Nhận diện hành vi tham nhũng qua cơ chế đất đai hiện hành
Dương Phiêu
Khi bước vào cơ chế thị trường Việt Nam buộc phải chấp nhận
quy luật tất yếu của thị trường trong đó có quy luật giá trị và quy
luật cung cầu, thừa nhận giá trị của đất đai, thừa nhận việc cung cầu
nó với tư cách là loại hàng hóa đặc biệt. Sự thừa nhận tất yếu này mới
giải quyết được các nội dung kinh tế căn bản của cơ chế thị trường, được
ghi vào Luật đất đai 2003. Song ra đời trong một “cơ chế thị trường chưa sáng tỏ”
về mặt lý luận nên thiết kế các công cụ quản lý nó bộc lộ ra nhiều yếu
kém, là nguyên nhân của nhiều nguyên nhân gây bức xúc xã hội, bất công
trong thu nhập, tạo ra hình ảnh méo mó về chính sách đất đai…Bài viết này trong khi Quốc hội đang bàn thảo sửa đổi Luật đất đai năm 2003 góp phần nêu lên tiếng nói để nhìn thẳng, nhìn thực thực chất về vấn đề khá nhức nối lâu nay: Tham nhũng từ đất đai thời gian qua do đâu và bằng cách nào? Để chúng ta tiên liệu những giải pháp hợp lý hơn khi ban hành luật.
Tham nhũng từ đất đai là gì?
Muốn thống nhất được nội dung này cần đi từ khái niệm tham nhũng nói chung; Hiện nay có hai cách tiếp cận khác nhau định nghĩa về tham nhũng theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, cụ thể:
+ Nghĩa rộng cho rằng: Tham nhũng là hành vi của bất kỳ ai có chức vụ, quyền hạn hoặc người được giao nhiệm vụ quyền hạn mà lợi dụng chức vụ quyền hạn đó để trục lợi hay nói cách khác Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của (Từ điển tiếng Việt). Liên Hiệp Quốc định nghĩa trong công ước phòng chống tham nhũng năm 1969: Tham nhũng là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng.
+ Nghĩa hẹp cho rằng: Tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn đó để vụ lợi.(Luật Phòng chống tham nhũng của Việt Nam 2005). Theo khái niệm này thì chức vụ quyền hạn được hiểu là chức vụ quyền hạn ở các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội có sử dụng ngân sách nhà nước, tài sản, vốn của nhà nước. Chức vụ quyền hạn phải là chức vụ quyền hạn hợp pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm.
Như vậy hiểu theo pháp luật Việt Nam: Tham nhũng từ đất đai là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn đó để vụ lợi thông qua việc thi hành các chính sách pháp luật đất đai.
Nếu theo lý thuyết này thì hành vi tham nhũng có đủ 12 loại hành vi nói chung của tham nhũng mà luật tham nhũng nêu (xem Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 và Luật sửa đổi 2007).
Tham nhũng thông qua cơ chế thu hồi đất thực hiện dự án:
Luật đất đai 2003 cho phép cơ quan nhà nước (cấp tỉnh và huyện) được thu hồi quyền sử dụng đất của dân để thực hiện các dự án phục vụ quốc phòng an ninh, lợi ích công cộng và cả các dự án kinh tế (thực chất một phần cho doanh nghiệp phi nhà nước khác); khi Doanh nghiệp được giao đất làm dự án đặc biệt là dự án kinh doanh nhà để bán, bán đất và bán nền nhà…doanh nghiệp phải thực hiện 04 khoản chi phí cụ thể: (1) Chi trả các loại lệ phí: quy hoạch, thẩm định, chi phí chung, lệ phí giấy phép…(2) Chi phí mờ để được giao nhận dự án bao gồm các khoản chi: chi bồi dưỡng, chi quà biếu, chi ngoại giao… (3) Chi phí cho việc thực hiện quy hoạch, thực hiện dự án: đầu tư cơ sở hạ tầng, điện, nước, đường, mương, cây xanh….(4) Chi phí cho việc thu hồi đất: gồm bồi thường đất, tài sản trên đất cho người bị thu hồi đất và hỗ trợ nếu có để thu hồi được đất làm dự án. Bốn khoản chi phí trên đây là cố định của bất kỳ dự án nào. Tuy nhiên ở mỗi dự án, mỗi địa phương khác nhau việc chi trả từng mục khác nhau theo tỷ lệ nhất định được pháp luật quy định ở mục 1,3,4, được ngầm định ở mục 2.
Công thức chung là vậy, thông qua công thức chung này chủ đầu tư có được thông số chung về dự án để tính ra lợi nhuận. Song bất kỳ nhà đầu tư nào đều mong muốn lợi nhuận càng tăng và chi phí càng giảm. Nhìn vào 4 mục chi trên chúng ta thấy: mục (1) là chi phí do nhà nước quy định không thể giảm; mục (2) là cơ chế thị trường quy định theo xu thế chung khi mà cung ít, cầu nhiều đối với dự án thì cũng không thể giảm; mục (3) nhà đầu tư có thể giảm được, nhưng không nhiều vì giảm nhiều sẽ ảnh hưởng đến chất lượng công trình; vậy thì chỉ có thể giảm tại mục (4) vì đây là mục pháp luật quy định chung, khi áp dụng phải cá thể hóa thành từng trường hợp cụ thể; từng chủ thể nhận bồi thường riêng rẽ không biết nhau, hiểu biết pháp luật khác nhau và mỗi chủ thể có hoàn cảnh riêng nên có thể giảm tối đa.
Thực hiện giảm tối đa cho mục (4) được thông qua các hình thức cụ thể như sau:
a, Tính giảm bồi thường tài sản và hỗ trợ đến mức thấp nhất: Trong Luật Đất đai năm 2003 đã phát sinh nghịch lý rất rõ dàng mà ít người lên tiếng cụ thể: Luật quy định Nhà nước có quyền thu hồi lại “Quyền sử dụng đất của dân” với tư cách là nhà nước là chủ sở hữu – đây là việc phải chấp nhận; song tài sản của người dân trên đất thì không thể thông qua quyền hành chính làm phát sinh được mà phải thực hiện theo luật dân sự. Có nghĩa là phải thỏa thuận, bồi thường ngang giá. Nhưng chính pháp luật đất đai lại quy định cho cơ quan nhà nước quyền ấn định mức giá cụ thể về các loại tài sản (sát đúng giá, hay sai giá, áp đặt giá…đều do nhà nước quyết định) người dân khi bị thu hồi phải thực hiện. Cơ chế này đã dẫn đến nhiều nơi UBND tỉnh ban hành giá thấp hơn nhiều so với thị trường, hoặc chậm thay đổi khi giá thị trường đã thay đổi tăng gấp vài lần…nhưng vẫn được ấn định áp giá cho dân.
Quy trình cá thể hóa việc bồi thường cho từng hộ cũng được cơ quan chuyên trách dự án cắt bỏ các chính sách mà họ được hưởng nhờ vận dụng vào một hệ thống văn bản đồ sộ mà người dân không biết văn bản nào là đúng cho trường hợp của mình; thậm chí không cần văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ dựa trên một văn bản có tính kết luận (thông báo kết luận buổi họp) làm cơ sở pháp lý. Khi tính toán bồi thường các cơ quan có thẩm quyền buộc người dân phải thực hiện trách nhiệm chứng minh hồ sơ đất trong khi để thực hiện quyền này người dân đã nộp các tài liệu đó cho các cơ quan nhà nước từ lâu rồi, nay không còn tài liệu minh chứng. Từ đó người làm công tác bồi thường thậm chí tạm tính gọi là “Phương án bồi thường” chưa cần được phê duyệt đã gọi dân lên nhận tiền, nếu êm xuôi thì hợp thức hóa bằng quyết định phê duyệt, còn cụ thể phê duyệt thế nào, bao nhiêu là chuyện khác. Nếu dân thắc mắc thì lập lại phương án, yêu cầu dân chứng minh quá trình sử dụng đất, nếu có chênh tăng diện tích so với giấy tờ thì tính lại diện tích tăng để thu tiền giao đất trừ vào tiền bồi thường…Có vụ việc người dân đã từng bị mất đến 92% số tiền của mình đáng lẽ được hưởng.
b, Chậm chi trả tiền bồi thường cho dân để kéo dài việc giải quyết khiếu nại: Trong trường hợp cơ quan nhà nước ban hành quyết định mức giá bồi thường cho từng hộ dân, nhưng lại không có tiền chi trả vì chủ đầu tư không có tiền sau đó người dân thắc mắc nhiều lần hàng năm, vài năm mới chi trả nhưng chỉ trả theo giá đã duyệt, trong khi đó giá thì trường thay đổi nhiều lần.
Trường hợp nếu họ không nhất trí (chưa nhận tiền) sẽ khiếu nại; Luật Khiếu nại đã quy định rõ thời hạn giải quyết nhưng các cơ quan không thực hiện đúng thẩm quyền, quy trình và thời hạn, để dây dưa nhiều năm (có trường hợp 7-8 năm) quá nhiều lần thời hạn luật định. Khi có kết quả cuối cùng người dân mới nhận được tiền thì cũng chỉ nhận được mức giá đã phê duyệt trước đây.
c, Ban hành chính sách pháp luật riêng ở địa phương: Luật Đất đai, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND và Luật Tổ chức HĐND và UBND mỗi cấp đều quy định thẩm quyền sâu cho UBND cấp tỉnh; trong đó giao cả cho các cơ quan này quyền quyết định chính sách. Lấy một ví dụ cụ thể để chứng minh điều này: Có UBND tỉnh phía bắc đã đưa ra một khái niệm riêng về đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư như sau: “Đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư là thửa đất nằm trong khu dân cư có ít nhất hai mặt tiếp giáp với đất ở”Trong khi đó thông tư 116/2004/TT-BTC ngày 7/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn nội dung này chỉ nêu: Đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư phải là thửa đất nằm trong khu dân cư. Định nghĩa mới của tỉnh nọ đã gây ra hậu quả tai hại là tước đi quyền lợi chính đáng của hàng nghìn hộ dân với hàng trăm tỷ đồng mà lẽ ra họ được hưởng. Cũng qua định nghĩa này thấy được trình độ của người làm luật địa phương đến mức độ nào: vì đất chỉ có mặt quay lên trời còn mặt kia quay xuống lòng đất không hiểu có mặt nào giáp đất ở?
Tham nhũng qua hình thành cơ chế phê duyệt dự án giao đất
Phần trên đã nêu con đường hình thành tham nhũng đất thông qua cơ chế thu hồi đất thực hiện dự án, phần này nêu ra con đường hình thành tham nhũng qua cơ chế phê duyệt dự án giao đất: Hầu hết các dự án do chủ đầu tư tự đầu tư để làm nhà ở, phục vụ mục đích kinh doanh của chủ đầu tư…là vốn của nhà đầu tư. Điều này cũng đồng nghĩa cách hiểu của một số quan chức của cơ quan có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt dựa án – họ quan niệm đây không là tiền ngân sách mà là tiền của chủ đầu tư. Do vậy các bước thẩm định được làm thoáng hơn: ví dụ khi trình dự án san ủi mặt bằng là đồng ruộng, có xen kẽ ao chuôm để làm mặt bằng khu dân cư, chủ đầu tư phải tính toàn khối lượng vét bùn ao, bùn ruộng để hoàn thổ, lu lèn tạo cốt nền chuẩn …họ trình một khối lượng là 1 vạn m3, nhưng khi thực hiện không mấy doanh nghiệp bóc đất đá hoàn thổ mà lu lèn lại….Như vậy khối lượng trênh tăng ở đây ai hưởng?
Trong trường hợp này doanh nghiệp vẫn đương nhiên quyết toán toàn bộ số lượng trênh tăng đó vào dự án và được trừ đi phần gọi là đầu tư để miễn chính sách thuế, chia lợi nhuận…
Tham nhũng qua việc quy định giá đất để bán, quy định giá nhà để bán: Luật Đất đai năm 2003 và văn bản hướng dẫn thi hành cho phép UBND tỉnh được quyền quy định giá đất ở để giao đất đất ở có thu tiền, kể cả dự án làm nhà ở nhưng chưa làm xong cơ hạ tầng; điều này dẫn đến tình trạng ngay khi nhà đầu tư mới lấy xong đất của dân, chưa làm gì ngoài việc phá bò ruộng để thông thửa đã tro biển quy hoạch phân lô, UBND tỉnh đã quyết định giá đất từng lô dân cư, nhà nước có một quy trình về làm giá tại các nghị định, song tiêu chí lại chưa rõ dàng. Đã có tình trạng chủ đầu tư báo cáo cơ quan giá địa phương: “dự án này toàn các anh lãnh đạo nhận mua, mà các anh ấy thu nhập thấp lắm lương ngân sách chứ phải như doanh nghiệp đâu, đề nghị cơ quan giá định giá thấp để tạo điều kiện cho các anh ấy có chỗ ở”. Đồng thời có “chút quà biếu gọi là”; cơ quan giá khi biết thông tin trên đã thống nhất giá chỉ bằng ½ giá đất giao dịch của chính thửa đất đó. Sau khi nhận quyết định còn tươi con dấu từ UBND tỉnh nọ doanh nghiệp đã bán 5/10 lô một anh quan chức tỉnh nọ đứng tên (vợ hoặc con) đã thu đủ tiền theo giá của tỉnh; số 05 lô còn lại được chuyển không cho lãnh đạo đã đăng ký nhận mua mà không phải đóng một đồng tiền nào.
Kết luận: Đất đai là tài sản đặc biệt, nhưng trước khi là tài sản đặc biệt phải là tài sản cụ thể, điều đó cũng có nghĩa là phải tuân theo quy định chung của sở hữu đích thực. Sở hữu đích thực về đất đai theo chúng tôi phải quy định cho người dân. Vì bất cứ hướng dẫn, giải thích nào liên quan đến người dân mà không dựa trên sở hữu được các nguyên lý của nhân loại nêu ra về sở hữu đều không thể có lối thoát đúng đắn và có nguy cơ hạn chế quyền lợi chính đáng của người khác.
“Nhiều trường hợp dùng nhục hình để đóng án, báo công”
… hiện cơ quan công an đang được trao quyền quá lớn. Để ngăn ngừa oan sai, người đứng đầu ngành phải cam kết trước dân chấm dứt những hành vi vi phạm pháp luật đã nêu ở trên.InfoNET
Thứ tư 13/11/2013 06:00
GS Nguyễn Minh Thuyết: “Vụ án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn chỉ khác Truyện Kiều ở chỗ Kiều bán mình chuộc cha rồi, ở nhà, em gái vẫn lấy được chồng, em trai thành đạt, còn gia đình ông Chấn thì tan nát…”
GS Nguyễn Minh Thuyết, Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, ĐBQH khóa XI, XII liên tưởng khi trao đổi với phóng viên báo điện tử Infonet xoay quanh vụ án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn.
GS Nguyễn Minh Thuyết cho rằng, bên cạnh yêu cầu đảm bảo xét xử công minh, cần phải đề cao vai trò của luật sư, của tranh tụng đối với các vụ án hình sự. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, luật sư được quyền tham gia ngay từ đầu vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế, rất nhiều vụ án, kể cả vụ án được dư luận hết sức quan tâm như vụ ông Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, Hải Phòng, luật sư đều rất khó tiếp cận với bị can.
Vụ án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn như giọt nước tràn ly, làm bục ra hàng loạt bất cập, sai phạm trong công tác điều tra, truy tố, xét xử. Xưa nay việc mớm cung, bức cung không phải là chuyện hiếm. Đã có không ít người chết trong phòng tạm giam, tạm giữ ; và cái chết của họ được giải thích bằng rất nhiều lý do khác nhau như bỗng dưng đổ bệnh, tự ngã đập đầu vào tường, tự tử không rõ nguyên nhân,…
Vẫn biết rằng, đối tượng phạm tội hình sự thường ngoan cố, khai báo gian dối, không chịu nhận tội…, gây không ít khó khăn cho công tác điều tra, tuy nhiên, nguyên Phó chủ nhiệm UB Văn hóa, Giáo dục, TNTNNĐ của Quốc hội cho rằng, không phải vì thế mà được phép dùng nhục hình với họ.
“Nhiều trường hợp dùng nhục hình là do nghiệp vụ kém, không đấu trí nổi với can phạm. Nhưng cũng nhiều trường hợp dùng nhục hình là do muốn gán tội cho người ta để đóng án, báo công, thậm chí để che giấu sự thật. Trong bất kỳ trường hợp nào, dùng nhục hình cũng là phạm pháp, là trái với Công ước quốc tế chống tra tấn mà nước CHXHCN Việt Nam tham gia.”
Theo GS Thuyết, trước đây cũng từng xảy ra một vụ kết án tử hình oan, Ủy ban Thường vụ Quốc hội biết nhưng cũng không gỡ được tội cho người bị oan. Rồi người bị oan chưa được giải oan thì đã chết vì bệnh hiểm nghèo. Có thể người bị bệnh hiểm nghèo đã chứa mầm bệnh từ lâu, nhưng biết đâu, nếu không chịu cảnh tù đày, họ không bị bệnh tật quật ngã dễ dàng như vậy.
GS Thuyết cho rằng để tìm ra sự thật và quy trách nhiệm cho những trường hợp làm oan cho dân không khó, điều quan trọng là có muốn điều tra làm rõ không thôi.
Trở lại với vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn, theo ông Thuyết thì cơ quan điều tra hoàn toàn có thể thu thập các bằng chứng để chứng minh các điều tra viên 10 năm trước có ép cung ông Chấn không. Điều này ai cũng thấy rõ, vì nếu như không có tội thì tại sao một người có đầu óc bình thường (không bị tâm thần) như ông Chấn lại phải nhận những tội ác như hiếp dâm, giết người – toàn những tội đáng ghê tởm và có thể bị kết án tử hình?
Cơ quan điều tra cũng nên làm rõ vì sao một người dân đã nhặt được CMND của kẻ giết người ở nơi xảy ra vụ án, nộp cho Công an mà chứng cứ quan trọng này vẫn bị bỏ qua.
GS Thuyết cho rằng vụ án này chẳng khác nào câu chuyện oan khuất của gia đình nàng Kiều. Chỉ một lời vu vơ của thằng bán tơ đã khiến Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ. Tiếng oan dậy đất, án ngờ dựng mây.
“Cũng có cảnh bức cung: Rường cao rút ngược dây oan. Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người. Có chăng vụ án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn chỉ khác Truyện Kiều ở chỗ Kiều bán mình chuộc cha rồi, ở nhà, em gái vẫn lấy được chồng, em trai thành đạt, còn gia đình ông Chấn thì tan nát.”
“Cơ quan điều tra phải chịu trách nhiệm
khi để xảy ra chuyện áp dụng nhục hình, bức cung, mớm cung, cản trở luật
sư thực hiện quyền và nghĩa vụ theo luật định, gây ra những vụ án oan
cho người dân. Những điều này hoàn toàn không thể chấp nhận được trong
một xã hội dân chủ; phải được chấm dứt ngay lập tức” – GS Thuyết nói.
Ông cũng nhận định, hiện cơ quan công an đang được trao quyền quá lớn. Để ngăn ngừa oan sai, người đứng đầu ngành phải cam kết trước dân chấm dứt những hành vi vi phạm pháp luật đã nêu ở trên.
Bên cạnh đó, trong vụ ông Nguyễn Thanh Chấn còn cần xem xét trách nhiệm của viện kiểm sát và tòa án. Và cần bãi bỏ những cách làm không phù hợp như họp ba ngành trước mỗi vụ án quan trọng để thống nhất quan điểm xét xử, vì cách làm này trái với yêu cầu ba cơ quan công an, kiểm sát, tòa án phải giám sát lẫn nhau để xét xử được khách quan, công bằng.
Ông cũng nhận định, hiện cơ quan công an đang được trao quyền quá lớn. Để ngăn ngừa oan sai, người đứng đầu ngành phải cam kết trước dân chấm dứt những hành vi vi phạm pháp luật đã nêu ở trên.
Bên cạnh đó, trong vụ ông Nguyễn Thanh Chấn còn cần xem xét trách nhiệm của viện kiểm sát và tòa án. Và cần bãi bỏ những cách làm không phù hợp như họp ba ngành trước mỗi vụ án quan trọng để thống nhất quan điểm xét xử, vì cách làm này trái với yêu cầu ba cơ quan công an, kiểm sát, tòa án phải giám sát lẫn nhau để xét xử được khách quan, công bằng.
Nguyễn Dũng
Nhà Máy Điện Hạt Nhân Việt Nam: “Bom nguyên tử hẹn giờ”
Hoàng Thanh Trúc (Danlamabao) - Nhìn
hình ảnh các khu vực bị tàn phá tại Philppines do Siêu bão “Haiyan” gây
nên vừa qua mà lạnh người, đau buồn cho nước bạn một lẽ nhưng lẽ khác
sởn gai ốc lớn hơn nhiều khi nghĩ đến quê nhà: Nếu đó là một viễn cảnh
đối mặt với 2 nhà máy điện hạt nhân (NMĐHN) Ninh Thuận của Việt Nam
trong tương lai, sau khi hoàn thành, khởi động.
Điều gì xảy ra nếu NMĐHN Ninh Thuận sẽ như thế này (khu vực bị tàn phá tại Philppines do Siêu bão “Haiyan” vừa qua)
Không biết “nhà nước, đảng ta” và các chuyên gia Nga có đoan chắc và
khẳng định được với toàn dân Việt Nam rằng cơ sở vật chất NMĐHN ấy sẽ
chịu được một cơn bão như “Haiyan” mang theo sức gió vào khoảng 320
km/h, giật mạnh lên tới 380km/h, sóng cao tới 15m và tạo ra lượng mưa
600 đến 400mm từ trung tâm lan rộng ra nhiều nơi?.
Mô hình NMĐHN tại xã Phước Dinh, Ninh Phước, Ninh Thuận
Có thể khi siêu bão “Haiyan” tan rồi thì cơ quan hữu quan nhà nước “đảng
ta” sẽ trấn an dư luận cho rằng vùng đất Ninh Thuận dù địa lý thuộc
miền Trung nhưng ở cuối rìa giáp miền Nam nên hiếm khi nào bị bão đe
dọa!
Nếu có quan niệm này thì xin quí vị lục lại trí nhớ, thời gian không xa lắm:
Ngày 5/12/2006 Sau khi gây thiệt hại nghiêm trọng ở philippines với hơn
1, 200 người chết, cơn Bão số 9 có tên quốc tế là Durian (Sầu Riêng)
tiến qua Việt Nam càn quét tàn phá một loạt các tỉnh miền Nam, gây nên
50 người chết, 55 người mất tích, 409 người bị thương. 119. 314 nhà bị
sập đổ, tốc mái, 888 tàu thuyền bị chìm - 9 trong số 13 tỉnh ở miền Nam
Việt Nam đã bị bão tàn phá đó là Bà Rịa-Vũng Tàu, Tiền Giang, Bến Tre,
Trà Vinh, Vĩnh Long Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang. [1]
Điều này có nghĩa, “bão tố hay sóng thần” không hề chọn lựa điểm dừng,
duyên hải Ninh Thuận là một trong những vị trí “sống lưng” Việt Nam
hướng ra biển Đông, hàng năm cũng luôn trong tư thế hứng những cơn bão
từ Thái Bình Dương đi qua Philippines mà điểm tập kết cuối cùng phần lớn
là duyên hải VN – Rõ ràng thật là khủng khiếp tới độ kinh hoàng nếu bão
tố gây nên thiệt hại hại NMĐHN/VN diễn ra như nhà_máy điện_Fukushima I;
Nhật Bản bị sóng thần hai năm trước, là cường quốc nguyên tử, từ vị trí
tự thiết kế chế tạo sở hữu 55 NMĐHN đến nay Nhật Bản không còn nhà máy
ĐHN nào. Ngày 15/9/2013, Nhật Bản đã cho đóng cửa ngừng lò phản ứng điện
hạt nhân cuối cùng. (Dân trí)
Và dù đứng hàng thứ 3 cường quốc nguyên tử đầy kinh nghiệm nhưng ngày
07-10-2013 Sau 2 năm “vật lộn” với phóng xạ - Nhật Bản đành phải kêu gọi
thế giới trợ giúp xử lý rò rỉ phóng xạ ở Fukushima - Cơ quan Năng lượng
nguyên tử quốc tế (IAEA) thông báo, cơ quan này đang cử một nhóm thanh
sát viên tới thị sát. Nhật Bản quyết định chi 500 triệu USD cho công
việc làm sạch nhà máy Fukushima… (www.baomoi.com)
Liên quan sự kiện NMĐHN của Việt Nam chúng ta được biết:
Nga đã nhất trí cho Việt Nam vay 8 - 9 tỷ USD để xây dựng 2 nhà máy điện
hạt nhân đầu tiên của Việt Nam đặt tại Ninh Thuận - Thứ trưởng Bộ KH-CN
Lê Đình Tiến khẳng định, tại thời điểm này Việt Nam có 4 lý do để xây
dựng nhà máy điện hạt nhân gồm: 1) các nguồn năng lượng hóa thạch cũng
như thủy điện trong nước cũng như trên thế giới đang cạn kiệt; 2) nhu
cầu năng lượng của Việt Nam hiện tại và tương lai ở tình trạng thiếu; 3)
năng lượng hạt nhân hiện nay đã đảm bảo tính an toàn cao và hiệu quả
kinh tế cũng cao; 4) điện hạt nhân giảm được khí thải nhà kính. [2]
Tuy nhiên ngoài năng lượng “gió và mặt trời” có thể phản biện với 4 lý
do nêu trên của ông thứ trưởng, còn có 3 lý do rất quan trọng khác
“thiên tai, nhân tai và địch họa” cho NMĐHN Việt Nam thì không thấy ông
Thứ trưởng Bộ KH-CN Lê Đình Tiến đề cập đến – Ngoài thiên tai bão tố
sóng thần ngẫu nhiên “hứa hẹn” như nói trên còn một thứ “tai” khác cực
kỳ nguy hiểm mà không thể không đề cập do con người gây nên như tai nạn
nhà máy điện nguyên tử Chernobyl. Dù nước Nga đã cố tình che đậy thông
tin nhưng các chuyên gia nguyên tử đều xác định tai nạn thảm khốc
Chernoby là do con người vận hành bảo trì nhà máy sai sót gây nên. Về
vần đề này (Vận hành bảo trì lẫn kinh nghiệm nguyên tử) đối với
CHXHCN/VN là con số không tròn trịa! Nhưng còn cái “tai” thứ 3 khác nữa
nhưng do con người chủ tâm tạo ra mới to lớn kinh khủng khó lường hơn đó
là “địch họa”.
Thế giới và chúng ta ai cũng biết, Trung Quốc đang mưu đồ độc chiếm biển
Đông và toàn bộ các nhóm đảo trong đó, sự ngang ngược thô bạo lì lợm
như không dám có mặt tại tòa án quốc tế về luật biển mà Philippines
thách thức dù TQ là một trong 5 thành viên thường trực của hội đồng bảo
an LHQ.
Tư tưởng bành trướng liều lĩnh sống sượng tới mức, đầu năm nay ngày 26.
03. 2013, ngay tại một rạn san hô ở vùng cực nam Biển Đông mà Malaysia
tuyên bố chủ quyền. 4 chiến hạm TQ do chiếc tàu đổ bộ Tỉnh Cương Sơn
(Jinggangshan) dẫn đầu tham gia một cuộc đổ bộ tập trận đã được báo chí
Trung Quốc quảng bá rầm rộ. Nơi tập trận chính là khu vực bãi ngầm san
hô James Shoal này, chỉ cách Malaysia có 80 km, nhưng cách bờ biển Trung
Quốc đến 1. 800 km, và nằm gần sát điểm cực nam đường 9 đoạn gần với
quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà Trung Quốc vẽ ra để đòi chủ quyền.
Viện dẫn như thế để thấy rằng sau khi cướp đoạt được Hoàng Sa thì quần
đảo Trường Sa của Việt nam là khát vọng mưu toan tiếp theo của TQ để làm
tiền đồn khống chế toàn biển Đông, khi mà còn nghèo đói TQ còn ngang
nhiên “dạy” cho CSVN một bài học thì bây giờ “giàu có” hơn, dạy thêm một
“bài học” nữa cho VN để thâu tóm Trường Sa là chuyện rất cần và không
khó chút nào với TQ, có điều là khi nào hoặc bao giờ mà thôi.
Khi TQ và CSVN đụng độ trên biển Đông thì liệu những cơ sở quan trọng
nằm ven duyên hải của VN như 2 NMĐHN ở Ninh Thuận – Thật lòng mà nói –
Chắc không thua gì 2 cái bia cố định cho đủ loại tàu chiến, tàu ngầm TQ
từ biển Đông tác xạ như thực tập bằng các loại tên lửa, nhất là 2 loại
tên lửa phổ biến “TRI-60” và “C-602” mà TQ đang sản xuất hàng loạt như
“bánh mì” bán ra cho nhiều nước khắp thế giới
Tên lửa TRI-60, trọng lượng đầu đạn khoảng 150 ký sử dụng động cơ đẩy
tuabin phản lực tầm bắn hiệu quả đạt trên 120 km. Tính năng này đạt được
là nhờ lắp thêm động cơ tua bin siêu nhỏ TRI-60-2 Microturbo do Pháp
chế tạo, (sau này, động cơ TRI-60-2 đã được chế tạo tại Trung Quốc).
Tên lửa TRI-60 của TQ được phóng đi từ các tiểu đỉnh hạng nhẹ
Tên lửa xuất khẩu đại trà C- 602 dựa trên mẫu tên lửa SS-N-2 Styx của
Liên Xô. Tuy nhiên, C- 602 lắp động cơ tuabin phản lực lại là một thiết
kế hoàn toàn mới, rất hiện đại với tầm bắn tới 280 km, vận tốc bay
khoảng 0, 8 Mach. Đầu đạn nổ xuyên giáp thép nặng 300 kg sử dụng ngòi nổ
chậm điện tử... tên lửa này hiện nay được trang bị cho các tàu khu trục
lớp Lan Châu Type 052C và nhiều loại tàu khu trục hạng nhẹ cơ động của
hải quân Trung Quốc từ năm 2004. Khi triển khai trên biển, hệ thống tên
lửa sử dụng các bệ phóng từng cụm 4 tên lửa được bố trí thành từng cặp.
Tên lửa C- 602 của Trung Quốc
Với lực lượng không và hải quân áp đảo khi cần thiết TQ không khó lắm để
dội một trận mưa phi đạn lên 2 NMĐHN của Việt Nam và dù CSVN có đủ 6
tàu ngầm Kilo cũng chẳng thể nào che chắn được cho 2 “quả bom nguyên tử”
hẹn giờ đang đặt cách mép nước biển chỉ vài trăm mét.
Không như NMĐHN Fukushima I; bị sóng thần gây hại thất thoát phóng xạ,
chủ yếu qua đường thoát ra biển (giải nhiệt) – NMĐHN khi bị bom nổ sự
thất thoát phóng xạ kinh hoàng hơn gấp nhiều lần (như vụ nổ Chernobyl)
với bán kính hằng trăm km trên đất liền và nước biển, kèm cộng hưởng
theo gió mang đi – 2 nhà máy điên hạt nhân Ninh Thuận nằm ở duyên hải
bình nguyên tương đối hẹp miền trung, từ chân núi dãy Trường sơn ra đến
biển khoảng dưới 50km khi vụ nổ xảy ra đồng nghĩa với phóng xạ chia cắt
cô lập 2 miền Nam Bắc mà sự thiệt hại không thể tính hết bằng tiền.
Toàn cảnh khái quát u ám là như vậy, các chuyên gia nguyên tử quốc tế và
công luận trong, ngoài nước thi nhau cảnh báo – Nhưng không rõ vì sao
Quốc Hội vẫn bật đèn xanh cho nhà nước triển khai khi nền kinh tế lạm
phát triền miên, ngân sách thâm thủng thu không đủ bù chi mà lại đi vay
hàng chục tỷ USD để rước 2 quả “bom nguyên tử” về cài trên đất nước mình
chờ Trung Quốc khai hỏa?? Mà nghiệm suy từ quá khứ lẫn hiện tại: “Bắt thang lên hỏi ông trời – Chơi với Tàu Cộng lãi, lời ra sao?”
____________________________
Chú thích:
Xếp loại các chế độ chính trị
Alexandre Roger, Phan Thành Đạt
Giới thiệu chung
Chế
độ chính trị là một tổng thể bao gồm nhiều yếu tố: Các nguyên tắc về
luật pháp như Hiến pháp quy định đặc điểm của thể chế chính trị và các
nguyên tắc khác như hệ thống các đảng phái, các cá nhân nắm giữ quyền
lực, hệ tư tưởng... Chế độ chính trị thể hiện cách tổ chức các cơ quan
trong một Nhà nước nhất định. Mỗi chế độ chính trị đều có các quan điểm
khác nhau về chủ quyền, về mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, về các
nguyên tắc mà nhà lãnh đạo phải tuân theo. Chế độ chính trị quy định
nhiệm vụ của các cơ quan công quyền và định hướng các hoạt động kinh tế,
văn hóa, xã hội. Chế độ chính trị phản ánh các đặc điểm cơ bản của toàn
bộ hệ thống hành chính của mỗi nước.
Người Hy
Lạp trước Công nguyên đã tiến hành xếp loại các chế độ chính trị dựa
theo một số tiêu chuẩn về số lượng người tham gia vào các hoạt động
chính trị, xã hội ở các thành bang. Các nhà tư tưởng thời Trung cổ như
Machiavel, Jean Bodin đã đưa ra các tiêu chuẩn nhằm đánh giá chế độ quân
chủ và chế độ cộng hòa. Các nhà triết học thời kỳ ánh sáng đã tiến hành
phân loại các kiểu chế độ chính trị tồn tại trong suốt thời kì Trung cổ
đến giai đoạn Cách mạng Pháp 1789. Montesquieu là đại diện tiêu biểu
của thời kì ánh sáng, ông đã thành công trong việc phân loại các chế độ
khác nhau dựa trên các tiêu chuẩn mới, khác với Aristote.
Trên
thế giới hiện nay có gần 200 quốc gia độc lập, mỗi nước đều có chế độ
chính trị riêng. Sự đa dạng văn hóa, tôn giáo ảnh hưởng rất lớn đến việc
chọn lựa và xây dựng thể chế. Ví dụ các nước Ả Rập đều lấy đạo hồi là
quốc giáo, các nguyên tắc ghi trong Hiến pháp dựa theo giáo lí của kinh
Coran. Nhà luật học và chính trị học Bernard Chantebout cho rằng các giá
trị dân chủ của phương Tây khác với các nguyên tắc của đạo hồi. Cho nên
nếu đánh giá thể chế chính trị của các nước Trung Đông dựa theo các
tiêu chuẩn của phương Tây, các chuyên gia có thể kết luận rằng các nước
hồi giáo không có dân chủ, nhưng các nhà lãnh đạo ở các nước này lại
khẳng định các giá trị dân chủ dựa trên tôn giáo vẫn được đảm bảo. Chế
độ chính trị ở mỗi nước đều có các đặc điểm khác nhau và quan điểm về
dân chủ cũng khác nhau.
Nền dân chủ phương Tây
(Mỹ và Châu Âu) có ảnh hưởng lớn đối với các nước đang phát triển, và là
hình mẫu cho các nước này. Bảo vệ quyền con người, xây dựng Nhà nước
pháp quyền, xây dựng nền kinh tế thị trường... là các điều kiện cơ bản
của thể chế chính trị phương Tây. Những đặc điểm nổi bật của chế độ
chính trị sẽ chứng minh mỗi nước có dân chủ hay không, dựa trên các phân
tích, các nhà nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ tính ưu việt hay bất cập
của các thể chế.
Chế độ chính trị được phân loại theo 3 tiêu chí sau:
I. Phân loại chế độ chính trị theo quan điểm truyền thống.
II. Phân loại chế độ chính trị theo cách xây dựng các thiết chế.
III. Phân loại chế độ chính trị theo quan điểm xã hội học và triết học hiện đại.
I. Xếp loại chế độ chính trị theo quan điểm truyền thống
Các
nhà triết học thời Hy Lạp cổ đại và thời kỳ ánh sáng xếp loại các thể
chế chính trị tồn tại trong giai đoạn họ đã sống, họ có dịp quan sát và
đưa ra nhiều đánh giá thú vị về các mô hình nhà nước. Các nhà tư tưởng
lớn đã có nhiều công lao, góp phần vào việc hoàn thiện các thể chế chính
trị thời cổ đại (A), các công trình của họ có ảnh hưởng lớn đến triết
học thời kì ánh sáng, khi các nhà luật học và các nhà chính trị học bàn
về đặc điểm của các thể chế chính trị sau này (B), họ đối chiếu với các
nguyên tắc đã được xây dựng từ trước.
A. Chế độ chính trị theo quan điểm triết học Hy Lạp
Từ
Polybe đến Platon, các nhà tư tưởng thời Hy Lạp cổ đại đều có ý định
xếp loại các chế độ chính trị bằng cách quan sát cách thức tổ chức bộ
máy ở các thành bang. Họ phân loại thể chế chính trị theo số lượng người
nhiều hay ít, có quyền tham gia vào bộ máy điều hành Nhà nước hay
không. Họ đưa ra đánh giá một Nhà nước tốt đẹp hay tồi tệ dựa trên phẩm
chất của người có quyền lực và vai trò của họ trong việc ban hành các
chính sách quan trọng. Nếu quyền lực thực thi, đem lại lợi cho toàn bộ
cộng đồng, đó sẽ là Nhà nước tốt đẹp, nếu quyền lực chỉ để phục vụ lợi
ích cho một nhóm người, đó sẽ là nhà nước xấu xa. Aristote nghiên cứu
các bản Hiến pháp của 150 thành bang trong thế kỷ thứ IV trước Công
nguyên (mỗi thành bang thời Hy Lạp cổ là một Nhà nước riêng biệt). Ông
chia ra hai loại Hiến pháp cơ bản: Hiến pháp hư hỏng hay còn gọi là Hiến
pháp chệch đường, loại Hiến pháp này trao quyền hành và ban phát lợi
ích cho một nhóm người, thiết lập một thể chế chính trị tệ hại. Hiến
pháp đúng đắn bảo đảm các lợi ích chung cho toàn thể các nhóm người
trong xã hội, nhằm đem lại hạnh phúc cho con người. Loại Hiến pháp này
sẽ tạo điều kiện hình thành một chế độ chính trị tốt đẹp. Aristote xây
dựng ba kiểu chế độ chính trị:
-Chế độ quân chủ,
do nhà vua đứng đầu, người đứng đầu chịu trách nhiệm điều hành đất
nước, ban ra các điều luật buộc mọi người phải tuân theo, người đứng đầu
phải luôn hành động vì lợi ích chung của nhân dân. Khi vua không thực
hiện tốt bổn phận của mình, chế độ quân chủ sẽ chuyển thành chế độ bạo
chúa hay hôn quân.
-Chế độ quý tộc do một nhóm
người điều hành, họ là những người ưu tú được tuyển trọn trong các gia
đình có thế lực, họ điều hành đất nước bằng luật pháp nhằm duy trì trật
tự và bảo vệ quyền lợi cho chính họ và gia đình sau đó bảo vệ quyền lợi
của những nhóm người khác nhau. Chế độ này có thể chuyển hóa thành chế
độ đầu sỏ độc tài.
-Chế độ dân chủ, do nhiều
nhóm người lãnh đạo luân phiên nhau, thông qua hình thức lựa chọn bốc
thăm, và bầu cử các đại diện cao nhất nắm giữ các chức vụ chủ chốt. Công
dân vừa là người lãnh đạo vừa là người phải tuân theo các điều luật của
Nhà nước, tuy nhiên mỗi công dân trong đời đều có điều kiện làm lãnh
đạo 1 năm theo tính chất luân phiên. Chế độ dân chủ có thể chuyển hóa
thành chế độ dân đen lãnh đạo (la populace au pouvoir ou l’ochlocratie)
vì nhiều người thiếu hiểu biết vẫn có cơ hội điều hành đất nước, điều
này khiến Platon và Aristote luôn tỏ ra nghi ngờ về chế độ dân chủ thời
Hy Lạp cổ.
Các nhà tư tưởng thời kỳ Trung cổ và
dưới Chế độ cũ có nhiều công lao hoàn thiện việc xếp loại các thể chế
chính trị được các nhà triết học Hy Lạp xây dựng.
B. Chế độ chính trị theo quan điểm của Montesquieu
Nhà
luật học Jean Bodin và nhà triết học Thomas Hobbes xây dựng lí thuyết
mới để củng cố quyền lực cho chế độ quân chủ chuyên chế. Với mục đích đề
cao quyền lực của vua, giúp vua thoát khỏi cái bóng ảnh hưởng của giáo
hội La Mã, các nhà tư tưởng thời Trung cổ và thời Chế độ cũ (l’Ancien
Régime) định ra các nguyên tắc và các đặc điểm cho chế độ quân chủ: Vua
phải luôn hành động vì lợi ích chung để bảo vệ cuộc sống và nền hòa bình
của nhân dân cũng như duy trì các trật tự xã hội, do đó quyền hành của
vua cao hơn tất cả.
Ở thời kì ánh sáng, thế kỉ XVII, XVIII, Montesquieu trong tác phẩm Tinh thần luật, 1748,
xây dựng ba kiểu chế độ chính trị: Chế độ quân chủ, đứng đầu là nhà
vua, nhân vật này lãnh đạo đất nước bằng danh dự. Chế độ cộng hòa, do
một chính quyền đại diện gồm các cá nhân ưu tú được tín nhiệm qua hình
thức lựa chọn, chế độ này lãnh đạo đất nước dựa trên các tiêu chuẩn đạo
đức. Chế độ chuyên chế áp bức lãnh đạo đất nước bằng cách gieo rắc sợ
hãi để giữ ổn định. Chế độ quân chủ và chế độ cộng hòa đều có thể chuyển
thành chế độ độc tài áp bức. Nếu Aristote phân loại thể chế chính trị
theo số lượng người nắm giữ quyền lực, Montesquieu tiến thêm một bước xa
hơn, bằng cách phân tích các thể chế chính trị dựa trên các thuộc tính
vốn có của nó. Quan điểm của Montesquieu có ảnh hướng đến việc phân loại
các chế độ chính trị dân chủ và phi dân chủ trong giai đoạn hiện đại.
Ví dụ khi nhận định các chế độ theo hệ tư tưởng Đức quốc xã, theo chủ
nghĩa fasciste, staliniste hay maïste là các thể chế độc tài được cai
trị bằng dối trá và sợ hãi, phân tích của Montesquieu khá đúng, vì trong
các thể chế này, hệ tư tưởng và tình cảm sùng bái lãnh tụ được đặc biệt
chú trọng. Nếu sự dối trá bị phát hiện, sự sợ hãi sẽ thế chỗ, khiến con
người không dám phản kháng và buộc phải ngoan ngoãn tuân theo.
Chế
độ chính trị trong thời kỳ hiện đại rất đa dạng về cách thức tổ chức
quyền lực, các nhà nghiên cứu sắp xếp theo các tiêu chuẩn khác nhau, kết
quả là có nhiều quan điểm về các thể chế chính trị.
II. Xếp loại thể chế chính trị theo cách thức tổ chức quyền lực
Các
học giả người Pháp xếp loại chế độ chính trị bằng cách quan sát cách
thức tổ chức quyền lực của các cơ quan nhà nước, từ đó họ nhận biết chế
độ chính trị theo nguyên tắc quyền lực tập trung (A) hay chế độ chính
trị theo nguyên tắc tam quyền phân lập (B). Đây là phương pháp xếp loại
tổng quát, cần có các cách phân tích và xếp loại chi tiết hơn.
A. Chế độ chính trị theo nguyên tắc quyền lực thống nhất
Đa
số các quốc gia không chú ý phân chia quyền lực minh bạch, rõ ràng, đều
theo nguyên tắc thống nhất về quyền lực dưới hình thức dân chủ tập
trung, đây là nguyên nhân khiến cả hệ thống chính trị hoạt động thiếu
dân chủ. Các cơ quan lập pháp hành pháp và tư pháp không có tính độc lập
tương đối, quyền lực không tách biệt do một người hay một nhóm người
nắm giữ.
Các chế độ độc tài hay độc đoán còn
được gọi là các chế độ hội nghị có đặc điểm khá giống với chế độ bạo
chúa chuyên quyền và chế độ đầu sỏ theo định nghĩa của Aristote và
Montesquieu trước đây. Khi quyền lực tập trung không có cơ chế kiểm soát
hiệu quả, các nhà lãnh đạo có xu hướng lạm quyền, kết quả là quyền con
người và các giá trị dân chủ bị vi phạm nặng nề. Khi quan sát hệ thống
chính trị vẫn đang tồn tại ở một số nước, nếu nhiệm vụ giám sát các đạo
luật vi hiến không được tiến hành, hay nguyên tắc tam quyền phân lập
không được tôn trọng, khi chỉ có một đảng được phép điều hành đất nước
mà không có cạnh tranh chính trị, ở các quốc gia đó sẽ không có dân chủ,
cho dù quốc hiệu luôn đi kèm với từ dân chủ. Ví dụ khái niệm nền dân
chủ nhân dân để chỉ các nước Đông Âu và Liên bang Xô viết trước đây, hay
Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên hiện nay.
Chế
độ độc tài có một số đặc điểm sau: Các nhà lãnh đạo có quyền hành pháp
và lập pháp, tư pháp không có vị trí độc lập và phụ thuộc vào cơ quan
hành pháp. Những người có quyền ban ra các đạo luật và thi hành luật
theo kiểu độc đoán, tư pháp trở thành công cụ trong tay họ. Tập trung
quyền lực gây ra những hậu quả nghiêm trọng, xã hội dân sự tồn tại ở mức
độ hình thức, vì con người không có không gian riêng, Nhà nước can
thiệp vào mọi lĩnh vực. Nền chính trị với sự góp mặt của nhiều đảng phái
không tồn tại, chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo, tiếng nói đối lập bị
ngăn cản. Con người bị huy động và phải theo các chính sách của Nhà nước
được một nhóm người quyết định. Công dân không có quyền phản kháng.
Đảng duy nhất cầm quyền trở thành Nhà nước, có sự nhầm lẫn về khái niệm
đảng-Nhà nước. Các đặc điểm trên đều dễ nhận thấy trong các chế độ
fasciste, Đức quốc xã, hay chế độ chính trị theo hệ tư tưởng Mác-Lênin
và Mao.
Chế độ độc đoán là một giai đoạn chuyển
giao từ độc tài sang dân chủ, (không ngoại trừ khả năng thể chế này lại
trở lại độc tài như cũ). Tuy nhiên thể chế chính trị này có một số nét
khá giống với chế độ độc tài. Quyền lực cũng tập trung trong tay một
người hay một nhóm người, các nhà lãnh đạo có quyền quyết định tất cả
mọi việc lớn nhỏ của đất nước do cơ chế quyền lực tập trung, thiếu kiểm
soát. Có thể có đối lập chính trị, nhưng ảnh hưởng của phe đối lập bị
giới hạn. Các quyền tự do cá nhân bị hạn chế đến mức tối đa, một khi các
quyền này ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ. Quyền lực của tòa án bị
kiểm soát, các quan tòa không có quyền phê phán tính chính danh của chế
độ và vai trò của những người lãnh đạo. Cơ chế giám sát các đạo luật để
bảo vệ Hiến pháp không được áp dụng, các nguyên tắc đảm bảo sự tồn tại
của Nhà nước pháp quyền không được coi trọng. Tất cả những yếu tố này
trở nên vô ích và nguy hiểm đối với nhà lãnh đạo vì quyền lực của họ sẽ
bị hạn chế. Chế độ độc đoán còn có điểm tựa là chủ nghĩa dân tộc, tôn
giáo, quân đội và tinh thần sùng bái lãnh tụ. Ví dụ trường hợp của Thổ
Nhĩ Kì dưới thời Mustafa Kemal Atatürk, Tây Ban Nha dưới thời Franco, Bồ
Đào Nha thời Salazar và Chile của Augusto Pinochet...
Cho
dù là chế độ độc tài, độc đoán hay dân chủ, giới cầm quyền đều đưa ra
các khẩu hiệu rất hấp dẫn để tạo tính chính danh và lấy lòng nhân dân.
Các cơ quan công quyền và các công trình phúc lợi đều gắn nhãn mác "nhân
dân" Ví dụ các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây, được gọi là nền dân chủ
nhân dân, ở Bắc Triều Tiên có quảng trường nhân dân, thư viện nhân dân,
nhà hát nhân dân...Ở các nước tư bản khẩu hiệu được ghi trong Hiến pháp
là Nhà nước của dân do dân và vì dân hay chủ quyền thuộc về nhân dân
(ví dụ điều 2, Hiến pháp Pháp năm 1958, điều 1, Hiến pháp Ý năm 1947,
điều 1, Hiến pháp Tây Ban Nha, năm 1978), nhưng thực tế không phải chính
sách nào cũng vì lợi ích của toàn bộ nhân dân mà trước hết vì lợi ích
của các tập đoàn kinh tế lớn, vì quyền lợi của các nhóm người có ảnh
hưởng trong xã hội tư bản. Tuy vậy quyền con người và các nguyên tắc duy
trì nền dân chủ vẫn được đảm bảo ở các quốc gia phương Tây một khi
nguyên tắc tam quyền phân lập được tuân thủ.
B. Các chế độ chính trị theo nguyên tắc tam quyền phân lập
Thể
chế chính trị của Châu Âu và Mỹ dựa trên nguyên tắc tam quyền phân lập.
Cân bằng và phân bổ quyền lực hợp lí giữa các cơ quan luôn được đảm
bảo, cơ chế "check and balance" là đặc điểm nổi bật trong thể chế dân
chủ. Theo nguyên tắc tam quyền phân lập triệt để, hay tam quyên phân lập
tương đối không có nghĩa là không có sự hợp tác nào giữa các cơ quan
hành pháp, lập pháp và tư pháp. Hiện nay có ba kiểu chế độ chính trị
cùng tồn tại ở hai bờ Đại Tây Dương, bao gồm chế độ tổng thống, chế độ
nghị viện và chế độ hỗn hợp. Các nước đang phát triển trên thế giới lựa
chọn mô hình chính trị của phương Tây, nhưng do các điều kiện kinh tế
chính trị và xã hội chưa đáp ứng được, nên thể chế chính trị tại các
nước này đều có ít nhiều biến thái.
Chế độ tổng
thống ở Mỹ có một số nét tiêu biểu, khác với chế độ chính trị của Châu
Âu. Tổng thống không có quyền giải tán Hạ viện. Nghị viện (gồm Thượng
viện và Hạ viện) không có quyền bãi chức Tổng thống trừ trường hợp phạm
tội phản bội đất nước, tham nhũng hay phạm các trọng tội về hình sự
(điều 2, khoản 4, Hiến pháp Mỹ, năm 1787). Chính phủ đứng đầu là Tổng
thống và Phó Tổng thống không chịu trách nhiệm trước Nghị viện vì nước
Mỹ theo nguyên tắc tam quyền phân lập triệt để. Nếu không có các biện
pháp đối trọng gây sức ép như trong chế độ nghị viện, Hiến pháp Mỹ ghi
nhận một số ảnh hưởng giữa các cơ quan hành pháp và lập pháp. Tổng thống
có quyền phủ quyết các dự luật, trong khi Nghị viện có thể từ chối
không thông qua luật ngân sách và phủ quyết các hiệp ước quốc tế mà Tổng
thống mong muốn kí kết.
Trong chế độ nghị viện,
chính phủ được đảng phái chiếm đa số tại Nghị viện bầu ra và ủng hộ các
chính sách của cơ quan này. Các phương tiện gây sức ép giữa cơ quan
hành pháp và lập pháp luôn tồn tại và phải ở vị thế cân bằng, nếu không
chế độ sẽ mất ổn định. Nghị viện (thường là Quốc hội hay Hạ viện) có
quyền lật đổ chính phủ, một chính phủ mới sẽ được thành lập để đáp ứng
tốt hơn các đòi hỏi từ phía cơ quan lập pháp. Tổng thống hay vua có thể
giải tán Quốc hội, để nhân dân bầu lại một Quốc hội mới có đa số ủng hộ
chính phủ. Quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm và quyền giải tán Nghị viện là
hai thứ vũ khí lợi hại, tạo sức ép lớn lên hai cơ quan hành pháp và lập
pháp, buộc hai cơ quan này phải làm tốt nhiệm vụ của mình, nếu không sẽ
bị thay thế. Anh, Đức, Tây Ban Nha và các nước Bắc Âu là những nền dân
chủ tiêu biểu theo chế độ nghị viện.
Chế độ hỗn
hợp là thể chế chính trị có đặc điểm của chế độ tổng thống và chế độ
nghị viện. Các phương tiện gây sức ép giữa Quốc hội và chính phủ chỉ tồn
tại trên hình thức. Cơ quan hành pháp được đa số tại Nghị viện ủng hộ.
Tổng thống được nhân dân bầu trực tiếp và có vị thế ngang bằng với Quốc
hội, điều này khác biệt với chế độ nghị viện truyền thống. Ví dụ tiêu
biểu về thế chế chính trị đặc biệt này là mô hình chính trị của nước
Pháp (về mô hình thể chế chính trị ở Pháp, hiện nay có nhiều ý kiến khác
nhau, một số nhà luật học cho rằng, nước Pháp đang theo mô hình chế độ
tổng thống, các nhà chính trị theo quan điểm của Maurice Duverger, xếp
mô hình chính trị của Pháp theo chế độ nửa tổng thống nửa nghị viện, hay
còn gọi là chế độ hỗn hợp, trong bài viết này, chúng tôi tạm xếp nước
Pháp theo chế độ hỗn hợp, giống với quan điểm của Maurice Duverger, tuy
nhiên cũng còn nhiều điểm phải bàn lại về cách gọi này).
Thể chế chính trị phương Tây, theo nhà luật học Jean-Louis Quermonne, có 5 đặc điểm cơ bản:
-Chế
độ bầu cử tự do, các đảng phái được phép thành lập trên tinh thần tôn
trọng luật pháp và bảo vệ các giá trị dân chủ, các đảng phải lựa chọn
ứng cử viên ra tranh cử. Các chiến dịch vận động tranh cử và chương
trình hành động của các đảng được các phương tiện thông tin đăng tải,
người dân có điều kiện tìm hiểu và xem xét lựa chọn ứng viên phù hợp với
mình.
-Tồn tại đa số nghị sĩ của một đảng hoặc
một liên minh giữa các đảng cùng chia sẻ quan điểm chính trị, với mục
đích ủng hộ các chính sách của chính phủ.
-Phe đối lập có quyền phê bình và quyền tranh cử, nếu nhân dân lựa chọn, phe đối lập sẽ có quyền lãnh đạo.
-Chủ
nghĩa hiến pháp được thực thi, các đảng phái buộc phải có thỏa hiệp và
đi đến đồng thuận về một số vấn đề quan trọng, các đạo luật được tòa án
hiến pháp giám sát chặt chẽ để bảo vệ các giá trị của Hiến pháp. Cơ quan
tư pháp giữ vai trò độc lập.
-Bảo vệ các quyền
cơ quản của công dân, chú trọng nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Nhà nước và công dân đều bình đẳng trước pháp luật, các cơ quan công
quyền phải tuân theo luật pháp.
Arendt Lijphart,
nhà chính trị học người Hà Lan xếp loại thể chế chính trị phương Tây
theo chế độ theo đa số và chế độ theo nguyên tắc ưng thuận. Tác giả chọn
nước Anh theo nền chính trị theo đa số và Bỉ theo nền chính trị theo
nguyên tắc ưng thuận. Cách xếp loại mô hình chính trị của Arendt
Lijphart khá độc đáo nhưng không phải là cách xếp loại được các nhà
nghiên cứu chú ý.
Cách xác định các thể chế
chính trị theo quan điểm triết học, xã hội học hiện đại được nhiều học
giả uyên bác của Mỹ và Tây Âu tiến hành, phương pháp này giúp con người
hiểu rõ hơn về bản chất của các thể chế chính trị dân chủ và phi dân
chủ.
III. Chế độ chính trị được xếp loại theo quan điểm xã hội học và triết học
A. Hannah Arendt và Raymond Arond, hai đại diện tiêu biểu sau chiến tranh.
Raymond
Aron là một trong những nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp cho ngành xã
hội học trong thế kỷ XX, ông cũng để lại dấu ấn trong lĩnh vực khoa học
chính trị. Nhà xã hội học ưu tú này là người giới thiệu các tác phẩm của
Max Weber và góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Max Weber về chính trị
và xã hội. Trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, Raymond Aron sang Anh,
tham gia kháng chiến với tướng De Gaulle. Trong tác phẩm Dân chủ và Độc tài, Démocratie et Totalitarisme, xuất
bản năm 1965, ông chia ra làm hai loại thể chế chính trị, điểm khác
biệt giữa hai kiểu chế độ này là việc tổ chức các đảng phái chính trị
theo cách riêng:
Chế độ đa đảng thể hiện hệ
thống chính trị có nhiều đảng phái cạnh tranh, đây là biểu hiện của dân
chủ. Nhà nước chấp nhận sự có mặt của nhiều đảng với điều kiện, các đảng
phải tôn trọng Hiến pháp và hoạt động tuân theo các đạo luật hiện hành.
Phe đối lập được tôn trọng và có quyền tự do hoạt động, có quyền tranh
cử để thay thế đảng đa số cầm quyền, theo nguyên tắc luân phiên. Chế độ
chính trị phương Tây hoạt động theo quy định của Hiến pháp. Cạnh tranh
chính trị lành mạnh để giành được quyền lãnh đạo tạm thời, quyền này sẽ
bị tước đoạt nếu đảng lãnh đạo không đủ năng lực, sẽ không được tín
nhiệm. Raymond Aron cho rằng cạnh tranh cũng như căng thẳng chính trị ở
thể chế chính trị phương Tây khá khắc nghiệt. Tác giả đặt câu hỏi làm
thế nào để đảm bảo đồng thời lợi ích của đa số chiến thắng trong cuộc
bầu cử và của thiếu số thất bại? Một số thiếu sót của mô hình chính trị
dân chủ vẫn tồn tại như áp dụng không hợp lí vấn đề bầu cử hợp pháp và
đúng luật (như một số vẫn không được tham gia bầu cử, hay trong quá
trình bầu cử một số cử tri vẫn bị lợi dụng), việc không áp dụng nguyên
tắc cạnh tranh lành mạnh giữa các đảng phái và giữa các nhóm nghị sĩ tại
Nghị viện, tính không đại diện của các đảng phái. Đây vẫn là những
khuyết điểm của chế độ dân chủ.
Trái với chế độ
đa đảng là chế độ một đảng, thể chế này có thiên hướng cách mạng. Nhà
nước được trang bị một hệ tư tưởng, (trong Nhà nước dân chủ, nhiều ý
kiến, tư tưởng được lắng nghe và được nghiên cứu, điều này phản ánh sự
đa dạng của các nhóm người trong xã hội, nên sẽ không có hệ tư tưởng
chung, vì tư tưởng của nhóm này lại không phản án quan điểm và suy nghĩ
của nhóm khác). Hệ tư tưởng trở thành nền tảng và động lực của đảng cầm
quyền trong chế độ một đảng. Đối lập chính trị không được phép hoạt
động. Nguyên tắc bình đẳng, hợp pháp về cạnh tranh chính trị không được
tôn trọng. Raymond Aron lập một bảng đánh giá về mức độ của chế độ độc
tài: Bản chất về học thuyết của đảng cầm quyền, sức mạnh và khả năng
thuyết phục thông qua các chủ trương và chính sách, phương tiện được sử
dụng để đạt đến mục đích cuối cùng, lí tưởng kiến thiết xã hội, mức độ
bao quát của hệ tư tưởng đối với xã hội, mức độ thống nhất giữa ranh
giới Nhà nước và xã hội.
Hannah Arendt
(1906-1975), nhà triết học người Đức gốc Do Thái, chứng kiến sự lớn mạnh
của chế độ Đức quốc xã, bà chạy chốn sang Pháp sau đó sang định cư tại
Mỹ. Hannah Arendt xây dựng lí thuyết về chế độ độc tài theo quan sát của
một nhà triết học. Bà nhận xét chế độ độc tài luôn gắn với nỗi sợ hãi,
trong chế độ này không còn khái niệm nhân đạo, xã hội con người bị thế
chỗ bởi đám đông quần chúng, không có tình cảm, không có kí ức và không
có ý thức phân tích đúng sai.
Trong tác phẩm Nguồn gốc của chế độ độc tài, Les origines du totalitarisme, 1951,
Hannah Arendt phê phán mối liên hệ chính trị giữa nhà lãnh đạo và công
dân, bà cho rằng cần phải xem xét lại chính sách dựa trên tự do và tranh
luận, cần phải bàn về "không gian riêng tư" và "không gian công cộng"
giữa sức sản xuất của nền kinh tế và điều hành chính trị, cần tách biệt
với sự quản lí đơn giản. Vượt xa hơn cả một chế độ chính trị thông
thường, chế độ độc tài là một hệ thống, là tổng thể các yếu tố có liên
hệ mật thiết với nhau: Đồng thời là một tổ chức xã hội có một quan niệm
về vai trò của Nhà nước, có quan điểm về nhìn nhận thế giới. Toàn bộ các
mục tiêu của thể chế này cần được áp dụng và kiểm nghiệm qua thực tế,
chế độ độc tài được kết hợp với những yếu tố thần thoại và các yếu tố
siêu hình. Hannah Arendt nhận định chế độ độc tài hướng đến sự thống trị
toàn bộ, thống trị con người về sức lực, tư tưởng và hướng đến nhiệm vụ
chinh phục thế giới. Chế độ độc tài dẫn đến chiến tranh hoặc hướng đến
một cuộc cách mạng được chuẩn bị theo một chương trình quy mô trên phạm
vi toàn thế giới.
Chế độ độc tài khinh bỉ các
đạo luật được ban hành, nhưng luôn tự coi mình hợp pháp hơn cả luật
pháp. Tư tưởng của Hitler hướng đến việc thực hiện các đạo luật tự nhiên
(cạnh tranh sinh tồn, kẻ mạnh chiến thắng kẻ yếu), tư tưởng của Staline
nhằm thực hiện quy luật của lịch sử theo chủ nghĩa Marx. Hannah Arendt
sử dụng phương pháp phân tích của Max Weber để xây dựng lí thuyết. Bà
quan sát thể chế chính trị thời Đức quốc xã và Liên bang Xô viết dưới
thời Staline. Một số tác giả phê phán cách xếp loại thể chế chính trị
theo quan điểm triết học này, vì nó không đủ độ sâu và thiếu bằng chứng
thuyết phục.
Bên cạch hai tác giả lớn, cần phải
kể đến Claude Lefort (1924-2010), ông là nhà triết học chịu ảnh hưởng tư
tưởng của Karl Marx, ông phân tích thể chế chính trị theo cách thức tổ
chức các cơ quan trong xã hội. Claude Lefort dựa theo quan sát của Ernst
Kantorowicz về hai hệ thống trong Nhà nước quân chủ, hệ thống của nhà
vua và hệ thống của nhân dân. Trong hệ thống của nhân dân thường có các
yếu tố xung đột, tạo sự chia rẽ, thể chế độc tài chấp nhận điều đó và
quản lí xã hội bằng các biện pháp mạnh. Nhưng chế độ độc tài sẽ không
thành công để loại bỏ tính đối lập vốn có, vì trong quá trình vận động
và phát triển của thể chế, sẽ luôn xuất hiện sự xung khắc và tồn tại các
quan điểm đối lập. Hơn nữa, để tổ chức xã hội hoàn thiện, chế độ độc
tài buộc phải kiến thiết và tổ chức xã hội tốt hơn bằng cách học theo
các nguyên tắc có sẵn trong các thể chế dân chủ, điều này càng làm cho
xã hội thêm phân chia sâu sắc. Các mối xung đột luôn thường trực trong
thể chế dân chủ vì thể chế này công nhận lợi ích hợp pháp của các nhóm
người khác nhau, và chấp thuận sự tồn tại các quan điểm trái ngược.
B. Xếp loại thể chế chính trị theo quan điểm của Juan José Linz
Juan
José Linz (1926-2013) là nhà chính trị học người Tây Ban Nha, ông là
giáo sư đại học ở Mỹ, ông bảo vệ luận án tiến sĩ, dưới sự chỉ dẫn của
Seymour Martin Lipset. Juan José Linz gần gũi với những đại diện tiêu
biểu của học thuyết chức năng của Mỹ như Paul Lazasfeld, Robert K.
Merton.
Juan José Linz xa rời phương pháp xếp
loại truyền thống các thể chế chính trị dân chủ/ độc tài. Ông xây dựng
lí thuyết mới và xếp loại 3 kiểu chế độ chính trị. Trong cuốn sách chế độ độc tài và chế độ độ đoán, Totalitarian and Autoritarian regime,
xuất bản năm 2000, ông đưa ra nhận xét, quan điểm về thể chế độc tài và
thể chế dân chủ đa đảng trước đây chưa phản ánh hết thực tế các thể chế
chính trị đã và đang tồn tại trên thế giới, cần có những đánh giá năng
động về các chế độ chính trị vì có mô hình ra đời, sau đó biến mất hoặc
thay đổi sang một hình thức khác. Ông phủ nhận phương pháp xác định các
thể chế chính trị dựa trên vai trò của các cơ quan công quyền và dựa
trên mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực hay cấu trúc của các đảng
phái. Điều này chỉ đem lại những quan sát mang tính hình thức về các
kiểu chế độ chính trị, chứ không phản ánh đúng bản chất của chúng.
Ông
nêu ra ba loại thể chế chính trị khác nhau: chế độ độc tài, chế độ độc
đoán, chế độ dân chủ đa đảng. Ông nhấn mạnh thuyết phát triển (le
développementalisme) của Samuel Huntington không đủ sức thuyết phục khi
giải thích điều kiện tồn tại các chế độ chính trị theo lí thuyết này.
(Phát triển kinh tế đi kèm với quá trình xây dựng và củng cố nền dân
chủ, kinh tế sẽ thúc đẩy dân chủ). Juan José Linz nhận xét các nước
không có dân chủ vẫn đảm bảo tăng trưởng kinh tế liên tục, kinh tế phát
triển nhưng chưa chắc đã có dân chủ. Khi quan sát những chuyển đổi của
các chế độ chính trị vào cuối thế kỷ XX, Juan José Linz đã xây dựng lại
quan điểm của mình về các kiểu thế chế chính trị. Ông phân loại làm 5
kiểu thể chế khác nhau: Chế độ độc tài, chế độ độc đoán, chế độ dân chủ
đa đảng, chế độ quân vương và chế độ hậu độc tài, (trong hình thức chính
thể cuối cùng này, ông lại xếp thành 5 kiểu thể chế chính trị khác
nhau). Những phân tích của tác giả được đánh giá là rất công phu và đầy
đủ nhất đến thời điểm hiện tại.
A.R., P.T.Đ.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN
Tài liệu tham khảo
1. Dictionnaire de la culture juridique, sous la direction de Denis Alland et Stéphane Rials, QUADRIAGE/LAMY-PUF, 2007.
2. Les régimes politiques occidentaux, Jean-Louis Quermonne cinquième édition, Éditions du Seuil.
3. Régimes totalitaires et autoritaires, Juan José Linz Paris, Armand Colin, 2006.
Les grandes classifications des régimes politiques
INTRODUCTION
Le
régime politique résulte de la combinaison de multiples éléments, les
uns juridiques (cadre constitutionnel, qui forme le régime au sens
étroit de l’expression) et les autres extra-juridiques (système de
partis, personnalisation du pouvoir, idéologie, etc…). Le régime
politique représente un mode d’organisation des institutions politiques
dans l’État, il s’agit d’une certaine conception concernant la
souveraineté et les principes dont doit s’inspirer le gouvernement ou
les distinctions et relations entre gouvernants et gouvernés et entre
les divers pouvoirs politiques. Le régime politique reste une composante
du système politique qui englobe l’organisation des organes politiques
et la vie sociale, économique et culturelle. Pourtant le régime
politique reflète bien les caractères du système politique car il guide
les fonctions de l’État et il détermine les relations entre l’État et
ses citoyens.
D’abord, la classification des
régimes politiques a été réalisée dès l’Antiquité par les Grecs.
Ensuite, les auteurs comme Machiavel et Jean Bodin ont contribué à
éclairer les caractéristiques des régimes monarchiques et républicains.
Il a fallu attendre jusqu’au temps de l’Ancien Régime pour que la
classification des régimes politiques soient bien analysés par les
philosophes des Lumières dont Montesquieu est le principal représentant.
Étudier les régimes politiques d’hier et d’aujourd’hui, c’est
comprendre leurs caractéristiques; à partir de ces études l’homme
pourrait juger si il s’agit d’un régime démocratique ou
antidémocratique.
Il existe aujourd’hui dans le
monde près de 200 États dont les régimes politiques sont très variés en
fonction de la diversité culturelle et religieuse qui implique un mode
de régime politique distinct. En observant par exemple le régime
politique de certains pays arabes à dominante théologique, les juristes
et politologues considèrent que ces pays ne sont pas démocratiques (par
exemple Bernard Chantebout, politologue et juriste considère que Islam
et Démocratie occidentale sont incompatibles) pourtant les gouvernants
de ces pays se considèrent comme tels. Donc, la culture politique et
juridique quand elle est influencée par la religion a un impact profond
sur l’esprit de l’homme. L’observation sur la démocratie est ainsi
différente et propre à chaque pays.
Les
démocraties occidentales exercent une influence importante sur le choix
d’un tel mode de régime politique à l’égard des peuples du Tiers-monde
car la Démocratie, la construction de l’État de droit et le respect des
droits humains constitue les traits essentiels des régimes politiques
occidentaux. Toutes ces qualités séduisent les pays en voie de
développement.
Les caractéristiques des régimes
politiques représentent leurs valeurs démocratiques ou
non-démocratiques. Quelles analyses ont contribué à classifier les
différents régimes politiques?
Les régimes politiques se sont définis selon les trois classifications distinctes suivantes:
Une
approche classique (I), une approche institutionnelle(II), et enfin une
analyse tenant de la sociologie et philosophie politique(III).
I. La classification traditionnelle des régimes politiques
Les
philosophes de l’antiquité grecque et des lumières ont réussi à classer
des régimes politiques à leurs époques. La classification des penseurs
grecs (A) constitue une référence aux définitions des régimes politiques
postérieures(B).
A-Les régimes politiques définis par les philosophes grecs
De
Polybe à Platon, les penseurs politiques et philosophiques tentent de
classer les régimes politiques des cités grecques en fonction du nombre
de détenteurs du pouvoir. Ils pensent que les bonnes ou les mauvaises
formes de gouvernement suivant que le pouvoir s’exerce au profit de
l’ensemble de la communauté ou simplement de ses gouvernants. Aristote a
étudié les constitutions de 150 cités grecques et divisé en deux sortes
de constitutions s’agissant de la constitution corrompue ou déviante ou
de la constitution juste. La constitution corrompue attribue des
privilèges et intérêts à un certain nombre de personnes; elle va établir
un mauvais régime politique. La constitution juste quant à elle défini
les intérêts communs à tous, son but d’accorder le bonheur au peuple.
Aristote reconnaît l’existence de trois formes de gouvernements: la
monarchie, l’aristocratie et la démocratie. La monarchie est dirigée par
une seule personne qui doit respecter les lois de la cité et agir au
nom de l’intérêt du peuple. L’aristocratie est gouvernée par un groupe
de personnes qui protègent tout d’abord leurs propres intérêts et
ensuite seulement ceux des autres. Enfin, la démocratie est le
gouvernement de la majorité des personnes qui garantit le profit commun
de la cité. La déviation de ces trois formes de gouvernements est
respectivement la tyrannie, l’oligarchie et l’ochlocratie (la populace
au pouvoir).
Les penseurs politiques du Moyen Age et de l’Ancien Régime ont perfectionné l’analyse des régimes politiques des penseurs grecs.
B-Les régimes politiques selon Montesquieu
Les
grands penseurs philosophique et juridique comme Jean Bodin, Thomas
Hobbes ont construit les théories de la monarchie absolue et de la
République dans le but de diminuer la mainmise de l’Église sur l’État.
Montesquieu quant à lui définit trois formes de régimes politiques qui
se réfèrent à des valeurs différentes. Selon lui, la monarchie possède à
sa tête un roi qui gouverne par l’honneur. La République est dirigée
par un gouvernement représentatif qui se base sur la morale et se
compose de représentants élus. La troisième forme de gouvernement est le
despotisme qui dirige le pays par la crainte. Les deux premières formes
de régimes peuvent dégénérer en despotisme. Si Aristote implique le
nombre des personnes qui dirigent la Cité comme critère de
classification, Montesquieu préfère accorder les propres attributs
étroitement liés au régime. Les réflexions de Montesquieu sur les
modèles politiques exercent encore une influence sur l’analyse des
régimes totalitaires et autoritaires qui dirigent par le mensonge et la
peur.
Les régimes politiques modernes sont
divers; les experts essaient de les classifier à leur guise. Il en
résulte une grande diversité de classement.
II. La classification institutionnelle des régimes politiques
Les
auteurs français analysent les régimes politiques en observant
l’organisation des institutions de l’État. A partir de cette vision, on
connaît les régimes politiques qui respectent le principe de la
séparation des pouvoirs(B) ou les régimes qui se dotent de la confusion
des pouvoirs(A). Grâce à cette distinction globale, on peut avoir des
classifications encore plus détaillées.
A-Les régimes politiques caractérisés par la confusion des pouvoirs
La
plupart des régimes politiques dont les trois pouvoirs fondamentaux de
l’État ne sont pas séparés donc ne se définissent donc pas comme régimes
démocratiques et vice-versa. Il s’agit ici des régimes autoritaires et
totalitaires. En droit, on les appelle les régimes d’assemblées. Ce mode
de régime dont les institutions politiques n’ont pas une position
indépendante relative. Les pouvoirs s’enchevêtrent et se concentrent
dans les mains d’une seule personne ou dans les mains d’un groupe de
personnes. Cette forme de régime politique moderne dispose des traits
semblables aux régimes politiques qualifiés par Aristote et Montesquieu
s’agissant de la tyrannie et de l’oligarchie.
De
plus, les pouvoirs concentrés, qui ne font pas l’objet d’un contrôle
efficace ont tendance à être abusés par leurs détenteurs. Dans ce cas,
il en résulte que les droits de l’Homme, les principes de la démocratie
sont lourdement violés.
Au cours du XX ème
siècle, les systèmes politiques où le contrôle de constitutionnalité des
lois et la séparation des pouvoirs ne sont pas garantis sont en général
des régimes antidémocratiques, bien que l’on peut l’appeler sous un nom
différent: démocratie populaire (comparaison avec la démocratie
représentative de l’Occident).
Premièrement, le régime totalitaire dispose certaines caractéristiques:
-La
confusion totale des pouvoirs, les dirigeants détiennent à la fois les
pouvoirs exécutif et législatif, l’indépendance de la justice est remise
en cause. Par conséquent, les gouvernants font des lois et les
exécutent de manière arbitraire. La justice devient un outil utilisé
selon leur volonté. La concentration des pouvoirs provoque de graves
conséquences; la société civile est contrôlée, les droits de l’Homme
sont violés, l’Homme n’a plus d’espace personnel car l’État est
omniprésent. Le pluralisme politique n’existe pas, le parti unique au
pouvoir interdit l’opposition. L’homme est mobilisé et vit au rythme
voulu par l’État: Le parti unique devient le parti-État. On trouve bel
et bien ces facteurs constitutifs du régime totalitaire dans les régimes
fasciste, nazi et marxiste-léniniste et également maoïste.
Deuxièmement,
concernant le régime autoritaire, on peut affirmer que ce mode de
régime politique est une transition du totalitarisme vers une
démocratie. Malgré tout, le régime autoritaire a certaines
caractéristiques semblables au régime totalitaire: les pouvoirs se
concentrent dans les mains d’une personne ou d’un groupe de personnes
qui décide de tout car la confusion des pouvoirs est très nette, l’abus
des pouvoirs est permanent lorsque les compétences des gouvernants ne
sont pas encadrées. Il existe en réalité une opposition politique très
faible mais son influence ne peut pas dépasser les limites fixées. Les
libertés individuelles se restreignent si elles menacent l’existence du
régime. L’indépendance de la justice est remise en cause mais les juges
disposent de certains pouvoirs à condition que ceux-ci ne menacent pas
la légitimité du régime et les pouvoirs des gouvernants.
Le
contrôle de constitutionnalité et les principes de l’État de droit
n’existent pas vraiment car tous ces mécanismes deviennent inutiles et
dangereux au détriment des droits des gouvernants, le régime autoritaire
se réfère au nationalisme patriotique, à l’Église, à la domination
charismatique du leader (c’est le cas de l’Espagne de Franco, du
Portugal de Salazar, de la Grèce sous le temps des colonels ou du Chili
d’Augusto Pinochet mais aussi du cas des régimes militaires africains
après la période post-coloniale).
Cependant, le
régime totalitaire ou autoritaire se cache souvent sous un mot d’ordre
accueillant, par exemple "la démocratie populaire" ou "l’État du peuple
pour le peuple et par le peuple".
En ce qui
concerne l’URSS et les PECO avant 1991, tous les droits fondamentaux
comme liberté d’expression, d’association ou droit de vote, liberté
d’aller et venir sont restreints voire interdits.
En
revanche, les droits de l’Homme et les principes de la démocratie sont
respectés dans les régimes démocratiques occidentaux grâce à la garantie
du principe de séparation des pouvoirs.
B-Les régimes politiques caractérisés par la séparation des pouvoirs
Les
régimes politiques européens et américains se basent sur le principe de
la séparation des pouvoirs, selon lequel l’équilibre et l’attribution
des pouvoirs aux organes différents doivent être garantie; c’est le
mécanisme "check and balance". Bien que la séparation des pouvoirs
peut-être souple ou rigide, il existe toujours une coopération entre les
institutions politiques qui doivent respecter certaines limites de
leurs compétences. Les régimes politiques occidentaux se représentent
par trois modes de gouvernement distincts; régimes parlementaire,
présidentiel et mixte qui sont les modèles typiques des deux rives de
l’Atlantique. Ce modèle est repris par plusieurs pays du monde mais
leurs responsables n’arrivent pas à établir le modèle à l’identique,
faute de bonnes conditions politiques, économiques et sociales.
En
premier lieu, le régime présidentiel américain qui se manifeste par
certains caractères: le président ne peut dissoudre la Chambre des
Représentants et le Congrès ne peut destituer le président sauf
circonstances exceptionnelles reconnues par la constitution de 1787. Le
gouvernement n’a pas de responsabilité devant le Congrès car le principe
de séparation des pouvoirs que professo rait Montesquieu est
strictement suivi. S’il n’existe pas de moyens d’action réciproques, il y
a quand même certaines pressions mutuelles car le président dispose du
droit de veto à l’égard du projet de loi tandis que les droits
d’adoption budgétaire et les droits de ratification des traités et
accords internationaux relèvent exclusivement de la compétence du
Congrès.
En second lieu, s’agissant du régime
parlementaire dans lequel, le gouvernement est élu et soutenu par la
majorité parlementaire, il existe toujours les moyens d’actions
réciproques d’une part, l’Assemblée nationale peut renverser le
gouvernement et d’autre part le président ou le roi peut dissoudre
l’Assemblée nationale. C’est le cas de la Grande-Bretagne et de
l’Allemagne.
En troisième lieu, concernant le
régime mixte, il s’agit de l’exemple de la France qui dispose des traits
du régime parlementaire et présidentiel, il existe toujours les moyens
d’actions mais la dissolution et la motion de censure deviennent à
l’heure actuelle caduque par la présence d’une majorité parlementaire
solide qui soutient sans faille le président et son gouvernement. Le
président est élu au suffrage universel direct comme les députés. Il est
sur le même pied d’égalité par rapport aux représentants de la chambre
basse.
Les régimes parlementaire, présidentiel ou mixte ont des points en commun qui font preuve de régimes démocratiques:
-la
garantie des droits de l’Homme, le pluralisme politique, le respect de
l’opposition sont protégés par les dirigeants au pouvoir. D’ailleurs,
l’élection concurrentielle, le libre choix des candidats politiques,
l’indépendance de la justice constitue des principes indispensables. La
classification des régimes occidentaux a été effectué par le publiciste
anglais Walter Bagehot dès 1867 dans son livre "Parliamentary
government" il a qualifié de "présidentiel" le gouvernement de
l’Amérique et "gouvernement de cabinet" la Grande-Bretagne.
Wilson
perçoit que le gouvernement parlementaire de la Grande-Bretagne et le
système de gouvernement des États-Unis ne sont pas si distincts, car le
gouvernement présidentiel américain est qualifié selon lui de
gouvernement congressionnel.
Arendt Lijphart,
pour sa part, distingue les régimes occidentaux en les qualifiant de
modèle majoritaire et modèle de consensus ou consociationnel. Il donne
l’exemple de la Grande-Bretagne comme le modèle majoritaire et de la
Belgique comme le modèle de consensus. Sa classification est pertinente
et originale mais reste marginale, d’ailleurs elle ne reçoit pas le
partage de tous les experts.
Les
classifications des régimes politiques selon l’approche sociale
philosophique par les auteurs modernes démontrent également des
observations intéressantes.
III-Sociologie politique, philosophie politique et empirisme dans les classifications politiques
A-Deux figures principales de l’après-guerre: Raymond Aron et Hannah Arendt
Raymond
Aron est un des principaux contributeurs du XXème siècle de la
sociologie mais également dans le domaine des sciences politiques.
Traducteur des œuvres de Weber, contemporain & acteur de la seconde
guerre mondiale (il s’exilera notamment à Londres aux côtés du Général
De Gaulle), il va nourrir la classification politique d’un point de vue
sociologique en s’intéressant à la logique interne des institutions
politiques dans son livre Démocratie et Totalitarisme publié en 1965. Il distingue deux formes de régimes, dont la variable principale est l’organisation des partis:
le
régime pluraliste; c’est une organisation de partis multiples,
autrement appelé régime démocratique. Dans ce type de régime, l’État
tolère une pluralité de partis dans la mesure du respect de la
Constitution. La reconnaissance et la légalisation de l’opposition se
fait par le biais du concours à l’exercice du pouvoir via l’élection et
le système de représentation. Les régimes occidentaux ont une
organisation constitutionnelle qui porte les modalités de la concurrence
pacifique pour l’exercice du pouvoir légal de manière temporaire.
Raymond Aron relève cependant une tension dans ce type de régimes,
comment concilier les intérêts de la majorité vainqueur et de la
minorité vaincue? A cela s’ajoute trois aspects négatifs:
-la non-application régulière de la légitimité électorale (par exclusion ou par manipulation)
-la non-application des règles de concurrence pacifique (entre partis et au sein du parlement)
-le caractère non-représentatif des partis
le
régime monopolistique; c’est un régime caractérisé par son aspect
révolutionnaire. L’État est engagé idéologiquement, il est le socle de
l’idéologie du parti au pouvoir. Il y a une négation de l’opposition
ainsi que la violence, le non-respect de l’égalité et de la légalité
dans le concours pour l’exercice du pouvoir. Raymond Aron établit une
grille d’évaluation du degré de totalitarisme: la nature de la doctrine
du parti, l’autorité de ses projets, les moyens employés pour arriver à
ses fins, l’idéal qu’il se fait de la société, le degré de globalité de
l’idéologie et de confusion entre l’État et la société.
Hannah
Arendt (1906-1975), fût elle aussi marquée par la montée du nazisme en
Allemagne, ce qui provoque son exil en France et ensuite aux États-Unis à
partir de 1951. Témoin engagé de son époque au même titre qu’Aron, elle
développe une approche plus philosophique du totalitarisme. Sa notion
du totalitarisme est marquée par la terreur, elle y voit l’effacement
total de la notion d’humanité, devant laisser la place à une masse sans
affectivité, sans mémoire et sans conscience.
Dans Les origines du totalitarisme (1951),
elle remet en cause le rapport politique du dominant-dominé et invite à
repenser la politique comme fondée sur la liberté et la délibération,
en restaurant notamment la différence entre le"privé"et le"public",
entre la production économique et l’ordre politique de l’action, à
dissocier de la simple gestion. Plus qu’un régime politique, le
totalitarisme est un système, un ensemble d’éléments interdépendants: à
la fois une organisation de la société, une conception du rôle de
l’État, une vision du monde, un ensemble d’objectifs pratiques, une
mythologie et une métaphysique. Selon, Hannah Arendt, le totalitarisme
vise une domination totale, aussi bien de l’homme en tant qu’être
physique et de pensée mais également la conquête du monde entier. Le
totalitarisme débouche nécessairement sur la guerre ou sur la révolution
programmée à l’échelle du monde entier. Le totalitarisme méprise les
lois "positives" (écrites) mais se réclame d’une forme plus élevée de
légitimité. L’hitlérisme vise l’accomplissement de la loi de la Nature,
le stalinisme l’accomplissement de la loi de l’Histoire (énoncée par le
marxisme). Pour cette analyse, Hannah Arendt utilise l’idéaltype de Max
Weber, une construction théorique comprenant deux variantes: la période
soviétique stalinienne et l’Allemagne pendant le régime hitlérien.
Cependant, certains auteurs ont remis en cause cette classification qui à
l’évidence manquait de profondeur et de données empiriques.
A
ces deux auteurs, il convient d’en ajouter un troisième, Claude Lefort
(1924-2010), d’influence marxiste, qui s’est attaché selon une vision
organiciste de la société, à analyser le système comme un corps social,
reprenant ainsi les thèses d’Ernst Kantorowicz sur les deux corps du
roi; la personne du chef totalitaire au-delà de son corps physique et
mortel est un corps politique figurant le peuple-un. Il ajoute que la
constitution du"peuple-un"nécessite la production incessante d’ennemis,
c’est la seule division que le régime totalitaire accepte, il se fonde
par rapport à elle. Néanmoins, il ne voit pas de fin donc de succès à ce
système, car son développement entraîne nécessairement contradiction et
opposition. De plus, il reprend cette vision organiciste sur le régime
démocratique, il est caractérisé par l’institutionnalisation du conflit
au sein de la société, de la division du corps social; il reconnaît, et
même légitime, l’existence d’intérêts divergents, d’opinions contraires,
de visions de monde opposées et même incompatibles.
B-La typologie ternaire de Juan José Linz
Juan
José LINZ (1926-2013), est un politologue espagnol qui a fait la
majeure partie de sa carrière universitaire aux États-Unis développant
sa thèse notamment sous la direction Seymour Martin Lipset et côtoyant
les principales figures du fonctionnalisme américain comme Paul
Lazarsfeld et Robert K.Merton. Il y a donc un réel intérêt pour
l’approche empirique chez Linz dont son œuvre est emprunte.
Tout
d’abord, il va chercher à s’éloigner de l’opposition binaire classique
démocratie/ totalitarisme, pour développer une typologie ternaire idéal
typique. Il affirme cette idée dans "Totalitarian and Authoritarian
regime"(2000) selon laquelle la distinction totalitaire et démocratie
pluraliste ne suffit plus à couvrir le réel. Il met au cœur de son
analyse la dynamique des régimes politiques selon sa formule"les
typologies émergent et disparaissent en fonction de leur utilité
analytique par les chercheurs. Ainsi il s’écarte de l’approche des
régimes politiques qui privilégient le rôle des institutions, de
l’agencement des pouvoirs et la structure des partis pour s’achever par
une discussion formelle opposant normativement des types de régimes. Il
dégage ainsi trois types:
régime totalitaire,
autoritaire, démocratie pluraliste, et met en avant que le
développementalisme (S.Huntington) ne suffit pas à expliquer la
condition des différents régimes. En effet, le développement économique
doit amener le développement démocratique selon ces derniers mais Linz
remarque que les pays non-démocratiques ont des croissances économiques
continues, remettant en cause cette analyse. De plus, l’évolution des
régimes à la fin du XX ème siècle va amener Juan José Linz à constamment
reformuler ses idéaux types, passant à une typologie quinternaire. Il
ajoute ainsi le régime sultanique et le régime post-totalitaire (ce
dernier pouvant se décliner en cinq sous-catégories également). Ses
analyses sont les plus abouties en termes de classification jusqu’à
aujourd’hui.
La bibliographie
4. Dictionnaire de la culture juridique, sous la direction de Denis Alland et Stéphane Rials, QUADRIAGE/LAMY-PUF, 2007
5. Les régimes politiques occidentaux, Jean-Louis Quermonne cinquième édition, Éditions du Seuil.
6. Régimes totalitaires et autoritaires, Juan José Linz Paris, Armand Colin, 2006
"ĐẠI ÁN" THAM NHŨNG TRƯỚC GIỜ TUYÊN ÁN: HÌNH SỰ HÓA ÁN KINH TẾ?
(Tân Châu) Chiều nay 12/11,
phiên tòa xét xử vụ “đại án” tham nhũng của Công ty cho thuê tài chính 2 (ALC
II), đã thật sự “nóng” hơn bao giờ hết, khi Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân
TP.HCM (Viện KSND TP.HCM) quyết định giữ đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên
án tử hình với 2 bị cáo Vũ Quốc Hảo (nguyên Tổng giám đốc công ty ALC II) và
Đặng Văn Hai (nguyên Giám đốc Công ty Quang Vinh).
Ngay sau khi vị đại diện VKSND TP.HCM dứt lời, quang sát của người viết, nhận thấy:
Khuôn mặt của Vũ Quốc Hảo tái xanh, toàn thân không có bất cứ chuyển động nào.
Luật sư: Không nên hình sự
hóa vụ việc kinh tế:
Trước đó, vào đầu giờ chiều
nay, các luật sư tranh luận quyết liệt với đại diện VKS. Các vị luật sư nói
rằng đây là các khoản tiền thiệt hại mà hai bên ký kết hợp đồng, nếu một trong
hai bên không trả nợ được thì kiện ra tòa kinh tế chứ không phạm tội hình sự.
Đại diện Viện KSND TP.HCM:
Tử hình là đúng người, đúng tội:
Đáp lại ý kiến các luật sư.
Viện KSND TPHCM cho rằng đây là hành vi phạm tội hình sự, vì các bị cáo đã
thực hiện các hợp đồng khống, rút tiền của Nhà nước là phạm tội “hình
sự”, chứ không phải là kiện cáo dân sự.
Hai bị cáo Hai và Hảo thông
đồng chi tiền “bôi trơn” gần 1 tỉ đồng, đây là hành vi “cố ý làm trái”.
Việc Hai câu kết với bị
cáo Hảo đã ký khống hàng loạt hợp đồng để giải ngân tiền lên đến gần 800 tỉ
đồng, gây thiệt hại nghiêm trọng cho Nhà nước là hơn 531 tỉ đồng.
Bị cáo Hai phạm 4 tội là
“tham ô tài sản”, “cố ý làm trái”, “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “lợi dụng
chức vụ quyền hạn…” là hoàn toàn chính xác; bị cáo Hảo phạm các tội: “Tham ô
tài sản”; “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”; “cố ý làm
trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” là hoàn
toàn đúng. Viện KSND TPHCM một lần nữa khẳng định.
9 bị cáo còn lại được Viện
KSND TPHCM đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) xem xét giảm nhẹ so với khung
hình phạt mà Viện KSND TPHCM đã đề nghị trước đó.
Sau phần tranh luận trực
tiếp, cũng là hết giờ xét xử, ngày xử án khép lại với bên ngoài phòng xử án na
ná như bên trong phòng xử: thân nhân 9 bị cáo được Viện KSND TP.HCM đề nghị
HĐXX giảm án tươi cười vẩy tay bị cáo. Trái lại là thân nhân 2 bị cáo bị đề
nghị giữ nguyên án tử hình đã buồn bã đứng khép nép bên hông sân tòa.
Cuối ngày xét xử, cũng là kết
thúc tranh luận tại tòa, HĐXX sẽ nghị án và sẽ tuyên án vào 14 giờ chiều thứ
sáu 15/11 (như vậy phiên tòa này rút ngắn 5 ngày so với dự kiến trước sẽ kết
thúc vào ngày 20/11).
Trước đó, tòa cho các bị cáo nói lời sau cùng. Có 9/11 bị
cáo nói lời sau cùng (bị cáo Khương Minh Hiệp - nguyên Giám đốc công ty CP Phú Gia), vắng mặt suốt phiên tòa vì bệnh và đã được tòa
chấp nhận; bị cáo Phạm Minh Tuấn xin vắng mặt để đi khám bệnh trước khi tòa cho
các bị cáo nói lời sau cùng).
1/ Vũ Quốc Hảo (nguyên Tổng Giám đốc ALC II- bị đề nghị tử hình về tội “tham ô tài sản”, 15 năm tù về tội “lợi dụng chức vụ quyền hạn…”, 25 năm tù về tội “cố ý làm trái…”, tổng cộng chung hình phạt là “tử hình” ): “Tôi đã vi phạm pháp luật, nhưng pháp luật cũng mang tính nhân đạo, đề nghị HĐXX xem xét cho tôi qua nhân thân, công trạng của tôi để xem xét tội danh của tôi được giảm nhẹ. Tôi xin lỗi các bị cáo và gia đình bị cáo vì tôi mà bị liên lụy. Tôi rất ân hận, xin được khoan hồng”.
8/ Nguyễn Văn Thọ (Phó phòng kinh doanh ALC II – Bị đề nghị14-16 năm tù): “Bị cáo không vụ lợi cá nhân, chỉ vì bị cấp trên chỉ đạo làm, nên mong HĐXX xem xét cho bị cáo”.
Vì sao nước Việt Nam luôn đi đôi với chữ nghèo?
Nguyên Anh (Danlambao) - Từ
một đảng phái chính trị dành được chính quyền một cách không chính
danh, đảng đã thành công trong việc cưỡng chiếm và điều hành nước Việt
Nam từ năm 1945 và sau năm 1975 đến nay. Từ đó đảng đẻ ra cái chính phủ
của mình với các ban bệ giúp đảng điều hành đất nước, thời gian đầu đảng
vẫn còn khoác cái bộ mặt quốc tế vô sản, người cộng sản chân chính để
mị dân, những đảng viên thời đó ngu muội hoặc vì hoàn cảnh lịch sử sinh
ra lầm không gian và thời gian đã vô tư cống hiến cả một thời trai trẻ
và bị đảng huyễn hoặc dụ dỗ một bộ phận người dân về thứ chủ nghĩa không
tưởng làm cho nhiều người tin theo, cá biệt còn có việc cô Lý Mỹ một
thanh niên ngu dại xuất thân từ Chợ Lớn đã đánh tư sản mại bản thi hành
chiến dịch X3 với chính cha mẹ của mình!
Lý Mỹ vận động thuyết phục cha mẹ kê khai tài sản, cha mẹ chần chừ, cô
trực tiếp đứng ra kê khai. Cô theo dõi bố mẹ cất giấu vàng bạc, của cải,
báo cho tổ kê khai moi móc ra bằng hết. Lý Mỹ phát biểu trên báo: “Tinh
thần Pavel Corsaghin sáng chói trong trái tim tôi! Tôi không cần vàng
bạc, của cải, cha mẹ tôi bóc lột của nhân dân. Từ hôm nay tôi từ bỏ giai
cấp bóc lột, bước sang cuộc sống mới, hòa vào dòng người lao động vinh
quang xây dựng xã hội chủ nghĩa” (Báo Tiền Phong số 40, 1978). [1]
Thật thảm thương thay cho những con thiêu thân ngu muội, tinh thần Pavel
Corsaghin vay mượn của một đoàn viên thanh niên CS đã biến cô thành một
người con bất hiếu tiếp tay với bọn cướp ngày ăn cướp chính tài sản của
gia đình mình nhiều năm gầy dựng!
mà không phải chỉ có một mình Lý Mỹ trong cái thiên đường mù bị bịt mắt
mà có hàng trăm, hàng ngàn thanh niên bị dụ dỗ ngoài ra còn có các nhà
sư không lo việc tu hành kinh kệ tự vĩ cuồng mình là vĩ nhân tham gia
chính trị, các sinh viên học sinh được sống trong một xã hội tự do không
biết trân trọng đã góp phần phá nát một quốc gia Tự do Dân chủ.
Và giờ đây họ đã thành những miếng giẻ rách trong mắt đảng và cả người dân!
Cái chính phủ của một cái đảng độc tài toàn trị bắt buộc người tham gia
phải là đảng viên với cái lý lịch công thần có công cống hiến cho cách
mạng từ đó dẫn đến một bộ phận thi hành không còn sức phản biện tranh
đấu họ chỉ biết mù quáng tin theo và tự huyễn hoặc mình sẽ mãi trường
tồn dù làn sóng sụp đổ chủ nghĩa CS đã lan tràn trên toàn thế giới!
Họ chỉ biết im lặng và an phận với những bổng lộc mình được ban phát,
tha hồ làm lếu làm láo miễn đừng đụng chạm đến sự tồn vong chế độ; Họ
dùng vũ lực để duy trì sự sống còn như đã từng làm suốt bao nhiêu năm
qua. Và để củng cố quyền lực họ đẻ ra các bộ phận phục vụ làm tấm khiên
và lá chắn hô hào phải trung thành để núp trong đó làm vỏ bọc an toàn.
Mâu thuẩn bắt đầu xảy ra khi cái bộ phận đó đã phình to dị dạng như một
quái thai chế độ! Việt Nam là một quốc gia CS duy trì quân số đông hiện
dịch trong đó ngành công an, an ninh với số lượng không nhỏ nhưng cũng
buồn cho đảng trào lưu hội nhập thế giới đã bắt đầu và kinh tế luôn đi
liền với chính trị, đảng không thể nào đóng cửa đàn áp người dân, xổ
toẹt Nhân quyền với người dân trong nước nhưng lại khoác khuôn mặt đạo
mạo khả kính như TBT. Nguyễn Phú Trọng trên trường quốc tế vì ai cũng
biết đó chỉ là biện pháp chữa cháy tạm thời của các tên điếm đàng xã
nghĩa.
Đảng cần phải có tiền, có tiền để nuôi đám âm binh còn đảng còn mình!;
Đảng cần hiệp ước xuyên Thái Bình Dương với thuế xuất gần như bằng 0
doanh nghiệp mới có lời cho đảng thu thuế và tiếp tục sống; Đảng làm mọi
cách ngay cả trơ trẻn nhất kêu gọi những kẻ thù năm xưa bên kia chiến
tuyến là khúc ruột ngàn dặm, những kẻ mà đảng muốn hành hạ đày đọa thân
xác bọn chúng cho xứng đáng với cái bản ngã chiến thắng tiểu nhân của
mình, nhưng đảng phải muối mặt trở cờ vì những đồng đô la có sức hấp dẫn
diệu kỳ!; Song song đó đảng tiếp tục củng cố quyền lực của mình, tiếp
tục kiên định cái lý tưởng CS dẫn dắt toàn dân đến cái thiên đường mù đi
hoài không đến đích!
Và ngày mai nước Việt Nam nghèo nàn có diện tích 327. 480 km2 và 90
triệu người dân khốn khổ sẽ phải hân hoan chào đón thêm hai Phó Thủ
Tướng mới, một là Bộ trưởng Phạm Bình Minh Bộ trưởng Ngoại Giao con của
ông cựu bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch và để chào mừng chức danh mới của ông
một rừng phản đối của các chính khách nước ngoài đã ký thư yêu cầu gửi
đến Liên Hợp Quốc ngăn chặn Việt Nam dành được chiếc ghế thành viên ủy
ban Nhân Quyền LHQ vì những vi phạm của nhà cầm quyền từ trong nước.
Ngài Phó Thủ Tướng còn lại nguyên là Bộ trưởng chủ nhiệm văn phòng chính
phủ Vũ Đức Đam, sinh năm 1963 có bằng Tiến sỹ kinh tế tại Bĩ, một khuôn
mặt luôn bên cạnh Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng trong các chuyến công du
nước ngoài. Và ngài Phó thủ có bằng Tiến sỹ sẽ đối mặt với một nền kinh
tế tan nát do ngài Thủ tướng đáng kính của ông đã quậy tanh banh nợ nước
ngoài như chúa chổm và mảng doanh nghiệp Việt Nam đã đem chôn từ thuở
nào!
Như vậy cái đất nước nghèo hèn có mức GDP gần đội sổ xếp hạng của thế
giới có một Thủ tướng và năm Phó Thủ tướng! Gồm các vị: Nguyễn Xuân
Phúc; Vũ Văn Ninh; Hoàng Trung Hải và sau khi được Quốc Hội gồm các vị
nghị gật (cũng có xuất thân hoàng thân quốc thích dây mơ rễ má với chế
độ) thông qua thì hai vị Phó Thủ mới sẽ được hợp thức hóa. Ngoài ra còn
có 22 bộ và cơ quan ngang bộ để điều hành đất nước và lấy tiền đóng thuế
của người dân để trả lương. Một quốc gia có diện tích nhỏ hẹp, nền kinh
tế tiểu thủ công nghiệp vì sao phải cần đến 5 Phó Thủ tướng?
Chỉ vì chúng ta có tay Thủ Tướng thất học tham lam cho nên phải đẻ ra
thêm 5 vị khác để mà tham mưu trợ lý chứ còn tại các quốc gia Dân chủ đa
nguyên điều hành đất nước bằng thể chế Tam quyền phân lập thì chỉ cần
một Thủ Tướng và hai Phó Thủ là điều hành quốc gia đâu vào đấy. Thành ra
nước chúng ta đã từng nghèo, đang nghèo và sẽ tiếp tục nghèo khi ngân
sách được lấy từ tiền thuế người dân, tài nguyên đất nước chi trả cho
một tầng lớp được gọi là lãnh đạo một cách vô tội vạ.
Chỉ khi nào nước Việt Nam chấp nhận tiến trình đa đảng phái trong đó có
những đảng phái đối lập ra tham chính điều hành quốc gia theo tiêu chí
minh bạch thì mới có cơ may ngóc đầu dậy và hãnh diện phần nào trên
trường quốc tế. Còn nếu cứ tiếp tục như bây giờ lấy một chủ thuyết CS
giả dối, một tấm gương ngụy tạo, một đảng phái tham lam độc tài, một
chính phủ hoạt động không phải vì dân mà là vì đảng thì cho dù có 10 Phó
Thủ tướng bó tay vì:
“Làm đâu hư đó!
Đi đâu nhục đó!”
________________________________
Chú thích:
Văn bút quốc tế đã đi ngược lại tôn chỉ, mục đích
Báo Nhân dânThứ hai, 11/11/2013 – 10:11 PM (GMT+7)
Vừa qua, Ðại hội quốc tế lần thứ 79 của
Văn bút quốc tế tổ chức ở Reykjavik (Iceland) đã thông qua nghị quyết
bày tỏ “quan ngại” về tình trạng tự do ngôn luận tại các quốc gia như
Belarus, Trung Quốc, Cuba, Hungary, Ai Cập, Eritrea, Mỹ Latinh, Mexico,
Nga, Tây Ban Nha, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam… Ðây không phải là lần
đầu tổ chức nhân danh văn chương này đã đưa ra ý kiến có mục đích xuyên
tạc tình hình nhân quyền tại Việt Nam…
Văn bút quốc tế (International PEN,
trong đó PEN là chữ viết tắt các mẫu tự đầu tiên của các từ Poets – nhà
thơ, Essayists – nhà viết tiểu luận, Novelists – nhà tiểu thuyết) thành
lập năm 1921 tại Luân Ðôn (Anh), với mục đích ban đầu là “thúc đẩy tình
hữu nghị, hợp tác trí tuệ và sự hiểu biết” giữa các nhà văn trên khắp
thế giới; tăng cường vai trò của văn học đối với sự phát triển của văn
hóa; đồng thời bảo vệ văn học chống lại các mối đe dọa của thế giới hiện
đại. Nhưng dần dà, ý tưởng tích cực ban đầu của những người sáng lập
như George Bernard Shaw, Herbert George Wells,… từng bước bị biến dạng
khi Văn bút quốc tế tự xem mình như là tổ chức “bảo vệ nhân quyền”, rồi
tự nhận là đại diện cho các nhà văn “bị sách nhiễu, bị cầm tù hoặc bị
bức tử vì quan điểm của mình!”. Nói Văn bút quốc tế bị biến dạng, vì các
năm qua, tổ chức này thường được chú ý vì các lý do ngoài văn chương
hơn là chính văn chương.
Trong khi giải thưởng hằng năm do Văn bút quốc tế tổ chức ít được chú ý trong sinh hoạt văn chương thế giới, thì các loại tuyên bố, thư từ của tổ chức này gửi chính phủ các nước lại rùm beng hơn nhiều. Theo dõi hoạt động của Văn bút quốc tế, nhiều người dễ lầm tưởng đây là một tổ chức nhân danh nhân quyền chứ không phải là tổ chức của những người cầm bút hoạt động văn chương. Hầu như không hề ngó ngàng đến vai trò cầu nối giữa những người hoạt động văn chương trên thế giới, khuyến khích sự giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và khẳng định vai trò của văn chương trong tiến trình phát triển nhân loại; thay vào đó, tổ chức này chỉ chăm chăm nghe ngóng loại thông tin liên quan các vụ bắt giữ, xét xử những người được gọi là “nhà văn, nhà thơ, nhà báo hay blogger” vì bày tỏ quan điểm đi ngược với yêu cầu chính đáng của xã hội, kích động dân chúng chống đối chính quyền ở nước nào đó. Dường như với Văn bút quốc tế, bất kỳ cá nhân nào có viết lách gì đó đều có thể gọi là nhà văn, nhà báo, vì trên thực tế nhiều người mà tổ chức này đứng ra bảo vệ lại chưa bao giờ viết văn hay viết báo? Vậy mà Văn bút quốc tế lại vẽ ra các thông cáo báo chí, trịnh trọng hơn là công bố báo cáo, nghị quyết lên án và yêu cầu chính quyền nước này, nước khác phải thả ngay lập tức, vô điều kiện đối tượng bị bắt giữ, xét xử vì đã vi phạm pháp luật. Không chỉ cố tình đánh tráo khái niệm để biến người phạm pháp thành đối tượng cần được bảo vệ, họ còn hành xử theo phương thức duy nhất là chỉ tiếp nhận thông tin một chiều, vốn bị bóp méo từ các tổ chức, cá nhân vốn có quan điểm thù địch với chính quyền một nước nào đó, mà không hề quan tâm đến thông tin chính thống, khách quan khác.
Ðối với Việt Nam, Văn bút quốc tế thường xuyên đăng tải bài viết, công bố báo cáo, nghị quyết xuyên tạc tình hình nhân quyền và đưa ra những đòi hỏi phi lý, trắng trợn, trong đó có một số thư gửi lãnh đạo Ðảng và Nhà nước. Gần đây nhất ngày 24-6-2013, Văn bút quốc tế gửi thư tới Chủ tịch nước Trương Tấn Sang “yêu cầu” thả ngay lập tức, vô điều kiện Nguyễn Văn Hải (người bị Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh tuyên án 12 năm tù giam, 5 năm quản chế vì tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam). Quan tâm tới nhân quyền, nhưng tổ chức này lại bỏ qua các thành tựu của Việt Nam trong việc thực thi dân chủ, bảo đảm các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội,… cho người dân. Với định kiến cố hữu và thái độ thiên lệch, Văn bút quốc tế nhiều lần vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, “đàn áp, sách nhiễu” các nhà văn, nhà báo, blogger và đằng sau các cáo buộc này không khó để nhận ra dấu vết của “văn bút Việt Nam hải ngoại” – một trong số hơn 140 trung tâm của Văn bút quốc tế trên thế giới. Cụ thể hơn, “văn bút Việt Nam hải ngoại” là nguồn cung cấp thông tin chủ yếu và đóng vai trò chủ chốt chấp bút cho các báo cáo, nghị quyết của Văn bút quốc tế đối với Việt Nam. Cần khẳng định rằng, “văn bút Việt Nam hải ngoại” là một nhóm ô hợp gồm một số kẻ chống Ðảng và Nhà nước Việt Nam. Tham gia “tổ chức” lưu vong này, hầu hết là các “cây bút” đã ít nhiều có hoạt động văn chương dưới chế độ Sài Gòn trước năm 1975 như Ðặng Văn Nhâm, Nguyễn Ngọc Ngạn, Võ Văn Ái, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Bửu Thoại, Song Thao,… Và đứng sau “chống lưng”, tài trợ cho “văn bút Việt Nam hải ngoại” là các phe nhóm chống cộng như tổ chức khủng bố “Việt Tân”, cái gọi là “Chính phủ Việt Nam tự do”,… với âm mưu biến “văn bút Việt Nam hải ngoại” thành diễn đàn ngôn luận, thành lực lượng chống phá để thực hiện âm mưu lật đổ chính quyền, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam.
Nghị quyết về Việt Nam được thông qua tại Ðại hội Văn bút quốc tế lần thứ 79 vừa qua được “trung tâm văn bút Thụy Sĩ Pháp thoại” cấu kết với “văn bút Việt Nam hải ngoại”, “văn bút Thụy Sỹ Ðức thoại”, “văn bút Thụy Sỹ Ý thoại” soạn thảo, đệ trình. Ðiều đáng nói là qua cái gọi “nghị quyết”, với các từ ngữ như “hành hạ, ngược đãi, điều luật mơ hồ, ngăn cấm người dân tự do bàn luận, trao đổi quan điểm”,… tổ chức nhân danh văn chương này không chỉ trơ tráo xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam, mà còn lặp lại nguyên văn luận điệu các thế lực thù địch và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam vẫn truyền bá trên internet! Không chỉ có thế, khi thông qua cái gọi là “nghị quyết”, Văn bút quốc tế còn tỏ ra không biết ngượng khi ca ngợi “thành tích” của một số người đã hoặc đang là phạm nhân, bị kết án vì có hành vi vi phạm Ðiều 88, Ðiều 79, Ðiều 258 Bộ luật Hình sự của nước CHXHCN Việt Nam. Trớ trêu hơn, những người Văn bút quốc tế gọi là “nhà văn, nhà báo, blogger dũng cảm đấu tranh cho dân chủ nhân quyền” lại không hề có một tác phẩm văn chương hay tác phẩm báo chí đã được xuất bản, mà sản phẩm của họ chỉ là mấy bài viết “lá cải” và tài liệu cóp nhặt, với mục đích duy nhất là xuyên tạc vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, tuyên truyền chống đối Ðảng và Nhà nước Việt Nam, rồi kích động hận thù, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ðó là lý do duy nhất để họ bị bắt giữ, xét xử và phải nhận án tù vì đã vi phạm pháp luật Việt Nam.
Từ bản chất của vấn đề cần khẳng định, với cái gọi là “nghị quyết” vừa được thông qua, một lần nữa Văn bút quốc tế lại tiếp tay cho những kẻ chống cộng trong “văn bút Việt Nam hải ngoại” thực hiện mưu đồ chính trị đen tối của họ. Với “nghị quyết” này, chỉ có thể đặt ra hai câu hỏi: Phải chăng những người ở Văn bút quốc tế đã điều hành tổ chức của họ bằng thái độ vô trách nhiệm cho nên đã không tìm hiểu thông tin về Việt Nam nói chung và hoạt động văn học, báo chí ở Việt Nam nói riêng để có ý kiến đúng mực? Phải chăng Văn bút quốc tế đang tạo cơ hội cho những kẻ cơ hội vu cáo Việt Nam? Dù câu trả lời là thế nào thì Văn bút quốc tế không thể chối bỏ sự thật là họ đã đi ngược lại với tôn chỉ mục đích của tổ chức, bởi Hiến chương của Văn bút quốc tế khẳng định hoạt động của tổ chức này không phục vụ và bị tác động bởi mưu đồ chính trị; kiên quyết chống lại việc “xuyên tạc, cố ý lừa dối, bóp méo các sự kiện cho những mục đích chính trị và cá nhân”; cam kết thúc đẩy hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc, loại bỏ những hận thù chủng tộc, giai cấp, hận thù quốc gia và đấu tranh cho lý tưởng một nhân loại sống trong hòa bình trên thế giới.
Ở Việt Nam hiện nay có hơn 900 nhà văn, nhà thơ và hơn 19.000 nhà báo, đó là những người hoạt động nghệ thuật, báo chí chân chính tập hợp trong Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam. Tên tuổi của nhiều nhà văn, nhà báo đã in dấu ấn trong đời sống tinh thần của rất nhiều thế hệ người đọc Việt Nam. Với tư cách là nhà văn, nhà báo, quyền và lợi ích của họ được xã hội khẳng định, bảo vệ; tác phẩm của họ được xã hội ghi nhận, qua đó đóng góp vào sự phát triển của văn chương và báo chí, hướng con người tới chân – thiện – mỹ, đồng thời đưa ra ý kiến phản biện để cùng toàn dân xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Họ mới chính là đại diện đích thực, đúng nghĩa của văn chương và báo chí ở Việt Nam. Nếu Văn bút quốc tế thật sự quan tâm, có thiện chí với văn chương và báo chí Việt Nam, hãy tìm hiểu qua các nhà văn, nhà báo đang đại diện cho nền văn chương, báo chí của 90 triệu người Việt Nam chứ không phải là một tổ chức mạo danh, tập hợp vài chục cây bút lưu vong ở nước ngoài vô danh trên văn đàn, báo chí Việt Nam. Và nếu nghiêm túc tìm hiểu, chắc chắn Văn bút quốc tế sẽ nhận được những thông tin hoàn toàn trái ngược với những gì mà nhiều năm qua “văn bút Việt Nam hải ngoại” đã cố tình đầu độc họ.
Trong khi giải thưởng hằng năm do Văn bút quốc tế tổ chức ít được chú ý trong sinh hoạt văn chương thế giới, thì các loại tuyên bố, thư từ của tổ chức này gửi chính phủ các nước lại rùm beng hơn nhiều. Theo dõi hoạt động của Văn bút quốc tế, nhiều người dễ lầm tưởng đây là một tổ chức nhân danh nhân quyền chứ không phải là tổ chức của những người cầm bút hoạt động văn chương. Hầu như không hề ngó ngàng đến vai trò cầu nối giữa những người hoạt động văn chương trên thế giới, khuyến khích sự giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và khẳng định vai trò của văn chương trong tiến trình phát triển nhân loại; thay vào đó, tổ chức này chỉ chăm chăm nghe ngóng loại thông tin liên quan các vụ bắt giữ, xét xử những người được gọi là “nhà văn, nhà thơ, nhà báo hay blogger” vì bày tỏ quan điểm đi ngược với yêu cầu chính đáng của xã hội, kích động dân chúng chống đối chính quyền ở nước nào đó. Dường như với Văn bút quốc tế, bất kỳ cá nhân nào có viết lách gì đó đều có thể gọi là nhà văn, nhà báo, vì trên thực tế nhiều người mà tổ chức này đứng ra bảo vệ lại chưa bao giờ viết văn hay viết báo? Vậy mà Văn bút quốc tế lại vẽ ra các thông cáo báo chí, trịnh trọng hơn là công bố báo cáo, nghị quyết lên án và yêu cầu chính quyền nước này, nước khác phải thả ngay lập tức, vô điều kiện đối tượng bị bắt giữ, xét xử vì đã vi phạm pháp luật. Không chỉ cố tình đánh tráo khái niệm để biến người phạm pháp thành đối tượng cần được bảo vệ, họ còn hành xử theo phương thức duy nhất là chỉ tiếp nhận thông tin một chiều, vốn bị bóp méo từ các tổ chức, cá nhân vốn có quan điểm thù địch với chính quyền một nước nào đó, mà không hề quan tâm đến thông tin chính thống, khách quan khác.
Ðối với Việt Nam, Văn bút quốc tế thường xuyên đăng tải bài viết, công bố báo cáo, nghị quyết xuyên tạc tình hình nhân quyền và đưa ra những đòi hỏi phi lý, trắng trợn, trong đó có một số thư gửi lãnh đạo Ðảng và Nhà nước. Gần đây nhất ngày 24-6-2013, Văn bút quốc tế gửi thư tới Chủ tịch nước Trương Tấn Sang “yêu cầu” thả ngay lập tức, vô điều kiện Nguyễn Văn Hải (người bị Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh tuyên án 12 năm tù giam, 5 năm quản chế vì tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam). Quan tâm tới nhân quyền, nhưng tổ chức này lại bỏ qua các thành tựu của Việt Nam trong việc thực thi dân chủ, bảo đảm các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội,… cho người dân. Với định kiến cố hữu và thái độ thiên lệch, Văn bút quốc tế nhiều lần vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, “đàn áp, sách nhiễu” các nhà văn, nhà báo, blogger và đằng sau các cáo buộc này không khó để nhận ra dấu vết của “văn bút Việt Nam hải ngoại” – một trong số hơn 140 trung tâm của Văn bút quốc tế trên thế giới. Cụ thể hơn, “văn bút Việt Nam hải ngoại” là nguồn cung cấp thông tin chủ yếu và đóng vai trò chủ chốt chấp bút cho các báo cáo, nghị quyết của Văn bút quốc tế đối với Việt Nam. Cần khẳng định rằng, “văn bút Việt Nam hải ngoại” là một nhóm ô hợp gồm một số kẻ chống Ðảng và Nhà nước Việt Nam. Tham gia “tổ chức” lưu vong này, hầu hết là các “cây bút” đã ít nhiều có hoạt động văn chương dưới chế độ Sài Gòn trước năm 1975 như Ðặng Văn Nhâm, Nguyễn Ngọc Ngạn, Võ Văn Ái, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Bửu Thoại, Song Thao,… Và đứng sau “chống lưng”, tài trợ cho “văn bút Việt Nam hải ngoại” là các phe nhóm chống cộng như tổ chức khủng bố “Việt Tân”, cái gọi là “Chính phủ Việt Nam tự do”,… với âm mưu biến “văn bút Việt Nam hải ngoại” thành diễn đàn ngôn luận, thành lực lượng chống phá để thực hiện âm mưu lật đổ chính quyền, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam.
Nghị quyết về Việt Nam được thông qua tại Ðại hội Văn bút quốc tế lần thứ 79 vừa qua được “trung tâm văn bút Thụy Sĩ Pháp thoại” cấu kết với “văn bút Việt Nam hải ngoại”, “văn bút Thụy Sỹ Ðức thoại”, “văn bút Thụy Sỹ Ý thoại” soạn thảo, đệ trình. Ðiều đáng nói là qua cái gọi “nghị quyết”, với các từ ngữ như “hành hạ, ngược đãi, điều luật mơ hồ, ngăn cấm người dân tự do bàn luận, trao đổi quan điểm”,… tổ chức nhân danh văn chương này không chỉ trơ tráo xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam, mà còn lặp lại nguyên văn luận điệu các thế lực thù địch và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam vẫn truyền bá trên internet! Không chỉ có thế, khi thông qua cái gọi là “nghị quyết”, Văn bút quốc tế còn tỏ ra không biết ngượng khi ca ngợi “thành tích” của một số người đã hoặc đang là phạm nhân, bị kết án vì có hành vi vi phạm Ðiều 88, Ðiều 79, Ðiều 258 Bộ luật Hình sự của nước CHXHCN Việt Nam. Trớ trêu hơn, những người Văn bút quốc tế gọi là “nhà văn, nhà báo, blogger dũng cảm đấu tranh cho dân chủ nhân quyền” lại không hề có một tác phẩm văn chương hay tác phẩm báo chí đã được xuất bản, mà sản phẩm của họ chỉ là mấy bài viết “lá cải” và tài liệu cóp nhặt, với mục đích duy nhất là xuyên tạc vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, tuyên truyền chống đối Ðảng và Nhà nước Việt Nam, rồi kích động hận thù, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ðó là lý do duy nhất để họ bị bắt giữ, xét xử và phải nhận án tù vì đã vi phạm pháp luật Việt Nam.
Từ bản chất của vấn đề cần khẳng định, với cái gọi là “nghị quyết” vừa được thông qua, một lần nữa Văn bút quốc tế lại tiếp tay cho những kẻ chống cộng trong “văn bút Việt Nam hải ngoại” thực hiện mưu đồ chính trị đen tối của họ. Với “nghị quyết” này, chỉ có thể đặt ra hai câu hỏi: Phải chăng những người ở Văn bút quốc tế đã điều hành tổ chức của họ bằng thái độ vô trách nhiệm cho nên đã không tìm hiểu thông tin về Việt Nam nói chung và hoạt động văn học, báo chí ở Việt Nam nói riêng để có ý kiến đúng mực? Phải chăng Văn bút quốc tế đang tạo cơ hội cho những kẻ cơ hội vu cáo Việt Nam? Dù câu trả lời là thế nào thì Văn bút quốc tế không thể chối bỏ sự thật là họ đã đi ngược lại với tôn chỉ mục đích của tổ chức, bởi Hiến chương của Văn bút quốc tế khẳng định hoạt động của tổ chức này không phục vụ và bị tác động bởi mưu đồ chính trị; kiên quyết chống lại việc “xuyên tạc, cố ý lừa dối, bóp méo các sự kiện cho những mục đích chính trị và cá nhân”; cam kết thúc đẩy hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc, loại bỏ những hận thù chủng tộc, giai cấp, hận thù quốc gia và đấu tranh cho lý tưởng một nhân loại sống trong hòa bình trên thế giới.
Ở Việt Nam hiện nay có hơn 900 nhà văn, nhà thơ và hơn 19.000 nhà báo, đó là những người hoạt động nghệ thuật, báo chí chân chính tập hợp trong Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam. Tên tuổi của nhiều nhà văn, nhà báo đã in dấu ấn trong đời sống tinh thần của rất nhiều thế hệ người đọc Việt Nam. Với tư cách là nhà văn, nhà báo, quyền và lợi ích của họ được xã hội khẳng định, bảo vệ; tác phẩm của họ được xã hội ghi nhận, qua đó đóng góp vào sự phát triển của văn chương và báo chí, hướng con người tới chân – thiện – mỹ, đồng thời đưa ra ý kiến phản biện để cùng toàn dân xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Họ mới chính là đại diện đích thực, đúng nghĩa của văn chương và báo chí ở Việt Nam. Nếu Văn bút quốc tế thật sự quan tâm, có thiện chí với văn chương và báo chí Việt Nam, hãy tìm hiểu qua các nhà văn, nhà báo đang đại diện cho nền văn chương, báo chí của 90 triệu người Việt Nam chứ không phải là một tổ chức mạo danh, tập hợp vài chục cây bút lưu vong ở nước ngoài vô danh trên văn đàn, báo chí Việt Nam. Và nếu nghiêm túc tìm hiểu, chắc chắn Văn bút quốc tế sẽ nhận được những thông tin hoàn toàn trái ngược với những gì mà nhiều năm qua “văn bút Việt Nam hải ngoại” đã cố tình đầu độc họ.
LAM SƠN
Bóc trần hành vi "rút ruột" BHXH bằng... phiếu nghỉ ốm (kỳ 1)
Dân Việt - Theo bà Nguyễn Huyền Cơ - Chủ tịch HĐQT Cty TNHH Bệnh viện PKĐK Việt Nguyễn, việc cấp phiếu nghỉ ốm cho bệnh nhân là việc làm thể hiện... tình thương của bác sĩ đối với bệnh nhân(?).
>> Bóc trần hành vi "rút ruột" BHXH bằng... phiếu nghỉ ốm (kỳ 2)
Kỳ 1: Muốn nghỉ cứ đi khám bệnh
Tình trạng cơ sở y tế cấp giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH theo mẫu C65-HD cho công nhân đang diễn ra hết sức dễ dãi tại khu vực giáp ranh giữa Bình Dương và TP.HCM. Đây là việc làm coi thường pháp luật, gây thiệt hại nặng cho quỹ BHXH.
Thị xã Dĩ An (tỉnh Bình Dương) là địa bàn giáp ranh với TP.HCM. Nơi đây hiện có hàng trăm nghìn công nhân từ mọi miền đất nước sinh sống, làm việc phần lớn trong Khu chế xuất Linh Trung 1, thuộc Q.Thủ Đức (TP.HCM). Vài năm trước, khu vực này đã xảy ra chuyện công nhân đi mua phiếu nghỉ ốm giả từ nhà thuốc tây để hợp thức hóa ngày nghỉ của mình dù không bệnh đau gì, mà còn được BHXH chi trả khoản tiền lương của những ngày không làm việc.
Tương tự, tuy không còn tình trạng phiếu C65 giả, nhưng công nhân vẫn dễ dàng có được phiếu nghỉ ốm thật 100% với sự “ưu ái” của cơ sở y tế.
Bác sĩ hỏi bệnh nhân muốn nghỉ mấy ngày?
Theo chân công nhân L.X.H đi “xin” phiếu nghỉ ốm tại Phòng khám đa khoa Việt Nguyễn (số 21/6 khu phố Tây B, P.Đông Hoa, thị xã Dĩ An, Bình Dương) do bác sĩ Nguyễn Thế Lực làm giám đốc, chúng tôi trình thẻ BHYT với nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu (KCBBĐ) của anh H là một bệnh viện khác. Khi biết chúng tôi chỉ muốn lấy phiếu nghỉ ốm, nhân viên ở đây yêu cầu xuất trình thêm chứng minh thư nhân dân và đóng 5.000 đồng mua sổ khám bệnh.
Việc khám bệnh được tiến hành sau đó ít phút. Dù không bị bệnh gì, nhưng vì muốn nghỉ làm để giải quyết việc riêng nên anh H khai bị đau dạ dày. Bác sĩ Nguyễn Quốc Hân chỉ hỏi han và sờ nắn vùng bụng bệnh nhân trong vài phút rồi kê toa cho uống thuốc 5 ngày.
“Anh có muốn xin nghỉ gì không?”, bác sĩ hỏi. Anh H thưa: “Vâng, vâng, cho em nghỉ”. “Muốn nghỉ mấy ngày?”, bác sĩ hỏi tiếp. Anh H xin 2 ngày nghỉ 30 - 31.10 và thế là được bác sĩ Hân ký tên, đóng dấu cái rụp vào phiếu nghỉ ốm C65 do BHXH Bình Dương ban hành với lý do nghỉ việc “hội chứng dạ dày - tá tràng”.
Sau khi đóng thêm 13.500 đồng tiền thuốc, anh H ung dung bước ra khỏi phòng khám, báo bệnh và được công ty cho nghỉ 2 ngày đã xin trong phiếu nghỉ ốm.
Theo ghi nhận của chúng tôi, có khá nhiều công nhân dù đăng ký KCBBĐ tại các cơ sở y tế khác, nhưng lại “thích” đến khám trái tuyến, nhận phiếu nghỉ ốm tại Phòng khám Việt Nguyễn.
Một công nhân khu chế xuất cho biết, vào cuối tháng 8, vì muốn về quê ở Cần Thơ, cô đã đến phòng khám này khai bị viêm họng và đã được cấp ngay phiếu nghỉ ốm. Theo công nhân, hễ cứ muốn nghỉ làm không mất lương và dễ được công ty chấp thuận thì cứ việc đi khám bệnh lấy phiếu C65. Và nơi hiện đang cấp phiếu này khá thoải mái chính là phòng khám nói trên.
Một tháng cấp gần 1.000 phiếu nghỉ ốm
Chỉ riêng tại Công ty TNHH Freetrend (KCX Linh Trung 1, Q.Thủ Đức, TP.HCM), trong tháng 9 vừa qua, đã có 967 phiếu nghỉ ốm C65 do Phòng khám Việt Nguyễn cấp cho công nhân, với số ngày nghỉ lên đến 1.411 ngày.
Tương tự, chỉ trong 3 tuần đầu tháng 10, số phiếu nghỉ ốm do phòng khám này cấp cho công nhân công ty đã là 835 phiếu, với 1.095 ngày nghỉ. Điều này có nghĩa, với chứng từ là hàng nghìn phiếu nghỉ ốm thật nêu trên, BHXH TP.HCM phải chi trả hơn 2.500 ngày lương ốm này cho công nhân và BHXH Bình Dương phải thanh toán gần 2.000 lượt khám, toa thuốc BHYT cho Phòng khám Việt Nguyễn.
Phòng nhân sự Công ty Freetrend đã phát hiện điều bất thường khi có sự tăng vọt lên hàng nghìn phiếu nghỉ ốm chỉ trong 2 tháng gần nhất và cho biết tất cả các trường hợp này đều thuộc diện khám trái tuyến tại Việt Nguyễn.
Trao đổi với chúng tôi, bà Nguyễn Huyền Cơ - Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Bệnh viện PKĐK Việt Nguyễn - giải thích, khoảng 5-6 tháng nay, phòng khám bắt đầu triển khai chương trình marketing bằng website, tờ rơi nhằm thu hút bệnh nhân đến với phòng khám. Nhờ đó, số người đến khám BHYT đã tăng từ 40-80 bệnh nhân lên 100-200 bệnh nhân/ngày.
Theo bà Cơ, phòng khám của bà chỉ có khoảng 2.000 thẻ BHYT đăng ký KCBBĐ. Số bệnh nhân tăng lên gần đây đa số là khám trái tuyến.
Bà thừa nhận việc bác sĩ hỏi bệnh nhân muốn nghỉ bao nhiêu ngày như bài báo này đã đề cập là hoàn toàn trái quy định. Nhưng theo bà, việc cấp phiếu nghỉ cho bệnh nhân là việc làm thể hiện... tình thương của bác sĩ đối với bệnh nhân(?).
Tiếp xúc với một số công nhân Công ty Freetrend, chúng tôi được biết việc khám lấy phiếu nghỉ ốm tại Phòng khám Việt Nguyễn diễn ra khá nhanh chóng, ít phải làm các xét nghiệm như nơi họ đã đăng ký KCBBĐ là Bệnh viện đa khoa Hoàn Hảo cách đó vài cây số. Thực tế, họ chấp nhận đến khám trái tuyến tại đây khi cần phiếu nghỉ ốm nhưng vẫn muốn giữ nơi đăng ký KCBBĐ là Bệnh viện đa khoa Hoàn Hảo hoặc Bệnh viện Q.Thủ Đức cho “chắc”, đề phòng khi... bệnh thật.
(Còn tiếp)
Kỳ 1: Muốn nghỉ cứ đi khám bệnh
Tình trạng cơ sở y tế cấp giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH theo mẫu C65-HD cho công nhân đang diễn ra hết sức dễ dãi tại khu vực giáp ranh giữa Bình Dương và TP.HCM. Đây là việc làm coi thường pháp luật, gây thiệt hại nặng cho quỹ BHXH.
Thị xã Dĩ An (tỉnh Bình Dương) là địa bàn giáp ranh với TP.HCM. Nơi đây hiện có hàng trăm nghìn công nhân từ mọi miền đất nước sinh sống, làm việc phần lớn trong Khu chế xuất Linh Trung 1, thuộc Q.Thủ Đức (TP.HCM). Vài năm trước, khu vực này đã xảy ra chuyện công nhân đi mua phiếu nghỉ ốm giả từ nhà thuốc tây để hợp thức hóa ngày nghỉ của mình dù không bệnh đau gì, mà còn được BHXH chi trả khoản tiền lương của những ngày không làm việc.
Phòng khám đa khoa Việt Nguyễn tại số 21/6 khu phố Tây B, P.Đông Hoa, thị xã Dĩ An, Bình Dương. Ảnh: Quốc Ngọc
Tương tự, tuy không còn tình trạng phiếu C65 giả, nhưng công nhân vẫn dễ dàng có được phiếu nghỉ ốm thật 100% với sự “ưu ái” của cơ sở y tế.
Bác sĩ hỏi bệnh nhân muốn nghỉ mấy ngày?
Theo chân công nhân L.X.H đi “xin” phiếu nghỉ ốm tại Phòng khám đa khoa Việt Nguyễn (số 21/6 khu phố Tây B, P.Đông Hoa, thị xã Dĩ An, Bình Dương) do bác sĩ Nguyễn Thế Lực làm giám đốc, chúng tôi trình thẻ BHYT với nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu (KCBBĐ) của anh H là một bệnh viện khác. Khi biết chúng tôi chỉ muốn lấy phiếu nghỉ ốm, nhân viên ở đây yêu cầu xuất trình thêm chứng minh thư nhân dân và đóng 5.000 đồng mua sổ khám bệnh.
Việc khám bệnh được tiến hành sau đó ít phút. Dù không bị bệnh gì, nhưng vì muốn nghỉ làm để giải quyết việc riêng nên anh H khai bị đau dạ dày. Bác sĩ Nguyễn Quốc Hân chỉ hỏi han và sờ nắn vùng bụng bệnh nhân trong vài phút rồi kê toa cho uống thuốc 5 ngày.
“Anh có muốn xin nghỉ gì không?”, bác sĩ hỏi. Anh H thưa: “Vâng, vâng, cho em nghỉ”. “Muốn nghỉ mấy ngày?”, bác sĩ hỏi tiếp. Anh H xin 2 ngày nghỉ 30 - 31.10 và thế là được bác sĩ Hân ký tên, đóng dấu cái rụp vào phiếu nghỉ ốm C65 do BHXH Bình Dương ban hành với lý do nghỉ việc “hội chứng dạ dày - tá tràng”.
Sau khi đóng thêm 13.500 đồng tiền thuốc, anh H ung dung bước ra khỏi phòng khám, báo bệnh và được công ty cho nghỉ 2 ngày đã xin trong phiếu nghỉ ốm.
Theo ghi nhận của chúng tôi, có khá nhiều công nhân dù đăng ký KCBBĐ tại các cơ sở y tế khác, nhưng lại “thích” đến khám trái tuyến, nhận phiếu nghỉ ốm tại Phòng khám Việt Nguyễn.
Một công nhân khu chế xuất cho biết, vào cuối tháng 8, vì muốn về quê ở Cần Thơ, cô đã đến phòng khám này khai bị viêm họng và đã được cấp ngay phiếu nghỉ ốm. Theo công nhân, hễ cứ muốn nghỉ làm không mất lương và dễ được công ty chấp thuận thì cứ việc đi khám bệnh lấy phiếu C65. Và nơi hiện đang cấp phiếu này khá thoải mái chính là phòng khám nói trên.
Một tháng cấp gần 1.000 phiếu nghỉ ốm
Chỉ riêng tại Công ty TNHH Freetrend (KCX Linh Trung 1, Q.Thủ Đức, TP.HCM), trong tháng 9 vừa qua, đã có 967 phiếu nghỉ ốm C65 do Phòng khám Việt Nguyễn cấp cho công nhân, với số ngày nghỉ lên đến 1.411 ngày.
Tương tự, chỉ trong 3 tuần đầu tháng 10, số phiếu nghỉ ốm do phòng khám này cấp cho công nhân công ty đã là 835 phiếu, với 1.095 ngày nghỉ. Điều này có nghĩa, với chứng từ là hàng nghìn phiếu nghỉ ốm thật nêu trên, BHXH TP.HCM phải chi trả hơn 2.500 ngày lương ốm này cho công nhân và BHXH Bình Dương phải thanh toán gần 2.000 lượt khám, toa thuốc BHYT cho Phòng khám Việt Nguyễn.
Phòng nhân sự Công ty Freetrend đã phát hiện điều bất thường khi có sự tăng vọt lên hàng nghìn phiếu nghỉ ốm chỉ trong 2 tháng gần nhất và cho biết tất cả các trường hợp này đều thuộc diện khám trái tuyến tại Việt Nguyễn.
Trao đổi với chúng tôi, bà Nguyễn Huyền Cơ - Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Bệnh viện PKĐK Việt Nguyễn - giải thích, khoảng 5-6 tháng nay, phòng khám bắt đầu triển khai chương trình marketing bằng website, tờ rơi nhằm thu hút bệnh nhân đến với phòng khám. Nhờ đó, số người đến khám BHYT đã tăng từ 40-80 bệnh nhân lên 100-200 bệnh nhân/ngày.
Theo bà Cơ, phòng khám của bà chỉ có khoảng 2.000 thẻ BHYT đăng ký KCBBĐ. Số bệnh nhân tăng lên gần đây đa số là khám trái tuyến.
Bà thừa nhận việc bác sĩ hỏi bệnh nhân muốn nghỉ bao nhiêu ngày như bài báo này đã đề cập là hoàn toàn trái quy định. Nhưng theo bà, việc cấp phiếu nghỉ cho bệnh nhân là việc làm thể hiện... tình thương của bác sĩ đối với bệnh nhân(?).
Tiếp xúc với một số công nhân Công ty Freetrend, chúng tôi được biết việc khám lấy phiếu nghỉ ốm tại Phòng khám Việt Nguyễn diễn ra khá nhanh chóng, ít phải làm các xét nghiệm như nơi họ đã đăng ký KCBBĐ là Bệnh viện đa khoa Hoàn Hảo cách đó vài cây số. Thực tế, họ chấp nhận đến khám trái tuyến tại đây khi cần phiếu nghỉ ốm nhưng vẫn muốn giữ nơi đăng ký KCBBĐ là Bệnh viện đa khoa Hoàn Hảo hoặc Bệnh viện Q.Thủ Đức cho “chắc”, đề phòng khi... bệnh thật.
(Còn tiếp)
Bóc trần hành vi "rút ruột" BHXH bằng... phiếu nghỉ ốm (kỳ 2)
Dân Việt - Đại diện Phòng khám Ng.H nói, có người của Cty Freetrend gạ bán danh sách công nhân với giá 10 triệu, nhưng ông đã từ chối. Với danh sách như thế, một số phòng khám có thể sẽ dựa vào để lập hồ sơ khống lấy tiền thanh toán khám BHYT.
Kỳ 2: Có sự tiếp tay của nhân viên công ty?
Một nhân viên Công ty TNHH Freetrend thừa nhận đã lập khống một số chứng từ nghỉ ốm để hưởng tiền BHXH phải chi trả. Đồng thời, lợi dụng số lượng công nhân lên đến hàng chục nghìn người tại công ty mình, nhân viên này đã có dấu hiệu tuồn danh sách công nhân kèm thông tin bảo hiểm ra cho các phòng khám.
Khi thấy số phiếu nghỉ ốm tăng bất thường, Công ty TNHH Freetrend (Khu chế xuất Linh Trung 1, Q.Thủ Đức, TP.HCM) đã tiến hành xác minh chứng từ trong các tháng 9, 10.2013. Qua đó, phát hiện hàng chục trường hợp công nhân chỉ nghỉ phép thông thường nhưng đã được “phù phép” thành nghỉ ốm với đầy đủ các phiếu C65 do Phòng khám đa khoa Việt Nguyễn (Dĩ An, Bình Dương) cấp.
Bán thông tin bảo hiểm của công nhân
Theo thú nhận ban đầu của T.N - nhân viên phụ trách BHXH xưởng FVL, thuộc Phòng Nhân sự Công ty Freetrend - vào tháng 9.2013, do nợ nần kéo dài, quá túng quẫn, cô này đã nghĩ cách chuyển 21 trường hợp công nhân nghỉ phép thông thường thành phép ốm nhằm lấy tiền BHXH.
Phòng khám Việt Nguyễn đã đồng ý cấp khống 21 phiếu C65 để N đưa vào danh sách ốm đau của xưởng. Tổng số tiền mà BHXH phải chi trả cho các trường hợp khống trên là hơn 11,7 triệu đồng.
Thông thường, số tiền trên phải đến tay công nhân có tên trong danh sách nghỉ ốm qua hệ thống ATM. Nhưng N đã “điều nghiên” khá kỹ, khi tất cả 21 trường hợp này đều là người mới vào làm, chưa có tài khoản ngân hàng. Thế là, với cương vị nhân viên phụ trách BHXH của xưởng, N đã đi nhận tiền thay cho họ từ kế toán công ty và chiếm đoạt luôn.
N còn cho biết, cùng với việc lập hồ sơ nghỉ ốm khống, cô còn mang danh sách công nhân của công ty với thông tin về mã thẻ BHYT đến Phòng khám Việt Nguyễn và Phòng khám Ng.H (cũng ở Dĩ An, Bình Dương) đề nghị “hợp tác”.
Theo lời N, các đơn vị này đã từ chối. Tuy nhiên, điều này khá trùng hợp với thời điểm mà số phiếu nghỉ ốm của Công ty Freetrend bắt đầu tăng chóng mặt kể từ tháng 9.
N nói không nhớ mình đã đề nghị “hợp tác” gì với các phòng khám(?), nhưng nhận đã cho chép danh sách công nhân vào máy tính của Phòng khám Ng.H. Chúng tôi thắc mắc tại sao chưa thỏa thuận được gì mà đã cho chép dữ liệu, N thở dài: “Bởi vậy em mới ngu, chưa nhận tiền mà đã đưa danh sách cho người ta”.
Đại diện Phòng khám Ng.H xác nhận với chúng tôi, có người của Công ty Freetrend gạ bán danh sách công nhân với giá 10 triệu đồng nhưng ông đã từ chối. Theo ông này, với danh sách tên, mã thẻ như thế, một số phòng khám có thể sẽ dựa vào để lập hồ sơ khống lấy tiền thanh toán khám BHYT.
Hiện N và 2 kế toán viên đã đồng ý để N nhận tiền thay cho công nhân đã bị buộc thôi việc. Tuy nhiên, hành vi của N chỉ mới xảy ra hay đã kéo dài từ lâu, còn có sự tiếp tay nào khác hay N chỉ thực hiện một mình và có chắc rằng chỉ có một trường hợp nhân viên công ty làm điều sai trái như N? Chỉ khi nào cơ quan chức năng quyết liệt vào cuộc điều tra, các câu hỏi này mới có thể sáng tỏ và tránh được những thất thoát cho Nhà nước.
Chi nghỉ ốm gần 5 tỷ đồng/tháng
Bà Ngô Lợi Lợi - Trưởng phòng Nhân sự Công ty Freetrend - cho biết, công ty bà hiện có hơn 22 nghìn công nhân làm việc tại KCX Linh Trung 1, trong đó có khoảng 18 nghìn công nhân nữ.
Trung bình mỗi tháng công ty phải đóng 18 tỷ đồng BHXH theo quy định. Cũng trung bình mỗi tháng, tại đây có khoảng 800 ca thai sản, 6.000 phiếu nghỉ ốm và số tiền mà công ty phải chi cho công nhân nghỉ ốm là khoảng 5 tỷ đồng/tháng. Số tiền này sau mỗi quý sẽ được BHXH TP.HCM thanh toán lại.
Riêng tháng 9 và 10 vừa qua, do có sự tăng gần 1.000 phiếu nghỉ từ Phòng khám Việt Nguyễn như đã nói, nên số phiếu nghỉ của 2 tháng này thành hơn 7.000 phiếu mỗi tháng. Số tiền mà BHXH phải chi cho nghỉ ốm chắc chắn sẽ cao hơn con số 5 tỷ đồng.
Chính bà Lợi cũng cho rằng con số nghỉ ốm trên là khá cao so với các đơn vị của cùng công ty đóng trên địa bàn khác. Ví dụ tại nhà xưởng ở Tiền Giang, có khoảng 14.000 công nhân, mà trung bình mỗi tháng chỉ chừng 1.000 phiếu nghỉ ốm. Theo bà, sở dĩ có sự chênh lệch lớn này là do các cơ sở y tế tại Tiền Giang và Long An (thường là bệnh viện công) cấp phiếu nghỉ ốm rất nghiêm túc, hạn chế được rất nhiều trường hợp giả bệnh để nghỉ.
Còn tại nhà xưởng ở KCX Linh Trung 1, công ty không thể làm gì hơn, phải chấp thuận khi công nhân có phiếu nghỉ ốm do đơn vị y tế cấp.
(Còn nữa)
Một nhân viên Công ty TNHH Freetrend thừa nhận đã lập khống một số chứng từ nghỉ ốm để hưởng tiền BHXH phải chi trả. Đồng thời, lợi dụng số lượng công nhân lên đến hàng chục nghìn người tại công ty mình, nhân viên này đã có dấu hiệu tuồn danh sách công nhân kèm thông tin bảo hiểm ra cho các phòng khám.
Tiếp nhận đăng ký khám BHYT tại Phòng khám đa khoa Việt Nguyễn (Dĩ An, Bình Dương). Ảnh: Quốc Ngọc
Khi thấy số phiếu nghỉ ốm tăng bất thường, Công ty TNHH Freetrend (Khu chế xuất Linh Trung 1, Q.Thủ Đức, TP.HCM) đã tiến hành xác minh chứng từ trong các tháng 9, 10.2013. Qua đó, phát hiện hàng chục trường hợp công nhân chỉ nghỉ phép thông thường nhưng đã được “phù phép” thành nghỉ ốm với đầy đủ các phiếu C65 do Phòng khám đa khoa Việt Nguyễn (Dĩ An, Bình Dương) cấp.
Bán thông tin bảo hiểm của công nhân
Theo thú nhận ban đầu của T.N - nhân viên phụ trách BHXH xưởng FVL, thuộc Phòng Nhân sự Công ty Freetrend - vào tháng 9.2013, do nợ nần kéo dài, quá túng quẫn, cô này đã nghĩ cách chuyển 21 trường hợp công nhân nghỉ phép thông thường thành phép ốm nhằm lấy tiền BHXH.
Phòng khám Việt Nguyễn đã đồng ý cấp khống 21 phiếu C65 để N đưa vào danh sách ốm đau của xưởng. Tổng số tiền mà BHXH phải chi trả cho các trường hợp khống trên là hơn 11,7 triệu đồng.
Thông thường, số tiền trên phải đến tay công nhân có tên trong danh sách nghỉ ốm qua hệ thống ATM. Nhưng N đã “điều nghiên” khá kỹ, khi tất cả 21 trường hợp này đều là người mới vào làm, chưa có tài khoản ngân hàng. Thế là, với cương vị nhân viên phụ trách BHXH của xưởng, N đã đi nhận tiền thay cho họ từ kế toán công ty và chiếm đoạt luôn.
N còn cho biết, cùng với việc lập hồ sơ nghỉ ốm khống, cô còn mang danh sách công nhân của công ty với thông tin về mã thẻ BHYT đến Phòng khám Việt Nguyễn và Phòng khám Ng.H (cũng ở Dĩ An, Bình Dương) đề nghị “hợp tác”.
Theo lời N, các đơn vị này đã từ chối. Tuy nhiên, điều này khá trùng hợp với thời điểm mà số phiếu nghỉ ốm của Công ty Freetrend bắt đầu tăng chóng mặt kể từ tháng 9.
N nói không nhớ mình đã đề nghị “hợp tác” gì với các phòng khám(?), nhưng nhận đã cho chép danh sách công nhân vào máy tính của Phòng khám Ng.H. Chúng tôi thắc mắc tại sao chưa thỏa thuận được gì mà đã cho chép dữ liệu, N thở dài: “Bởi vậy em mới ngu, chưa nhận tiền mà đã đưa danh sách cho người ta”.
Đại diện Phòng khám Ng.H xác nhận với chúng tôi, có người của Công ty Freetrend gạ bán danh sách công nhân với giá 10 triệu đồng nhưng ông đã từ chối. Theo ông này, với danh sách tên, mã thẻ như thế, một số phòng khám có thể sẽ dựa vào để lập hồ sơ khống lấy tiền thanh toán khám BHYT.
Hiện N và 2 kế toán viên đã đồng ý để N nhận tiền thay cho công nhân đã bị buộc thôi việc. Tuy nhiên, hành vi của N chỉ mới xảy ra hay đã kéo dài từ lâu, còn có sự tiếp tay nào khác hay N chỉ thực hiện một mình và có chắc rằng chỉ có một trường hợp nhân viên công ty làm điều sai trái như N? Chỉ khi nào cơ quan chức năng quyết liệt vào cuộc điều tra, các câu hỏi này mới có thể sáng tỏ và tránh được những thất thoát cho Nhà nước.
Chi nghỉ ốm gần 5 tỷ đồng/tháng
Bà Ngô Lợi Lợi - Trưởng phòng Nhân sự Công ty Freetrend - cho biết, công ty bà hiện có hơn 22 nghìn công nhân làm việc tại KCX Linh Trung 1, trong đó có khoảng 18 nghìn công nhân nữ.
Trung bình mỗi tháng công ty phải đóng 18 tỷ đồng BHXH theo quy định. Cũng trung bình mỗi tháng, tại đây có khoảng 800 ca thai sản, 6.000 phiếu nghỉ ốm và số tiền mà công ty phải chi cho công nhân nghỉ ốm là khoảng 5 tỷ đồng/tháng. Số tiền này sau mỗi quý sẽ được BHXH TP.HCM thanh toán lại.
Riêng tháng 9 và 10 vừa qua, do có sự tăng gần 1.000 phiếu nghỉ từ Phòng khám Việt Nguyễn như đã nói, nên số phiếu nghỉ của 2 tháng này thành hơn 7.000 phiếu mỗi tháng. Số tiền mà BHXH phải chi cho nghỉ ốm chắc chắn sẽ cao hơn con số 5 tỷ đồng.
Chính bà Lợi cũng cho rằng con số nghỉ ốm trên là khá cao so với các đơn vị của cùng công ty đóng trên địa bàn khác. Ví dụ tại nhà xưởng ở Tiền Giang, có khoảng 14.000 công nhân, mà trung bình mỗi tháng chỉ chừng 1.000 phiếu nghỉ ốm. Theo bà, sở dĩ có sự chênh lệch lớn này là do các cơ sở y tế tại Tiền Giang và Long An (thường là bệnh viện công) cấp phiếu nghỉ ốm rất nghiêm túc, hạn chế được rất nhiều trường hợp giả bệnh để nghỉ.
Còn tại nhà xưởng ở KCX Linh Trung 1, công ty không thể làm gì hơn, phải chấp thuận khi công nhân có phiếu nghỉ ốm do đơn vị y tế cấp.
(Còn nữa)
Quốc Ngọc
KẾ SINH NHAI - chuyện vui thật mà như đùa của nguyễn Quốc Minh
12.11.2013 01:38
Nhà chung cư "Chuồng Cọp" ở Hà Nội |
Chuyện vui thật mà như đùa:
Cái rét của đêm đông "0 giờ" đang trùm lấy căn hộ tầng 5 khu chung cư. Chợ Cóc góc phố, về đêm càng bốc mùi khó ngửi. Âm thanh từ mấy quán Cafe theo gió ngân xa.KẾ SINH NHAI
Leo lên giường, anh Tiến sỹ xe ôm, đập đập hai chân, cười cười nói thầm, với vợ:
- Em có nhớ cái ông già Sỹ, 88 tuổi, chuyên đi họp Chi Bộ từ mờ sáng mà anh có tặng cho cái gậy Hèo của bố, kỷ niệm Trường Sơn đó không ? Cậu con cả đưa ông ta về quê, khỏe làm sao, ba lần chết lại sống. Nay ra thành phố, hai lần ra nhà Tang lễ, đến lúc đọc điếu văn, ông ta đạp quan tài sống lại, hét to: "Điếu văn sai rồi. Sai của tôi mất ba ngày tuổi Đảng". Cái sai của Điếu Văn lại là cái may cho ông già Sỹ. Thôi. Lo mà ngủ sớm, sáng mai là kỳ họp Chi Bộ đấy. Ông ta dậy sớm lúc gà chưa gáy, chống gậy Hèo gõ cửa ầm ầm mấy nhà tầng một đi họp. Vui đáo để !
Chị vợ lắm mồm ôm bụng cười toáng lên:
- Ừ. Chuyện đó so với mấy nhà ngoại cảm chỉ trõ xương chó, xương trâu, xương bò, đất đen đó là hài cốt liệt sỹ về thờ cúng, cũng chỉ vì cái Điếu Văn.
Tiến sỹ xe ôm không nhịn được cười:
- Ơ. Cái bà này, tôi nói một đằng, bà lại hiểu một nẻo. Tôi là tiến sỹ Nha khoa, thừa sức mở nhà hàng phẩu thuật thẩm mỹ viện như Cát Tường tại Hà Nội. Dù là tiến sỹ thất nghiệp, tôi làm xe ôm, ăn cơm cáy ngáy o o là sướng nhất. Còn làm giàu như cái tên Bác sỹ Cát Tường, làm chết người lại quẳng xác nạn nhân xuống sông Hồng chỉ cái thể chế này tạo ra mà thôi.
Chị vợ lắm mồm không ngớt lời:
- Bỏ quách TS.xe ôm đi, chạy chọt làm cái anh Dân phòng, biết đâu nhờ cái Chợ Cóc góc phố này, kiếm cho em cái nhà 5 tầng lát gạch trang trí Hàn Quốc, ốp gỗ ván sàn Đức như cái tay Tổ trưởng Dân phòng nọ, chả học hành bằng cấp gì, nay ăn nhà hàng này, mai ăn nhà hàng khác, ăn uống no say còn nhận đầy phong bao, phủi đít đi. Cái Chợ Cóc góc phố này, không lúc nào toe toe còi của công an, cảnh sát, Dân phòng. Thật là buồn cười không chịu nỗi cảnh dân tình nháo nhác bê thịt, bê cá, bê lồng gà ri, gà đồi, gánh rau,..chạy nấp chỗ này, nấp chỗ kia, ruồi bay vù vù, tung tóe hoa quả, la hét, chửi nhau, khóc ru rú, van xin, giành dật tán loạn, sinh viên giằng co với công an, dân phòng bó hoa kiếm tiền ăn học nhiều khi rách cả áo, lộ cả đùi. Này, ngủ rồi à ? TS gì mà ngon ngủ vậy ?
TS. xe ôm nói ú ớ trong cơn mơ :
- Giá tôi làm được như Cậu cả nọ, thì anh Dân phòng kia còn thua xa !
Chị vợ ôm ghì lấy TS.xe ôm, khóc nức nở, tràn đầy hy vọng. Căn hộ chung cư tầng 5 đeo bòng chuồng cọp rung lắc, hòa vào âm thanh từ quán Cafe Chợ Cóc "Không giờ rồi, ngủ đi thôi, mai đây còn lo kế sinh nhai..." là tiếng động cộc cộc của ông già Sỹ 88 tuổi đi họp Chi Bộ khua gậy đêm Đông.
12-11-2013
Nguyễn Quốc Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét