Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 5 tháng 11, 2013

Quốc hội cần nâng cao trách nhiệm khi lập pháp và giám sát tối cao & Người Trung Quốc 'tuyển vợ' Việt bằng màn... sờ mó

Quốc hội cần nâng cao trách nhiệm khi lập pháp và giám sát tối cao


Kỳ họp thứ 6 Quốc hội đang diễn ra tại Hà Nội, rất nhiều nội dung quan trọng được thảo luận và thông qua tại kỳ họp này, như thông qua Hiến pháp 1992 sửa đổi, Luật Đất đai sửa đổi, vấn đề kinh tế xã hội của VN những năm qua và hai năm 2014, 2015.

Các đại biểu QH rất băn khoăn lo lắng về tình hình kinh tế xã hội, nền kinh tế VN gặp nạn trong mấy năm qua nhưng chưa có lối thoát vững chắc. Các nghị sỹ cũng đưa ra nhận xét Báo cáo của Chính phủ phần đánh giá nguyên nhân yếu kém tồn tại còn chung chung chưa cụ thể, chưa nhìn thấy nguyên nhân chủ quan mà nghiêng về khách quan; nguyên phó Thủ tướng Vũ Khoan thì không đồng tình với những nguyên nhân đó, vì cùng bối cảnh mà các nước quanh ta như Lào, Campuchia, Philippines và cả Myanmar đều có tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn nhiều.

Dự báo tăng trưởng kinh tế Châu Á của WB công bố 10/2013 tại Hội nghị APEC Indonesia:

Tên nước Năm 2011(%) Năm 2012 Dự báo 2013 Dự báo 2014 Dự báo 2015
Việt Nam 6,2 5,2 5,3 5,4 5,4
Lào 8 8,2 8 7,7 8,1
Campuchia 7,1 7,3 7 7 7
Philippin 3,6 6,8 7 6,7 6,8
Myanmar 5,9 6,5 6,8 6,9 6,9
. ..





Đời sống xã hội có nhiều hiện tượng gây bức xúc nhưng không những không được khắc phục mà còn gia tăng cũng được các ĐBQH đề cập.

Quốc hội VN theo lý thuyết là cơ quan quyền lực cao nhất, cơ quan duy nhất lập pháp và giám sát tối cao?

Thực tế tồn tại, những bất cập về kinh tế xã hội Việt Nam những năm qua có thể lý giải theo một trong các nội dung sau:

Một là luật pháp còn nhiều bất cập, nên không đi vào cuộc sống; hoặc là chưa có luật.

Hai là luật đảm bảo tính khả thi nhưng những người thực thi pháp luật hiểu không đúng và áp dụng sai luật, lách luật hoặc cố tình không thực hiện luật.

Cả hai trường hợp trên suy cho cùng đều cùng một chủ thể chính phải chịu đó là Quốc hội.

Việc chính phủ điều hành yếu kém nền kinh tế mấy năm qua, và theo dự báo của WB, năm nay và hai năm tiếp theo kém cả Lào, Campuchia, Myanmar là ba nước đổi mới mở cửa nền kinh tế sau ta và nhiều mặt ta có tiềm năng hơn họ, trách nhiệm đó cũng thuộc về Quốc hội, bởi vai trò giám sát tối cao của QH. Đổ bể của các Tập đoàn kinh tế trong đó có Vinashin, hàng chục ngàn doanh nghiệp phá sản, nợ xấu tăng vọt, kinh tế vĩ mô bất ổn, lạm phát phi mã… trách nhiệm lớn nhất là cơ quan lập pháp và giám sát tối cao rồi sau đó đến Chính phủ là cơ quan điều hành.

Hàng năm Quốc hội đều thông qua Nghị quyết trong đó có các chỉ tiêu kinh tế xã hội, chỉ cần nêu một vài ví dụ ta sẽ thấy rõ vai trò trách nhiệm của Quốc hội.

Như khi thí điểm thành lập các Tập đoàn kinh tế nhà nước, đành rằng việc thành lập các Tập đoàn có nghị quyết của đảng nhưng chắc chắn phải thông qua Quốc hội, và khi triển khai thì bên điều hành buông lỏng quản lý, bên giám sát lơ là nên mới có đổ bể của các Tập đoàn như vừa qua, bởi từ khi thành lập đến khi nhận vốn hoạt động và thất thoát vốn phải rất nhiều năm chứ không thể một vài tháng, nếu Quốc hội giám sát kịp thời, thấy mô hình Tập đoàn bất cập cho dừng ngay để đánh giá rút kinh nghiệm thì liệu Vinashin có thất thoát hàng trăm nghìn tỷ đồng không?

Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, lạm phát có mối liên hệ hữu cơ với bội chi ngân sách và chính sách tài khóa tiền tệ, mà các chỉ tiêu này đều do Quốc hội thông qua. Bất ổn kinh tế vĩ mô mấy năm qua không có báo cáo nêu nguyên nhân do Chính phủ vượt quyền Quốc hội, vì vậy để đất nước có nhiều bất cập như hiện nay trách nhiệm chính là Quốc hội.

Những tồn tại, yếu kém kinh tế xã hội mấy năm vừa qua phần nhiều đổ lỗi bên điều hành là chưa công bằng mà trách nhiệm trước hết thuộc về cơ quan lập pháp và giám sát tối cao.

Mặc dù còn đang thảo luận, chưa bấm nút thông qua, nhưng có rất nhiều ý kiến của các ông nghị ủng hộ nâng mức bội chi ngân sách năm 2013 và 2014 lên 5,3% GDP, măc dù nghị quyết Quốc hội năm ngoái cho chỉ tiêu này năm 2013 là 4,8%. Như vậy Quốc hội quá dễ trong việc thu chi ngân sách, làm gì có nguyên tắc gần hết năm mới bổ sung nguồn thu mà báo cáo giải trình của bên điều hành rất sơ sài chỉ nêu do khó khăn trong sản xuất và một số dòng thuế nhập khẩu có thuế suất giảm? Hai nội dung giải trình này mâu thuẫn và thiếu thuyết phục, vì theo dự báo GDP năm nay tăng trưởng cao hơn năm 2012, thuế suất thuế nhập khẩu giảm thì các quan chức của các Bộ chức năng đã tính trước được, chỉ là các phép cộng trừ nhân chia (bao nhiêu mặt hàng giảm, mức độ giảm dự kiến lượng hàng nhập là tính được). Ta hãy quan sát Quốc hội Mỹ chỉ nâng trần nợ công (dân không thiệt hại bằng bội chi ngân sách) nhưng lưỡng Viện của họ cân nhắc rất kỹ đến mức để chính phủ Mỹ “treo” 16 ngày, Quốc hội ta ngược lại quá đơn giản, sẽ thông qua nâng trần nợ công và móc túi dân (bội chi NS) tại kỳ họp này rất dễ dàng.

Nguồn thu ngân sách giảm hay chi ngân sách bất thường tăng mà giải trình của bên điều hành trước Quốc hội còn chưa rõ ràng thì dư luận đã thấy tin VAMC đã mua được 6.500 tỷ nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt?! Đã dọn nợ xấu cho 14 ngân hàng và năm 2014 xử lý 100.000 - 150.000 tỷ nợ xấu. Có lẽ đây mới là bản chất của vấn đề bội chi ngân sách và nâng trần nợ công, phát hành thêm 170.000 ngàn tỷ đồng trái phiếu mà Quốc hội sắp ấn nút thông qua. Bởi khi thành lập VAMC chỉ có 500 tỷ với những thông tin trên nếu không phải “Tôn Ngộ Không” thì VAMC lấy đâu ra tiền để làm những công việc trên? Trái phiếu đặc biệt là trái phiếu gì vậy? Chỉ có thể giải thích nôn na là nếu người phát hành trái phiếu không có khả năng trả được gốc và lãi thì được trả bằng tiền của “chùa”.

Trước đó một số quan chức có trách nhiệm đã khẳng định không lấy ngân sách mua nợ xấu để trấn an dân. Nhưng những người am hiểu thì không thể không nghi ngờ chỉ có 500 tỷ làm sao mua được hàng triệu tỷ nợ xấu, mà không giải quyết được nợ xấu, hệ thống ngân hàng tiếp tục tê liệt, ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế xã hội. Điều đáng nói do điều hành yếu kém dẫn đến nợ xấu khổng lồ, những người có trách nhiệm nên dũng cảm nhận trách nhiệm và mong người dân thông cảm chia sẻ, huy động sự đồng thuận của dân hơn là làm ảo thuật với dân, dân ngày nay không phải đàn cừu muốn lùa đi đâu cũng được.

Hy vọng Quốc hội VN hãy nâng cao vai trò trách nhiệm xứng đáng với kỳ vọng của nhân dân, mặc dù bị kìm kẹp nhưng các nghị sỹ hãy dũng cảm ấn nút đưa ra các quyết sách có lợi nhất cho dân cho nước.

Hà Nội 4/11/2013
 Thái Bình 
(BVN)

Chủ nghĩa xã hội kiểu Lênin là như thế nào?


Chủ nghĩa xã hội là một phong trào xã hội xuất hiện từ cuối thế kỷ 19, có mục tiêu mong muốn là xây dựng một xã hội công bằng hơn chủ nghĩa tư bản, nhưng trong phong trào đó có nhiều điểm rất khác nhau về quan điểm, về cách thức cải tạo chủ nghĩa tư bản, mô hình nhà nước, vai trò nhà nước đối với nền kinh tế, mô hình quản lý sản xuất. Tên gọi “nước xã hội chủ nghĩa“ cũng đang còn nhiều tranh cãi trên thế giới vì một số quốc gia XHCN có Đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo và cầm quyền với mục tiêu chủ nghĩa cộng sản còn ở một số quốc gia khác thì không như vậy.

Hiện nay trên thế giới có 2 trường phái Chủ nghĩa xã hội cơ bản là chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội dân chủ. Từ sau năm 1975, ĐCSVN tuyên bố Việt Nam là quốc gia xã hội chủ nghĩa theo chủ nghĩa Mácxít-Lêninít, vậy thì Chủ nghĩa xã hội kiểu Lênin là như thế nào.

Lần đầu tiên, thuật ngữ “Chủ nghĩa xã hội“ được Lênin nêu ra, coi đó là giai đoạn chuyển tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản cổ điển (phân biệt với chủ nghĩa cộng sản Eurocommunisme) được ra đời từ thế kỷ 19, theo thuyết của Marx , chỉ có thể đạt được thông qua 1 cuộc cách mạng vô sản, để thiết lập 1 xã hội không có giai cấp, không có nhà nước, không có áp bức. Việc sản xuất và phân phối của cải tuân theo nguyên tắc “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu“ (cả Marx vả Lênin đều không phải là các nhà kinh tế. Bất cứ ai đã làm chủ doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường đều thừa hiểu đó chỉ là một ảo tưởng vĩ đại của chủ nghĩa lãng mạn). Còn trong giai đoạn chủ nghĩa xã hội, nguyên tắc phân phối của cải là “Làm theo năng lực, hưởng theo lao động“ (nguyên tắc này đang được các nước tư bản phát triển thực hiện rất công bằng).

Marx chưa bao giờ mô tả chi tiết chủ nghĩa cộng sản sẽ thực hành như thế nào trong vai trò 1 hệ thống kinh tế, nhưng trong phần II của Tuyên ngôn đảng cộng sản, Marx và Engels có viết: ”Mục đích trước mắt của những người cộng sản là lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và giai cấp vô sản giành lấy chính quyền, xoá bỏ chế độ tư hữu. Giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, dùng sự thống trị đó để từng bước tước đoạt toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, tập trung các công cụ sản xuất trong tay nhà nước, tập trung tín dụng vào tay nhà nước, tước đoạt sở hữu ruộng đất, nộp tô vào quỹ của nhà nước“. Từ đó người ta hiểu rằng nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa sẽ bao gồm sự sở hữu toàn dân đối với các tư liệu sản xuất.

Trong hệ tư tưởng chính thống Mácxít- Lêninít thì sự triệt tiêu hầu như toàn bộ chủ nghĩa tư bản tư nhân là một tiêu chuẩn chủ yếu của chủ nghĩa xã hội. Chỉ có sở hữu nhà nước và sở hữu hợp tác xã mới được coi là sở hữu xã hội chủ nghĩa.

Khác với Mác, Lênin hầu như tập trung lý luận vào việc đưa chủ nghĩa cộng sản từ lý thuyết vào thực tiễn cuộc sống xã hội. Ông là người đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng 10 Nga, lập ra nhà nước xây dựng chủ nghĩa xã hội đầu tiên ở nước Nga vào năm 1917 và tên Lênin đã gắn liền với giai đoạn đầu tiên hìnhthành lý thuyết và hiện thực phát sinh của nhà nước này.

Lênin đã hiệu chỉnh và làm chủ nghĩa Mác biến dạng rất nhiều và người ta gọi chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa Mácxít-Lêninít.

Các bài phát biểu ý tưởng của Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa và về nhà nước xây dựng CNXH một thời được coi là khuôn vàng thước ngọc không thể phê phán trong phong trào cộng sản quốc tế. Ai có ý kiến trái ngược với Lênin đều bị coi là theo chủ nghĩa xét lại và có thể bị khai trừ khỏi phong trào cộng sản quốc tế (ví dụ đã khai trừ Tito và Liên đoàn những người cộng sản Nam Tư). Cũng như Mác, Lênin cho rằng mâu thuẫn giai cấp là tối cao, mâu thuẫn quốc gia- dân tộc là thứ yếu (nhưng đã có rất nhiều dẫn chứng thực tiễn là không phải như vậy ). Ai có ý kiến trái lại đều bị gán là theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Lênin còn đưa ra khẩu hiệu “Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng“, đã gây ra bất đồng lớn trong Quốc tế II về chủ nghĩa yêu nước chống ngoại xâm. Khác với Mác, Lênin đã đưa ra một ý tưởng mới so với Mác là “cùng tồn tại hoà bình“ (giữa các quốc gia tư bản chủ nghĩa và các quốc gia XHCN) và ông khẳng định chủ nghĩa xã hội sẽ thắng chủ nghĩa tư bản thông qua “thi đua hoà bình“ xây dựng chủ nghĩa cộng sản (nhưng đã bị thực tiễn phủ định).

Lênin còn đưa ra 1 lý luận mới là “lý luận về tính Đảng và tính giai cấp trong mọi hiện tượng đời sống xã hội“, kèm theo 1 công thức xác định chân lý là: ” miễn là có lợi cho sự nghiệp đấu tranh của giai cấp vô sản thì đều là chính nghĩa, có hại cho cuộc đấu tranh đó đều là phi nghĩa“. Sự diễn giải chân lý mang tính vị lợi vô nguyên tắc này về sau đã được Stalin áp dụng triệt để và đưa ra khái niệm “kẻ thù của nhân dân“ để thanh trừng tất cả những người bất đồng ý kiến với ông ta. Công thức này của Lênin cũng đã được áp dụng trong cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam 1953-1956, đem lại những cái chết oan uổng cho hàng chục ngàn người vô tội.

Tuy nhiên khái niệm quan trọng nhất mà Lênin đã sáng tạo ra cho chủ nghĩa cộng sản hiện thực là khái niệm “Chuyên chính vô sản“. Theo Lênin,chuyên chính vô sản là chức năng của nhà nước vô sản trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH. Điểm đặc trưng của chuyên chính vô sản là nó không bị phụ thuộc vào bất kỳ quy tắc pháp luật hay giới hạn đạo đức hay tôn giáo nào.

Tại trường Đại học Sveclov ngày 11/7/1919, Lênin đã giảng như sau: ”Chúng ta vứt bỏ quan niệm cho rằng nhà nước là chính quyền của toàn dân. Chúng ta cũng vứt bỏ quan niệm cho rằng nhà nước là sự bình đẳng cho mọi người“. Trong phần 7, bài “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết“, Lênin viết: ”Trong tất cả mọi bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH thì chuyên chính là tất yếu, phài có nhà nước, phải có cưỡng bức, phải có bàn tay sắt. Giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tức nền dân chủ xô viết và việc dùng đến độc tài cá nhân tuyệt đối không có một sự mâu thuẫn nào về nguyên tắc. Người thực hiện chuyên chính vô sản cũng thông qua những cá nhân, để ý chí của hàng ngàn người phải phục tùng ý chí của 1 người, của nhà độc tài, nhà lãnh đạo xô viết “.

Stalin đã áp dụng triệt để bài giảng này của Lênin và ông ta đã trở thành một lãnh tụ cộng sản độc tài khét tiếng cho đến tận lúc ông ta mất vào đầu thập kỷ 60 của thế kỷ 20.

Nguồn tư liệu: Lênin toàn tập và một số tài liệu của Bách khoa toàn thư.
Phan Vĩnh Hựu
(Dân luận)

Người Trung Quốc 'tuyển vợ' Việt bằng màn... sờ mó

(để nó ngang nhiên vào giữa nước mình hạ nhục đồng bào mình thế này sao? Còn những kẻ đã coi đồng bào mình như là món hàng hóa thì thiết nghĩ cũng không cần coi chúng là đồng loại nữa!)

Có tiền trong tay, ba người Trung Quốc móc nối với một môi giới người Việt Nam tổ chức một buổi "xem mắt" tuyển vợ ngay tại quán ăn điểm tâm để tránh tai mắt cơ quan công an. Điều lạ lùng là ba người Trung Quốc này tuyển vợ bằng những màn sờ soạng khắp cơ thể. Vụ bắt quả tang gây xôn xao dư luận người dân TP.HCM.

Bí ẩn nơi thường có người Trung Quốc lui tới

Theo thông tin ban đầu, thời gian gần đây, cơ quan CSĐT công an quận Tân Phú (TP.HCM) nhận được tin báo của một số người dân về việc tại khu chung cư Vườn Lài (phường Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú) thường xuyên xuất hiện nhiều người Trung Quốc tìm đến các quán ăn điểm tâm để ăn uống. Tuy nhiên, điều bất thường đang diễn ra ở đây là có nhiều cô gái trẻ ở miền Tây xuất hiện "chớp nhoáng" rồi biến mất một cách bí ẩn.

Nhiều ngày điều tra, trinh sát hình sự phát hiện tại một quán ăn điểm tâm ở khu chung cư Vườn Lài đang diễn ra hoạt động "tuyển vợ" Việt Nam cho người Trung Quốc. Theo đó, hoạt động này đã diễn ra âm thầm nhiều ngày ở đây. Đối tượng đứng ra môi giới cho người Trung Quốc đến đây "xem mắt" tuyển vợ Việt Nam là đối tượng N.T.S. (ngụ TP.HCM), đối tượng phiên dịch được xác định là T.T.L. (ngụ TP.HCM). Theo sát mọi hoạt động của đối tượng S., do đã nắm thông tin trước, vào khoảng 18h chiều 25/10, các trinh sát bất ngờ ập vào một nhà hàng điểm tâm tại khu vực trên thì bắt quả tang ba người đàn ông Trung Quốc cùng đối tượng S. và L. đang tiến hành "tuyển vợ" cho những người nước ngoài này. "Thí sinh" tham gia cuộc tuyển vợ là các cô gái trẻ, đẹp, có ngoại hình cân đối đến từ các tỉnh miền Tây.

Ba cô gái trẻ miền Tây đến quán ăn để ba người đàn ông Trung Quốc "xem mặt" tuyển vợ.

"Tuyển vợ" bằng những hành vi kỳ cục

Một nguồn tin từ cơ quan CSĐT công an quận Tân Phú tiết lộ, khi cơ quan CSĐT ập vào, những đối tượng tham gia cuộc "tuyển vợ" vô cùng bất ngờ, vì các đối tượng không nghĩ cơ quan CSĐT lại xác định được khu vực này. Làm việc với các đối tượng người Trung Quốc, cơ quan CSĐT xác định được danh tính gồm: Ye Yan Bao (SN 1989), WuZe Jun (SN 1974) và Ye Yan Gui (SN 1975). Ngay sau đó, cơ quan CSĐT đưa tất cả các đối tượng, kể cả ba cô gái người Việt tham gia "tuyển vợ" về trụ sở cơ quan CSĐT để tiến hành lấy lời khai.

Tại cơ quan CSĐT, ba đối tượng người Trung Quốc thừa nhận, thời gian qua, họ móc nối với đối tượng S., là một đối tượng chuyên môi giới cho người Trung Quốc lấy vợ Việt Nam. Sau nhiều lần đặt vấn đề với S. về việc muốn lấy vợ Việt Nam, S. thông báo là mình vừa tuyển được nhiều cô gái miền Tây muốn làm vợ người Trung Quốc và đề nghị họ sang Việt Nam xem mặt. Khi đến Việt Nam, qua sự sắp xếp của S., ba người Trung Quốc đến nhà hàng điểm tâm tại khu chung cư Vườn Lài để xem mặt. Tuy nhiên, khi đang trong quá trình kiểm tra "vợ" thì bị cơ quan CSĐT ập vào bắt quả tang.

Theo tìm hiểu của PV, vào thời điểm bắt quả tang, cơ quan CSĐT phát hiện ba cô gái trẻ đang đứng xếp hàng để ba người Trung Quốc vào "xem mắt", còn đối tượng L. thì đứng phiên dịch những lời nhận xét của những người này. Chị B.T.L., một nhân viên làm việc tại quán ăn điểm tâm trên cho biết: "Vào thời điểm trước khi cơ quan CSĐT ập vào kiểm tra, tôi mang thức uống vào thì thấy ba người đàn ông Trung Quốc đang rờ mó khắp nơi trên cơ thể của ba cô gái trẻ. Mặc dù khó chịu, nhưng ba cô gái vẫn đứng yên chịu trận và không dám lên tiếng. Bên cạnh đó, một người tên L. liên tục phiên dịch thông tin về ba cô gái trẻ cho ba người Trung Quốc nghe".

Một cô gái trẻ làm nhân viên phục vụ tại một quán ăn tại khu dân cư Vườn Lài tiết lộ: "Thời gian qua, các đường dây "tuyển vợ" cho người Trung Quốc xem mắt thường diễn ra bí mật trong các khách sạn, nhà trọ. Tuy nhiên, thời gian gần đây, một số đối tượng chọn các quán ăn điểm tâm ở khu vực này để giao dịch. Qua tìm hiểu, tôi được biết, việc người Trung Quốc tìm đến các quán ăn điểm tâm này sẽ ít ai để ý. Khi đến quán, họ sẽ được đối tượng môi giới chọn phòng VIP để ăn uống. Sau đó, những người môi giới sẽ đưa các cô gái tham gia "tuyển vợ" vào để họ xem mắt. Họ không ưng ý cô nào thì nháy mắt với người môi giới sẽ đưa cô gái đó ra".

Thủ đoạn phạm tội mới

Ngày 28/10, một đại diện cơ quan CSĐT công an quận Tân Phú (TP.HCM) cho biết cơ quan này đang củng cố hồ sơ, mở rộng điều tra vụ án. Cơ quan CSĐT đánh giá, ngoài vụ việc trên, các đối tượng môi giới còn thực hiện thêm nhiều vụ khác nữa. Đây là thủ đoạn phạm tội mới của các đường dây "tuyển vợ" cho người nước ngoài, nên cơ quan CSĐT sẽ gấp rút điều tra, làm rõ

H.Anh
(Người Đưa tin) 

Giới thiệu nước Thuỵ Điển và “mô hình Thuỵ Điển”

Thuỵ Điển (tiếng Thuỵ Điển là Sverige), là 1 vương quốc ở Bắc Âu, phía tây giáp Na Uy, phía đông-bắc giáp Phần Lan, phía nam nối với Đan Mạch bằng cầu Oresund. Phần biên giới còn lại giáp biển Baltic và biển Kattegat.

Thuỵ Điển có diện tích 449.964 km2, lớn thứ 3 trong Liên minh Châu Âu. Dân số năm 2009 là 9.373.379 người, mật độ 20 người/1 Km2, mức tập trung cao ở nửa phía nam đất nước, 12 % dân số là di dân trong đó đông nhất là Phần Lan. Khoảng 80% sống trong các đô thị và quá trình đô thị hoá vẫn đang tiếp diễn. Thủ đô Thuỵ Điển là Stockholm, thành phố lớn nhất nước. Thành phố lớn thứ 2 là Goteborg có dân số 500.000 người, kể cà ngoại vi là 900.000 người. Đơn vị tiền tệ là Krona (SEK).

Ngôn ngữ chính thức là tiếng Thuỵ Điển. Tiếng Na Uy tương tự tiếng Thuỵ Điển, được hiểu gần như ở khắp đất nước. Một số vùng nói tiếng Phần Lan. Gần 80% người Thuỵ Điển nói tiếng Anh như ngoại ngữ thứ nhất. Đa số học sinh chọn tiếng Đức hoặc tiếng Tây Ban Nha là ngoại ngữ thứ 2.

Thuỵ Điển gia nhập Liên hiệp quốc từ tháng 12 năm 1946, gia nhập Hiệp hội mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA) từ tháng 11 năm 1959. Năm 1995 Thuỵ Điển gia nhập Liên minh Châu Âu và là thành viên của OECD. Năm 2004 chỉ số HDI của Thuỵ Điển là 0,949 (mức cao). Theo tạp chí The Economist, Thuỵ Điển đứng đầu thế giới về chỉ số dân chủ và đứng thứ 7 trong Liên hiệp quốc về chỉ số phát triển con người.

Thể chế chính trị của Thuỵ Điển

Thuỵ Điển theo thể chế Quân chủ lập hiến. Hiến pháp thừa nhận sự tồn tại đa đảng chính trị. Hiện tại (năm 2013) quốc vương là Carl XVI Gustaf. Thủ tướng là Fredrik Reinfeldt. Quốc hội có 1 Nghị viện 349 nghị sĩ, được bầu 4 năm 1 lần. Quốc hội có 8 đảng được quyền tham gia quốc hội và hiện nay chia thành 2 liên minh, gồm: Liên minh De rodgrona có 3 đảng là: Đảng dân chủ xã hội 112 ghế, Đảng Xanh (còn gọi là Đảng môi trường) 25 ghế và Đảng cánh tả 19 ghế. Liên minh Alliansen có 4 đảng là: Đảng ôn hoà 107 ghế, Đảng tự do 24 ghế, Đảng trung tâm (Centerpartiet) 23 ghế và Đảng dân chủ cơ đốc giáo 19 ghế. Không thuộc 2 liên minh này có Đảng dân chủ hoạt động độc lập, có 20 ghế.
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/1/19/Domkyrkan_i_Uppsalas_stadsbild.jpg

Quốc hội bổ nhiệm Thủ tướng. Thủ tướng bổ nhiệm các bộ trưởng.

Từ 1932 đến 1969 Đảng dân chủ xã hội liên tục cầm quyền. Sau một thời gian phe bảo thủ cầm quyền, đến năm 1994 Đảng dân chủ xã hội trở lại cầm quyền cho đến nay.

Mặc dù nằm gần nước Nga, năm 1917, Thuỵ Điển đã tránh được sự đe doạ xảy ra một cuộc cách mạng vô sản của những người theo chủ nghĩa xã hội. Từ thế kỷ 20, suốt trong 2 cuộc chiến tranh thế giới, Thuỵ Điển là quốc gia trung lập, kể cả thời gian Chiến tranh lạnh và cho đến nay Thuỵ Điển vẫn không tham gia liên minh quân sự nào. Tuy nhiên cho đến nay vẫn còn những tranh cãi xung quanh vai trò trung lập của Thuỵ Điển. Do không bị chiến tranh tàn phá và dựa vào tài nguyên thiên nhiên sẵn có, Thuỵ Điển đã phát triển ngành công nghiệp, cung cấp cho công cuộc tái thiết Châu Âu sau chiến tranh thế giới thứ 2 và trở thành 1 trong những quốc gia giàu nhất thế giới vào thập kỷ 60.

Thể chế của Thuỵ Điển có 1 điều đặc biệt là nguyên tắc công khai. Giới báo chí và tất cả các cá nhân đều có thể xem các văn kiện của công sở nhà nước, ngoại trừ một số ít trường hợp đặc biệt. Một điều đặc biệt khác của Thuỵ Điển là có hệ thống thanh tra viên (ombudsman). Những thanh tra viên này bảo vệ quyền lợi của cá nhân công dân khi mà họ tiếp xúc với chính quyền và theo dõi việc thi hành các luật lệ quan trọng. Khi người công dân cho rằng mình bị đối xử không công bằng có thể tìm đến thanh tra viên. Họ sẽ điều tra những trường hợp này và có thể mang vụ việc ra trước toà án với tư cách là nguyên cáo đặc biệt. Họ đồng thời có nhiệm vụ cộng tác với cơ quan nhà nước để nắm bắt tình hình trong phạm vi của họ, thi hành công việc giải thích và đưa ra những đề nghị thay đổi luật lệ.

Bên cạnh những thanh tra viên về luật pháp, Thuỵ Điển còn có thanh tra viên của người tiêu dùng, thanh tra viên về trẻ em, thanh tra viên về quyền bình đẳng, thanh tra viên về phân biệt đối xử chủng tộc và phân biệt đối xử vì các khuynh hướng tình dục.

Trong một thời gian dài, Thuỵ Điển đã được xem như một nước dân chủ xã hội điển hình và nhiều người theo cánh tả ở Châu Âu đã xem Thuỵ Điển như một ví dụ điển hình cho một “con đường thứ ba“, giữa chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường.

Khí hậu ở Thuỵ Điển

So với vị trí địa lý, khí hậu ở Thuỵ Điển tương đối ôn hoà do gần Đại Tây Dương có dòng hải lưu Gonstrim ấm áp. Phần lớn lãnh thổ có khí hậu ẩm, mưa nhiều, nhiệt độ ít thay đổi về mùa đông và mùa hè. Thuỵ Điển nằm giữa vĩ độ 55 độ và vĩ độ 69 độ và một phần ở trong vòng cực Bắc nên có sự cách biệt lớn về ánh sáng giữa ánh sáng ban ngày dài trong mùa hè và ánh sáng ban đêm dài trong mùa đông. Ở phần phía bắc do có sự xuất hiện nhiều núi và khí hậu cận cực, mùa đông lạnh hơn và tuyết rơi nhiều hơn so với miền nam. Vào 1 phần của mùa hè, mặt trời xuất hiện đến tận nửa đêm hoặc không lặn. Vào mùa đông mặt trời chỉ xuất hiện trong vài giờ hoặc không xuất hiện. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1000 mm. Vào tháng giêng, nhiệt độ trung bình ban ngày khoảng O độ C ở phía nam, nhiệt độ âm 16 độ ở phía bắc. Vào tháng 7, nhiệt độ trung bình khoảng 17 đến 18 độ C ở Gotaland och Svealand và trên 10 độ C ở phía cực bắc của Thuỵ Điển.

Kinh tế của Thuỵ Điển

Ngày nay Thuỵ Điển có nền kinh tế phát triển cao. Thuỵ Điển có 9,37 triệu dân (bằng 1/10 dân số Việt Nam) nhưng năm 2005 đạt GDP (PPP) 381,469 tỉ USD.

Trong nửa sau của thế kỷ 19, Thuỵ Điển còn là 1 quốc gia nông nghiệp với 90% dân số sống nhờ vào nông nghiệp. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, Thuỵ Điển đã là 1 trong những quốc gia công nghiệp dẫn đầu của thế giới. Sự phát triển công nghiệp đạt đến đỉnh cao ở giữa thập niên 60. Từ thập niên 70, do đã cơ khí hoá hiện đại hoá, cơ cấu lao động trong xã hội thay đổi, số người lao động trong nông nghiệp và trong công nghiệp giảm bớt, khu vực dịch vụ tăng trưởng thêm. Đến năm 2002 nông nghiệp chỉ còn chiếm 2% tổng sản phẩm quốc nội, khu vực công nghiệp là 28%, khu vực dịch vụ là 70%.

Nền nông nghiệp Thuỵ Điển mang dấu ấn những điều kiện địa chất và khí hậu. Khoảng 10% diện tích của quốc gia dùng cho nông nghiệp. Phần lớn các công ty nông nghiệp là sở hữu gia đình. Trồng trọt nhiều nhất là ngũ cốc, khoai tây, các loại cây cho dầu. Khoảng 58% thu nhập trong nông nghiệp thuộc ngành chăn nuôi, nhất là sản xuất sữa. Trợ giá nông nghiệp của Liên minh Châu Âu chiếm khoảng 24% thu nhập.

Do Thuỵ Điển là 1 trong những quốc gia nhiều rừng ( chiếm đến 25% diện tích lãnh thổ ) nên ở Thuỵ Điển ba phần tư số công ty nông nghiệp đều có rừng và kết hợp giữa nông nghiệp và lâm nghiệp.

Thuỵ Điển giàu khoáng sản. Đồng, chì, kẽm được khai thác vượt quá nhu cầu trong nước và còn xuất khẩu. Bạc đáp ứng được 60% nhu cầu trong nước, vàng đáp ứng được 80%.

Điểm đặc biệt của công nghiệp Thuỵ Điển là thành phần các công ty lớn chiếm tỉ lệ tương đối cao.Các ngành công nghiệp lớn nhất là chế tạo xe cơ giới (năm 1996 chiếm 13% giá trị sản xuất) với các công ty Volvo, Scania; ngành máy bay và kỹ thuật du hành vũ trụ Saab AB; ngành công nghiệp gỗ và giấy (cũng chiếm 13% giá trị sản xuất) với 4 công ty lớn; ngành chế tạo máy chiếm 12% với các công ty Electrolux, SKP, Tetra-Pak, Alfa-Laval; ngành công nghiệp điện-điện tử chiếm 19% với các công ty nổi tiếng Ericsson, ABB.

Khu vực dịch vụ đóng góp 70% tổng sản phẩm quốc nội mà trước tiên là do khu vực nhà nước đã tăng trưởng mạnh trong các thập niên gần đây. Tuy vậy khu vực dịch vụ tư nhân vẫn chiếm hơn 2/3 sản lượng.

Kinh tế Thuỵ Điển phụ thuộc mạnh vào ngoại thương. Các nước xuất khẩu chính là Mỹ, Đức, Na Uy, Anh. Các sản phẩm nhập khẩu quan trọng nhất là các sản phẩm điện và điện tử, máy móc, xe cơ giới và các thành phần của xe cơ giới. Tỉ lệ đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Thuỵ Điển tương đối cao. Có khoảng 50 tập đoàn quốc tế chiếm 2/3 tổng lượng xuất khẩu của Thuỵ Điển.

Cuộc sống xã hội ở Thuỵ Điển

Mô hình Thuỵ Điển là một khái niệm từ thập niên 1970, chỉ hệ thống phúc lợi xã hội, một hệ thống phúc lợi và chăm lo xã hội rộng khắp, kết quả của sự phát triển hàng trăm năm của Thuỵ Điển.

Trong thời gian 1890-1930, một phần cơ sở cho một hệ thống phúc lợi xã hội đã hình thành nhưng phải mãi đến những năm của thập niên 1930, đặc biệt từ khi Đảng Công nhân dân chủ xã hội Thuỵ Điển thành lập chính phủ năm 1932, việc xây dựng một quốc gia phúc lợi xã hội mới trở thành một dự án chính trị và được đẩy mạnh. Hệ thống phúc lợi xã hội Thuỵ Điển cuối cùng đã bao gồm tất cả mọi người, từ trẻ em (thông qua hệ thống chăm sóc trẻ em của làng xã), cho đến những người về hưu (thông qua hệ thống chăm sóc người già của làng xã).

Cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng đầu thập niên 1990 dẫn đến việc cắt giảm phúc lợi xã hội và sự phát triển nhân khẩu đã buộc Thuỵ Điển phải xây dựng lại toàn bộ hệ thống hưu trí, hệ thống mà từ nay được gắn liền vào phát triển kinh tế. Các cuộc bầu cử vừa qua ở Thuỵ Điển cho thấy những phần cốt lõi của hệ thống phúc lợi xã hội vẫn được các công dân Thuỵ Điển rất yêu mến.

Võ Thành Chung

Tham khảo tư liệu của Bách khoa toàn thư (http://vi.wikipedia.org/)
  (Dân luận)

Dì Kim Jong-un đã chạy trốn sang Mỹ

Người dì của nhà lãnh đạo Triều Tiên, bà Ko Yong-Suk, đã bỏ trốn sang Mỹ trong khi đang chăm sóc cháu trai Kim Jong-un lúc đó đang học tại một trường nội trú ở Thụy Sĩ vào những năm 1990.
 

Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un.

Bà Ko Yong-Suk, người đã biến mất vào năm 1998, trên thực tế đã được Mỹ cho phép tị nạn chính trị, tờ JoongAng Daily ngày 5/11 đưa tin, dẫn lời một cựu quan chức tình báo cấp cao và một nhà ngoại giao Hàn Quốc đóng tại Berne khi đó.

Theo tờ báo, bà Ko, năm nay khoảng 56 tuổi, và chồng đã phẫu thuật thẩm mỹ để che giấu danh tính và hiện vẫn đang được giới chức Mỹ bảo vệ.

Ông Kim Jong-un từng học tại một trường quốc tế ở Berne từ 1996-2001 và bà Ko đã được cử đi chăm sóc cháu trai trong thời gian học ở đó. Nhưng bà Ko và chồng được cho là đã xin tị nạn tại Mỹ thông qua đại sứ quán nước này ở Berne.

"Mỹ đã đưa cặp đôi đi mà thậm chí không hề thông báo cho chúng tôi", một quan chức tình báo giấu tên nói.

Cặp đôi ban đầu đã được đưa tới một căn cứ quân sự Mỹ ở Frankfurt và sau đó bay tới Mỹ.

Bà Ko là em gái của mẹ ông Kim Jong-u, bà Ko Yong-hui, người qua đời vì căn bệnh ung thư vú năm 2004 ở tuổi 51.

Một số thành viên của gia đình họ Kim hiện cũng đang sống ở nước ngoài.

Con trai cả của của cố Chủ tịch Kim Jong-il, Kim Jong-nam, và gia đình ông này sống lưu vong tại Macao, Singapore và Trung Quốc. Kim Jong-nam được cho là đã bất hòa với cha sau khi bí mật đến Nhật Bản vào năm 2001 để tới thăm công viên Disneyland nhưng bị phát hiện dùng hộ chiếu giả.

Con trai Kim Jong-nam là Kim Han-sol hiện đang học đại học ở Paris, Pháp.
Theo An Bình (Dân trí / AFP)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét