Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 5 tháng 11, 2013

Những phản biện đầy sức nặng & Viện Khổng Tử và quyền lực mềm của Trung Quốc

Bùi Tín - Những phản biện đầy sức nặng


Quốc hội trong nước đang bàn thảo để thông qua bản Hiến pháp 2013, tuân theo nghị quyết của cuộc họp thứ 8 khóa XI của Ban Chấp hành trung ương đảng CS.

Để giúp cho gần 500 đại biểu hiểu rõ hơn việc hệ trọng này, trước khi mỗi người bấm máy bỏ phiếu tán thành hay phản đối bản dự thảo đã được đảng hoàn thiện và thông qua trước, xin giới thiệu dưới đây một vài ý kiến được coi là nặng ký nhất của một số đảng viên lão thành có uy tín và trình độ từng có vị trí cao trong bộ máy lãnh đạo đảng và nhà nước.

Trước hết là ý kiến của ông Nguyễn Văn An, từng là ủy viên Bộ Chính trị, từng giữ 2 khóa trọng trách Chủ tịch Quốc hội. Theo Tuần tin tức ngày 20 tháng 9/2013, ông Nguyễn Văn An phát biểu : «Nhất thiết phải đưa Hiến pháp ra cho toàn dân phúc quyết, vì Quốc hội chưa từng được ai giao cho trọng trách thảo hiến pháp, và hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã ghi rõ hiến pháp phải được đưa ra toàn dân phúc quyết ». Ông khẳng định nếu không làm vậy thì chế độ hiện nay là chế độ «đảng trị», nhân dân không thể chấp nhận. Ông cho rằng «hiện nay đất nước đã thống nhất, có hòa bình, không có gì trở ngại để thực hiện một cuộc toàn dân phúc quyết bản hiến pháp mới và thực hiện một cuộc trưng cầu dân ý, thực hiện nguyên tắc của hiến pháp là quyền lực của đất nước thuộc về toàn dân ». Theo báo Pháp Luật từ ngày 20 tháng 5 năm 2010, ông Nguyễn Văn An cũng đã phát biểu rằng «chế độ hiện nay trên thực tế là chế độ làm vua tập thể, tập thể bộ chính trị nắm trọn quyền cai trị đất nước ».

Ông Trần Phương, hiện là giáo sư chính trị - kinh tế học, hiệu trưởng trường đai học dân lập Quản lý Kinh doanh Hà Nội, từng là phó thủ tướng, là ủy viên Trung ương đảng CS. Theo blog của Huỳnh Ngọc Chênh ngày 18 tháng 10 năm 2013, ông Trần Phương công khai góp ý vào các văn kiện dự thảo của đại hội XI rằng « chủ nghĩa Mác – Lênin là sai lầm cả về lý luận và thực tiễn, là nguy hại, phải dứt khoát từ bỏ khỏi các văn kiện của đảng và nhà nước». Ông còn nói rõ thêm rằng «ghi chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa xã hội trong hiến pháp không những là sai lầm mà còn là lừa dối, là bịp bợm, khi cả thế giới đã từ bỏ, chôn vùi những học thuyết sai lầm này rồi ». Xin nhớ giáo sư Trần Phương hiện là một giáo sư có uy tín với tuổi trẻ, sinh viên trong nước, 3 khóa là đại biểu quốc hội, là một tri thức nổi tiếng về tư duy độc lập.

Nhân vật thứ ba cần nhắc đến là ông Đặng Quốc Bảo, nổi tiếng về tư duy độc lập, từng là Trung tướng quân đội nhân dân, là Hiệu trưởng trường kỹ thuật quân sự, là Bí thứ thứ nhất Đoàn Thanh niên CS, là Trưởng ban Khoa giáo trung ương đảng. Theo blog của Lê Anh Hùng ngày 16 tháng 10 năm 2013, ông Đặng Quốc Bảo đã công khai phát biểu rằng : «Việt Nam ta cần ngăn chặn nguy cơ lớn nhất là tai họa bị bành trưóng từ phương Bắc, ta không khiêu khích Trung quốc, nhưng cần kết thân với các nước Đông Nam Á, thậm chí coi Đông Nam Á là tổ quốc thứ hai của ta, ta cần kết liên minh mọi mặt với Ấn Độ, Nhật Bản và cả Hoa Kỳ nữa, vì các nước ấy không có ý đồ gì nguy hiểm đối với ta». Ông Đặng Quốc Bảo là một diễn giả rất được thanh niên hâm mộ, có «ma lực» thu hút tuổi trẻ, nói rõ thêm rằng : «Tôi bị bệnh hiểm nghèo, không còn sống được lâu, phải nói lên sự thật, đảng CS cần từ bỏ chế độ toàn trị, thi đua cạnh tranh với các tổ chức chính trị khác của nhân dân, trả cho nhân dân các quyền tự do dân chủ ».

Thúc ép bằng được Quốc hội thông qua bản dự thảo mang tên Hiến Pháp 2013, quả thật Bộ Chính trị cố tình thủ tiêu quyền tham gia việc nước của toàn dân, thủ tiêu ngay bằng hành sử của mình điều cốt lõi lớn nhất trong hiến pháp là quyền lực của đất nước thuộc về nhân dân. Thái độ này diễn ra, đúng vào lúc bất lợi cho đảng toàn trị nhất, khi Diễn đàn Xã hội Dân sự được khai trương, khi sức ép của quốc tế về thực thi nhân quyền đang tăng, khi các chiến sỹ dân chủ tay không vũ khí tỏ rõ ý chí hiên ngang của những dũng sỹ ra trận, trình diện hàng ngũ đông đảo tự tin, gắn bó, bất khuất trước cường quyền phi lý.

Nếu có ai hỏi: điều gì là nổi bật nhất trong xã hội ta vào thời điểm cuối năm này? Xin thưa ngay : đó là hàng ngũ nhân dân đi đầu là tuổi trẻ hiên ngang đứng dậy đấu tranh đòi quyền sống có tự do và nhân phẩm, đang tận dụng thời cơ để phát triển cả về số lượng và chất lượng, với gia tốc chưa từng có, nhân việc bàn về hiến pháp mới , đang dồn nhóm lãnh đạo chủ quan, mê muội, mù quáng vì tham nhũng vào tình thế cô lập, tiến lui đều khó.
* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Thư khẩn cầu các vị đại biểu quốc hội nhân kỳ họp thứ 6 khóa 13


Các đại biểu đã cùng với toàn dân thông qua phương tiện thông tin đại chúng đã đọc các báo cáo của quốc hội, của chính phủ, đã tranh luận về các con số, phản ảnh tình hình kinh tế xã hội của đất nước trong những tháng vừa qua của năm 2013. Chúng tôi nhận thấy nhiều đại biểu quốc hội thể hiện sự lo lắng sâu sắc trước nhuều nội dung liên quan đến các vấn đề quốc kế dân sinh. Nhiều vị đại biểu, trên cơ sở các con số báo cáo của các cấp chính quyền, đã rất nỗ lực, rất tâm huyết để đánh giá tình hình thực tế và sau đó là đưa ra các giải pháp…. Chúng tôi nhận thấy trong những bài phát biểu của nhiều đại biểu có chứa đựng những lo lắng về tính trung thực và chính xác của các con số thống kê này. Nhưng dường như tất cả vẫn cứ bị cuốn vào những con số thống kê dù có tin hay không tin vào chúng !. Có lẽ cũng không có cách nào khác phải không các quý vị? Không thể không có các con số để làm báo cáo, họp, thảo luận, tranh luận, đánh giá, bàn thảo các giải pháp, khen, chê. Do vậy rất có thể 500 đại biểu nhân dân ròng rã trong suốt hơn một tháng trời sẽ làm việc trên những con số giả , thiếu chính xác, thiếu trung thực này.
Kính thưa các vị đại biểu quốc hội,
Với tư cách là các cử tri, là những người thường dân với tất cả sự trung thực, lòng tự trọng, xin phép nói thẳng rằng giờ đây chúng tôi hoàn toàn không tin vào những con số và các nội dung trong báo cáo đã được trình bày trong kỳ họp quốc hội lần này cũng như trong các kỳ họp trước đây. Chúng tôi xin khẳng định là các con số quan trọng nhất của nền kinh tế như chỉ số GDP, chỉ số lạm phát, cho đến những chỉ số nợ xấu, chỉ số nợ công, cùng nhiều các chỉ số thống kê khác đều không đáng tin cậy. Ví dụ về GDP, chính các vị lãnh đạo của chính phủ, lãnh đạo các ban ngành địa phương cũng đã đặt ra nghi vấn về các con số thống kê khác nhau về GDP của cả TƯ lẫn tại các địa phương. Những bằng chứng về sự tùy tiện của các con số thống kê đã là đã rất rõ ràng, có những lúc sai số có thể lên tới 100%, nhưng dường như tất cả mọi người từ những vị lãnh đạo cao nhất của nhà nước, của quốc hội, cho đến những vị đại biểu quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, đều phải chấp nhận thực tế đáng lo ngại này mà không có giải pháp. Cụ thể, theo thống kê GDP của các địa phương trong cả nước: Tp HCM ước tính GDP 2013 là 9,3%, Hà Nội là 7,88%, Bình Dương 10,5%, Đồng Nai 11,13%, Hải Phòng 8,59%, Đà Nẵng 9,1% … Đây là những con số thống kê của các địa phương, được các cơ quan chính thống nhất của các địa phương này đưa ra. Nếu các con số này mà chính xác thì GDP cả nước sẽ phải ước tính là trên 8% trong năm 2013, chứ không phải là 5,5% như trong báo cáo của chính phủ. Sai số đã vượt quá 50%! Các chuyên gia, các quan chức của tổng cục thống kê trung ương và địa phương đã đưa ra đủ loại phân tích, lý giải về sự khác biệt này, nhưng cho đến nay, không có một ai, một cơ quan nào khẳng định con số nào là đúng, con số nào là sai, tỷ lệ sai số là khoảng bao nhiêu. Tương tự như việc thống kê GDP là thống kê về nợ xấu của hệ thống ngân hàng, mỗi lúc, mỗi cơ quan, mỗi cấp đều đưa ra những con số khác nhau và chẳng ai có thể khẳng định là con số của mình đúng. Chỉ số lạm phát cũng vậy, những người dân chúng tôi đều biết chắc rằng trong năm vừa qua, sự gia tăng giá cả đắt đỏ trong hầu hết các mặt hàng liên quan trực tiếp đến cuộc sống của người dân, đều cao hơn rất nhiều con số là 7% như chính phủ báo cáo, nhưng người dân Việt Nam luôn an phận và cam chịu. Họ hoàn toàn vô cảm với các con số của nhà nước.
Thưa các vị đại biểu, đương nhiên chúng tôi hiểu là tại bất kỳ quốc gia nào cũng đều phải đưa ra những con số thống kê làm căn cứ để xây dựng những sách lược và chiến lược phát triển cùng các quyết sách quan trọng khác. Nhưng chúng tôi đã thấy ở nước ta, đã từ lâu rồi, các con số thống kê này đều bị sai lệch, sai lệch một cách trầm trọng, và cực kỳ nguy hiểm. Sự sai lệch đã làm biến đổi bản chất sự việc. Con số thống kê trong lĩnh vực nào thì nó sẽ thay đổi bản chất sự việc trong lĩnh vực đó, nó sẽ tạo ra sự đánh giá sai, nếu không nói là ngược về các sự kiện hiện tại, và đương nhiên sẽ không thể đưa ra giải pháp đúng đắn cho sự phát triển của tương lai.
Hãy nhìn lại chỉ khoảng cách đây 4, 5 năm thì ai cũng ca tụng tính ưu việt, sự cần thiết của các tập đoàn, tổng công ty có vốn nhà nước. Khái niệm này được lãnh đạo cao nhất của đảng và nhà nước khẳng định qua con số thống kê về tính hiệu quả, tính ưu việt của các đơn vị nhà nước này đã đóng góp cho nền kinh tế chung… Nhưng cho đến khi ung nhọt Vinashin và sau đó la Vinaline bắt đầu bục vỡ thì các con số trước đây mà các phương tiện thông tin đưa ra và đã được các vị lãnh đạo sử dụng mới lộ rõ là những con số sai, số giả. Trên thực tế, ai cũng biết sự đổ vỡ này là bắt nguồn từ rất lâu, nhưng biết bao các tầng nấc các cơ quan nhà nước từ thanh tra cho đến công an, từ bộ tài chính cho đến bộ giao thông, các cấp ủy đảng đều đã dùng những con số gian dối đầy mầu hồng để ca tụng hai tập đoàn này, cho đến khi sự sụp đổ không thể cưỡng lại được của hai tập đoàn thì các con số thật mới được phanh phui. Một khi các con số thực được phanh phui thì một lượng tiền lớn của nhà nước, của nhân dân mất đã biến mất! Ai cũng biết, sự mất mát thua lỗ khổng lồ này, là hệ quả của những chuỗi mất mát đã diễn ra trong nhiều năm trước! Toàn bộ hệ thống quản lý giám sát của các cơ quan Đảng và nhà nước “tự nhiên” bị tê liệt trong nhiều năm!. Còn biết bao Vinashin, Vinaline đang được bộ máy cầm quyền che đậy?
Thưa các quý vị, các con số thống kê hiện nay là kết quả của một hỗn hợp của sự vô trách nhiệm, sự gian dối, sự lười biếng, và các toan tính sai trái của những cá nhân và tập thể trong bộ máy cầm quyền hiện nay. Chúng tôi thiển nghĩ dư luận trong những ngày gần đây vô cùng bức xúc với hiện tượng của bác sĩ Tường đã vứt xác nạn nhân xuống sông nhằm phi tang vụ viêc sai trái, trong khi mà chúng ta lại gần như vô cảm với những con số thống kê sai lệch đã che mắt toàn dân trong nhiều năm qua. Các con số này vừa che đậy những viêc làm sai trái của những con người, những nhóm lợi ích trong ban lãnh đạo đảng hiện nay đang ra sức đục khoét ngân quỹ và tài nguyên quốc gia, vừa làm vô hiệu hóa hiệu lực quản lý của các cơ quan chức năng nhà nước. Chúng tôi cho rằng tác hại của những con số gian dối này cón độc ác, tệ hại hơn cả vạn lần hiện tượng của BS Tường.
Kính thưa các quý vị, nguyên nhân cội rễ của hiện tượng vô cùng nguy hiểm đối với đất nước và người dân VN đã được biết bao các trí thức, các nhà nghiên cứu trong đó có rất nhiều là đảng viên công sản đã chỉ ra rất rõ trong nhũng bài viết gần đây như GS Tương Lai, ông Nguyễn Trung, ông Tống Văn Công…và gần đây chúng tôi rất tâm đắc với các ý kiến thẳng thắn, trung thực của ông Lê Trấn Gia trong bài “Thư gửi Tổng bí thư và ban chấp hành Trung ương ĐCSVN”.
Chúng tôi khẩn cầu các đại biểu Quốc hội hãy khẩn trương hành động theo tiếng gọi của lương tâm, vì dân, vì nước mà không ủng hộ các lực lượng cực đoan đang tìm cách khống chế các cơ quan lãnh đạo đảng, nhà nước và quốc hội đi theo mô hình bộ máy chuyên quyền, độc tài, phản dân chủ hiện nay. Bọn chúng đang dùng mọi thủ đoạn, kể cả những thủ đoạn “ma giáo” để duy trì sự thao túng bộ máy lãnh đạo nhà nước Việt Nam hiện nay. Trước tiên, bọn chúng muốn ép quốc hội phải thông qua “cái gọi là bản sửa đổi hiến pháp năm 1992” để làm căn cứ pháp lý nhằm thực hiện các cuộc đàn áp sự phản kháng của nhân dân chắc chắn sẽ xảy ra trong thời gian tới. Trước tiên, xin các vị không thông qua bản xửa đổi hiến pháp này, và chỉ thông qua khi các tư tưởng phản dân chủ và độc tài bị loại bỏ. Mặt khác, xin các quý vị tăng cường vai trò giám sát của các đại biểu quốc hội để hạn chế các việc làm gian dối, thiếu minh bạch, thiếu trách nhiệm của một bộ phận lớn các cơ quan đảng và nhà nước, từ TƯ đến địa phương hiện nay, trong quá trình thực thi pháp luật trong phạm vi cả nước.
Kính thưa các quý vị, người dân chúng tôi rất biết nhiều đại biểu quốc hội hiện nay không đồng tình và không muốn tuân theo các sức ép phản dân chủ của một bộ phận quan trọng trong ban lãnh đạo đất nước hiện nay. Nhưng vì nhiều lý do khác nhau, các vị còn đang do dự, chưa dám đưa ra chính kiến của mình. Xin các quý vị đừng do dự nữa, hãy dũng cảm hành động. Đất nước và nhân dân Việt Nam anh hùng sẽ cảm ơn các quý vị trong thời khắc lịch sử này. Hành động của các quý vị sẽ trực tiếp làm giảm đi sự hy sinh và mất mát trong cuộc cách mạng sắp tới của người dân Việt Nam, nhằm loại bỏ các lực lượng phản dân hại nước đang hoành hành, tác oai tác quái, bán rẻ lợi ích của đất nước và của 90 triệu người dân Việt Nam.
Hà Nội 4/11/13
Trần Trọng Nghĩa
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 5-11-13

"Thiên đường" XHCN sẽ về đâu?


000_Hkg9151140-305.jpg
Một cửa hàng bán hàng lưu niệm cho du khách tại Hà Nội hôm 01/11/2013
AFP photo
Khi bàn về “Đại Vệ Chí Dị: Nước Vệ triều nhà Sản năm thứ 68”, blogger Người Buôn Gió mô tả về Quân Vương của xứ này rằng:

Vương ngồi án thư, lôi bản dự thảo hiến pháp ra xem lại, sửa vội mấy chữ, chỉnh dấu chấm phẩy. Rồi soạn công văn gửi bộ Học. Chỉ dụ bộ Học phải ca ngợi rằng bản dự thảo này là thể hiện cho ý chí hào hùng của nhân dân ra dưới thời kỳ mới, đồng thời phải nhấn mạnh con đường đi lên thiên đường xã nghĩa vẫn còn dài, toàn dân , toàn quân phải phấn đấu chịu đựng gian khổ nhiều hơn nữa”...

Trong khi ngày xưa Vệ Kính Vương phán xuống thần dân về con đường thiên lý xã nghĩa ấy – mà nói theo nhà văn Xuân Vũ là “Đường đi không tới”, thì thời nay, lãnh đạo chóp bu của VN cũng vừa lên tiếng trước Đòan Đại biểu Quốc hội Hà Nội rằng “ Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hòan thiện ở VN hay chưa”.

Lời phán như vậy của Tổng bí thư VN Nguyễn Phú Trọng khiến blog Tễu không còn cách nào khác đành phải thốt lên lời than rằng:

Ối giời ơi! Bác Trọng làm em nản quá! Thế thì đời em không có may mắn được trông thấy thiên đường xã hội chủ nghĩa rồi! ...Thôi! Không mơ tới được thiên đường, thì chúng em cứ sống với cái địa ngục này vậy!

Lời phán của “Bác Trọng” khiến blogger Nguyễn Tường Thụy đành phải “Bye bác Tổng, em trùm chăn đây”, và rồi nhớ lại ngày xưa còn bé thường nghe các bác cán bộ nói 40 năm nữa thì nước ta bằng Liên Xô bây giờ. Đến khi lớn lên học chủ nghĩa Mác, người học trò Nguyễn Tường Thụy nghe các thầy của mình nói rằng Liên Xô đã có những yếu tố cơ bản của chủ nghĩa cộng sản, có nghĩa là chủ nghĩa xã hội đã có rồi. Sau đó, số phận của người anh cả XHCN Liên Xô thế nào, “bác Tổng”- và cả thế giới - đã biết. Blogger Nguyễn Tường Thụy “tâm sự” tiếp với “bác Tổng”, rằng “Không thể nói hết được lúc đó em hoang mang thế nào đâu”.

Thế rồi đột nhiên hôm nay, bác lại phán ... xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa" khiến tác giả Nguyễn Tường Thụy thực sự lo lắng quá. Blogger Nguyễn Tường Thụy thố lộ với “bác Tổng”:

Lúc còn trẻ, cứ xem khí thế hồi ấy, em nghĩ nước ta, cực nhọc lắm thì cũng chỉ hết thế kỷ hai mươi là có chủ nghĩa cộng sản rồi.
Vậy mà sang thế kỷ 21 đã hơn một thập kỷ, bác lại "dọa" đến hết thế kỷ này vẫn chưa chắc có chủ nghĩa xã hội (chứ đừng mơ gì đến chủ nghĩa cộng sản) thì em không biết tin vào ai nữa. Điều đó có nghĩa là đời bác và em, đến đời con và đời cháu chúng ta cũng chưa thấy chủ nghĩa xã hội đâu. Vì hết thế kỷ này thì thằng cháu ngoại của em cũng đã ...90 tuổi (cháu của bác chắc còn già hơn…). Em oải lắm rồi. Thôi bye bác, em trùm chăn đây để các bác xây dựng chủ nghĩa xã hội cho đám chắt chút chít của chúng ta.

Không thay đổi dù không hoàn thiện
 
000_Hkg4467982-250.jpg
Một đại biểu đang cầm lá phiếu trong phiên bầu cử của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 11 hôm 17/1/2011. AFP photo
Khi còn sinh tiền, Giáo sư Đặng Phong, một chuyên gia kinh tế chính trị thuộc Đại học Kinh tế Quốc dân đã lên tiếng với Đài ACTD về vấn đề này. Ông giải thích tại sao giới lãnh đạo Việt Nam vẫn khư khư “ôm lấy” chủ nghĩa xã hội:

Xã hội chủ nghĩa là sự vớt vát thuộc quá khứ mà mình không thể chấp nhận nó nữa nhưng mình không thể thẳng thắn tuyên bố giã từ nó cho nên dùng một chữ rất mơ hồ chung chung như vậy. Bây giờ mà mải mê đi tìm xã hội chủ nghĩa thì không bao giờ tìm thấy giá trị thật của nó đâu. Cái nội dung thật của nó là cái gì thì không tìm thấy đâu. Nó là một món nợ của lịch sử…

Đại tá Phạm Xuân Phương, từng công tác nhiều năm trong Cục Chính trị của Quân đội Nhân dân VN, giải thích tại sao Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng vẫn luôn khẳng định Việt Nam không thay đổi mục tiêu “tiến lên chủ nghĩa xã hội” mặc dù nhìn nhận con đường XHCN “còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hòan thiện ở VN hay chưa”:

Cơ bản ông ấy không đủ khả năng để ông ấy hiểu, nhưng bên cạnh ấy, nó cũng là quyền lợi. Ông ta ngu dốt lại hưởng tất cả mọi quyền lợi thì việc gì mà thay đổi trong khi ông ta lại đang làm vua ở xứ sở này. Những cái đó nó quan hệ với nhau, tạo ra những mối ràng buộc. Và cứ như thế mà ông ta hót. Trí thức Việt Nam, kể cả những người bảo hoàng nhất, cũng không thể nào nghe và chấp nhận việc ổng nói nữa.

Theo blogger JB Nguyễn Hữu Vinh thì “Sau mấy chục năm khẳng định con đường quá độ đi lên Chủ Nghĩa xã hội mà ‘đảng và bác’ đã chọn hộ dân tộc Việt Nam là con đường hiện thực, duy nhất đúng đắn, dần dần các lãnh đạo cộng sản mới thừa nhận sự u mê và hão huyền mơ hồ khi đặt niềm tin vào đó. Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh còn mơ hồ theo kiểu ‘năm ăn năm thua’ rằng: Chủ nghĩa xã hội sẽ dần dần sáng tỏ. Còn mới đây Tổng bí thư Đảng Cộng sản ngao ngán thổ lộ: Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa. Nghĩa là, cứ đi hết thế kỷ này theo con đường quá độ và yên chí là chưa có cái Chủ nghĩa xã hội, còn khi đến đó, nó là cái gì thì sẽ biết. Nếu là quả núi thì leo lên ngồi, nhỡ không may là hố sâu, thì cả dân tộc cứ xuống đó mà lặn”!

Qua bài “Người cộng sản mất phương hướng”, nhà báo JB Nguyễn Hữu Vinh nhận xét rằng đúng 100 năm sau khi Lênin viết “Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác”, thì Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ còn là mớ kinh sách vẫn được dùng để “tụng niệm” tại một vài nước ở châu Á khi các môn đệ lâm vào tình trạng “rã rời, buồn ngủ, mơ màng” với những “bữa tiệc linh đình và tìm cách hưởng thụ những món tư bản khổng lồ cướp được nhờ địa vị thống trị của mình, dưới cái nhãn mác cách mạng và ô che của cái Học thuyết Mác-Lênin ‘vĩ đại’ dành cho giai cấp vô sản kia”.

Nhưng, nhà báo JB Nguyễn Hữu Vinh lưu ý, thực tế lâu nay cho thấy những điều Lênin đã viết kia, đã ca tụng và lăng xê, chỉ là những “món bánh vẽ và là sản phẩm của những sự hoang tưởng dưới sự kiểm chứng của lịch sử”. Và dù họ có phần nào thành công trong một giai đoạn lịch sử, “ru ngủ” được cả chục triệu, thậm chí hàng trăm triệu người, nhưng họ đã “thất bại trong một quá trình lịch sử, cái lý thuyết huyễn hoặc đó đã nhanh chóng bộc lộ những vô lý và tự hủy”. Blogger JB Nguyễn Hữu Vinh nhấn mạnh rằng sự thất bại của Chủ Nghĩa Cộng sản không chỉ ở chỗ thực hành, mà ngay cả phần lý thuyết cũng đã được thực tế chứng minh là hão huyền và ảo tưởng. Liên quan VN, nhà báo Nguyễn Hữu Vinh nêu lên câu hỏi:

Việt Nam là một trong ba địa chỉ hiếm hoi còn lại trên thế giới đang tiếp tục bám víu vào thứ hỗn mang này. Hai phần ba thế kỷ bám trụ, đi theo, sáng tạo, kiên định… đủ cả mọi ngôn từ và tốn máu xương hàng triệu người, từng phần lãnh thổ đất nước thì thực tế xã hội hôm nay đã chứng minh được điều gì ?

Đảng vẫn trên Quốc Hội 
 
000_Hkg9116353-250.jpg
Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng được nhìn thấy qua màn hình trong buổi lễ khai mạc kỳ họp thường niên thứ hai của Quốc hội tại Hà Nội ngày 21 tháng 10 năm 2013. AFP photo
Qua thư gởi cho người học trò cũ tên Chí Linh, thầy Trần Thành Nam lưu ý “Tư duy về lòng biết ơn XHCN”:

Thầy không biết XHCN là gì trên thực tế, và hình như chưa ai biết, người ta chỉ vẽ nó ra rất đẹp trên lý thuyết và muốn xây dựng nó. Nhưng những nước tưởng như gần có nó rồi, thì sụp đổ hàng loạt – vì thực tế cái người ta nhân danh nó - XHCN- mà hành động lại rất tồi tệ, xấu xa, sai lạc… Có lẽ vì nó - XHCN - sai, nó phản lại bản chất con người chăng ? Tóm lại, đơn giản là thầy không thể dạy các em đặt lòng biết ơn vào cái gì không tồn tại

Trong khi người ta chưa biết CNXH, CNCS hình thù ra sao, không biết “đến hết thế kỷ này có CNXH hòan thiện ở VN hay chưa”, thì thực tế hiện giờ cho thấy đảng và nhà nước ra sức duy trì thực trạng độc quyền tòan trị, mà cụ thể là, GS Jonathan London thuộc Đại học TP Hong Kong cảnh báo, “ Quốc Hội VN sắp phê duyệt một bản Hiến pháp ‘sửa đổi’ mà không có một sự thay đổi cơ bản nào”.

Từ Thanh Hóa, MS Nguyễn Trung Tôn nhận xét:

Như chúng ta biết là với sự kết thúc Hội nghị Trung ương 8 khóa 11, và thông qua hội nghị này, thì đảng CS tiếp tục chỉ đạo Quốc Hội, vì ngày hôm nay, điều 4 Hiến pháp còn tồn tại thì đảng CS vẫn đang đứng trên đầu Quốc Hội. Hơn nữa, thực chất, Quốc Hội cũng chỉ là một tổ chức thuộc đảng mà thôi. Vì trong Quốc Hội thì các ủy viên Bộ chính trị rồi tất cả những chức quan trọng của đảng đều nằm ở trong Quốc Hội. Nên mặc dù mang tiếng là Quốc Hội của dân, phục vụ dân, nhưng họ vẫn chịu sự quản lý của đảng. Mọi sự chi phối của đảng CS đều tác động đến Quốc Hội. Vì vậy mà qua Hội nghị Trung ương 8, chúng ta thấy rằng đảng đã chỉ đạo trong việc sửa đổi Hiến pháp mà dường như vẫn giữ nguyên những cái cơ bản của bản Hiến pháp cũ, nhất là vẫn giữ nguyên Điều 4, rồi luật đất đai sở hữu tòan dân rồi việc quân đội trung thành với đảng .v.v…

Nói đến tình trạng “đảng CS vẫn đang đứng trên đầu Quốc Hội” như lời MS Nguyên Trung Tôn, công luận hẳn chưa quên lời Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, khi nói chuyện với cử tri ở 2 quận Tây Hồ và Hòan Kiếm tại Hà Nội hôm 28 tháng 9, khẳng định rằng “Hiến pháp là văn kiện chính trị pháp lý quan trọng vào bậc nhất sau Cương lĩnh của Đảng”. Lời tuyên bố đó khiến Đại tá Phạm Đình Trọng, cựu đảng viên CS, phản ứng:

Điều ông ấy nói là vô cùng thảm hại, vô cùng nguy hại cho đất nước. Đưa cương lĩnh của đảng lên trên Hiến Pháp, lên trên Pháp luật là một điều lú lẫn, một điều xằng bậy không thể chấp nhận được”.

Qua bài “Sức lay động của ‘Dậy mà đi”, GS Tương Lai cảnh báo rằng “ Đảng vẫn muốn cai trị bằng quyền lực để phục vụ cho mình, bằng sự dối trá để đầu độc người dân, bằng những điều luật mà mỗi người dân, mỗi người như chúng ta đây, khi muốn thể hiện cái Quyền Con Người chính đáng của mình...thì bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành những Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Trần Vũ Anh Bình, Việt Khang, Nhật Uy, Nguyên Kha...và nhiều nữa...tại sao ? Hãy lên tiếng, và hãy cứ lên tiếng, vì chúng ta là con người...chúng ta không phải là những con cừu”.
Thanh Quang, phóng viên RFA 2013-11-04

Đại biểu QH Trương Trọng Nghĩa - "Hậu thế sẽ đánh giá Quốc hội khóa XIII"

"Tôi nhận thức rằng sửa đổi Hiến pháp là việc trọng đại mà tác động của nó có thể thúc đẩy hoặc cản trở bước tiến của lịch sử. Hậu thế sẽ đánh giá Quốc hội khóa XIII sẽ làm gì để thúc đẩy chứ không cản trở sự phát triển của dân tộc".
Đại biểu QH Trương Trọng Nghĩa - Ảnh: Việt Dũng
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP.HCM) phát biểu tại phiên thảo luận của Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 vào sáng 5-11.
“Giải pháp của mọi giải pháp”
Đại biểu Nghĩa nói: “Trong những kỳ họp qua chúng ta đã bàn nhiều về giải pháp cho tình hình chung của đất nước. Không ít ý kiến cho rằng nếu không có những giải pháp toàn diện và đột phá thì tình hình đất nước không thể chuyển biến tích cực một cách căn bản. Nguyên nhân có nhiều, nhưng trong đó có nguyên nhân là công cuộc đổi mới thể chế và luật pháp đã chậm bước so với nhu cầu của đất nước”.
Ông nhấn mạnh: “Việc đổi mới chính trị đã không đồng bộ và không theo kịp với đổi mới kinh tế như nghị quyết Đại hội Đảng XI đã nêu. Nhân dân góp ý và chờ đợi sự thay đổi trong đó có ba nội dung lớn cần được đổi mới, đó là đổi mới phương thức lãnh đạo trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, đổi mới thành phần kinh tế nhà nước và đổi mới về pháp luật đất đai”.
Theo ông Nghĩa, “không ít ý kiến cử tri cho rằng Hiến pháp sửa đổi là giải pháp cho mọi giải pháp. Trên tinh thần đó, vừa qua các tầng lớp nhân dân đã phát huy tinh thần trách nhiệm, ý thức dân chủ, tầm trí tuệ và văn hóa để đóng góp xây dựng Hiến pháp sửa đổi”.
“Nếu việc sửa đổi Hiến pháp lần này không đạt được yêu cầu đó thì chúng ta sẽ không tiếp thu được những tinh hoa trí tuệ nhân dân đã đóng góp mà còn bỏ lỡ cơ hội đưa công cuộc đổi mới lên một tầm cao mới, tạo động lực cho đất nước vượt qua nguy cơ tụt hậu, tiếp kịp các nước trong khu vực và trên thế giới”.
Quyền sử dụng đất phải là quyền tài sản
Đại biểu Bùi Mạnh Hùng (Bình Phước) đặt vấn đề: “Dự thảo quy định đất đai là tài nguyên đặc biệt quan trọng của quốc gia, nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước được quản lý theo pháp luật và quy hoạch. Tôi rất băn khoăn về chữ quản lý theo quy hoạch”.
“Nếu quy định quản lý theo quy hoạch thì vô hình trung chúng ta đã đặt tính chất pháp lý của quy hoạch ngang với pháp luật, mà thực tiễn thì quy hoạch diễn ra ở nhiều cấp như xã, huyện, tỉnh, quốc gia, quy hoạch ngành, vùng… Các quy hoạch không tránh khỏi sự chồng chéo, có những quy hoạch thiếu khoa học, thiếu thực tế, điều chỉnh nhiều lần. Đây là một trong những nguyên nhân gây lãng phí đất đai. Nếu lấy quy hoạch làm cơ sở cho việc quản lý, thu hồi đất đai thì tôi e rằng không ổn, dễ bị lợi dụng. Vấn đề quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nên để luật định” - ông Hùng nêu.
Liên quan đến quy định về quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao quyền sử dụng đất, ông Hùng phân tích: “Ở đây có quy định là người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất. Ghi như vậy rất cụ thể nhưng rất thiếu bởi vì người sử dụng đất có rất nhiều quyền: quyền sang nhượng, cho tặng, thế chấp tài sản, góp vốn… Mặt khác, thực chất quyền sử dụng đất hiện nay chính là quyền tài sản. Tuy trong văn bản chưa ghi nhưng trong thực tiễn nó chính là tài sản”.
Ông Hùng nhấn mạnh: “Người dân muốn có quyền sử dụng đất thì người ta phải bỏ tiền ra để mua. Đó là tài sản. Tôi đề nghị Hiến pháp cần khẳng định quyền sử dụng đất là quyền tài sản mới công bằng. Quy định như vậy sẽ làm cơ sở cho việc quy hoạch, thu hồi, giải tỏa, đền bù theo đúng bản chất đó là quyền tài sản mới đảm bảo sự công bằng, dân chủ và khách quan.
Mặt khác, người sử dụng đất cũng phải có nghĩa vụ khai thác, sử dụng hiệu quả, không để hoang hóa. Do đó, cần quy định rõ là: “Quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo hộ. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất có nghĩa vụ khai thác có hiệu quả theo quy định của pháp luật”.
LÊ KIÊN
(Tuổi trẻ)

Sở hữu đất đai và ổn định xã hội


Khi sở hữu tư nhân đất đai không được chấp nhận thì nó tiếp tục là mầm mống tạo bất ổn xã hội và điều này sớm hay muộn cũng sẽ phải giải quyết. Lý do đơn giản là đất đai là nguồn tài nguyên và nguồn sống của nông dân chiếm tới 70 % người dân Việt Nam. Các nhà lý thuyết “ xã hội chủ nghĩa ” hiện nay cho rằng đất đai cũng như hầm mỏ là một loại tài sản do thiên nhiên ban tặng, không thể tự tái sinh nên không thể tư hữu hóa mà phải là “ sở hữu toàn dân ”. Tài nguyên thiên nhiên không do con người làm ra như hầm mỏ, bầu trời, sông biển thuộc sở hữu nhà nước là điều hợp lý, dù rằng có nước công nhận sở hữu tư nhân nằm dưới đất tư hữu. Nhưng đất đai khác với các tài nguyên thiên nhiên khác vì chúng có lịch sử lâu đời về khai phá, được sử dụng và công nhận rộng rãi bởi cộng đồng và luôn gắn liền với tư nhân, dưới hình thứ sở hữu cá nhân (dân đinh, vua chúa) và tập thể (như cộng đồng làng xã). Chỉ từ khi có việc nhân danh “ chủ nghĩa xã hội ” đất đai mới bị coi là “ sở hữu toàn dân ” nhưng về thực chất “ toàn dân ” không có quyền gì. “ Sở hữu toàn dân ” thật ra là một ý niệm tiếm danh (misnomer), ngoa ngữ bởi vì thực chất nó là sở hữu nhà nước. Không có việc “ toàn dân ” có quyền gì ở đây mà là quyền của những người cầm quyền. Bài viết này nhằm phân tích quyền sở hữu và quyền sử dụng và nêu ra những khả năng bất ổn xã hội có thể mang đến khi quyền tư hữu đất đai không được công nhận.
Trước tiên hãy bàn về quyền sở hữu, rồi bàn đến quyền sử dụng và sau đó là ảnh hưởng của các cách xử lý khác nhau.
1. Quyền sở hữu đất
Quyền sở hữu gồm nhưng quyền được chấp nhận rộng rãi và được pháp luật bảo về ở hầu hết mọi nước :
Quyền sử dụng vĩnh viễn
Quyền thụ hưởng mọi lợi ích kinh tế và phi kinh tế mà tài sản sở hữu mang đến
Quyền chuyển nhượng (bán, cho thuê, hoặc cho không)
Quyền cấm người khác xâm phạm sở hữu.
Các quyền thuộc quyền sở hữu ở bất cứ nước nào cũng bị hạn chế bởi luật pháp như luật quy hoạch (đất nông nghiệp không được đem xây nhà cho thuê chẳng hạn), luật bảo vệ môi trường, và trong trường hợp vì lợi ích chung, ở mọi nước nhà nước có thể nhân danh quyền eminent domain để trưng thu, v.v. Trong trường hơp đem bán hoặc bị trưng thu, thì việc chuyển nhượng sẽ dựa vào giá trị của chúng. Giá trị này về mặt kinh tế cũng phải phản ánh giá trị lợi ích kinh tế mà nó mang lại khi sử dụng, được các nhà kinh tế gọi là giá cơ hội (opportunity cost). Các nhà đầu tư đều có phương pháp đánh giá để tìm ra giá trị mà họ muốn thu được khi đem bán. Giá thị trường không nhất thiết bằng với giá trị tính toán trên nhưng phải phản ánh nó. Nó là chuẩn để người bán và người mua dựa vào để thương thảo giá. Bản thân người viết cũng đã tham gia vào việc tính giá các tòa nhà thuộc khu World Trade Center ở thành phố New York có doanh nghiệp công Port Authority of New York and New Jersey vào năm 1982-1983 trước khi chúng bị phá hoại vào năm 2001 nên những trình bày ở đây không phải chỉ là chuyện lý thuyết.
2. Quyền sử dụng đất
Quyền sử dụng không phải là quyền sở hữu cho nên không có tính chất vĩnh viễn, quyền sử dụng vì thế bị giới hạn về thời gian theo hợp đồng giữa bên sở hữu và bên sử dụng. Khi người sở hữu đem cho thuê có thời hạn, tức là giao quyền sử dụng cho người khác theo hợp đồng. Hợp đồng đó nếu có điều khoản cho phép chuyển nhượng cho người thứ ba thì hợp đồng cũng có giá trị trên thị trường. Đó là giá trị sử dụng trong thời hạn còn lại theo hợp đồng. Giá trị này là tài sản của người có quyền sử dụng.
3. Nguyên tắc định giá
Việc tính toán giá, giá tài sản sở hữu hay giá hợp đồng sử dụng có thể chuyển nhượng đều dựa vào cùng một nguyên tắc, có thể công thức hóa. Sự khác biệt chính là : 1) thời hạn của quyền sử dụng : vĩnh viễn hay có thời hạn thấp hơn vĩnh viễn, 2) thu nhập ròng thu được mà quyền sử dụng mang lại từng thời kỳ trong thời gian sử dụng. Coi hộp về nguyên tắc tính giá sử dụng.

Nguyên tắc định giá hợp đồng đất vĩnh viễn hay có thời hạn

Giá trị hợp đồng đất = Tổng giá trị thu nhập ròng thu được trong thời hạn hợp đồng, tính theo giá trong thời điểm hiện tại = Thu nhập ròng của năm thứ nhất còn lại trên hợp đồng + ... + thu nhập ròng của năm cuối cùng hợp đồng.

Thu nhập ròng = thu nhập thu được trong sử dụng – chi phí sử dụng.

Nhận xét :

Để tính giá trị hợp đồng, cần tính được thu nhập ròng và cần có suất chiết khấu thực (có khử ảnh hưởng của lạm phát).

Giá trị hợp đồng tính theo cách trên là giá cơ hội (opportunity cost) như trên không nhất thiết bằng giá trên thị trường, tuy nhiên nó là chuẩn để người bán và mua hợp đồng dựa vào để thương thảo.

Giá trị hợp đồng đòi hỏi nhiều thông tin mà các công ty chuyên nghiệp có thể thu thập để tính.

Ở nhiều nước, như ở Mỹ chẳng hạn, khi nhà nước muốn trưng thu, thì nhà nước và người bị thu sẽ đưa ra giá trị mà từng bên coi là khách quan. Quan tòa là nơi tốt nhất giải quyết hoặc đi đến đồng thuận giữa hai bên hoặc quan tòa sẽ quyết định cuối cùng. Quan tòa cũng sẽ quyết định việc trưng thư có vì lợi ích chung không hay là vì mục đích tư lợi của một hay vài cá nhân. Tất nhiên cũng có thể có phương pháp khác để đi đến đồng thuận khi nhà nước trưng thu, nhất là khi nhà nước cần trưng thu cả khu vực có ảnh hưởng đến nhiều người có sở hữu, như đồng thuận của tuyệt đại đa số người bị ảnh hưởng. Ở Việt Nam, ông Đặng Hùng Võ đã đưa ra giải pháp là cần ít nhất 70 % những người bị trưng thu đồng ý vì quan tòa có thể không liêm chính, hoặc bị áp lực chính trị.

4. Ảnh hưởng kinh tế khi sở hữu không được công nhận
Công thức tính giá cho ta thấy với các điều kiện sử dụng bị hạn chế giống nhau, có thể định nghĩa quyền sở hữu là quyền sử dụng với thời gian vô tận.
Giá trị quyền sử dụng tùy thuộc vào một yếu tố quan trọng, đó là thời hạn sử dụng, mà thời hạn có thể đi từ zero đến vĩnh viễn. Khi hợp đồng tiến đến hạn thì giá trị hợp đồng tiến tới zero. Quyết định đầu tư cho mảnh đất là tùy thuộc vào thời hạn dài ngắn trong hợp đồng. Về mặt kinh tế, khi hợp đồng gần đến hạn thì không có lý do gì người sử dụng phải đầu tư dài hạn thêm vì không biết ông chủ sở hữu có gia hạn không, gia hạn bao lâu và giá phải trả cho người sở hữu.
Đối với tài nguyên thiên nhiên như hầm mỏ, hay rừng, biển, kể cả đất đai khai thác khác thuộc quyền sở hữu nhà nước thì người sở hữu và người có hợp đồng biết rõ các điều kiện về mặt pháp lý là khi hợp đồng hết hạn tài sản này phải hoàn trả không điều kiện, và không có bồi thường.
Đối với đất đai của người dân đặc biệt là đất nông nghiệp của nông dân, khi sở hữu tư nhân không được chấp nhận, tức là quyền sử dụng không vĩnh viễn thì cái thời hạn sử dụng luôn luôn là gông đeo cổ người dân.
Triết lý không chấp nhận sở hữu cá nhân tức hạn chế thời hạn giao đặt ra một số vấn đề sau :
Số phận người nông dân Việt Nam chiếm 70 % dân số bị đặt vào một tương lai cực kỳ bất an. Người có quyền sử dụng chỉ được giao đất một số năm, và không biết chuyện gì sẽ xảy ra sau hợp đồng : họ có được tiếp tục không, với điều kiện nào. Như thế người nông dân không những chỉ hành động một cách ngắn hạn mà còn giảm đầu tư khi thời gian đi dần đến hạn. Nền kinh tế sẽ rơi vào tình thế bất an.
Với luật định hợp đồng thời hạn, người nông dân có quyền sử dụng đất khó lòng dùng chúng làm thế chấp nhất là khi sắp tới hạn vì giá trị của hợp đồng tùy thuộc vào thời hạn sử dụng ngắn hay dài. Quyết định một thời hạn sử dụng ngắn hơn vô tận (tức là sở hữu) đương nhiên đưa giá trị chúng xuống thấp hơn giá trị của nó nếu nó là quyền sở hữu.
Đối với đất đai được giao để làm nhà ở hay để làm khu công nghiệp cũng phải đối phó với tình thời hạn của hợp đồng đất đai, tuy nhiên nếu là người đầu tư họ đã tính toán với các hạn chế này, và nhận thức rõ là đất đai phải trả lại không bồi hoàn khi hợp đồng khi hết hạn.
Hiện nay không có cơ sở để quyết định ai có quyền giao, ai được giao và thời gian giao để bảo đảm ý nghĩa đất đai thuộc “ sở hữu toàn dân ”. Các quyết định quan trọng trên sẽ tiếp tục thuộc chính quyền, và dựa vào sự tùy tiện của các cấp chính quyền. Hiến pháp hiện nay và sắp tới giao “ quyền tùy tiện ” này cho các cấp chính quyền thì đương nhiên mở ra lỗ hổng để các cá nhân lãnh đạo chính quyền khai thác chiếm dụng thặng dư. Quyền giao đất đương nhiên tạo nên một tầng lớp chiếm đoạt thặng dư (rent seeking).
5. Trưng thu đất vì lợi ích chung
Như đã trình bày, việc trưng thu đất là điều mà mọi nước đều có, dựa vào quyền eminent domain của nhà nước. Vấn đề là họ giải quyết trên cơ sở của luật pháp về nguyên tắc lợi ích chung và nguyên tắc định giá trên cơ sở giá cơ hội đã bàn ở trên. Không có việc giao cho các cấp chính quyền quyết định thế nào là lợi ích công và quyền quyết định giá. Luật pháp Việt Nam có thể sửa đổi – mặc dù đây vẫn là điều không tưởng – để giải quyết công bằng và hợp lý việc trưng thu đất vì lợi ích chung (liên quan đến nguyên tắc quyết định giá và quyết định thế nào là lợi ích chung) nhưng sẽ không giải quyết được vấn đề về tính bất an về thời hạn hợp đồng khi quyền tư hữu về đất đai không được chấp nhận.
6. Vấn đề lo sợ nông dân không có đất cày
Ngày xưa, chính vì lo sợ người nông dân không có đất cày cấy mà trước đây nhiều nước đã có chương trình cải cách ruộng đất, trưng thu đất của các đại điền chủ và bán lại cho nông dân để người nông dân có đất cày cấy và sau đó áp dụng chính sách hạn điền. Thời hiện đại khi phát triển kinh tế đã dựa vào công nghiệp hóa, do đó mà chiều hướng chung trên toàn cầu là số nông dân ngày càng giảm để trở thành công nhân thì việc tập trung ruộng đất để áp dụng đại nông canh tác, tăng năng suất lại là yêu cầu ngược lại ngày xưa. Do đó việc nới rộng mức hạn điền lại là điều cần thiết. Ngoài ra việc khuyến khích nông dân tập trung đất thành hợp tác xã hay công ty cổ phần cũng là điều nên khuyến khích.
 Vũ Quang Việt
(Diễn Đàn)

Nguyễn Hưng Quốc - Viện Khổng Tử và quyền lực mềm của Trung Quốc


Trên thực tế, Viện Khổng Tử có nhiều đặc điểm khiến giới quan sát phải nghi ngờ và e ngại.

05.11.2013
Ở Việt Nam, trong suốt mấy tuần vừa qua, dư luận, ít nhất là trong giới trí thức, khá xôn xao về quyết định của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho phép thành lập Viện Khổng Tử tại trường Đại Học Hà Nội. Tất cả đều đồng thanh bày tỏ sự lo ngại và bất bình: Họ cho đó là dấu hiệu của cuộc xâm lược văn hóa, từ phía Trung Quốc, và của sự đầu hàng trước cuộc xâm lược ấy, từ phía Việt Nam.

Trước khi bình luận, có mấy điều chúng ta cần lưu ý:

Thứ nhất, Viện Khổng Tử được chính phủ Trung Quốc thành lập vào tháng 6 năm 2004 với số tiền trên 500 triệu Mỹ kim, hiện nay đã có trên 400 cơ sở trên khoảng hơn 100 quốc gia (chưa kể khoảng 400 viện khác đang nằm trong dự án và cũng không tính các Lớp học Khổng Tử, Confucius Classrooms, thường là một bộ phận của Viện Khổng Tử, Confucius Institute, nhưng cũng có khi tồn tại riêng rẽ ở những nơi Viện Khổng Tử chưa được thành lập). Ở Mỹ có trên 70 viện; ở Anh, trên 20 viện; ở Úc, Đức, Pháp, Nga, Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan, mỗi nước trên 10 viện; v.v..Về số lượng, các Viện Khổng Tử hiện nay đã gần ngang ngửa với Aliances Françaises của Pháp và bằng tổng số các trung tâm ngôn ngữ và văn hóa của cả ba học viện British Council của Anh, Instituto Cervantes của Tây Ban Nha, và Goethe-Institut của Đức cộng lại dù cả ba đều có một lịch sử khá lâu đời, trên nửa thế kỷ.

Về tốc độ, đó là học viện phát triển nhanh nhất trên thế giới.

Thứ hai, trên nguyên tắc, Viện Khổng Tử hoạt động với ba mục tiêu chính: Một, truyền bá tiếng Hoa (và chữ Hán theo lối giản thể được sử dụng tại Trung Quốc từ sau năm 1949); hai, truyền bá văn hóa Trung Quốc; và ba, thúc đẩy các chương trình hợp tác và trao đổi văn hóa giữa Trung Quốc và các nước. Đằng sau ba mục tiêu này là một mục tiêu khác, lớn và quan trọng hơn: Tuyên truyền cho hình ảnh một nước Trung Quốc có truyền thống văn hóa lâu đời, hiền lành, yêu chuộng hòa bình, không hề là một đe dọa đối với bất cứ một nước nào khác.

Nhìn vào các mục tiêu ở trên, Viện Khổng Tử không khác mấy với các học viện ngôn ngữ và văn hóa nổi tiếng trên thế giới, từ British Council của Anh, Aliances Françaises của Pháp, Instituto Cervantes của Tây Ban Nha, hay Goethe-Institut của Đức. Tất cả đều nhằm, qua việc dạy ngôn ngữ và văn hóa của nước mình, tạo sự thông cảm và thắt chặt các quan hệ quốc tế với các nước khác.

Tuy nhiên, trên thực tế, Viện Khổng Tử có nhiều đặc điểm khiến giới quan sát phải nghi ngờ và e ngại.

Một, Viện Khổng Tử không phải chỉ giới hạn trong lãnh vực ngôn ngữ hay văn hóa. Ví dụ tại Úc, Viện Khổng Tử tại trường Đại học RMIT dạy cả về Đông Y, tại trường Đại học Queensland dạy cả về khoa học kỹ thuật. Ở tất cả các nơi, khi dạy về ngôn ngữ và văn hóa, các bài giảng đều ít nhiều liên hệ đến chính trị của Trung Quốc hiện nay. Hơn nữa, theo nhiều nguồn tin, Viện Không Tử có những chính sách hoàn toàn mang màu sắc chính trị, ví dụ, về tuyển dụng nhân viên, họ cấm tuyệt đối những người từng tham gia vào Pháp Luân Công hoặc những tổ chức chống lại chính phủ Trung Quốc; về hoạt động, họ cũng cấm mời Đức Đà Lai Lạt Ma cũng như bất cứ một viên chức nào từ Tibet và Đài Loan đến nói chuyện ở các Viện Khổng Tử. Thậm chí cấm cả việc bàn luận về Tibet trong viện.

Hai, cấu trúc của các Viện Khổng Tử cũng khá đặc biệt: Bao giờ nó cũng có hai giám đốc, một là người địa phương và một là người từ Trung Quốc sang. Theo Michael Kahn-Ackermann, cựu giám đốc của Viện Goethe, đó chính là điểm khác biệt lớn giữa Viện Khổng Tử so với tất cả các học viện về ngôn ngữ và văn hóa khác trên thế giới.

Ba, về phương diện tổ chức, một mặt, trong khi các học viện về ngôn ngữ và văn hóa khác khá độc lập với chính phủ, Viện Khổng Tử hoàn toàn nằm trong tay chính phủ Trung Quốc; mặt khác, trong khi các học viện khác tồn tại như một cơ sở giáo dục hay văn hóa độc lập ở ngoại quốc, Viện Khổng Tử bao giờ cũng liên kết và nằm TRONG một trường đại học hoặc trung học nào đó ở địa phương. Ví dụ, ở Việt Nam, sắp tới, Viện Khổng Tử sẽ nằm trong hệ thống Đại học Hà Nội. Ở các nước khác cũng vậy. Có điều, tuy là một bộ phận của các cơ sở giáo dục địa phương, khoảng một nửa ngân sách và phần lớn giáo viên cũng như toàn bộ tài liệu giảng dạy lại do chính phủ Trung Quốc cung cấp.

Chính điều này gợi lên nhiều nghi ngại cho thế giới. Nghi ngại về ba chuyện: Về phương diện học thuật, dưới ảnh hưởng của chính quyền Trung Quốc, người ta không còn tự do và độc lập trong tư tưởng; về phương diện chính trị, các viện ấy chỉ đóng vai trò tuyên truyền cho chính phủ; và đặc biệt, về phương diện an ninh, rất có khả năng những cán bộ hoặc giáo viên trong các viện ấy làm công tác tình báo kỹ nghệ để ăn cắp các phát kiến về khoa học kỹ thuật và kinh tế trong các trường đại học.

Ba đặc điểm nêu trên cho thấy Viện Khổng Tử không đơn giản là một cơ sở giáo dục về ngôn ngữ hay văn hóa. Nó còn nhắm đến các mục tiêu kinh tế (khuyến khích làm ăn với Trung Quốc – chưa kể chuyện làm gián điệp) và cả các mục tiêu chính trị, trong đó có những cuộc vận động liên quan đến quyền lực mềm (soft power). Trong cái gọi là “quyền lực mềm” ấy, nội dung quan trọng nhất mà Trung Quốc nhắm tới là tạo nên một hình ảnh hiền lành, yêu chuộng hòa bình và công lý của Trung Quốc, nhằm xóa tan những nỗi sợ của mọi người đối với tham vọng bá quyền của Trung Quốc.

Tất cả những điều ấy, hầu như ai cũng biết. Từ nhiều năm nay, Trung Quốc đã đổ ra hàng nhiều tỉ đô la cho chiến dịch củng cố quyền lực mềm như thế. Họ viện trợ một cách cực kỳ hào phóng cho nhiều quốc gia ở châu Phi, châu Mỹ La Tinh và châu Á. Họ tổ chức Olympics 2008 và Sanghai Expo năm 2010. Trong hai năm 2009 và 2010, họ bỏ ra 8 tỉ 9 Mỹ kim cho lãnh vực truyền thông đại chúng, trong đó có những kênh truyền thanh và truyền hình phát 24 giờ một ngày nhắm vào khán thính giả Tây phương. Chương trình phát thanh quốc tế bằng tiếng Anh cũng làm việc liên tục ngày và đêm.

Các Viện Khổng Tử chỉ là một trong cả một chiến dịch rộng lớn và rầm rộ ấy.

Vấn đề là: chiến dịch củng cố quyền lực mềm ấy có thành công hay không?

Giáo sư Joseph S. Nye Jr, chuyên gia hàng đầu về quyền lực mềm trên thế giới, trả lời một cách dứt khoát: Không.

Trong bài “China's Soft Power Deficit”, viết vào năm 2012, Nye cho quyền lực mềm của một nước chỉ phát huy tác dụng với một số điều kiện:

Thứ nhất, nó không gây tâm lý lo ngại và, từ đó, nỗ lực tìm kiếm sự cân bằng ở các nước láng giềng (ví dụ: những điều đó không hề xảy ra ở Canada và Mexico trước quyền lực mềm của Mỹ).

Thứ hai, phải có sự nhất quán giữa lời nói và việc làm: khi hiện thực trong nước khác hẳn với những lời lẽ tuyên truyền trên mặt trận truyền thông quốc tế, quyền lực mềm sẽ mất hết tác dụng.

Olympics năm 2008 ở Bắc Kinh có vẻ như thành công rực rỡ, nhưng sự thành công ấy tan vỡ ngay tức khắc sau đó khi chính quyền Trung Quốc ra lệnh bắt bớ những người bất đồng chính kiến.

Shanghai Expo năm 2010 cũng thành công rực rỡ nhưng sự thành công ấy cũng bị dập tắt ngay tức khắc khi Trung Quốc bắt nhà hoạt động nhân quyền Lưu Hiểu Ba. Hình ảnh chiếc ghế trống trong buổi trao giải Nobel hòa bình cho Lưu Hiểu Ba trở thành một biểu tượng đầy quyền lực làm xóa nhòa tất cả các hoạt động tuyên truyền tốn hàng tỉ đô la trước đó.

Viện Khổng Tử được thành lập ở Philippines nhằm gây thiện cảm với người dân địa phương nhưng tất cả những tình cảm ấy, nếu có, đều biến mất khi Trung Quốc quấy nhiễu bãi đá cạn Scarborough vốn thuộc chủ quyền của Philippines.

Đánh giá một cách tổng quát, Nye cho các nỗ lực củng cố quyền lực mềm của Trung Quốc đã thất bại. Bằng chứng rõ rệt nhất là qua các cuộc thăm dò dân luận, cách nhìn về Trung Quốc chỉ tương đối mang màu sắc tích cực ở châu Phi và châu Mỹ La Tinh; còn ở Mỹ, châu Âu cũng như nhiều nước ở châu Á, đặc biệt Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc, nó hoàn toàn có tính chất tiêu cực. Điều đó, với Nye, hoàn toàn chính đáng: ở Trung Quốc hiện nay, dưới ách kiểm duyệt ngặt nghèo của chính phủ, ở đâu người ta cũng thấy sự nghèo nàn về tư tưởng.

Không có nước nào có thể làm cho người khác yêu mến, tin cậy và ngưỡng mộ với sự nghèo nàn, chật chội và giả dối như thế cả.

Đó là lý do tại sao các nước Tây phương, kể cả Mỹ, dù biết rõ âm mưu của Trung Quốc, vẫn cứ cho phép mở các Viện Khổng Tử ngay trên đất nước của họ. Không phải là một. Mà là nhiều viện. Xum xuê như trăm hoa đua nở.

Nhưng đó là ở Tây phương, còn ở các nước khác thì sao?

Theo Trefor Moss, trên The Diplomat ngày 4 tháng 6, 2013, chúng ta không nên vội vã đánh giá thấp các nỗ lực vận động quyền lực mềm của Trung Quốc. Kể từ năm 2000, Trung Quốc bỏ ra 74 tỉ đô la để xây dựng các dự án hợp tác và viện trợ ở 50 trên tổng số 54 quốc gia châu Phi. Kết quả là ở châu Phi, rất nhiều người nhìn Trung Quốc một cách đầy thiện cảm: Họ xem Trung Quốc như một đối tác tốt, một kẻ đến để cứu vớt họ và là một mẫu mực mà họ nên bắt chước. Dĩ nhiên, tất cả những thiện cảm này đều dễ dàng biến mất nếu Trung Quốc sử dụng bạo lực với họ. Nhưng khi điều này chưa xảy ra thì nỗ lực của Trung Quốc rõ ràng là có kết quả.

Riêng trong trường hợp của Việt Nam thì sao?

Theo tôi, sự hiện diện của Viện Khổng Tử tại Đại Học Hà Nội, tự bản thân nó, không đáng lo ngại cho bằng thái độ của nhà cầm quyền cũng như của cán bộ Việt Nam nói chung.

Trung Quốc sử dụng Viện Khổng Tử để làm gián điệp kỹ nghệ ư? Âm mưu này có thành công hay không là tùy thuộc mức độ cảnh giác cũng như khả năng tổ chức của các đại học Việt Nam. Nhưng ở cả hai khía cạnh này, qua kinh nghiệm lâu nay, chúng ta đều thấy rõ: hoàn toàn không đáng tin cậy.

Trung Quốc sử dụng Viện Khổng Tử để tuyên truyền cho Trung Quốc ư? Âm mưu này có thành công hay không là tùy thuộc vào mức độ phản tuyên truyền và công khai hóa thông tin từ phía Việt Nam. Ở Philippines, sự tuyên truyền của Trung Quốc qua Viện Khổng Tử mất hết tác dụng vì dân chúng biết rõ, rất rõ tham vọng bành trướng lãnh hải và các hành động quấy nhiễu của Trung Quốc ở bãi đá cạn Scarborough. Nhưng trong trường hợp của Việt Nam, nếu chính phủ cứ giấu giếm hết những chuyện như thế, cứ leo lẻo phụ họa với bộ máy tuyên truyền của Trung Quốc về cái gọi là 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” và 16 chữ vàng “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” thì đương nhiên Trung Quốc sẽ thành công.

Thành thực mà nói, trong cả hai âm mưu gián điệp và tuyên truyền, Trung Quốc đã thành công ngay cả trước khi thành lập Viện Khổng Tử.

Cái Viện ấy có nằm chình ình ngay giữa Hà Nội hay không thì cũng vậy. Có khi, với những người còn yêu nước, đó lại là điều hay: Nó hiện diện như một thách thức.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Nguyễn Vạn Phú - Án oan chung thân- 3 câu hỏi trước phiên tái thẩm

Anh Nguyễn Thanh Chấn đã khóc rất nhiều trong ngày trở về
1. Câu hỏi thứ nhất
Ở góc độ báo chí liên quan đến vụ ông Nguyễn Thanh Chấn bị tù oan, anh Phan Văn Tú phát hiện (và đưa bên diễn đàn Vietnamjournalism) một bài báo trên tờ Pháp luật & Xã hội đăng cách đây mới hơn một tháng, cáo buộc ông Chấn phạm tội giết người mà còn “chối bay chối biến”. Những câu như “Chỉ vì nhục dục mà Chấn đã đẩy cả gia đình mình vào tấn bi kịch không gì có thể tha thứ được” là bài học rất nóng hổi cho các phóng viên nào cứ thích làm quan tòa.
Không biết vì sao chỉ cách đây một tháng báo này lại xới lại vụ án cách đó cả 10 năm, chắc chắn có lý do! (Link bài chỉ còn trên baomoi.com: [http://www.baomoi.com/.../104/12078174.epi].

2. Câu hỏi thứ hai


Điều đáng nói là Tiền phong đăng lại bài này (nay đã xóa) mà không biết rằng chính Tiền phong vào năm 2006 đã có bài “Có chứng cứ ngoại phạm vẫn bị tù chung thân” cố gắng minh oan cho ông Chấn từ những chứng cớ ngoại phạm rất thuyết phục. Đáng tiếc lúc đó mà Tiền phong nỗ lực thêm chút nữa, biết đâu ông Chấn được ra tù sớm. (Link bài năm 2006:: [http://m.tienphong.vn/Phap-Luat/51622/Co-chung-cu-ngoai-pham-van-bi-tu-chung-than.html].

3. Câu hỏi thứ ba
Đối với phát biểu của ông Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, rằng Viện không nhận được đơn kêu oan, thì Internet còn lưu một bài trên báo Dân Trí vào tháng 7-2013 cho biết đã chuyển đơn kêu oan của vợ ông Chấn cho “Tòa án Nhân dân Tối cao; Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao; ông Giám đốc Công an tỉnh Bắc Giang xem xét, giải quyết và thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết để toà soạn có cơ sở thông tin đến bạn đọc theo quy định của Luật Khiếu nại tố cáo và Luật Báo chí”.
(Link: [http://dantri.com.vn/ban-doc/nhip-cau-ban-doc-so-23-754428.htm].

 Nguyễn Vạn Phú
(Blog  Nguyễn Vạn Phú)

Kennedy 'sai nghiêm trọng' khi lật ông Diệm

Tổng thống Kennedy hồi tháng Tám năm 1963
Ông Kennedy tỏ ra hối hận vì để xảy ra vụ đảo chính chết người

Một tác giả Hoa Kỳ nói Tổng thống Kennedy, khi bật đèn xanh cho cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, đã có sai lầm ngoại giao nghiêm trọng hơn cả thất bại trong vụ 'Vịnh Con Heo'.

Trong sự kiện Vịnh Con Heo tháng Tư 1961, Tổng thống Kennedy thông qua kế hoạch hỗ trợ cho người Cuba lưu vong đổ bộ vào Cuba nhằm lật đổ chính quyền của Chủ tịch Fidel Castro. Cuộc đổ bộ đã sớm bị phát hiện, ngăn chặn và vai trò của Hoa Kỳ cũng bị lộ cho dù ông Kennedy cố tình che giấu.

Năm 1963, ông Kennedy và các quan chức dưới quyền đã phát đi những tín hiệu mà giới tướng lĩnh ở Sài Gòn xem như đèn xanh để họ đảo chính và khiến Tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn-em trai Ngô Đình Nhu bị giết chết vào tháng 11.

Đánh dấu 50 năm cuộc đảo chính ở Sài Gòn, Mục sư Byron Williams, tác giả cuốn sách sắp ra mắt '1963 - Năm của Hy vọng và Thù nghịch', viết cho Huffington Post rằng sai lầm ngoại giao của Hoa Kỳ đối với Việt Nam hồi năm 1963 còn tai hại hơn vụ Vịnh Con Heo hồi năm 1961.

Ông Williams viết: "Vụ đảo chính ông Diệm, theo tôi, là sai lầm chính sách ngoại giao lớn nhất của John Kennedy, thậm chí lớn hơn cả vụ Vịnh Con Heo."
"Cái chết của ông Diệm đã mở cánh cửa vào một loạt các vũng lầy cho Hoa Kỳ."

Tác giả nhắc lại rằng hồi cuối năm 1962, lãnh đạo phe đa số ở Thượng viện Hoa Kỳ Mike Mansfield đã gợi ý với ông Kennedy sau khi tới thực địa ở Việt Nam theo yêu cầu của vị tổng thống:

"Đó là đất nước của họ, tương lai của họ chứ không phải của chúng ta."

"Bỏ qua thực tế này sẽ không chỉ gây thiệt hại to lớn về người và của đối với Hoa Kỳ mà nó còn có thể kéo chúng ta vào một tình thế không hay ho gì như người Pháp từng vướng phải."

Mặc dù ông Kennedy cũng bị bắn chết hôm 22/11, tiên đoán của ông Mansfield đã hoàn toàn đúng với sự thiệt mạng của 58.000 lính Mỹ trong số gần nửa triệu quân Hoa Kỳ tới tham chiến ở Việt Nam chưa kể tới thiệt hại về tiền của.

Tác giả Williams cũng dẫn lời ông Kennedy bình về đánh giá của ông Mansfield: "Tôi rất bực Mike vì ông bất đồng hoàn toàn với chính sách của chúng ta và tôi cũng giận chính bản thân vì tôi thấy mình đồng ý với ông ấy."

Điện tín 243

Ngô Đình Diệm thăm Philippines hồi năm 1958
Ông Diệm (giữa trong khi thăm Philippines) đã đánh mất sự ủng hộ của Hoa Kỳ

Cây viết cho Huffington Post cũng nhắc tới Điện tín số 243 mà Roger Hilsman, Vụ trưởng Viễn Đông của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gửi cho Đại sứ Henry Cabot Lodge, Đại sứ ở Nam Việt Nam hôm 24/8/1963:

"Hiện chưa rõ quân đội đề nghị thiết quân luật hay ông Nhu lừa họ làm vậy, ông Nhu đã lợi dụng việc này để đập phá chùa chiền với Cảnh sát và Lực lượng Đặc nhiệm của [Lê Quang] Tung vốn trung thành với ông ta và qua đó đổ tội cho quân đội trong con mắt của thế giới và người dân Việt Nam."

"Chính quyền [Hoa Kỳ] không thể chấp nhận để quyền lực trong tay Nhu. Cần cho ông Diệm cơ hội để rũ bỏ Nhu và vây cánh để thay thế bằng những nhân vật chính trị và quân sự tốt nhất có thể. Nếu, bất chấp mọi nỗ lực của ông, Diệm vẫn ngoan cố và từ chối, chúng ta phải tính tới khả năng không giữ chính ông Diệm nữa."

"Tôi cảm thấy tôi phải chịu phần trách nhiệm lớn đối với vụ việc, bắt đầu với điện tín hồi đầu tháng Tám trong đó chúng tôi gợi ý đảo chính."
Tổng thống Kennedy
Điện tín đánh dấu sự thay đổi chính sách này được đưa ra vào một ngày thứ Bảy khi Tổng thống Kennedy, Phó tổng thống Lyndon Johnson, Ngoại trưởng Dean Rusk, Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara, Cố vấn An ninh Quốc gia McGeorge Bundy và Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy đều đi vắng.

Mặc dù không hài lòng với lời lẽ của điện tín, chính ông Kennedy và các nhân vật trọng yếu khác của Hoa Kỳ đã có thái độ 'tùy cơ ứng biến' với tình hình ở Sài Gòn trong các cuộc họp liên tục sau khi Điện tín 243 được gửi đi.

Sau khi ông Diệm và Cố vấn Nhu bị sát hại, theo trích dẫn của ông Williams, Tổng thống Kennedy nói:

"Tôi cảm thấy tôi phải chịu phần trách nhiệm lớn đối với vụ việc, bắt đầu với điện tín hồi đầu tháng Tám trong đó chúng tôi gợi ý đảo chính. Theo tôi, điện tín đó (Điện tín 243) đã được viết ẩu và lẽ ra không nên gửi nó đi vào thứ Bảy.

"Đáng ra tôi không nên đồng ý mà không có hội nghị bàn tròn để nghe ý kiến của ông McNamara và ông [Tướng Maxwell] Taylor."

Các tài liệu giải mật gần đây cho thấy Tổng thống John F. Kennedy đồng ý phải lật đổ người tương nhiệm tại Sài Gòn, ông Ngô Đình Diệm, hồi năm 1963.

Mặc dù phản đối đảo chính ngay lập tức khi các tướng lĩnh ở Sài Gòn tiếp cận Hoa Kỳ hồi cuối tháng Tám năm 1963, ông Kennedy dần dần cảm thấy rằng không còn lựa chọn nào khác trong cố gắng mang lại thành công cho cuộc chiến chống cộng sản ở nam Việt Nam, theo dẫn chứng từ các băng ghi âm những cuộc họp của Tổng thống Kennedy với các quan chức Hoa Kỳ.

Cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm diễn ra ngày 1/11/1963. Một ngày sau đó, ông Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu bị phe đảo chính hạ sát.

Đến ngày 22/11 cùng năm, Tổng thống Kennedy bị ám sát tại Dallas, tiểu bang Texas.
(BBC)

Bê bối Vinalines 'sắp tới hồi kết'


Ông Dương Chí Dũng đã bỏ trốn trước khi bị công an bắt

Cựu lãnh đạo Vinalines Dương Chí Dũng và chín người khác bị truy tố và Bộ Giao Thông bị đề nghị kiểm điểm vì trách nhiệm quản lý.

Truyền thông Việt Nam mô tả điều họ gọi là “cơ quan tố tụng đã xác định hành vi cụ thể của từng bị can”.

Cựu lãnh đạo Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) bị truy tố hai tội danh Tham ô tài sản và Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.

‘Thổi giá ụ nổi’

Một trong những điểm chính của cáo trạng từ Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao là thương vụ nhập khẩu thiết bị để sửa chữa tàu thủy được biết đến với tên gọi ụ nổi 83M trong đó các bị can bị cáo buộc đã tham ô hơn 28 tỉ đồng và làm thiệt hại cho Nhà nước hơn 366 tỉ đồng.


Lãnh đạo Vinalines bị cáo buộc đội giá ụ nổi để tham ô.

Cơ quan tố tụng đã xác định hành vi cụ thể của từng bị can. Theo đó, Dương Chí Dũng giữ vai trò chủ mưu, cầm đầu ký duyệt chủ trương đầu tư dự án nhà máy sửa chữa tàu biển phía Nam, phê duyệt mua ụ nổi 83M… các hành vi này được xác định là cố ý làm trái quy định gây thiệt hại hơn 366 tỉ đồng, theo báo Công an Nhân dân.

Được biết ụ nổi của Nhật Bản có tuổi là 43 năm, bị hư hỏng nhiều và không còn hoạt động, có chủ sở hữu là Nakhodka, một công ty của Nga nhưng “Vinalines không mua chiếc ụ nổi này qua Công ty Nakhodka mà lòng vòng qua công ty môi giới có tên là AP (Singapore) với giá 9 triệu USD".

Tổng mức đầu tư chiếc ụ nổi này do Dương Chí Dũng ký quyết định phê duyệt là gần 20 triệu USD, theo báo Thanh Niên.

Cáo trạng xác định Dương Chí Dũng đã tham ô 10 tỉ đồng và các bị can phải liên đới bồi thường khoản tiền thiệt hại gần 339 tỉ đồng.

'Kiểm điểm Bộ Giao thông'

Danh sách 10 người bị truy tố

  • Dương Chí Dũng, nguyên Chủ tịch HĐQT Vinalines, nguyên Cục trưởng Cục Hàng hải, Bộ GTVT;
  • Mai Văn Phúc, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Vận tải, nguyên Tổng Giám đốc Vinalines;
  • Trần Hữu Chiều, nguyên Phó TGĐ Vinalines;
  • Bùi Thị Bích Loan, nguyên Kế toán trưởng Vinalines;
  • Trần Hải Sơn, nguyên TGĐ Công ty TNHH Sửa chữa tàu biển Vinalines;
  • Mai Văn Khang, nguyên Phó Tổng Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Vận tải Viễn Dương Vinashin;
  • Lê Văn Dương, đăng kiểm viên thuộc Cục Đăng kiểm Việt Nam;
  • Huỳnh Hữu Đức, Lê Văn Lừng, Lê Ngọc Triện - nguyên Phó Chi cục trưởng và cán bộ Chi cục Hải quan Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa.
“Bộ Giao thông Vận tải đã không cập nhật, kiểm tra, giám sát để Vinalines xảy ra nhiều sai phạm, gây hậu quả thiệt hại rất lớn nên phải kiểm điểm, có biện pháp xử lý nghiêm đối với những cán bộ có liên quan,” cáo trạng cho hay.

Tin 10 người bị truy tố được đưa ra sau khi giữa tháng Mười truyền thông trong nước nói Bộ Công an Việt Nam đã hoàn tất kết luận điều tra vụ tiêu cực tại Vinalines.

Kết luận điều tra của công an Việt Nam nói ông Dương Chí Dũng đã dùng tiền tham ô để mua cho tình nhân, người có con riêng với ông, hai căn hộ chung cư đều tại Hà Nội.

Ông Dương Chí Dũng bỏ trốn khỏi Việt Nam và bị bắt ngày 4/9/2012, sau khi công an Việt Nam phát lệnh truy nã đặc biệt trong toàn quốc, và thông báo cho tổ chức Cảnh sát Hình sự quốc tế (Interpol).

Em trai của ông Dũng là Dương Tự Trọng, vốn từng là phó giám đốc và thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Hải Phòng, bị cáo buộc giúp cho anh trai bỏ trốn ra nước ngoài.

Hồi tháng Chín Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang yêu cầu sớm kết thúc điều tra vụ tham ô tại Vinalines và sớm đưa ra xét xử trong năm nay.

Viện kiểm sát tối cao khi đó đã đề xuất 10 "đại án" tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp trong đó có vụ tham ô tài sản ở Vinashin, Tập đoàn nay đã được “khai tử" và chuyển sang tên mới SBIC nhưng chưa rõ các hệ lụy pháp l‎ý và tài chính.
(BBC)
 

Hồ Trung Tú - Cô Phan Thị Bích Hằng và mọi người trả lời thế nào về việc này?


Cô Phan Thị Bích Hằng và các ông, bà ở UIA, Viện Nghiên cứu, Trung tâm NC Tiềm năng con người trả lời thế nào về việc này?

Một vụ ngụy tạo di vật của liệt sĩ liên quan đến Phan Thị Bích Hằng vừa được Báo Lao động số
Số 255 - Thứ hai 04/11/2013 phản ảnh. ( Mời đọc tại đây!)
Theo đó, qua bài CẢNH GIÁC VỚI DI VẬT BỊ NHÀ NGOẠI CẢM LÀM GIẢ, Báo Lao Động cho biết: Cách đây 5 năm, nhà ngoại cảm (NNC) Phan Thị Bích Hằng có “chỉ dẫn” cho gia đình liệt sĩ (LS) Hoàng Ngọc Đảm, quê quán Làng Nha, Thái Giang (nay là huyện Thái Thụy) - Thái Bình tìm thấy mộ ở Ayunpa (Gia Lai). Cụ thể, theo “chỉ dẫn” của NNC Phan Thị Bích Hằng thì ngôi mộ của LS Hoàng Ngọc Đảm nằm ở hàng thứ 5, lô 1, mộ thứ 2, trong nghĩa trang liệt sĩ thị xã Ayunpa.
Đáng lưu ý, để “làm bằng chứng”, gia đình LS Đảm còn cho biết, khi đào mộ thì “tìm” thấy 01 chiếc lọ penicilin, bên trong có mảnh giấy ghi “Họ tên: Hoàng Ngọc Đảm. Đơn vị C2 D67. Quê quán: Làng Nha, Thái Giang, Thái Thụy, Thái Bình”. Tiếc rằng, khi cơ quan chức năng kiểm tra thì phát hiện đây là một sự ngụy tạo. Bởi lẽ, LS Hoàng Ngọc Đảm hy sinh ngày 18.3.1969, lúc đó xã Thái Giang thuộc huyện Thái Ninh. Ba tháng sau ngày LS Đảm hy sinh, huyện Thái Ninh và huyện Thụy Anh mới hợp nhất thành huyện có tên mới là huyện Thái Thụy. Vậy, làm sao LS Hoàng Ngọc Đảm lại “tiên đoán” được, rằng huyện Thái Ninh sẽ được đổi tên thành huyện Thái Thụy, để mà ghi vào mảnh giấy để trong chiếc lọ penicilin?
Câu chuyện này làm mọi người nhớ lại vụ Phan Thị Bích Hằng “gặp và nói chuyện” với đ.c Phùng Chí Kiên để “hướng dẫn” gia đình đ/c và cơ quan chức năng tìm ra hài cốt của đ/c Kiên. Cụ thể, theo sự “chỉ dẫn” của Bích Hăng, đội quy tập phát hiện 01 hộp sọ không có răng nên đặt nghi vấn đây không phải là hộp sọ người. Trong “bối cảnh” đó, Bích Hằng “cáo bận” là “có việc gấp” phải về Hà Nội, đồng thời cho biết chính đ/c Kiên “chỉ đạo” đội quy tập dừng việc tìm kiếm lại và hôm sau sẽ tìm thấy chiếc răng. Quả nhiên, hôm sau thì đội quy tập tìm thấy 01 chiếc răng (ngạc nhiên chưa!?). Chỉ tiếc là qua giám định của Viện Pháp y Quân đội thì đó là chiếc răng …. lợn!.
Vậy cô Phan Thị Bích Hằng và các ông, bà ở UIA, Viện Nghiên cứu, Trung tâm NC Tiềm năng con người trả lời thế nào về việc này? 
Hồ Trung Tú
(Blog Hồ Trung Tú)

Chuyện về cụ Tôn Thất Tần qua lời kể của Nhà văn Vũ Thư Hiên

LTS: Cụ Tôn Thất Tần là người từng bị chế độ cộng sản cầm tù 30 năm về tội “chống chế độ”. Ông vừa từ trần hôm 4/11/2013 tại Sài Gòn, hưởng thọ 96 tuổi. Là thành viên trong gia đình Hoàng tộc tại Huế và có một cuộc đời đầy sóng gió, nhưng cho tới nay, rất ít người biết hay viết về ông. Để thêm thông tin cho bạn đọc, chúng tôi đăng lại trích đoạn này của nhà văn Vũ Thư Hiên. Đây là một phần của tác phẩm Đêm Giữa Ban Ngày 

dem giua ban ngay



Ở Hỏa Lò tôi đã được nghe Thành kể về con người huyền thoại đã ở liền một mạch hai mươi hai năm trong tù. Anh nói có lần chưa hoàn cung anh bị đưa đi trại chung, tôi không nhớ trại nào, tại đây anh gặp những người đã ở chung với một tù nhân có thâm niên cao nhất : tù suốt từ 1946 cho tới tận bây giờ (tức năm 1968). Kỷ lục ấy chưa có ai vượt qua. Vì sự chịu đựng ghê gớm ông ta được mệnh danh là “Jean Valjean(1) gọi bằng cụ”.

Tôi nghe, nhưng không tin. Tin làm sao được chuyện tào lao đến thế ! Chúng tôi đang sống giữa thế kỷ XX, chứ đâu phải thời Trung cổ.

Không ngờ chuyện đó có thật và rồi tôi được gặp “Jean Valjean gọi bằng cụ” bằng xương bằng thịt ở trại A Tân Lập.

Một hôm Trần Chấn Hoa dẫn tôi sang nhà C, nơi có đám số tù số lẻ ở trại Vĩnh Quang (tỉnh Vĩnh Phú) vừa chuyển lên, chưa phân vào các toán. Trần Chấn Hoa cũng đã ở Vĩnh Quang vài năm, y có nhiều người quen. Nghe Trần Chấn Hoa tả thì trại nằm dưới chân Tam Ðảo, một bình nguyên rộng ngút tầm mắt, nơi trâu ấn Ðộ và cừu Mông Cổ được nuôi thí nghiệm để nhân giống. Cuộc thí nghiệm không thành công. Những con trâu to kềnh không cho sữa, cừu thay nhau lăn ra chết. Tôi đã đến đây làm phóng sự, nhưng không thành. Người ta chỉ in các phóng sự về thành công thôi. Bù lại, tôi được ăn thỏa thích thịt cừu hoi rình trong những món chém to kho nhừ của bếp nông trường. Thịt cừu nấu plow (pilaw) hoặc súp kharcho(2) rất tuyệt, nhưng không ai biết làm.

Trần Chấn Hoa số chẵn, nhưng ở trại A Tân Lập y lại nằm trong số lẻ. Xem ra cái việc cài chỉ điểm của công an thật vô nguyên tắc. Người ta sẽ làm gì với những báo cáo về tôi của một tên ba hoa ?

- Ta đến xem “Jean Valjean gọi bằng cụ” đi. – y nói.

- “Jean Valjean gọi bằng cụ” là ai ?

Y giải thích. Tôi nghe, làm ra vẻ chăm chú.

- Ông này quán quân ở tù cơ anh ơi ! Hai mươi sáu năm liền tù tì.

- Làm gì có chuyện ! Bịa.

- Anh gặp khắc biết, em không bịa đâu. Kia, cái ông gày gày khoác áo bông ngồi đàng kia kìa !

Theo tay Trần Chấn Hoa chỉ tôi nhìn thấy một người đàn ông đứng tuổi, gày và xanh, đang ngồi chăm chú đọc sách. Hôm ấy chủ nhật, tù được nghỉ, không đi lao động.

Tôi đến, ngồi xổm trước mặt ông:

- Chào bác !

- Chào anh ! – ông ta ngẩng lên, không vồn vã.

Người tù ngồi liền tù tì hai mươi sáu năm trông chẳng khác gì mọi người ở đây. Tôi hình dung ông phải già lắm kia, phải lụ khụ lắm kia, hóa ra không phải. Bề ngoài ông còn trẻ, thậm chí trông không già hơn tôi bao nhiêu.

- Có phải bác là “Jean Valjean gọi bằng cụ” không ?

- Ai bảo anh rứa ?

- Những người tù ở đây.

Ông mỉm cười hiền lành:

- Hay nhỉ ? Rứa mà tui không biết.

- Bác là nhân vật nổi tiếng. Người như bác hiếm.

- Còn anh ?

- Tôi chẳng là gì sất. Tôi chỉ là một người tò mò.

“Jean Valjean gọi bằng cụ” nhìn lên trời, cười không có tiếng. Im lặng một lát, ông nói khẽ :

- Anh là Vũ Thư Hiên, phải không ? Tui cũng đã nghe nói về anh…

Tôi sửng sốt. Tù Vĩnh Quang mới lên hôm qua. Ai đã kể cho ông nghe về tôi ?

- Trong đám tui ở Vĩnh Quang có người đã gặp anh ở ngoài. Anh ta nhận ra.

- Ai nhỉ ?

- Anh không biết anh ta. Nhưng anh ta biết anh.

Người biết tôi là một nhà thơ địa phương, theo sự tự giới thiệu của anh ta sau này. Tôi không nhớ đã gặp anh ta trong trường hợp nào. Những nhà thơ dân gian với những bài thơ xỏ xiên, châm chọc chính quyền rơi vào tù khá nhiều. Cả những nhà văn dân gian chuyên sáng tác chuyện tiếu lâm cũng vậy. Ba Giai, Tú Xuất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ được phép sống trong nhà tù.

Ngày hôm sau “Jean Valjean gọi bằng cụ” được nhập vào toán tôi. Theo sự điều đình của Trần Chấn Hoa, người tù nằm bên cạnh chúng tôi dọn đi nơi khác, nhường chỗ cho “Jean Valjean gọi bằng cụ”.

- Tui tên Tôn Thất Tần. – ông ta nói.

Nể tôi lắm Trần Chấn Hoa mới làm theo ý tôi. “Ông ta bị lao đấy”, y thì thào. Nhưng tôi biết – y phải chiều tôi. Không chiều tôi thì y không thực hiện được trọng trách mà ban giám thị trao cho. Cho nên tôi có thể bắt bí.

Tôi thích chơi với “Jean Valjean gọi bằng cụ”. Ðó là người tù trí thức đầu tiên mà tôi gặp ở Tân Lập. Tôn Thất Tần thỉnh thoảng có húng hắng ho thật, nhưng dấu hiệu khác của bệnh lao không thấy. Ông gày nhẳng, da xạm, nhưng tù đều gày và xanh, chẳng có ai béo tốt. Hồng hào nhất ở đây có lẽ là Trần Chấn Hoa. Y được gia đình tiếp tế thường xuyên. Tù số lẻ phần nhiều là tù lưu niên, trên dưới mười năm cả. Những người tù ở lâu ít được tiếp tế: Người thì cha mẹ quy tiên, người thì vợ đi lấy chồng, con cái còn nhỏ dại. Nguyên nhân là tù lâu quá, gia đình nào rồi cũng mệt mỏi, cũng phát chán.
Tôi không sợ lây bệnh Tôn Thất Tần, nếu như ông lao thật. Tôi đã bị lao trong kháng chiến chống Pháp, hậu quả lần chấn thương phổi do pháo bầy trong trận chống càn Bretagne năm 1952. Bác Sĩ Hoàng Ðình Cầu (3) hồi ấy ở Nông Cống khám cho tôi, tiên đoán tôi sẽ chết. Nhưng tôi vẫn sống để đi đón anh ở ga Iaroslavsky tại Moskva khi anh sang Liên Xô bổ túc nghiệp vụ. Không hiểu sao, nhưng tôi đinh ninh tôi chết không dễ dàng.

- Anh nên thận trọng trong khi giao thiệp với Trần Chấn Hoa. Tui muốn nói không nên gần gụi anh ta nhiều quá ! – Tôn Thất Tần dặn tôi. – Khi gần gụi nhiều người ta sẽ tin những lời anh ta nói về mình là đúng. Nói chung, ở trong tù anh nên cẩn thận. Giao thiệp với bất cứ ai cũng vậy, có khi mình sơ suất gây ra những hậu quả rất xấu.

Tôi trân trọng lời khuyên của bậc đại trưởng lão trong bộ lạc tù. Không nghe lời ông thì còn nghe ai ? Ông có đàng sau lưng một thâm niên tù không ai sánh bằng, kinh nghiệm đời tù ông tích lũy đủ cho mấy thế hệ đi sau.

- Cả với bác nữa chứ ? – tôi nói đùa.

- Tất nhiên. – ông trả lời ráo hoảnh – Trong tù có quá nhiều điều bất ngờ, đến nỗi lắm lúc mình chỉ còn biết trợn mắt lên mà ngạc nhiên, anh ạ. Thật vậy, con người ta lạ lắm, thay đổi nhanh lắm ! Người mình ngỡ trung thành khi lâm sự hóa ra tên phản bội. Kẻ hôm qua bị cả trại chê hèn nhát thì hôm nay bỗng làm mọi người kinh ngạc vì một hành động anh hùng xuất chúng. Cuộc đời, nó lạ lắm ! Nói bất ngờ là nói quen miệng, chớ mọi tính cách có sẵn trong con người ta hết, tốt có, xấu có, gặp dịp là bùng ra, là nổi lên…

- Bác không cho rằng có người tốt, người xấu ?

- Có chớ. Người tốt là người biết phân biệt cái xấu và cái tốt, điều nên làm và điều không nên làm, là người có ý chí mạnh mẽ đè nén được cái xấu, không cho phép nó hoành hành… Người tốt là người sống thật thà với mọi người cũng như với chính mình, tức là tui muốn nói những người không đạo đức giả, làm ra vẻ tốt nhưng trong lòng xấu xa…

Hoàng hôn ở Tân Lập ngắn ngủi. Khi mặt trời vừa khuất sau những rặng núi xa thì bóng tối liền đổ ập xuống. Tù xếp hàng điểm danh khi những tia nắng cuối cùng chưa tắt trên những ngọn cây. Ðiểm danh xong là tối. Chúng tôi bị lùa vào phòng, khóa cửa lại.

Câu chuyện được tiếp tục bên trong song sắt.

- May một cái là ở trong tù mình mau chóng nhận ra người tốt người xấu. Nhà tù không có chỗ cho những âm mưu lâu dài. Người tù không biết mình sẽ ở địa điểm nào vào ngày mai, hắn đểu cũng vội vàng đểu, cũng hấp tấp đểu, sợ không kịp…

Tôn Thất Tần chỉ sống với quá khứ, bằng quá khứ. Mà quá khứ cũng chỉ được tính từ năm 1946 trở về trước. Những sự kiện sau đó, cho dù chúng lớn tới mấy, ông không tính, không nhớ, hoặc không thèm nhớ.

- Tui đã có vợ con.

Ông bắt đầu câu chuyện, rồi im bặt.

- Bác có được tin của bác gái không ?

- Không. Từ năm 1946 tui không còn được tin gì của nhà tui nữa.

- Bác có biết mặt con chứ ?

- Biết. Nó là con gái.

Người ta kể Tôn Thất Tần đã tham gia cuộc nổi loạn của tù nhân ở chiến khu Bình-Trị-Thiên. Những người tù phá trại, giết lính gác rồi bỏ trốn vào rừng. Họ lần lượt bị bắt lại hết, không sót một ai. Hai người bị kết án tử hình. Tôn Thất Tần lĩnh án chung thân, sau được giảm xuống 20 năm. Về chuyện này dường như Tôn Thất Tần không muốn nhắc lại, không muốn nói tới, mặc dầu tôi có vài lần hỏi ông. Mãi một năm sau ông mới kể cho tôi nghe, nhân câu chuyện tình báo Việt Nam đánh đắm một thông báo hạm của Pháp tại vùng biển Sầm Sơn năm 1950, tôi nhắc tên Hoàng Ðạo.

- Anh biết hắn ta à ?

- Chúng tôi quen nhau khá lâu.

Ông cúi xuống, lầm rầm câu gì nghe không rõ. Hình như ông văng tục. Bình thường không bao giờ Tôn Thất Tần văng tục hoặc chửi bậy, cho nên tôi nghĩ tôi nghe nhầm.

- Bác bảo sao ?

- Tui nói hắn là thằng chó đẻ !

Tôi thấy mếch lòng. Dù sao Hoàng Ðạo cũng là người quen của tôi.

- Tại sao bác lại gọi anh ấy là thằng chó đẻ ?

- Bởi vì hắn là một thằng như rứa.

Tôn Thất Tần nói như gắt.

Thì ra chính Hoàng Ðạo là nguyên nhân, hay nói cho đúng, là khởi điểm cho đời tù lê thê của Tôn Thất Tần.

Hai người vốn là bạn bè. Khi Tôn Thất Tần rời Huế đi học Trường Thể Thao Phan Thiết thì Hoàng Ðạo hoạt động cách mạng. Cách Mạng Tháng Tám nổ ra ở Huế, Hoàng Ðạo trở thành giám đốc công an thành phố. Tôn Thất Tần trở về, họ vẫn chơi với nhau.

Cho tới khi Chủ Tịch Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước 6-3 năm 1946, cho quân Pháp quay lại Ðông Dương thay quân đội Ðồng Minh làm nốt việc giải giáp quân đội Nhật Bản và giữ trật tự trên lãnh thổ do Nhật chiếm đóng, thì ở Huế một số chính khách xa-lông bất bình. Họ nói Hồ Chí Minh bán nước. Tôn Thất Tần ở trong số thanh niên phản đối Hiệp ước.

- Bây giờ bác có còn nghĩ rằng lúc ấy bác đúng không ?

- Không. Tui sai. Cụ Hồ đã đi một nước cờ cao. Nếu quân Tưởng ở lại cái họa còn lớn hơn. Bọn Pháp ở xa chính quốc, quân số không nhiều, quân Tưởng có hậu cứ sát nách ta, lại ô hợp, chơi nhau với nó mệt lắm …

Tôn Thất Tần tìm Hoàng Ðạo nhờ Hoàng Ðạo in truyền đơn chống chính phủ Hồ Chí Minh. Hoàng Ðạo không nhận lời, một hai khuyên can Tôn Thất Tần đừng làm chuyện thọc gậy bánh xe, nhưng Tôn Thất Tần không nghe. Không nhờ được Hoàng Ðạo, ông đưa in nơi khác. Tờ truyền đơn chưa kịp in thì Tôn Thất Tần bị bắt. Người ra lệnh bắt Tôn Thất Tần chính là Hoàng Ðạo.

- Sau, hắn có cho người gặp tui, biểu chỉ cần tui chịu xin gặp hắn nhận có lầm lỡ thì hắn tha… Tui tống cái thằng đến phủ dụ ra khỏi xà lim. Sau đó thì… không biết Hoàng Ðạo đi đâu, hay là hắn tránh mặt tui, nhưng không thấy vân mòng chi nữa. Rồi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, tù ở lao Thừa Phủ bị tống lên chiến khu.

- Hồi đó anh Hoàng Ðạo bị gọi ra Hà Nội. – tôi nói – Anh ấy không trở về Huế, mà làm trưởng ty công an Thanh Hóa. Ðến lúc đó Hoàng Ðạo có muốn thả bác cũng đã muộn. Liên lạc giữa các địa phương trong thời kỳ đầu kháng chiến rất khó khăn…

Tôi muốn an ủi Tôn Thất Tần. Chứ nếu Hoàng Ðạo muốn, anh vẫn tìm được cách để thả bạn mình. Anh đã quên bạn, hoặc anh muốn cho người ta thấy trong anh ngoài lợi ích của cách mạng ra không còn có chỗ cho cái gì khác.

- Từ đó, ở trong tù, tui cũng không nghe ai nói tới Hoàng Ðạo nữa…

- Rồi bác tham gia cuộc nổi loạn phá trại ?

Tôn Thất Tần cười, vẻ cay đắng.

Dần dà, chắp nối những mẩu chuyện rời rạc của ông lại với nhau tôi mới biết Tôn Thất Tần rơi vào trong số những người cầm đầu cuộc nổi loạn như thế nào. Người cầm đầu thật sự là Bửu Viên (có thể tôi nhớ tên không được chính xác), sau bị xử tử, từ lâu đã ngấm ngầm chuẩn bị vượt ngục. Trong số người cùng đồng tâm với ông ta không có Tôn Thất Tần. Khi những người vượt ngục lọt ra ngoài nhà giam, họ gọi Tôn Thất Tần đi theo. Lính canh phát hiện, nổ súng. Những người vượt ngục chống lại. Cuộc vượt ngục biến thành cuộc nổi loạn phá ngục có đổ máu, có người chết, người bị thương cả ở hai phía. Sau nhiều ngày lẩn quất trong rừng tất cả lần lượt bị bắt lại. Công an cho rằng không có lý nào hai người trong hoàng tộc, một Bửu một Tôn Thất, mà không bàn bạc với nhau. Không thể nào cãi lại những ông chấp pháp dai hoi, Tôn Thất Tần nhận đại cái tội mà ông không có.

Một cuộc đời tan nát bắt đầu từ một chuyện không đâu.

Chúng tôi chơi thân với nhau, mặc dầu đứng giữa tôi và Tôn Thất Tần là Mác. Ðược cái Tôn Thất Tần không quan tâm tôi cộng sản hay không cộng sản như những người tù số lẻ khác. Người như tôi dễ được Ban Giám thị chọn làm ăng-ten lắm, bọn họ nghĩ thế và có thái độ lạnh nhạt hoặc xa lánh tôi. Có người còn xưng xưng rằng đúng thế. Tôi kệ. Dù sao thì tôi vẫn là kẻ tình cờ rơi vào hàng ngũ họ từ phía bên kia. Tôi không phải người của họ.

Tôn Thất Tần ham hiểu biết. Ông còn bắt tôi nói cho ông nghe lý thuyết chủ nghĩa Mác, là cái ông không hề được đọc. Những bài giảng chính trị của các ông cán bộ dĩ nhiên không phải chủ nghĩa Mác rồi. Các chủ nghĩa, kể cả chủ nghĩa Mác, theo quan niệm thông thường, không cần đi cặp kè với còng tay và cùm sắt. Tôi nói lại cho ông nghe những điều tôi biết, một cách hờ hững. Tôi đã ngán mọi thứ chủ nghĩa mà vì chúng người ta thịt nhau.

- Như vậy, anh cho rằng nó không hiện thực ?

- Tất cả đều mò mẫm. Mác mò mẫm trong lý thuyết, các nhà mác-xít mò mẫm trong thực hành. Cái khác nhau là trong một lý thuyết sai lầm chỉ có chữ nghĩa là bị xây xát chút ít, còn trong thực hành là những số phận người, sai lầm gây ra bi kịch.

Tôn Thất Tần thở dài.

- Vậy cái gì còn lại trong chủ nghĩa Mác sau khi anh thất vọng với nó ?

- Phần nhân bản của nó, đấy là tất cả những gì còn trong tôi. Tôi thích mục đích của cái xã hội mà Mác tưởng tượng ra :”Ðưa con người từ vương quốc tất yếu qua vương quốc tự do” Con người chỉ được tự do thật sự khi nó thoát khỏi sự ràng buộc của những cái tất yếu…

- Tất yếu là cái gì trong khái niệm của Mác ?

Tôi giải thích. Tôn Thất Tần chăm chú nghe. Trong nhà tù không có sách, không có báo, thảng hoặc có chút gì thuộc nền văn minh ấn loát lọt được vào đây thì đó lại là sản phẩm của ngành tuyên giáo(4), mang theo những ngôn từ, những khái niệm hoàn toàn xa lạ với những gì mà chàng trai hai mươi ba tuổi vào năm 1946 giữ lại từ một thời đã mất.

- Như vậy Mác là người tìm tòi, còn những đệ tử của Mác thì kiếm chác.

- Có thể hiểu như vậy.

- Cái xã hội Cộng Sản mà Mác mơ tưởng có khác gì thiên đường của Thiên Chúa Giáo hay Nirvana của Phật Giáo ? Tại sao Cộng Sản các anh lại chống các tôn giáo ?

- Tôi không chống.

- Vậy anh không phải là Cộng Sản rồi.

Nói chuyện chủ nghĩa Mác trong tù thật vô duyên. Ngán lắm. Tôi đề nghị dẹp nó qua một bên để chơi cờ. Tôn Thất Tần chiều tôi. Ông chơi cờ vào loại giỏi trong trại. Tôi không thể là đối thủ của ông. Ðối thủ của ông chỉ có hai: Phún Nàng Cái và Lầm Sì Lần, hai ông nông dân người Hoa ở Lạng Sơn.

Tôi lấy làm thú vị cách phiên âm Hán-Việt những cái tên dân dã của người Tàu. Dịp Pún Mằn nghe xấu xí là thế mà khi phiên thành Diệp Bản Minh nghe thật đẹp, sướng cái tai. Phún Nàng Cái nghe chẳng ra gì, nhưng thử đọc theo cách phiên âm Hán Việt mà xem. Nó sẽ thành Phan Hành Giai, tuyệt. Phún Nàng Cái có ông bạn không lúc nào rời là Lầm Xì Lần, hình như đọc theo âm Hán Việt là Lâm Sĩ Liên thì phải.

Hai ông nông dân ở một làng biên giới Việt-Trung trở thành tù số lẻ vì một nguyên nhân lăng nhăng. Theo các bạn tù thì đâu như chỉ vì một câu nói không đẹp đối với lãnh tụ họ Mao trong một bữa rượu, thậm chí tỉnh dậy hai ông chẳng nhớ họ đã nói gì. Cũng như trường hợp Dip Pún Mằn, tuy là phản động chống chế độ, nhưng Ban Giám thị trại biết rõ họ là ai. Ðã không sợ hai tên phản cách mạng kích động tù nổi loạn hoặc làm chuyện tầm bậy nào khác trong trại, họ còn cho hai ông vào toán tự giác chuyên về nông nghiệp. Ngoài cái sự phải xa vợ xa con và buổi tối phải vào nhà giam có khóa ngoài, hai ông nông dân vẫn i xì là hai ông nông dân cày sâu cuốc bẫm. Phún Nàng Cái và Lầm Sì Lần đã ở tròm trèm hai lệnh, có triển vọng được thêm một lệnh thứ ba, nhưng xem ra họ yên tâm lắm. Là dân của cái nhà nước này tốt nhất là yên tâm. Không yên tâm cũng chẳng được. Nó cho sống được sống, bắt chết phải chết, suy nghĩ mà làm gì ! Mà họ cũng chẳng buồn trốn. Ngoài cái làng quê chôn nhau cắt rốn ra mãi tận Lạng Sơn, hai ông chẳng biết nơi nào khác, kể cả nước Tàu, từ đó các cụ tổ của hai ông đã tới đây. Ngoài giờ làm việc Phún Nàng Cái và Lầm Xì Lần bầy bàn cờ ra, dìm mọi sự đời trong những trận chiến ác liệt không có tiếng súng.

Cờ tướng ở trong tù là thú vui duy nhất của những ông già. Nhìn họ tập trung tư tưởng vào những nước cờ hiểm hóc để giành chiến thắng thì biết. Không có gì làm cho những con người đau khổ quên đi được thực tại tàn nhẫn bằng cái bàn cờ bằng giấy và những quân cờ cũng bằng giấy bồi, hoặc bằng gỗ tự gọt lấy. Nhờ bàn cờ họ đặt cuộc sống đáng nguyền rủa xuống chân để thoát tục.

- Ông Hồ cũng là một tay cờ giỏi. – Tôn Thất Tần nói.

- Sao bác biết ?

- “Lạc nước, hai xe đành bỏ phí. Gặp thời một tốt cũng thành công”. – ông trích dẫn – Không giỏi cờ không thể đúc kết chân lý nhẹ nhàng như rứa được.

- Bác có nghĩ tới một ngày bác sẽ ra khỏi đây không ?

- Anh muốn nói tới cái thời sẽ khác đi ?

- Cho dù cái thời có không khác đi thì người ta cũng không thể giam một con người mãi mãi.

- Tại sao lại không thể ? Anh quên anh đã nói với tui về chuyên chính vô sản ở Liên Xô ra răng rồi sao ? Ở Việt Nam mình còn may, người ta không giết. Người Châu Âu thẳng ruột ngựa, chứ người Việt mình thâm. Nuôi thằng tù chẳng hết bao nhiêu mà lại thu về được rất nhiều …

Nhìn con người gày còm xanh xao ngồi trước mặt mà thương. Tôn Thất Tần sau khi được giảm án xuống hai mươi năm còn được giảm nhiều lần nữa. Cho tới khi sạch án. Tính ra tới nay ông đã ngồi hết nợ nhà nước từ lâu. Thế nhưng ông vẫn không được tha, vẫn cứ ở tù. Không còn án thì có lệnh.

- Người ta không thả tui là do hoàn cảnh. – Tôn Thất Tần giải thích – Ðất nước bị chia cắt. Gia đình tui ở phía bên kia, chẳng lẽ họ thả tui về Nam à ? Còn thả ở miền Bắc thì biết thả tui về đâu ?

- Về đâu là chuyện của bác. Hết hạn thì phải tha.

- Ðâu có rứa được. Thả ra để tui đi lang thang tuyên truyền phản động à ?

Cứ như thể tôi đang nói chuyện với một cán bộ tuyên huấn vậy.

Tôn Thất Tần không nghĩ tới ngày về. Ông sống bởi vì ông chưa chết.

- Có số cả đấy anh ạ ! – ông nói khi ngồi bên cạnh tôi đang thoi thóp trong một trận dịch kiết lỵ làm chết cả chục tù trong trại. – Xem ra số anh số tui còn sống dai lắm.

Trận dịch bắt đầu từ chuyến tù hình sự được chuyển bằng xe ca từ trại Hà-Nam-Ninh (5) lên. Trong đám tù nhét chặt cứng trong xe có một người đang hấp hối vì bệnh kiết lỵ. Người hấp hối thì để cho họ được chết yên, còn chuyển lên làm gì, tôi không hiểu. Chắc hẳn người ta muốn tống khứ tất tật đám tù cũ đi để giải phóng mặt bằng đón tù mới. Anh tù hấp hối không phải nhập trại, mà được đưa thẳng vào nhà xác. Ðàng nào thì y cũng không trốn được nữa rồi. Ði còn chẳng nổi, nói gì trốn.

Ban đêm người hấp hối tỉnh lại, kêu gào thảm thiết. Nằm trong nhà giam tôi nghe tiếng y kêu khàn khàn yếu ớt như tiếng mèo. Chẳng có ai trong số lính gác rẽ vào xem y làm sao. Sáng ngày ra không thấy y trong nhà xác, mới đi tìm thì thấy y nổi lềnh bềnh trong bể nước. Thì ra y khát, gào mãi chẳng thấy ai đến. Y liền bò ra ngã xuống bể nước và chết chìm trong đó. Những người tù nói lính gác sợ cái nhà xác. Ðồn rằng ở đó có ma. Những con ma tù không giống các loại ma khác, chết rồi chúng vẫn cứ luẩn quẩn ở nơi chúng qua đời. Tại sao không còn gì kiềm tỏa mà chúng không về nhà thì không ai giải thích được. Vào những buổi mơ thâm tối trời hay là sáng trăng suông lại hiện lên dọa lính, lính sợ bỏ chạy thì chúng cười khanh khách.

Trong trại Tân Lập có một số bể chứa nước cho trại viên dùng. Nước được bơm từ trạm thủy điện đặt bên ngoài trại vào trong các bể trong một hệ thống bình thông nhau.

Buổi sáng bắt đầu trận dịch: Toàn trại ngã bệnh. Không có thuốc, hết người này đến người khác theo nhau ra bãi tha ma dành cho tù.

Thêm một lần tôi được mục kích sức đề kháng mãnh liệt của cơ thể Việt Nam. Những người tù ốm vốn đã gày còm vì thiếu ăn vật vờ ngoài sân trại như những bộ xương biết đi, chẳng được chữa chạy gì, chẳng có thuốc gì để uống, mà không chết.

Khi dịch tắt thì đến lượt tôi bị bệnh. Trong thời gian có dịch tôi rất giữ gìn, không dám dùng một chút nước lã nào, đến cả nước rửa mặt đánh răng cũng dùng nước đã đun sôi. Nhà bếp ưu ái tôi, tôi muốn xin bao nhiêu nước chín cũng được.

Kiết lỵ là một bệnh rất khó chịu. Sức khỏe xuống rất nhanh cùng với những cơn đau quằn quại. Diệp Bản Minh, Tôn Thất Tần, cả hai ông nông dân phản cách mạng Phún Nàng Cái và Lầm Xì Lần đều lo cho tôi. Chốc chốc mở mắt ra tôi lại thấy hoặc người này hoặc người kia ở bên mình. Trần Chấn Hoa những ngày ấy chuyển đi chỗ khác – y sợ lây. Vả lại, y cũng chán. Tôi kín như bưng. Chẳng có thể gợi ở tôi câu gì. Ðôi khi, sốt ruột, y hỏi thẳng vào chuyện vụ án. Tôi bảo công an dặn đây là bí mật của Ðảng không được nói với ai, thế là xong.

Một đêm tôi thức giấc vì nghe mơ hồ có tiếng người gọi.

- Ai đấy ?

- Em đây, Cao đây !

Trong bóng đêm tôi thấy một bóng người lờ mờ cúi xuống. Cái bóng ghé sát tai tôi:

- Anh ơi, anh đừng chết !

Tôi bật cười. Làm sao có thể đừng chết được ? Chết là cái không thể đừng. Sức mạnh của cái chết là không thể ngăn cản.

Cao ghé người nằm xuống. Ðó là một thanh niên nhỏ bé, nhưng rất nhanh nhẹn, bị tập trung cải tạo với tội danh biệt kích. Tôi không hiểu tại sao Cao bị tập trung cải tạo. Nhưng tôi cũng chẳng buồn tìm hiểu. Trong nhà tù có quá thừa những điều làm tôi ngạc nhiên. Ðây là nơi tập trung những điều phi lý nhất nhưng có thật. Nói theo cách Descartes (6), chúng tồn tại chỉ vì chúng hữu hình.

- Trong trại chỉ có hai người Cộng Sản là anh và em. – tôi nghe tiếng Cao thì thào bên tai – Em có trách nhiệm bảo vệ anh.

Tôi cố cựa quậy cánh tay nặng như chì để nắm lấy tay Cao :

- Cảm ơn em.

- Em đã bàn với bác Tần. Bác với em sẽ cố gắng chăm nom anh để anh chóng khỏe…

Tôi cười cay đắng. Giờ đây tôi có hai người đang ra sức giúp tôi chống lại cái chết: Một phản cách mạng và một Cộng Sản.

Sáng hôm sau, theo lời khuyên của Cao, tôi viết một bức thư gửi về cho gia đình để gia đình xin thăm đột xuất, mang thuốc cho tôi. Tôi viết, không mấy tin tưởng ở kết quả bức thư. Nó đến được hay không là một chuyện. Nhà cầm quyền có cho gia đình lên thăm tôi hay không là chuyện khác. Bức thư đã đến. Vợ tôi tức tốc lên ngay. Bằng cách nào Cao gửi được bức thư tôi không biết. Chắc Cao bàn với Dịp Pún Mằn và gián điệp quốc tế đã liều mạng để cứu tôi.

Từ hôm đó hàng ngày đi làm về là Cao đến giặt giũ quần áo cho tôi, lo lắng cơm nước cho tôi, mặc dầu Cao ở một toán khác. Tôi được ăn nhiều rau hơn, thức ăn ngon hơn, cơm cũng nhiều hơn, có hôm là ngô tươi. Thức ăn của trại được hâm lại, nóng hổi. Trong bữa ăn, Tôn Thất Tần và Cao ngồi bên, khuyến khích tôi ăn từng miếng.

Tôn Thất Tần mách tôi :

- Anh phải ngăn thằng Cao. Ai lại nó leo vào cả vào trong kho của Ban lấy cắp mì chính, muối, cả ngô nữa. Họ mà bắt được thì chết !

Cao nghe tôi trách, cười hì hì :

- Nghề em mà, anh đừng lo.

Lúc ấy tôi chưa biết Cao là chiến sĩ đặc công.

Cũng trong những ngày này Cao kể cho tôi nghe vì sao cậu ta mang tội danh biệt kích.

Hai năm trước, tại vùng chiến thuật 1 (7), tiểu đội trinh sát của đơn vị đặc công mà Cao là tiểu đội trưởng đang len lỏi trong rừng thì gặp một trung đội thám báo địch từ trực thăng đổ xuống. Một trận tao ngộ chiến dữ dội nổ ra. Kém hẳn đối phương về quân số và trang bị, các chiến sĩ trong tiểu đội Cao lần lượt ngã xuống. Còn lại một mình Cao và một đồng đội bị thương nặng. Cao bắn trả cho tới khi khẩu AR15 hết đạn. Ðúng lúc Cao đập khẩu súng, cõng đồng đội xông ra để cướp khẩu súng khác quyết tử với địch thì viên sĩ quan phía bên kia kêu lên :”Không được bắn ! Phải bắt sống !”

Ðưa Cao về vị trí đổ quân, viên sĩ quan ra lệnh cởi trói cho Cao, rồi rót rượu mời Cao :”Tôi hân hạnh được mời rượu một người anh hùng ! Hãy bỏ qua một bên những bất đồng chính kiến, chuyện bên này bên kia, để uống với tôi, một người Việt, đồng bào anh !”. Cao uống. Theo yêu cầu của Cao viên sĩ quan chôn cất cẩn thận các bạn đồng đội của Cao trước mặt Cao, rồi gửi trực thăng đưa Cao về Sài Gòn.

Cao bằng lòng chiêu hồi. Quân đội Sài Gòn cho Cao đi học tại khu biệt kích Long Thành. “Không dễ dàng gì mà vào trinh sát trong một trường huấn luyện biệt kích của địch, Cao nghĩ. Mình tương kế tựu kế vào trong đó tìm hiểu rồi trở về báo cáo với trên, hóa hay !”. Xong lớp huấn luyện Cao được ném ra miền Bắc, xuống khu vực Yên Bái. Sau khi giết toán trưởng biệt kích, Cao ôm điện đài chạy ra quốc lộ, giơ súng chặn một chiếc xe tải, bắt chở thẳng về Hà Nội.

Cao được đón tiếp tử tế, được nuôi nấng chu đáo, sang trọng nữa là khác, trong suốt thời gian ngồi ở cơ quan Bộ Tổng Tham mưu. Người ta bảo Cao viết lại toàn bộ những gì cậu ta trinh sát được tại khu Long Thành. Viết xong thì cán bộ quân pháp tới bắt đi giao cho bên công an. Ðó là lý do vì sao Cao có tội danh biệt kích mà không có án hình.

Tôn Thất Tần biết chuyện, lắc đầu:

- Người ta đối với cậu rứa tệ quá !

- Thế người ta đối với bác không tệ à ?

- Tui khác, cậu khác. Tui là phản cách mạng. Cậu là cách mạng.

Sau khi bị tôi trách, Cao không dám leo vào kho công an ăn trộm nữa. Có vẻ cậu ta coi ý kiến của tôi là mệnh lệnh cấp trên, không thể cưỡng.

Cơn bệnh qua, tôi ăn giả bữa, lúc nào cũng thấy đói. Tôi không nghĩ tới cái gì khác ngoài miếng ăn. Thèm đủ thứ. Thậm chí nghĩ tới một miếng cháy nước dãi đã ứa ra.

Còn nhớ một hôm toán tôi được lệnh đi chữa nhà cho Ban Giám thị, mấy ông bạn tù già mừng rơn khám phá ra lu nước gạo của Ban đầy cơm thừa đổ đi lẫn lộn với trăm thứ bà dằn khác. Tôi được phân công ở trên mái để dặm lại mấy chỗ tranh mục, đồng thời canh chừng cho các bạn tù xột xệt(8) bên dưới. Tôi vờ cặm cụi làm, nhưng mắt vẫn bao quát một vùng chung quanh. Chỗ cơm thừa trong phút chốc đã trở thành nồi cháo ngon lành, tuy phảng phất mùi chua của dấm bỗng.

Ở bên dưới người ta gọi lên:

- Bác Hiên ơi ! Bác xuống ăn với chúng tôi.

Tôi cảm thấy ruột gan cồn cào, nhưng tôi rùng mình khi nghĩ tới lu nước gạo.

- Cảm ơn các bác. Các bác cứ ăn đi. Ðể tôi gác cho.

- Chúng tôi sẽ để phần bác.

- Tôi không ăn đâu. Mấy bữa nay bụng dạ tôi không tốt.

- Vậy cũng được. Chúng tôi ăn hết nhá ?

Trong nhà tù cuộc đánh nhau với bản thân không bao giờ kết thúc. Chỉ có thể thắng từng trận một. Câu chuyện năm xưa với ông Ðặng Xuân Thiều trở về trong trí nhớ. Biết ông được các đồng chí gọi là “anh hùng thành Ký Con (9)”, vì ông đã chịu đựng được hai mươi bảy trận đòn tra liên tục, tôi hỏi ông:

- Chú ơi, làm thế nào mà chú chịu đựng giỏi thế ?

Ông cười hà hà:

- Giỏi gì ! Tao cứ cố chịu từng trận một, chịu được đến đâu biết đến đấy. Có thể trận thứ hai mươi tám thì tao gãy, biết đâu đấy, ai dám nói chắc, nhưng chúng nó mệt, chúng nó bỏ cuộc thì tao được anh em bốc lên tôn làm anh hùng, chứ anh hùng cái gì đâu …

Ông không khiêm tốn giả vờ. Ông nói sự thật “chúng nó mệt, chúng nó bỏ cuộc”, nhưng chất anh hùng thật lại ở chính trong lời thú nhận “biết đâu đấy, ai dám nói chắc”. Cái chất ấy ông vẫn giữ được khi cách mạng thành công rồi, có thể nhân danh những hy sinh để đòi hỏi đãi ngộ. Là anh em với tổng bí thư Trường Chinh, ông có thể kiếm được một chức to hơn chức vụ trưởng, nhưng ông thích làm vụ trưởng Bảo tồn bảo tàng để chăm lo cho những gì tổ tiên để lại không bị mai một. “Thấy đền chùa bị phá nhiều quá, tao sót, ông nói. Hết Bắc thuộc lần thứ nhất đến Bắc thuộc lần thứ hai, rồi trải qua biết bao nhiêu cuộc chiến tranh khác, các công trình kiến trúc của các cụ có còn được là mấy. Phải có người giữ gìn chứ !”

Những tấm gương của thế hệ đi trước nâng đỡ tôi rất nhiều trong những năm tù, từ ngày đầu tiên cho tới ngày cuối cùng. Khi bị những cơn đói dày vò tôi thường nhớ tới các bậc tiền bối cách mạng đã chịu đựng thế nào trong nhà tù đế quốc để động viên mình vượt qua sự khốn khó.

Những cơn đói cồn cào vào cái đận giả bữa bớt hành hạ tôi còn nhờ những ván cờ của Tôn Thất Tần. Về cờ tướng tôi không đáng học trò ông. Nhiều hôm, mải đánh cờ, tôi quên cả ăn. Tôi quên thì đã có Cao nhớ. Thấy chúng tôi đang mê mải chơi cờ cậu ta vác bát ra lĩnh cả cho tôi lẫn Tôn Thất Tần.
Tôi cũng thích để Cao nhận phần cơm cho chúng tôi. Tuy việc chia cơm trong các toán số lẻ có tiếng là công bằng, nhưng không phải vì thế mà được phép lơ là. Cao không hổ danh chiến sĩ trinh sát. Mắt cậu ta tinh như mắt mèo, không cho phép ai qua mặt.

Tù số lẻ chia cơm bằng cân. Người ta làm lấy một cái cân thô sơ để cân cơm. Cái cân tự tạo giống như cân tiểu ly, chỉ cần thêm hoặc bớt một chút xíu cơm bằng đầu ngón tay là nó đã mất thăng bằng. Tù số chẵn, dù boọc, dù có án, đều nhìn cái cân bên số lẻ bằng con mắt khinh bỉ. Quen ăn tiêu về nhiều ngoài xã hội, họ coi cái sự cân cơm là ti tiện. Tù số chẵn dùng bát để đong khi chia cơm, bát vục mạnh thì cơm được nêm chặt, vục yếu thì cơm xốp, cho nên suất cơm của các sĩ quan bao giờ cũng lớn hơn suất cơm lính.

Về chuyện chia thịt thì cả số lẻ lẫn số chẵn đều chia như nhau, theo cùng một cách. Tù sắp bát thành hàng, người chia thịt chọn từng miếng đều nhau gắp vào mỗi bát. Chia cho thật đều rất khó vì nhà bếp chặt miếng to miếng nhỏ, miếng nạc miếng xương, không bằng nhau. Người ta giải quyết chia cho công bằng bằng cách viết tên cả toán vào một mảnh giấy, một người cầm mảnh giấy quay lưng lại những bát thịt đã được chia, một người khác gõ bất ưng vào một cái bát nào đó, người cầm giấy xướng lên một cái tên, thế là người có tên lĩnh phần thịt mang đi. Cách này gọi là quay mặt đặt tên. Như thế, mỗi lần trại cho ăn thịt là mỗi lần mình phải nhận phần trong bát người khác. Có những cái bát cóc cáy, nhìn mà ghê, lúc đầu tôi rất sợ, mãi mới quen. Mọi người đều cho rằng Tôn Thất Tần bị lao phổi, nhưng đến bữa có thịt, người nào vớ phải bát của Tôn Thất Tần cũng vẫn ăn ngon lành như thường. ê trong tù mà khắt khe chuyện vệ sinh cũng chẳng được. Ðã ở tù thì phải chịu ở lẫn với đủ thứ bệnh tật. Trong trại có cả người hủi. Anh ta ở chung với mọi người, nhưng chưa thấy ai bị lây. Về sau, gặp được viên giám thị tốt bụng, anh ta được ở cách ly trong một phòng con tí xíu ở đầu hồi trạm xá(10) và từ đó thôi không phải đi lao động hàng ngày nữa.

Trong trại giam dù anh có án hay anh boọc, dù anh mang số lẻ hay số chẵn, dù anh là tù thường hay tù binh, đều là tù tuốt. Tù thì phải lao động. Nhưng nếu lao động để mà sống thì chuyện dễ hiểu. Khó hiểu ở chỗ lao động cải tạo kia.

Người nước ngoài thường có sự hiểu lầm cụm từ lao động cải tạo. Họ tưởng chỉ có tù mới phải lao động cải tạo. Hoàn toàn không phải thế. Sau năm 1950, biên giới Việt – Trung thông thương, khái niệm lao động cải tạo được du nhập vào Việt Nam lần đầu. Nó tới cùng với sự học tập giáo trình Lịch Sử Tiến Hóa Nhân Loại, trong đó Charles Darwin(11) được nhắc đến một chút, Mác và Engels một chút, còn lại là sự phát triển tư duy của Mao Trạch-đông và các lý thuyết gia nội hóa. Chúng tôi, con cháu loài khỉ(12), phải biết ơn lao động, mà là lao động chân tay kia, chứ lao động trí óc không được tính đến, nhờ có nó mà tổ tiên chúng tôi mới thành người.

Câu nói “Trí thức mà không có thực hành giá trị không bằng cục phân” của Mao chủ tịch được nhắc đi nhắc lại là trong thời kỳ này. Người mác-xít chỉ biết có một thứ trí thức ứng dụng, trí thức lý thuyết là đồ bỏ. Trong chính sách cán bộ, khi xem xét khả năng cán bộ để cất nhắc, để điều động, tiêu chuẩn lao động chân tay được coi như một thử thách không thể thay thế. Nói cách khác, người ta thành tín cho rằng có thể cải tạo con người bằng lao động. Thành thử cán bộ bên ngoài cũng phải đi lao động chân tay thường xuyên, gọi theo cách Trung Quốc là hạ phóng. Tôi đã hạ phóng một lần về mấy xã huyện Ðông Quan tỉnh Thái Bình với ông Nguyễn Ðức Quỳ, thứ trưởng Bộ Văn Hóa. Chúng tôi đi cầy, đi cấy, be bờ, tát nước cùng với nông dân. Tôi làm giỏi hơn các cán bộ thành phố nhờ những năm ở làng với bà cô trọn đời đồng trinh. Nhưng cả tôi, cả ông thứ trưởng có học đều không tin lao động có thể làm cho chúng tôi người hơn con người chúng tôi hiện có. Cứ tới thứ bẩy, chủ nhật là chúng tôi lấy cớ đi họp trên tỉnh để lên thị xã Thái Bình tắm nước nóng.

Người tù, theo quan điểm của các nhà lãnh đạo, lại càng cần phải cải tạo bằng lao động. Họ cho rằng người tù bị tù là do có những tư tưởng xấu, tư tưởng địch, nếu chịu khó lao động, anh ta có thể tự cải tạo mình để trở thành người tốt. Những người tù chăm chỉ lao động được giảm án nhiều hơn những người tù lười lao động. Những người yếu đuối không có khả năng lao động cũng bị coi là lười, đâm ra bị thiệt.

Toán tôi là toán tạp dịch, nay đi nhổ cỏ lúa, mai đi cuốc ruộng. Từ trong xà lim ra, bốn năm có lẻ không đụng tay đụng chân đến việc gì, nay cầm cuốc cầm cày, tôi rất mệt. Nhưng tôi cố gắng để không kém mọi người, bởi vì công việc được khoán theo tổ (nhóm nhỏ), mình làm ít thì người khác làm nhiều. Hơn nữa tôi không muốn để cho những kẻ muốn hành hạ tôi được thấy tôi khổ sở vì lao động vất vả. Tôn Thất Tần biết ý, nói nhỏ với anh em bên cạnh chỉ làm túc tắc thôi, đạt mức thì tốt, không đạt thì thôi, cho tôi nương vào. Ðược cái người ta chỉ có thể quở trách một cá nhân làm không đạt mức, chứ khi cả tập thể không đạt thì huề, bao giờ cũng có cả đống lý do để mà biện bạch.

Một hôm toán được phân công cuốc đồi trồng sắn. Trời nắng chang chang, quanh chỗ làm không một bóng râm, đồi lại toàn sỏi lổn nhổn, tôi vừa làm vừa thở hồng hộc. Quản giáo ngồi nấp dưới một cây sắn còn sót lại, phanh áo ra mà quạt, mặt đỏ lựng. Khi được lệnh nghỉ, tôi nằm vật ngay ra chỗ đất vừa cuốc, thiếp đi. Tôi mơ thấy mình đang nằm bên một dòng sông trong vắt, nước ụp oạp mênh mông, cái transistor đặt trên bụng. Từ trong máy phát ra bản Concerto Số Một của Tsaikovsky(13) do Van Klibern chơi. Tôi đang sung sướng tận hưởng khúc nhạc tuyệt vời, nhờ nó Van Klibern được giải thưởng quốc tế về dương cầm năm 1956, được nước Mỹ trải thảm đón mừng, được tổng thống Mỹ đích thân tiếp, thì nó nhỏ dần rồi mất hẳn, như thể sóng điện bị lạc. Tôi cuống quít vặn núm đài nhưng không tìm ra. Tỉnh dậy, thấy tay mình vẫn còn đang loay hoay cái núm vô hình, trên đầu mắt trời chói lòa.

- Anh ngủ tài thiệt ! – Tôn Thất Tần nói – Ðược một giấc rồi đấy.

Tôi đứng lên, bàng hoàng. Dưới chân tôi là một hình người in rõ nét trên mặt đất lổn nhổn.

- Tôi được một giấc mơ đẹp.- tôi nói – Hoài của, có một bản nhạc hay ơi là hay mà không nghe được hết. Bác không chợp mắt một chút à ?

- Chợp răng được. Nắng rọi vào mắt như ri. Tui đang mải ngắm con trâu.

Chênh chếch dưới chân chúng tôi một con trâu đang lười biếng vặt từng nạm cỏ hiếm hoi. Cái đuôi trần trụi với túm lông thưa quật đi quật lại không mệt mỏi.

- Nó có gì lạ ?

- Tui ghen với nó. Nó sướng quá !

- Sướng cái gì chứ ?

Một nụ cười chua chát thoảng bay trên khóe miệng “Jean Valjean gọi bằng cụ” :

- Nó không bao giờ phải cải tạo. Ra đời đã lao động rồi. Ðỉnh cao của vinh quang (14) ! Loài người từ khỉ mà lên nhờ lao động. Chúng mình lao động mãi như ri rồi sẽ tiến lên loài chi nhỉ ?

© Vũ Thư Hiên
——————————————-
(1) Nhân vật chính trong cuốn Những Người Khốn Khổ (xuất bản năm 1862) của đại văn hào Pháp Victor Huygo (1802-1885).
(2) Món ăn vùng Trung Á
(3) Nguyên thứ trưởng Bộ Y Tế nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
(4) Việc không cho tù được đọc sách còn lại cho tới bây giờ. Năm 1995, khi Hoàng Minh Chính bị bỏ tù (xã hội chủ nghĩa) lần thứ ba, ông muốn đọc các sách về luật pháp để tự bào chữa khi ra tòa người ta cũng không cho. Kể cả đến cuốn sách về luật Việt Nam do Nhà xuất bản Pháp lý (của Nhà nước) ấn hành ông cũng không được nhận.
(5) Một tỉnh gồm Nam Ðịnh, Ninh Bình và Hà Nam nhập lại dưới thời Lê Duẩn.
(6) René Descartes (1596-1650), triết gia Pháp. Câu nói nổi tiếng của ông :”Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”.
(7) Vùng từ Quảng Trị – Thừa Thiên kéo dài tới Ðà Nẵng.
(8) Tiếng lóng trong nhà tù = nấu nướng.
(9) Tên thành phố Hải Phòng do những nhà cách mạng tiền bối đặt.
(10) Nơi chữa bệnh cho tù, bệnh xá.
(11) Charles Robert Darwin (1809-1882), nhà cách mạng trong sinh vật học, giải thích sự tiến hóa của nhân loại theo quan điểm duy vật.
(12) Vì nghe thế nó… khỉ quá, nên ông Trần Văn Giàu đã sửa lại trong giáo trình Duy Vật Lịch Sử của ông thành hầu nhân.
(13) Tchaikovsky Piotr Ilich (1840-1893), nhà soạn nhạc nổi tiếng người Nga
(14) Khẩu hiệu của Ðảng : “Lao dộng là vinh quang !”.
(Đàn Chim Việt) 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét