm Hoàng Sa và gây rối tại nhiều vùng trên đất nước như Tây Nguyên, Trà Vinh, Bình Dương, Ninh Bình…dưới danh nghĩa “đầu tư” để phá hoại nước ta phải đi tù là sao? Một cô gái trẻ chỉ muốn bảo vệ dân oan trước sự ăn cướp đất đai của bọn tham nhũng (kẻ thù của đồng chí TBT), mà cũng bị kết án tù là sao? Việc tày trời này, đồng chí TBT có biết không? Và rồi đây, sẽ còn bao nhiêu Đỗ Thị Minh Hạnh, Tạ Phong Tần, Nguyễn Văn Hải, Cù Huy Hà Vũ, Đinh Nguyên Kha, Lê Quốc Quân…sẽ tiếp tục vào tù nữa, hỡi ngài tân thành viên của Hội Đồng Nhân Quyền LHQ?
Hạnh ơi! Bác đứng một lúc ngoài cổng phân trại 3 trại giam Thanh Xuân nhòm vào để mong được nhìn thấy tấm thân gầy guộc của cháu mà bất lực! Bác chợt nghĩ, những người như bác mới là người phải vào đó để thế chỗ cho cháu, vì chính các bác mới là những người đã làm cho dân tộc ta đang ngày càng khốn khổ! Bác thành thật xin lỗi cháu và chúc cháu có một lễ Nô-en trong tù đầy niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc!
THƯ CON GÁI GỬI BA NHÂN DỊP LỄ NÔ-EN
(Thay lời tù nhân lương tâm Đỗ Thị Minh Hạnh)
Nô-en đang về, Miền Bắc đêm lạnh lắm
Nằm trong tù giá buốt thấu xương da (*)
Từ Miền Nam con chưa quen chịu rét
Đêm đông dài con đau nhớ thương ba!
Tầm tuổi con, ba cũng đã vào tù
Mọi khuất oan chốn lao tù ba biết cả
Đêm Giáng Sinh nằm ôm cây Thánh Giá
Giấu trong chăn cầu nguyện Chúa Giê-su!
“Nhận tội mau, cô sẽ được ra tù!”
Lời quản giáo âm vang vào giấc ngủ
Nhưng ba ơi con vì thương quý thợ
Giúp đòi lương sao có tội, hả ba?
Xưa ông nội đi tham gia cách mạng
Cũng biểu tình đòi giới chủ tăng lương
Cũng vận động công nhân đoàn kết lại
Sao người ta lại tặng nội huân chương?
Xưa bà nội cũng vâng theo lời “bác”
Biểu tình đòi quyền sống của con người
Rồi ngã xuống trên nẻo đường kháng Pháp
Sao chính quyền phong liệt sĩ, ba ơi?
Mà nay con noi gương ông bà nội
Chống giặc Tàu đang tráo trở xâm lăng
Khai Bô-xít đưa người sang quấy rối
Vờ đầu tư để giày xéo bản làng!
Ở nơi bọn Trung Quốc xây nhà máy
Bắt công nhân sống thậm tệ hơn xưa
Lương trả thấp chủ lại còn cưỡng bức
Chính quyền mình đã bảo vệ dân chưa?
Cũng mang danh “nhà nước của công nông”
Mà lại để chủ Tàu làm công nhân đói rách
Lái buôn Trung Quốc hứa mua rồi trốn sạch
Để cánh đồng ngập quả thối, thương không?
Sao ông bà con xưa đi theo cách mạng
Lại đón giặc Tàu sang giày xéo dân ta?
Đêm trong tù trăn trở hoài năm tháng
Thương ông bà lòng con cứ xót xa!
Con gái ba nay trong tù bệnh tật
Ngực trái đau ai chữa trị thuốc men?
Ngày mãn tù chắc gì còn mạng sống
Chồng con ư? Ba ơi liệu còn duyên?
Bị đòn tù dã man, con đã chịu quen rồi
Xin đừng lo con bị đánh đập nữa, ba ơi!
Các quản giáo nhà tù đều là “thầy dạy võ”
Để mai sau con đủ dũng khí làm người!
Con chỉ ao ước ngày ra tù còn mạng sống
Để cùng toàn dân tiếp tục cuộc đấu tranh
Vì nhân quyền cho mỗi người lao đông
Giúp dân oan có cuộc sống yên lành!
Ba ơi! Đêm Nô-en con chắc ba buồn lắm
Bởi ba thương 74 đồng đội cũ tại Hoàng Sa
Bốn mươi năm trước đã đổ bao xương máu
Chống giặc Tàu sang xâm chiếm nước ta!
Ba hãy cầu nguyện Chúa Giê-su cho các bác
Ngụy Văn Thà, Nguyễn Thành Trí…hộ con
Giáng Sinh trong tù con chỉ buồn và muốn
Đến Nhà Thờ cầu cho các Hải Chiến cô hồn!
Giáng sinh vắng con, ba hãy an ủi má
Chỉ vài năm nữa thôi con sẽ được trở về
Con sẽ vẫn là cún con như ngày xưa của má
Và hát mừng Giáng Sinh cho ba má cùng nghe!
Hà Nội, 15/12/2013
Đặng Huy Văn

(*)  Đỗ Thị Minh Hạnh bị chuyển trại ra Bắc | Đàn Chim Việt

www.danchimviet.info/.../do-thi-minh-hanh...ra.../10

Người cán bộ quản giáo cụt tay

CAN BO QUAN GIAO
Những năm “cải tạo” ở miền Bắc, tôi được chuyển đi khá nhiều trại. Từ Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ Tĩnh. Khi mới đến Hoàng Liên Sơn, tôi được đưa đến trại Hang Dơi, nằm sâu trong núi. Đây là một vùng sơn lâm chướng khí, nên chỉ mới gần hai năm mà tôi đã có hơn 20 người bạn tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới sườn đồi. 
Sau đó, tôi được chuyển về trại 6/ Nghĩa Lộ. Trại này nằm gần Ban chỉ huy Tổng Trại, và cách trại 5, nơi giam giữ gần 30 tướng lãnh miền Nam, chỉ một hàng rào và mấy cái ao nuôi cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao động, tôi vẫn gặp một vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện vui buồn.
Ngày nhập trại, sau khi “biên chế” xong, cán bộ giáo dục trại đưa 50 thằng chúng tôi vào một cái láng lợp bằng nứa, nền đất, ngồi chờ “đồng chí cán bộ quản giáo” đến tiếp nhận.
Vài phút sau, một sĩ quan mang quân hàm thượng úy đi vào láng. Điều trước tiên chúng tôi nhìn thấy là anh ta chỉ còn một cánh tay. Một nửa cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki Nam Định, buông thỏng xuống và phất phơ qua lại theo nhịp đi của anh. Không khí trở nên ngột ngạt. Không nói ra, nhưng có lẽ trong đám tù chúng tôi ai cũng có cùng một suy nghĩ:
 - Đây mới đích thực là nợ máu đây, biết trả như thế nào cho đủ?
Nhưng bất ngờ, người cán bộ quản giáo đến trước chúng tôi, miệng nở nụ cười. Nhìn khuôn mặt hiền lành, và ánh mắt thật thà, chúng tôi cũng bớt lo âu.
Bằng một giọng đặt sệt Nghệ Tỉnh, anh quản giáo giới thiệu tên mình: Nguyễn văn Thà, rồi “báo cáo” môt số nội quy, yêu cầu của Trại. Anh đưa cho anh đội trưởng một tập vở học trò, phát cho anh em mỗi người một tờ giấy để làm bản “lý lịch trích ngang”.
Tôi đang ngồi hý hoáy viết cái bản kê khai lý lịch ba đời với bao nhiêu thứ “tội” dưới biển trên trời mà tôi đã thuộc lòng từ lâu lắm – bởi đã phải viết đến cả trăm lần, ngay cả những lần bị đánh thức lúc nửa đêm – bỗng nghe tiếng anh quản giáo hỏi:
- Trong này có anh nào thuộc Sư 23?
Tôi im lặng giây lát rồi lên tiếng:
– Thưa cán bộ, có tôi ạ.
– Anh ở trung đoàn mấy.
– Trung Đoàn 44.
– Vậy anh có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum đầu mùa hè 1972?
– Vâng, có ạ.
Anh quản giáo đưa cánh tay bị mất một nửa, chỉ còn cái tay áo đong đưa, lên:
– Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó.
Nhìn qua anh em, thấy tất cả mọi con mắt đều dồn về phía tôi. Để lấy lại bình tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động:
– Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào?
– Tôi ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư 320.
Anh quản giáo rảo mắt nhìn quanh, rồi hạ giọng tiếp tục:
- Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh.
– Sau đó cán bộ được trao trả? tôi hỏi.
– Tôi bị thương nặng lắm, do chính đạn trong xe tôi phát nổ. Tôi được các anh đưa về quân y viện Pleiku chữa trị. Nhờ vậy mà tôi còn sống và được trao trả tù binh đợt cuối cùng năm 1973, sau khi có hiệp định Ba Lê.
*
Dạo đó, miền Bắc, đặc biệt trên vùng Hoàng Liên Sơn, trời lạnh lắm. Mỗi láng được đào một cái hầm giữa nhà, đốt những gốc cây được anh em nhặt ngoài rừng, sau giờ lao động, mang về sưởi ấm. Tối nào, anh quản giáo cũng xuống sinh hoạt với anh em. Gọi là sinh hoạt, nhưng thực ra anh chỉ tâm tình những chuyện vui buồn đời lính, thăm hỏi hoàn cảnh của anh em tù, và khuyên anh em nên cố gắng giữ gìn sức khỏe, đừng làm điều gì sai phạm để không phải nghe mấy ông cán bộ nặng lời. Anh thường nói:
– Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết các anh đều là những người có trình độ văn hóa và ai cũng đã từng chỉ huy.
Mùa đông, không trồng trọt được, nên khẩu phần ăn của một người tù chỉ có một miếng bánh mì đen bằng hai ngón tay, hoặc lưng một bát bắp hạt. Phần thiếu ăn, một phần ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên nhiều anh em tù bị bệnh kiết lỵ. Thuốc men hoàn toàn không có, nên bệnh kéo dài lâu ngày. Nhiều người đứng không vững.
Một buổi chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương mù giăng kín cả thung lũng trại tù, cả đám tù chúng tôi ngồi co ro trong láng, cố nhai từng hạt bắp cứng như viên sỏi, nhìn ra cánh đồng phía trước, thấp thoáng một người mang áo tơi (loại áo mưa kết bằng lá cây) chạy lúp xúp từ chỗ này đến chỗ khác, cho đến khi trời tối.
Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng:
– Tôi để một giỏ cá đàng sau láng. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.
Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động.
Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa xuân, quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên; đào mấy cái bếp “Hoàng Cầm” để luộc sắn mà không ai phát hiện có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luộc sắn ăn cho no. Anh đích thân ở lại đứng gác, nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh “chuẩn bị đi về”, anh em tức khắc dấu hết “tang vật” xuống một cái hố đã đào sẵn.
Dường như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi được no -dù chỉ là no sắn-
Không biết tối hôm ấy, trong giờ “giao ban”, quản giáo Thà đã báo cáo với ban chỉ huy trại là đội tù của chúng tôi đã phát được bao nhiêu hecta rừng?
Mỗi lần ra bãi thấy anh em lao động nặng nhọc, anh Thà bảo nhỏ:
– Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ gìn sức khỏe, vì thời gian cải tạo còn dài lắm.
Vào một dịp Tết, cầm giấy nghỉ phép trong tay, nhưng anh không về nhà, mà ở lại với anh em. Số tiền lương vừa lãnh được, anh mua mấy bánh thuốc lào, vài ký kẹo lạc, biếu anh em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật nhiều với anh em:
– Lần bị thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương. Các anh lại phải vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng. Tôi được hai anh y tá săn sóc suốt cả đêm. Người chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân hàm trung úy, mấy lần ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa về quân y viện chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc lá còn lại của anh, bảo tôi hút thuốc để quên bớt cơn đau của vết thương.
Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay tản thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm riêng, nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người đồng đội. Có lần, một phái đoàn đến ủy lạo thương binh các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình.
Vết thương vừa lành, thì tôi được lệnh trao trả tù binh. Khi chia tay, bệnh viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số đồ dùng. Lòng tôi tràn ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước tình con người, tình dân tộc mà các anh đã dành cho tôi. Tình cảm ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng, không dám tâm sự cùng ai, vì lòng tôi lúc nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày đêm mong chờ tôi trở về.
Anh cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng rõ ràng là giọng nói của anh sắp nghẹn ngào.
– Khi về lại ngoài Bắc, người ta có còn tin cậy anh không? – một anh tù hỏi.
– Ngay sau khi được trao trả, tôi phải vất hết thuốc men và những thứ các anh cho. Tôi cố dấu mấy viên thuốc trụ sinh phòng nhiễm trùng, nhưng họ khám xét kỹ quá, tôi phải tìm cách vất đi. Trước khi đưa về Bắc, chúng tôi được học tập hơn một tháng, làm kiểm điểm và lên án sự đối xử tàn ác của các anh. Tôi thấy xấu hổ lắm khi nói điều ngược lại, nhưng rồi ai cũng thế, không thể làm khác hơn. Chính vì vậy mà lòng tôi cứ dằn vặt mãi cho đến hôm nay.
Thời gian vàng son của năm mươi người tù đội 4 trại 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn, kéo dài không quá sáu tháng.
Một buổi sáng sớm, khi sương mù còn vương trên thung lũng trại tù, một người đạp chiếc xe đạp vội vã rời ban chỉ huy trại. Sau xe đèo theo một cái rương bằng gỗ và một túi đeo lưng bộ đội. Một vài anh em nhận ra anh Thà và báo cho anh em. Cả một đội 50 người tù vừa mới thức dậy, còn ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà không nhìn lại, đưa cánh tay chỉ còn một nửa lên vẫy vẫy, rồi biến dạng trước cổng trại.
*
Chiếc thuyền nhỏ mang theo trên 30 người vượt biển, trong đó có tôi và ba người bạn cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra đến hải phận quốc tế hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của vương quốc Nauy, trên đường từ Nhật sang Singapore , cứu vớt. Hai ngày đêm trên tàu là cả một thiên đường. Từ vị thuyền trưởng đến anh thủy thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết lòng săn sóc lo lắng cho chúng tôi. Hôm rời tàu để được chuyển đến trại tị nạn Singapore , chúng tôi quá xúc động không ai cầm được nước mắt. Tất cả thủy thủ đoàn đều ra đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy đều khóc sướt mướt ôm lấy từng người chúng tôi mà chia tay.
 Rồi những ngày sống trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo và ông đại sứ Nauy, thường xuyên có mặt lo lắng cho chúng tôi đủ điều. Chúng tôi vừa xúc động vừa đau đớn. Nỗi đau của một người vừa mới bị anh em một nhà hành hạ, đuổi xô đến bước đường cùng, phải bỏ nhà bỏ xứ để thoát thân trong cái chết, bây giờ lại được những kẻ xa lạ không cùng ngôn ngữ, màu da, màu tóc, lại hết lòng đùm bọc yêu thương. Mang cái ân tình đó, chúng tôi chọn Nauy là nơi tạm gởi phần đời còn lại của mình.
Bốn anh em, những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào, được sắp xếp ở gần nhau. Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại những năm tháng khốn khổ trong tù. Đặc biệt khi nhắc tới quản giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi, nghĩ đến một người không cùng chiến tuyến mà còn có được tấm lòng.
Sau lần bị “hạ tầng công tác” ở trại tù Nghĩa Lộ, không biết anh đi về đâu, nhưng chắc chắn là bây giờ cũng vất vả lắm.
Sau hai năm theo học, tôi được nhận vào làm trong ngân hàng bưu điện trung ương. Tại đây, tôi quen với Kenneth Hansen, một bạn đồng nghiệp còn trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau này trở nên thân tình. Anh ta là sinh viên đang theo học về kinh tế, chỉ làm việc thêm ngoài giờ học. Làm chung gần một năm, thì anh bạn Nauy này lại được nhận vào một công ty lớn và sang làm việc ở chi nhánh bên Ấn Độ.
Bẵng đi vài năm, bất ngờ một hôm anh gọi điện thoại báo là sẽ đến thăm tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ. Và đúng là bất ngờ thật, vì cùng đến với anh là một người con gái Việt nam. Anh giới thiệu với vợ chồng tôi, đó là vị hôn thê của anh.
Cô gái tên Đoan, nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi ở một nơi xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng khi nhìn thấy tấm ảnh của tôi treo trên tường, mang quân phục và cấp bậc của quân đội VNCH, cô có vẻ ái ngại. Biết vậy, chúng tôi cũng niềm nỡ, đùa cợt cho cô được tự nhiên.
Cô cho biết cô là bạn thân với nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai người còn đi học ở Hà Nội. Sau sáu năm du học ở Đông Đức, rồi Liên Xô, cô được sang thực tập tại Ấn Độ. Chính tại đây cô có dịp gặp và quen với chàng trai Nauy này. Khi ấy cô đã có chồng và một đứa con trai. Người chồng trước cùng du học ở Liên Xô, sau này trở thành một cán bộ cao cấp trong ngành dầu khí tại Hà Nội.
 Sau thời gian thực tập ở Ấn Độ trở về, cô được bạn bè và người thân cho biết là anh chồng đã cặp một cô gái khác chỉ một vài tuần sau ngày cô đi. Cô đem việc này nói phải trái với chồng, lại bị anh ta hành hung và nói những lời thô lỗ. Cô vừa buồn vừa giận, bỏ chồng, xin sang học tiếp chương trình Tiến sĩ tại một đại học ở Đông Đức.
Sau ngày bức tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân Đức phá sập, nước CHND Đức (Đông Đức) bỗng chốc không còn nữa. Cô không về nước mà tìm cách trốn sang Tây Đức.
Qua một thời gian hết sức khó khăn, cô may mắn liên lạc được với anh Kenneth Hansen, để được bảo lãnh sang Nauy. Biết cô thuộc gia đình một đảng viên cộng sản cao cấp, bởi cô được du học ở nhiều nước thuộc khối cộng sản trước đây, nhưng tôi không hỏi vì sợ cô ngại.
Sau này chính Kenneth Hansen cho biết bố của cô trước kia là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô cũ. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, kéo theo sự tan vỡ của toàn khối cộng sản Đông Âu, ông xót xa nhìn ra được một điều gì đó. Trở về Việt Nam , ông không còn được nhà nước Cộng sản trọng dụng, trở thành kẻ bất mãn, cả ngày nằm nhà không tiếp xúc một ai.
Sau một thời gian, được cấp quốc tịch Nauy, cô Đoan trở về Việt Nam thăm gia đình, đặc biệt là người cha già đang ốm nặng. Nhân tiện xin mang đứa con trai sang Nauy với cô.
Việc cô Đoan trở về Hà Nội, làm tôi nghĩ đến anh quản giáo Nguyễn văn Thà thuở trước.
Tôi cùng với mấy người bạn tù cũ, góp một số tiền khoảng 800 đôla,nhờ cô Đoan về Nghệ Tĩnh tìm và trao lại cho anh, như để tỏ chút lòng biết ơn một người bao nhiêu năm sống trong đám bùn lầy nước đọng mà vẫn còn giữ sạch được tấm lòng. Việc tìm anh không phải dễ dàng, vì chúng tôi không biết nhiều về anh. Trong mảnh giấy nhắn tin, chỉ vỏn vẹn vài chữ: “ông Nguyễn văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng năm 1979 là thượng úy, làm quản giáo trại tù cải tạo số 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn”.
Cô Đoan vui vẻ nhận lời và hứa sẽ tìm đủ mọi cách để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô cũng cho biết là cô có ông chú họ hiện làm việc tại bộ quốc phòng. Cô sẽ nhờ ông ta tìm hộ.
Một tháng sau, cô Đoan trở lại Nauy, báo cho chúng tôi biết là ông chú của cô không tìm thấy tên Nguyễn văn Thà trong danh sách sĩ quan. Ông đoán là anh ta đã bị phục viên từ lâu lắm rồi. Cô đã đích thân vào Nghệ Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan, nhưng không ai biết. Cuối cùng cô phải thuê mấy tờ báo địa phương đăng lời nhắn tin, trong đó có ghi số điện thoại của tôi. Cô còn cho biết là nhân tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh thì cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều hy vọng gì,vì chỉ một ít người ở thành phố có báo đọc.
Thời gian trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho con cái, để kịp hội nhập vào đời sống trên quê hương mới, chúng tôi không còn ai nhắc đến chuyện anh Thà.
Bỗng một hôm, khi đang say ngủ, nghe tiếng điện thoại reo, tôi giật mình tỉnh giấc. Xem đồng hồ, hơn hai giờ sáng. Mùa đông Bắc Âu, nhiệt độ bên ngoài cửa sổ chỉ – 20 độ C. Tôi ái ngại. Giờ này mà ai gọi điện thoại thì phải có điều gì khẩn cấp lắm. Tôi bốc ống nghe. Đầu giây bên kia là giọng một cô gái, nói tiếng Việt rất khó nghe. Cô hối hả, nhưng rất lễ phép, xin được gặp tôi. Cô cẩn thận nhắc lại tên tôi hai lần, với đầy đủ họ và tên.
– Xin lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ? Tôi hỏi.
– Dạ, cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà, cháu đang ở Ba Lan ạ.
Tôi im lặng. Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không nhớ là mình đã quen ai tên Hà. Bên kia đầu giây, cô gái lên tiếng:
– Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?
– Ông Thà, Nguyễn văn Thà, bác nhớ, nhưng cô là gì của ông Thà, và sao lại ở Ba-Lan?
– Dạ, ông Thà là bố cháu. Cháu ở Ba-Lan với một đứa em trai. Bọn cháu khổ lắm Bác ạ. Tiếng cô gái sụt sùi.
– Cháu cho bác số phôn, bác gọi lại ngay, để cháu khỏi tốn tiền.
Tôi gọi lại, và nghe tâm sự não nề của cô gái. Cô và em trai, tên Tĩnh, được bố mẹ lo lắng, chạy vạy, bán hết đồ đạc trong nhà, kể cả chiếc xe đạp Trung quốc mà cha cô nâng niu như là một thứ gia bảo, vay mượn thêm, lo cho hai chị em cô sang lao động ở Ba-Lan. Sau khi chính quyền cộng sản Ba-Lan bị cuốn theo làn sóng dân chủ ở Đông Âu, chị em cô cùng hầu hết những người được chính quyền Việt Nam gởi sang lao động, đã không về nước, trốn ở lại. Vì sống bất hợp pháp, nên không tìm được việc làm chính thức. Hầu hết làm chui, buôn bán thuốc lá lậu. Một số trở thành ăn cắp, băng đảng, quay lại cướp bóc hoặc tống tiền chính những người đồng hương, đồng cảnh. Số người Việt này trở thành mối bận tâm không nhỏ cho những chính quyền mới ở các nước Đông Âu.
Hai chị em cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố Warszawa, nhận thuốc lá của một người khác, mang đi bán. Nhưng mỗi lần dành dụm được một ít, chưa kịp gởi về giúp gia đình thì bị cướp sạch. Một hôm, cậu em trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị cảnh sát bắt và phát hiện là số thuốc lá kia vừa bị mất cắp tại một cửa hàng Ba-Lan. Vì vậy cậu em trai bị nhốt vào tù, còn cô Hà thì đang bị truy nã. Việc xảy ra một ngày trước khi cô Hà gọi điện thoại cho tôi.
– Bây giờ cháu đang ở đâu? Tôi hỏi.
– Cháu đang trốn ở nhà một người bạn, nhưng cô ta không dám chứa cháu lâu. Cháu không biết phải làm sao, thì bất ngờ nhớ đến lá thư của ba cháu gởi cho cháu cách nay vài tháng. Ba cháu bảo cháu trong trường hợp rất cần thiết mới gọi cho bác.
– Ba cháu bây giờ làm gì?
– Ông bị ốm nặng. Cách nay hai năm bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người, nên chỉ nằm một chỗ. Vì vậy nên chị em cháu trốn ở lại đây để kiếm tiền gởi về cho bố cháu điều trị và sống qua ngày bác ạ.
Tôi ghi số điện thoại, địa chỉ người bạn của Hà, tên nhà tù mà Tĩnh, em trai của Hà đang bị giam giữ, trấn an và hẹn sẽ gặp cô trong một ngày rất gần ở Ba-Lan.
Tôi nhớ tới một người bạn Ba-lan, anh Zbigniew Piwko. Chúng tôi quen khá thân lúc cả hai vừa mới đến Nauy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi. Trước kia là một đại tá không quân, chỉ huy môt không đoàn chiến đấu thuộc quân đội cộng sản Ba-Lan. Về sau, anh ta ngầm ủng hộ Công Đoàn Đoàn Kết do ông Walesa lãnh đạo. Hành tung bại lộ, trong khi bị truy bắt, anh đã lấy một chiếc trực thăng, chở gia đình, gồm người vợ và hai đứa con, bay sang Tây Đức. Theo sự thỉnh cầu của anh, gia đình anh được chính phủ Nauy đặc biệt nhận cho tị nạn chính trị.
Anh và tôi học tiếng Nauy cùng một lớp, và sau đó có một thời gian chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm sau, thì tình hình chính trị ở Ba-Lan thay đổi bất ngờ. Công Đoàn Đoàn Kết của ông Walesa lãnh đạo đã thắng lợi vẻ vang. Ông được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của nước Ba-Lan dân chủ. Anh Piwko, người bạn tị nạn của tôi, được mời về nước để giữ môt chức vụ khá lớn trong ngành cảnh sát. Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến tôi, anh gởi thiệp mừng giáng sinh và năm mới. Anh kể đủ thứ chuyện về xứ sở của anh, về niềm vui và hy vọng của người dân Ba-Lan bây giờ. Sau tấm thiệp không đủ chỗ nên lúc nào anh cũng viết kèm theo vài trang giấy. Anh mời vợ chồng tôi có dịp thu xếp sang chơi với gia đình anh vài hôm và xem đất nước Ba-Lan của anh đang hồi sinh trong dân chủ.
Sáng hôm sau, tôi tìm lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất vui mừng khi nghe tôi báo tin sang thăm. Vì đi vội, nên tôi chỉ đi một mình. Vợ chồng anh đón tôi ở phi trường, nơi dành cho VIP (thượng khách). Anh chị còn cho biết là rất thú vị khi có dịp được dùng lại ngôn ngữ Nauy để nói chuyện với tôi. Tôi thực sự xúc động trước sự tiếp đón nồng hậu mà gia đình anh đã dành cho tôi. Tôi ngại ngùng không dám nói với anh những điều muốn nhờ anh giúp. Nhưng rồi cuối cùng, tôi cũng phải tâm tình cùng anh về chuyện anh quản giáo Thà trong trại tù Nghĩa Lộ năm nào, và hoàn cảnh khốn cùng của hai đứa con hiện đang ở tại đây, ngay trên đất nước Ba-Lan của anh. Nghe tôi kể, anh ngậm ngùi giây lát rồi đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết lòng giúp tôi về việc này.
Anh đưa tôi đến gặp hai chị em cháu Hà. Đưa Hà về nhà ở với gia đình anh. Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo lãnh Tĩnh, em của Hà từ trại tù về.
Trước khi về lại Nauy, tôi đã thức trọn một đêm để tâm tình khuyên lơn hai chị em Hà, biếu cho hai cháu một số tiền để tạm sinh sống và chuyển về Việt nam biếu anh Thà, bố hai cháu. Trên đường đưa tôi ra phi trường, vợ chồng Piwko bảo tôi yên tâm, anh chị xem hai chị em Hà như là cháu trong nhà và sẽ tận tình lo lắng cho hai cháu.
Hơn một tháng sau, Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng: hai chị em Hà đã được Piwko bảo trợ, được cấp giấy tờ chính thức cư trú tại Ba-lan. Hai cháu đang được học ngôn ngữ Ba-lan. Hà, vì lớn tuổi, nên sẽ xin việc làm. Tĩnh, em Hà, sẽ được tiếp tục theo học tại một trường trung học. 
THƯ CỦA NGUYỄN VĂN THÀ (gởi từ Hà Nội)
 ”Các Anh thân quí,
Khi ngồi viết nhừng dòng này cho các anh, thực tình tôi không còn nhớ mặt các anh, nhưng tôi còn nhớ rất rõ thời gian tôi làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà không ngờ hôm nay các anh còn nhớ đến tôi. Đọc thư của cháu Hà từ Ba-Lan gởi về, cùng với số tiền của các anh gởi cho, lòng tôi cảm xúc đến nghẹn ngào. Tôi và gia đình xin muôn vàn cảm tạ. Các anh làm tôi nhớ tới một câu nói của Các-Mác: “Chỉ có loài súc vật mới quay lưng trước cảnh khốn khổ của đồng loại”. Ngày nay, cả thế giới đều lên án Mác, những nước một thời lấy chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng đã từ bỏ Mác, chỉ còn một vài nơi lấy Mác làm bức bình phong để che đậy những mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên kia của Mác, với tôi, vẫn mãi mãi là một lời vàng ngọc. Điều tệ hại là những kẻ một thời theo Mác đã luôn luôn làm ngược lại lời nói này của Mác.
Chúng tôi mừng cho các anh đã đưa được gia đình ra khỏi nước. Mặc dù tôi biết một người phải bỏ quê hương mà đi, còn đau đớn nào hơn. Ngay cả con cái chúng tôi, vất vả biết chừng nào, mà tôi cũng đành khuyên các cháu phải ra đi để may ra còn tìm được một chút tương lai, giá trị nào đó của kiếp con người.
Phần tôi, sau khi bị kiểm điểm nặng nề ở trại Nghĩa Lộ, tôi bị điều ra mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ giặc bành trướng Trung Quốc tràn qua biên giới.
Nhờ thương tật, tôi được bố trí một công tác lặt vặt ở hậu cần. Mặt trận kết thúc, tôi bị phục viên về nhà, tiền phụ cấp không đủ nuôi chính bản thân. Tôi chỉ còn một cánh tay mà phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia đình.
Hơn ba năm nay, tôi bị ốm nặng, nằm liệt giường. Nhờ chị em cháu Hà gởi tiền về nuôi tôi và cả gia đình, tôi mới còn sống được đến hôm nay. Biết trốn lại Ba Lan, không có giấy tờ, hai cháu sẽ khó khăn ghê lắm, nhưng vẫn còn hơn là về lại bên này. Có làm suốt ngày cũng chẳng đủ ăn. May mà nhờ các anh hết lòng giúp hai cháu. Cái ơn này biết khi nào chúng tôi mới trả được cho các anh đây.
Tôi biết mình không còn sống bao lâu. Cuối đời một con người, tôi nghiệm rõ được một điều: Chỉ có cái tình con người với nhau mới thực sự quí giá và tồn tại mãi với thời gian. Những chế độ này, chủ nghĩa nọ, cuối cùng cũng chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Đôi khi che ta được chút nắng, nhưng nhiều lúc đã trút bao cơn mưa lũ xuống để làm khốn khổ cả nhân gian…”
*
Không ngờ lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng chúng tôi nhận được từ anh Thà. Anh đã qua đời sau đó không lâu. Nghe cháu Hà kể lại. Khi hấp hối, anh bảo vợ anh mang mấy cái huy chương, anh được cấp trong thời chiến tranh, đào lỗ chôn xuống phía sau nhà. Anh thầm thì: xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài cho đến bao giờ?
PHẠM TÍN AN NINH  (Vương Quôc Na-Uy)
Nguồn: bạn bè – Nhan đề bài viết do Lề Trái xin phép đặt lại

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét