Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

Bài đáng chú ý - Tiến trình bị mất đất của Việt Nam

Tiến trình bị mất đất của Việt Nam

 
Bài tuy cũ nhưng nay xin được đăng lại.
Bàn chân Giao Chỉ
Chúng ta nhớ lại, nhân dịp Đại Hội Đảng Toàn Quốc từ ngày 3 đến 11.1.2001, Lê Đức Anh đã đứng lên tố Lê Khả Phiêu 10 tội, trong đó có một tội rất quan trọng là “Bán đất, bán biển cho Trung Quốc” trong chuyến đi Trung Quốc chầu Giang Trạch Dân. Người đầu tiên đưa sự tố cáo này ra công luận là Đỗ Việt Sơn, một đảng viên đảng CSVN về hưu và có lẽ là đàn em của Lê Đức Anh. Sau đó, Luật sư Lê Chí Quang viết bài “Hãy cảnh giác Bắc Triều” nói rõ rằng phần đất bị “bán” là 720 cây số vuông. Nguyễn Chí Trung, thư ký của Lê Khả Phiêu, nói với báo chí rằng Lê Khả Phiêu là “nạn nhân của những âm mưu đánh phá của 3 vị cố vấn là các ông Đỗ Mười, Lê Đức Anh và Võ Văn Kiệt.”
Dĩ nhiên, nhóm Lê Khả Phiêu phải phản pháo. Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh đã cho Thượng Tướng Nguyễn Nam Khánh dùng tài liệu vụ án chính trị T-4 tại Tổng Cục II thuộc Bộ Quốc Phòng để chơi lại nhóm Lê Đức Anh.
Khởi sự từ đó, một phong trào tố đảng CSVN làm mất đất mất biển được phát động ở hải ngoại, nhưng người Việt chống Cộng không dùng những chữ “Bán đất, bán biển cho Trung Quốc” của Lê Đức Anh, mà đổi thành “Dâng đất dâng biển cho Trung Quốc”. Chiến dịch này đã trở nên rầm rộ khi Trung Quốc thành lập huyện Tam Sa thưộc tỉnh Hải Nam bao gồm cả hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, sau đó phong toả Biển Đông.
Thật ra, người Việt đã bị Tàu cướp đất dài dài trong tiến trình lịch sử, bắt đầu từ thời mới lập quốc cho đến ngày nay, do đó người Việt phải tiến dần xuống phía Nam. Tuy nhiên, cha ông chúng ta cũng đã chiếm đất của Lâm Ấp, Chiêm Thành và Chân Lạp để lập thành một nước mới.
Trong bài này chúng tôi chỉ nói về tiến trình bị mất đất trong lịch sử. Trong bài sau, chúng tôi sẽ bàn đến chuyện đòi đất của tiền nhân để rút kinh nghiệm.

BÀI HỌC LỊCH SỬ?
Chúng tôi xin nhắc lại, trong cuộc phỏng vấn của đài RFA ngày 24.7.2009 về đề tài “Việt Nam cần làm gì trước thái độ lấn lướt của Trung Quốc?”, Giáo sư Trần Văn Đoàn dạy học ỏ Đại Học Quốc Lập Đài Loan có nêu lên hai đề nghị: (1) Đọc lại bài học của tất cả những triều đại Việt Nam. Cái gì đã mất rồi thì không bao giờ đòi lại được. (2) Cách hay nhất, cái chiến lược của mình là làm thế nào để không mất đất nữa mà thôi.
Ông nói rõ: “Tôi không nói để bảo vệ nhà nước Việt Nam…”
Nhưng với nhiều người Việt chống cộng ở hải ngoại, đề nghị này rất khó nghe. Lý do thứ nhất: Người Tàu có “Tam thập lục kế” (với người Tàu, con số 36 có nghĩa là nhiều lắm), nhưng một số người Việt đấu tranh ở hải ngoại chủ trương chỉ có “biểu dương khí thế”là thượng sách, không cần biết kết quả như thế nào. Mọi kế khác gần như không được chấp nhận. Như vậy học sử để làm gì? Lý do thứ hai: Sử đâu mà học?
Trong bài Tựa của bộ “Việt Nam Sử Lược”, cụ Trần Trọng Kim (1882 – 1953) có than phiền: “Sử mình đã không hay, mà người mình lại không mấy người biết sử. Là vì cách học tập của mình làm cho người mình không có thể biết được sử của mình”.
Bài Tựa này được viết vào năm 1919, khi bộ “Việt Nam Sử Lược” lần đầu tiên được xuất bản, nhưng đến nay vẫn còn đúng. Không những thế, một số “sử gia” đời nay khi viết sử, thường không dựa theo chính sử như cụ Trần Trọng Kim, mà chỉ ghi lại những phần mình thích, bỏ đi những phần bị coi là mất “khí thế” hay không oai hùng, biến hoá nhiều đoạn và thêm huyền thoại vào làm cho sử không còn là thực sử nữa! Một vài thí dụ cụ thể:
(1) Khi viết về vua Lê Lợi đánh thắng giặc Minh, các “sử gia” ta chỉ ghi lại “Bình Ngô Đại Cáo” và giấu đi tờ biểu thê thảm mà Lê Lợi dưng lên vua Minh xin phong vương. Trong vụ Nguyễn Huệ đánh thắng quân Thanh, các “sử gia” ta cũng chỉ ghi lại “Hịch Đánh Trịnh”của Nguyễn Hữu Chỉnh và “Hịch Gọi Đò” của Nguyễn Huệ, còn tờ biểu được Nguyễn Huệ dưng lên vua Thanh năn nỉ xin ban sắc phong được coi như không có. Họ cho rằng những tở biểu đó làm mất “khí thế” nên phải loại ra khỏi sử, không nên cho con cháu đọc.
(2) Thiền sư Lê Mạnh Thát đã sửa lại sử, cho rằng không có chuyện Bắc Thuộc lần thứ nhất và Mã Viện đem quân đánh hai Bà Trưng. Trái lại, các đời vua Hùng Vương đã kéo dài ra đến sau Công Nguyên, tức đến khi Phật giáo được truyền vào đất Việt! Việc sửa sử này nhắm mục tiêu chứng minh: “Phật giáo là dân tộc” vì đã du nhập vào Việt Nam từ đời Hùng Vương!
Pháp nạn kinh hoàng (gần như làm cỏ) mà Nguyễn Huệ đã gây ra cho Phật Giáo để có phương tiện tiến đánh quân Thanh, không được ai ghi lại một vài dòng, kể cả các “sử gia” Phật Giáo! Họ chỉ nói đến “Pháp nạn” dưới thời Ngô Đình Diệm!
(3) Tàu xây Ải Nam Quan như thế nào và các diễn biến về sau ra sao, đã được ghi rất tỉ mỉ trong chính sử của Tàu cũng như của ta. Công Ước Thiên Tân ngày 9.6.1885 giữa Pháp và Trung Hoa và các văn kiện đính theo đã gọi Ải Nam Quan là “Porte de Chine” (cửa của Trung Hoa) và vẽ nó nằm trên đất Trung Hoa. Ấy thế mà để “tố cộng”, các “sử gia” và các chiến sĩ chống cộng đã coi những văn kiện lịch sử và pháp lý đó như không có, cũng nhau ngồi “khóc Nam Quan”! Có “đại sử gia” còn biến hoá Ải Nam Quan ra hai phần, một phần nói là của Tàu và một phần nói là của ta, để cho “hợp với lòng dân”!
Bây giờ người Việt ở trong cũng như ngoài nước, gần như nhà nào cũng xem phim Đại Hàn, trong đó có nhiều phim lịch sử, chẳng hạn như Thời Đại Anh Hùng, Những Ngày Đen Tối, Jumong, Bài Ca Sơ Đông, Đại Hiệp Sĩ, v.v. Qua các bộ phim này, chúng ta thấy người Đại Hàn đã diễn tả rất trung thực lịch sử của họ: thời kỳ nào cường, thời kỳ nào nhược, những sự rối loại trong cung đình, những thủ đoạn gian ác áp chế dân lành của các quan lại phong kiến, những phương thức mà cha ông họ đã dùng để chống ngoại xâm… Nhờ diễn tả lịch sử một cách trung thực như vậy, người Đại Hàn ngày nay đã rút được kinh nghiệm lịch sử để xây dựng một đất nước Đại Hàn tốt đẹp hơn. Trái lại, sử của người Việt đã bị hai bên đối nghịch biến chế theo sở thích và theo nhu cầu chính trị, làm sao có thể dựa vào đó để rút kinh nghiệm của cha ông được?

NƯỚC TA KHỞI TỪ BÊN TÀU?
Theo truyền thuyết và dã sử, thời kỳ Hồng Bàng bắt đầu từ năm 2879 trước Tây lịch, thuộc niên đại vua Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ. Địa bàn của Việt Nam dưới thời Kinh Dương Vương nằm ở tận bên Tàu, rất rộng lớn: Phía bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía đông là Đông Hải, phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên), và phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành).
Nước Chiêm Thành lúc đó nằm ở đâu? Bộ “Phương Đình Dư Địa Chí” của Nguyễn Văn Siêu đã ghi lại như sau:
“Chiêm Thành: phiá đông giáp bể, phía Tây đến Vân Nam, phía nam giáp Chân Lạp, phía bắc liền Annam, phía đông bắc đến Quảng Đông…
Thật ra, phải đến thế kỷ thứ 13, nước ta mới có quan viết sử, nên những điều xẩy ra trước đó đều được chép lại theo tục truyền, không biết đúng được bao nhiêu phần trăm. Nhưng chắc chắn người Việt ngày xưa ở tận bên Tàu, sau đó trụt dần xuống phía nam. Tại sao như vậy? Cụ Trần Trọng Kim giải thích:
“Người nòi gióng Việt Nam ta mỗi ngày một nẩy nở ra nhiều, mà ở phía bắc đã có nước Tàu cường thịnh, phía tây thì lắm núi nhiều rừng, đường đi lại không tiện, cho nên mới theo bờ biển lấn xuống phía nam, đánh Lâm Ấp, dứt Chiêm Thành, chiếm đất Chân Lạp, mở ra bờ cỏi bây giờ.”
Đây là kiểu “Dùi đánh đục thì đục đánh săng (gỗ)” hay “Cá lớn nuốt cá bé”.

ĐỒNG TRỤ NẰM Ở ĐÂU?
Nước ta có ranh giới đầu tiên với nước Tàu là do Mã Viện ấn định. Lịch sử kể lại rằng dưới thời Đông Hán, năm 41 sau Tây lịch, vua Quang Vũ của Tàu sai Mã Viện làm Phục Ba Tướng Quân, sang đánh Trưng Vương, đem đất Giao Chỉ về lại cho nhà Hán (Thiền sư Lê Mạnh Thát nói chuyện này không có!). Mã Viện dời phủ trị về Mê Linh và dựng cây đồng trụ ở chỗ phân địa giới, khắc sáu chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”. Nghĩa là cây đồng trụ gãy thì người Giao Chỉ mất. Người Giao Chỉ đi qua dưới chân cột đồng ấy cứ lấy đá bồi đắp lên mãi thành gò đống cao, vì sợ cột đồng ấy bị đổ gãy.
Nhưng cột đồng này đã được dựng ở đâu?
Theo “Lĩnh Ngoại Đại Đáp” của Tàu (đời Đường) và “An Nam Chí Lược” của Lê Tắc, cột này được dựng ở Khâm Châu, trong vùng hang động Cổ Sâm.
Khâm Châu là một châu của Tàu nằm sát biên giới với Giao Chỉ, còn Cổ Sâm là một động của ta nằm sát biên giới Tàu.
Sách “Vân Đài Loại Ngữ” của Lê Quế Đường (tức Lê Qúy Đôn) có ghi: “Giữa đỉnh núi Phân Mao ở Khâm Châu có cột đồng to độ hai thuớc. Có lẽ đây là Mã Tống dựng lên.
Núi Phân Mao (Phân Mao lĩnh) ở đâu?
Sách “Dư Địa Chí” của Nguyễn Trãi viết:
Vân Cừ, Kim Tiêu, Phân Mao ở về Yên Bang (sau tránh húy đổi làm Yên Quảng). Vân Cừ là tên sông, tên khác của sông Bạch Đằng, Tiền Ngô Vương bắt Hoằng Tháo, Hưng Đạo Vương bắt Ô Mã Nhi đều ở đây. Phân Mao là tên núi, Kim Tiêu là cột đồng. Ở phía Tây lộ Hải Đông 300 dặm có đèo Phân Mao, ở nửa đèo có cột đồng của Mã Viện dựng, lớn chừng ba thước.
(Dư Địa Chí, Nguyễn Trãi toàn tập, bản dịch của NXB KHXH – Hà Nội, tr. 202)
Sách “Gia Khánh Trùng Tu Nhất Thống Chí”  của Nhà Thanh cho biết: Núi Phân Mao ở phía Tây Khâm Châu (nay là đất tỉnh Quảng Đông). Năm Tuyên Đức thứ 2 (1427) thời Minh, núi ấy thuộc vào châu Tân An của Giao Chỉ. Đến năm Gia Tĩnh thứ 21 (1542) Mạc Đăng Dung hàng, mới thuộc về nước Tàu.
Đồng trụ nếu to 2 thước ta (theo Lê Qúy Đôn) hay 3 thước ta (theo Nguyễn Trải) thì cũng rất lớn. Mỗi thước ta bằng 0,425 mét. Như vậy 2 thước là 0,850 mét và 3 thước là 1,275 mét.
Về sau, cả người Tàu lẫn người Việt đều không biết rõ đồng trụ nói trên nằm ở đâu. Sách “Khâm Định Việt Sử Thương Giám Cương Mục” có cho biết năm 1272, nhà Nguyên đã sai Ngột Lương sang Việt Nam hỏi giới mốc đồng trụ ngày trước ở đâu. Vua Trần Thánh Tôn đã sai viên phái Lê Kính Phu đi hội đồng khám xét. Lê Kính Phu tâu với Nhà Nguyên: “Chỗ cột đồng do Mã Viện dựng lên lâu ngày bị chìm lấp, nay không thể biết ở chỗ nào được”. Việc đó sau cũng thôi. (Quyển VII, tr. 219).
Thật ra, Mã Viện không phải chỉ dựng một đồng trụ ở Cổ Sơn. Ông đã mở mang bờ cỏi của nhà Hán, dựng lên một đồng trụ ở Đèo Ngang (giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình) và hai đồng trụ ở Bình Định. “Phương Đình Dư Địa Chí” của Nguyễn Văn Siêu cho biết: Sách Tần Thư Điạ Lý Chí ghi: Ở quận Nhật Nam có cột đồng từ đời Hán dựng làm địa giới. Sách Lâm Ấp Ký chép: Phía tây quận Nhật Nam có nước Tây Đồ Di, Mã Viện qua đất này dựng hai cột đồng nêu bờ cỏi nhà Hán.
Quận Nhật Nam lúc đó gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định ngày nay (có tài liệu cho là đến tận cửa Đại Lãnh, Phú Yên). Vùng này là bắc Chiêm Thành.
Nhìn lại, nếu đồng trụ do Mã Viện dựng để phân ranh giới Việt – Trung mà còn thì nó cũng đã nằm trên đất Tàu, vì năm 1540 Mạc Đăng Dung đã giao vùng đất Cổ Sơn, nơi có đồng trụ, cho Trung Hoa rồi.

MẤT ĐẤT DƯỚI THỜI PHONG KIẾN
Nhiều người tưởng rằng, trong lịch sử, cha ông chúng ta luôn kiên cường dựng nước và giữ nước, không để mất một tấc đất nào. Thực tế không phải như vậy. Ngoài việc bỏ Hồ Nam, Quảng Đông và Quảng Tây chạy xuống Bắc Việt hiện nay, cha ông chúng ta còn phải chịu bị mất đất rất nhiều lần.
Mặc dầu Mã Viện đã dựng đồng trụ ở Phân Mao để đáng dấu ranh giới giữa Giao Chỉ và nước Tàu, những việc phân định ranh giới giữa hai nước không dễ dàng vì biên giới rất rộng lớn. Mỗi lần có tranh chấp, vua hay quan Tàu đều giàng quyền quyết định phần nào thuộc Tàu và phần nào thuộc ta.. Thí dụï năm 1442, nhà Minh gởi dụ cho vua Lê Thái Tông, nói rằng Chiêm Lãnh và Như Tích là thuộc Châu Khâm của Trung Quốc, do Hoàng Khoan cai quản, nên phải trả lại cho Trung Quốc. Năm 1547, Đô Đốc Mã của nhà Thanh gởi thư cho Chúa Trịnh và nói: “Từ Sa Châu trở ra ngoài đến Phân Mao – Đồng Trụ là đất của quý quốc cày cấy chăn nuôi từ lâu, cho về An Nam”.
Ngoài chuyện tranh chấp về vùng biên giới, các vua và quan Tàu luôn tìm cách chiếm thêm đất của nước ta. Tạm bỏ qua “một ngàn năm đô hộ giặc Tàu” đi, chúng ta thấy từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 18, dưới các triều đại của Trung Quốc từ Tống, Nguyên, Minh đến Thanh đều đem quân xâm lấn Đại Việt. Nhà Tống xâm chiếm 2 lần, nhà Nguyên 3 lần, nhà Minh và nhà Thanh mỗi vương triều một lần. Ngoài những cuộc xâm chiếm đại quy mô như thế, các triều đại Trung Quốc cũng thường tìm cách cướp đất của người Việt ở vùng biên giới. Sau đây là một số thí dụ cụ thể:
1.- Mất hai động Vật Ác và Vật Dương.
Dưới thời nhà Tống, Quách Quỳ đã chiếm 4 châu và một huyện của Đại Việt là Quảng Nguyên,  Quang Lang, Tô Mậu, Môn, và Thuận châu. Sau đó, năm 1057 Nùng Tôn Đàn nộp động Vật Ác và năm 1064 Nùng Trí Hội nộp thêm động Vật. Dương. Vua Lý Nhân Tông phái sứ qua thương lượng nhiều lần, vua Tống chỉ chịu trả cho 4 châu và một huyện, nhưng không trả hai động Vật Ác và Vật Dương.
2.- Mất 59 thôn ở Cổ Lâu
Năm 1401, khi Hồ Hán Thương được Hồ Quý Ly nhường ngôi, đã sai sứ sang xin vua nhà Minh phong vương. Vua Thánh Tổ nhà Minh nghe tin ở An Nam đang có chuyện lộn xộn nên cho điều tra và biết được Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần. Nhà Minh muốn nhân cơ hội này đem quân sang chiếm nước An Nam, lấy lý do là để hạch tội Hồ Quý Ly. Khởi đầu, vào năm 1405 nhà Minh sai sứ sang đòi lại đất Lộc châu, tức Lộc Bình thuộc tỉnh Lạng Sơn ngày nay, viện lý do đất này trước đây thuộc châu Tự Minh của tỉnh Quảng Tây. Lúc đầu Hồ Quý Ly không chịu, nhưng thấy áp lực của nhà Minh quá nặng nên Hồ đã sai quan hành khiển là Hoàng Hối Khanh đến dàn xếp. Hoàng Hối Khanh quyết định cắt 59 thôn ở Cổ Lâu nhường cho Tàu. Hồ Quý Ly thấy cắt nhiều quá, có mắng Hoàng Hối Khanh. Tuy đã nhún nhường như thế, nhà Minh vẫn không chịu, đem binh qua chiếm nước ta.
3.- Mạc Đăng Dung giao hai châu và 4 động cho Tàu
Theo cuốn “Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí” của Phan Huy Chú, năm 1540 khi Mạc Đăng Dung đầu hàng nhà Minh, đã trao trả 2 châu và 4 động cho nhà Minh. Hai châu là Như Tích và Chiêm Lãng, và 4 động là Tê Phù, Kim Lạc, Cổ Sâm và Liêu Cát. Các lãnh thổ này được sát nhập vào châu Khâm của Tàu. Nhưng Mạc Đăng Dung không được nhà Minh phong vương mà chỉ phong làm Đô Thống Sứ.
4.- Mất 13 châu và 3 động.
Năm 1684, thổ quan huyện Khai Hóa của tỉnh Vân Nam đem quân chiếm ba động Vị Xuyên, Bảo Lạc và Thủy Vĩ thuộc tỉnh Tuyên Hưng của ta. Chúa Trịnh Thuận Đức cho sứ qua đòi lại nhưng nhà Thanh không trả.
Năm 1698 thổ quan tỉnh Vân Nam lại chiếm thêm ba động Ngưu Dương, Hồ Điệp và Phổ Viên thuộc tỉnh Tuyên Quang. Sứ thần Nguyễn Đăng Đạo đến Trung Quốc xin vua Khang Hy trả lại, nhưng vua từ chối. Chúa Trịnh Bính lại phái sứ khác qua nhà Thanh xin xem lại vụ này, nhưng quan Tuần Phủ Quảng Tây không cho đi. Từ đó, ba động này kể như mất luôn.
Năm 1781, dưới thời Tây Sơn do Nguyễn Nhạc lãnh đạo, Hoàng Công Thư đã đem 10 châu của nước Việt nộp cho Tổng Đốc tỉnh Vân Nam. Triều đình ta gởi thư yêu cầu Tổng Đốc Vân Nam xét lại biên giới. Tổng Đốc Vân Nam trả lại thư và nói rằng biên giới tự nhiên không cần vạch lại.
Trên đây là một số vụ mất đất điển hình trong thời phong kiến.

MẤT ĐẤT DƯỚI THỜI XHCN
Có thể nói, nếu không có Pháp xâm chiếm và đô hộ nước ta, khó mà ấn định được đường ranh giới hợp lý và khoa học trên bộ và trên biển giữa Việt Nam và Trung Hoa.
Sau nhiều lần thương lượng rất gay cấn, kể cả dùng sức mạnh quân sự, ngày 9.6.1885 nhà cầm quyền Pháp và Trung Hoa đã ký Công Ước Thiên Tân về biên giới Việt – Trung được gọi là “Hiệp Ước Hòa Bình, Hữu Nghị và Thương Mại” (Traité de Paix, d’Amitié, et de Commerce). Công ước này đã được bổ túc do công ước ngày 26.6.1887 và công ước ngày 20.6.1895.
Mặc dầu có những hiệp ước ấn định ranh giới một cách rõ ràng nói trên, kể từ năm 1954, sau khi Pháp rút khỏi miền Bắc, Trung Quốc bắt đầu xâm phạm biên giới Việt Nam. Những vụ xâm phạm này đã được nhà cầm quyền Hà Nội ghi rõ trong tập “Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc”, do nhà xuất bản Sự Thật của Hà Nội xuất bản năm 1979, sau khi Trung Quốc đem quân “dạy cho Việt Nam một bài học.” Trong “Lời Nhà Xuất Bản”, nhà xuất bản Sự Thật nói rõ đây là toàn bộ “Bị vong lục của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc nhà cầm quyền Trung Quốc gây khiêu khích, xâm lăng lãnh thổ Việt Nam ở vùng biên giới”.
Vì tập sách khá dài, chúng tôi chỉ ghi lại những điểm chính. Trong phần “Tình hình Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954 đến nay”, nhà cầm quyền Hà Nội cho biết thủ đoạn lấn chiếm đất của Trung Quốc như sau:
(1) Từ xâm canh, xâm cư, đến xâm chiếm đất (tr. 8).
(2) Lợi dụng việc xây dựng các công trình hữa nghị để đẩy lùi biên giới sâu vào lãnh thổ Việt Nam (tr. 10).
(3) Đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới lấn sang đất Việt Nam (tr. 11).
(4) Từ mượn đất của Việt Nam đến biến thành lãnh thổ của Trung Quốc (tr. 12).
(5) Lợi dụng việc vẽ bản đồ giúp Việt Nam để chuyển dịch đường biên giới, điển hình là đã sửa ký hiệu ở khu vực thác Bản Giốc (mốc 53), nơi chúng định chiếm một phần thác Bản Giốc và cồn Pò Thông (tr.14)…
Sau đây là một số trích đoạn được trích dẫn:
1.- Từ xâm canh, xâm cư đến xâm chiếm đất.
Tài liệu cho biết:
“Lợi dụng đặc điểm là núi sông hai nước ở nhiều nơi liền một dải, nhân dân hai bên biên giới vốn có quan hệ họ hàng, dân tộc, phía Trung Quốc đã đưa dân họ vào những vùng lãnh thổ Việt Nam để làm ruộng, làm nương rồi định cư những người dân đó ở luôn chỗ có ruộng nương, cuối cùng nhà cầm quyền Trung Quốc ngang ngược coi những khu vực đó là lãnh thổ Trung Quốc.”
Một thí dụ cụ thể: Từ năm 1956 phía Trung Quốc tìm cách nắm số dân Trung Quốc sang làm ăn ở Trình Tường bằng cách cung  cấp cho họ các loại tem phiếu mua đường, vải và nhiều hàng khác, đưa họ vào công xã Đồng Tâm thuộc huyện Đông Hưng, khu tự trị Choang-Quảng Tây. (tr. 8 và 9)
2.- Lợi dụng việc xây dựng các công trình hữu nghị để đẩy lùi biên giới sâu vào lãnh thổ Việt Nam.
“Năm 1955, tại khu vực Hữu Nghị Quan, khi giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt từ biên giới Việt-Trung đến Yên Viên gần Hà Nội, lợi dụng lòng tin của Việt Nam, phía Trung Quốc đã đặt điểm nối ray đường sắt Việt Trung sâu trong lãnh thổ Việt Nam trên 300m so với đường biên giới lịch sử, coi điểm nối ray là điểm mà đường biên giới giữa hai nước đi qua. Ngày 31 tháng 12 năm 1974, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã đề nghị Chính phủ hai nước giao cho ngành đường sắt hai bên điều chỉnh lại điểm nối ray cho phù hợp với đường biên giới lịch sử nhưng họ một mực khước từ bằng cách hẹn đến khi hai bên bàn toàn bộ vấn đề biên giới thì sẽ xem xét…” (tr.10)
3.- Đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới lấn sang đất Việt Nam.
“Trên đoạn biên giới đất liền cũng như ở các đoạn biên giới đi theo sông suối, tại nhiều nơi, phía Trung Quốc đã tự tiện mở rộng xây dựng các công trình để từng bước xâm lấn đất.
“Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 20.2.1970 phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong, và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc… (tr.11 và 12).
Trên đây chỉ là một vài thí dụ cụ thể. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này sau.

LỆNH PHẢI GIỮ ĐẤT
Năm 1473 khi Lê Duy Cảnh, Thái bảo kiến dương bá, đi trấn giữ ở vùng biên giới giáp với tỉnh Quảng Tây, vua Lê Thánh Tông đã trao cho ông một sắc dụ, trong đó viết:
Một thước núi, một tấc sông của ta không nên vứt bỏ, ngươi nên cố cãi, chớ cho họ lấn dần, nếu họ không nghe, còn có thể sai quan sang xứ Bắc triều bày tỏ phải trái. Nếu ngươi dám lấy một thước, một tấc đất của Thái Tổ mà đút mồi cho giặc thì tội phải tru di.
Lữ Giang
(Ngày 11.8.2009)
Theo Lý học phương Đông 

Mạnh Quân - Anh Đam

Hôm nay, Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn anh Vũ Đức Đam - chủ nhiệm Văn Phòng Chính Phủ và anh Phạm Bình Minh làm 2 phó Thủ tướng mơí - cho hoàn tất "Quy hoạch": Chính phủ có 5 Phó thủ tướng và lấp chỗ trống cho anh Nguyễn Thiện Nhân - đủ thứ không: ko ăn gà lậu, nói ko với bệnh thành tích...

Bắt chước các anh lãnh đạo Văn phòng Quốc hội, mình nói: chắc chắn là Quốc Hội sẽ phê chuẩn thôi :D Chúc mừng anh Đam!

Có anh bạn bảo thử viết mấy dòng về anh Đam xem. Biết viết gì nhỉ? Mình không biết nhiều về anh chủ nhiệm lắm. Cũng giống như nhiều phóng viên theo dõi hoạt động chính phủ, cũng có chút cảm tình với anh ấy về sự trẻ trung, thái độ cởi mở, thân thiện với báo chí, cách làm việc, nói năng thận trọng, gọn gàng... nói chung là đc việc cho cả 2 bên.
http://images.tuoitre.vn/Tianyon/Cache/Image/385/664385.jpg



Anh Đam thì vốn thân mật với khá nhiều anh em báo chí, nhất là mảng công nghệ thông tin từ hồi anh làm thứ trưởng Bộ Bưu Chính Viễn Thông rồi bí thư tỉnh ủy Quảng Ninh. Giới phóng viên ấn tượng với anh khi thấy trên bàn làm việc của anh không mấy khi có giấy tờ gì, giỏi IT, a xử lý hết qua máy tính...

Người ta nghĩ anh Đam là người điềm đạm, cẩn trọng. Cẩn trọng là đúng rồi. Chủ trì họp báo thường kỳ Chính phủ, anh hầu như ko bị nhỡ mồm, nói hớ câu nào. Bởi vì anh cẩn thận, trước họp báo anh hay nhờ người hỏi xem báo chí sẽ hỏi gì để anh chuẩn bị trước. Cho nên, các câu trả lời của anh luôn tròn vành vạnh :). Không thực sự hay ho nhưng đúng câu hỏi, phóng viên khó hỏi được gì thêm.

Nên với anh Đam, chắc không có những câu phát biểu đại loại như: Vinashin sẽ có lãi từ... 2013 hay, nếu là nhà đầu tư, thời điểm này tôi sẽ mua cổ phiếu... :)

Nhưng điềm đạm thì chưa chắc. Cũng có khi phóng viên hỏi không đúng ý, anh có vẻ nổi nóng, bỏ chỗ, đứng dậy đi lại, nói hơi gắt. Nhưng ít khi thấy.

Làm Bộ trưởng, chủ nhiệm Văn Phòng Chính Phủ thì đương nhiên, được hiểu như là cánh tay phải, người giúp việc tâm phúc của Thủ tướng rồi. Nghe đâu, thay anh, tới đây là một người trong ngành tuyên giáo sang. Hơi buồn vì e là, các buổi họp báo từ nay còn... chán hơn. Dù sao họp báo Chính phủ thời anh Đam, chưa hẳn là hay lắm nhưng còn đỡ hơn các thời trước, vẫn còn nhiều cái có thể ghi chép, viết dài được... như thời anh Nguyễn Xuân Phúc thì..., ko dám nói nữa...

Anh có người con mới vào làm chuyên viên vụ Thị trường trong nước - Bộ Công thương. Thấy bảo cũng khá.

Thế thôi. Nhưng ai bảo anh Đam là có người lãnh đạo có tài, có thể xây dựng, thực hiện các chính sách, quyết sách lớn, điều hành tốt để làm xoay chuyển tình hình từ xấu sang tốt, từ tốt sang tốt hơn nhiều, hay bảo có kiến thức sâu sắc gì gì đó... thì mềnh không tin đâu.
Mạnh Quân
(Blog Mạnh Quân)

Sự phá sản của mô hình tập đoàn kiểu Vinashin

Vào tháng trước, Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam đã công bố quyết định chính thức xóa bỏ mô hình tập đoàn Vinashin, tức là Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam và chuyển sang thành lập Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, với tên giao dịch quốc tế hoàn toàn mới là SBIC. Sư kiện này cho thấy sự phá sản không chỉ của mô hình tập đoàn kinh tế, mà còn của toàn bộ cái gọi là vai trò “chủ đạo “ của kinh tế Nhà nước.
Vinashin đã trở thành biểu tượng của tập đoàn kinh tế Nhà nước làm tổn hại công quỹ. Ảnh: DR
Như vậy, chỉ trong vòng năm qua, đã có ba mô hình tập đoàn chính thức được dừng “thí điểm”. Trước Vinashin, Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam VNIV và Tập đoàn đầu tư và phát triển Nhà và Đô thị Việt Nam HUD vào tháng 10 năm ngoái cũng đã bị dừng thí điểm, chuyển xuống thành mô hình tổng công ty như cũ, chỉ sau hai năm hoạt động, vì bị xem là “đã bộc lộ yếu kém trong sản xuất kinh doanh và quản trị, hiệu quả thu về không tương xứng với nguồn lực được Nhà nước giao”.

Sau một thời gian dài được tuyên dương như là những “quả đấm thép” của nền kinh tế Việt Nam, mô hình tập đoàn theo kiểu Vinashin rõ ràng là đã bị phá sản. Không chỉ Vinashin, mà nhiều tập đoàn khác của Nhà nước cũng trong tình trạng nợ nần chồng chất vì làm ăn thua lỗ và quản lý kém cỏi, như trường hợp của Tập đoàn Vinalines. Sự phá sản này không phải chỉ là do những sai phạm của các lãnh đạo tập đoàn, mà còn do các vấn đề mang tính cơ cấu của mô hình tập đoàn, đặc biệt là vấn đề quản trị và minh bạch.

Trước hết, việc chuyển Vinashin từ mô hình tập đoàn Nhà nước thành tổng công ty Nhà nước đang đặt ra nhiều câu hỏi, nhất là về vấn đề nợ của tập đoàn này, lên tới 86 ngàn tỷ đồng, chưa kễ các khoản lỗ tổng cộng hàng ngàn tỷ đồng, như nhận định của kinh tế gia, tiến sĩ Lê Đăng Doanh trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ qua điện thoại từ Hà Nội:

“Đấy là một sự chuyển đổi chậm và trễ, nhưng cơ bản là đúng đắn, và nó chứng tỏ những nỗ lực trong những năm qua để tái cơ cấu và vực dậy Vinashin đã không thành công và bây giờ phải chuyển về mô hình tổng công ty.

Vấn đề ở đây là việc chuyển mô hình như thế liệu có sẽ giải quyết được vấn đề nợ của Vinashin hay không, năng lực cạnh tranh của Vinashin có được nâng cao không, hay đó chỉ là việc đổi tên, “ve sầu thoát xác”? Cho tới nay, những thông tin được công bố lên quá ít để có thể đánh giá được đầy đủ rằng đây có phải một sự tái cấu trúc toàn diện, hay đây là việc tái cấu trúc để thoát khỏi hình ảnh Vinashin, để các công ty trong còn lại trong tổng công ty mới, có thể hoạt động một cách tốt hơn?"

Cũng theo tiến sĩ Lê Đăng Doanh, Vinashin làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng chất không phải chỉ là do những sai phạm của các lãnh đạo tập đoàn này, mà còn do những vấn đề mang tính cơ cấu, đặc biệt là do vấn đề quản trị các doanh nghiệp Nhà nước:

“Việc sụp đổ của Vinashin rõ ràng là có những sai phạm của những người lãnh đạo tập đoàn này. Một số người đó đã bị xử tù, một số khác đã bị xử lý. Tuy vậy, không chỉ riêng họ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn, mà chính cái khung pháp lý, mô hình quản trị doanh nghiệp ở đây có vấn đề.

Trước hết, các tập đoàn đã được thành lập thí điểm. Khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, Việt Nam đã cam kết sẽ tạo ra sự bình đẳng giữa doanh nghiệp Nhà nước với doanh nghiệp tư nhân, cho nên đã xóa bỏ Luật doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, do Nhà nước sở hữu 100% vốn.

Riêng về tập đoàn thì luật doanh nghiệp không có quy định gì cả, mà chỉ nói tập đoàn là “một tổ chức kinh tế co quy mô lớn”, quyền hạn, trách nhiệm và cơ chế quản lý do chính phủ quy định. Chính phủ cũng chẳng có quy định gì cụ thể hơn về mô hình quản trị các tập đoàn.

Trước một tài sản rất lớn và trước cám dỗ, khi mà giá đất và bất động sản tăng cao, các tập đoàn, nhiều hay ít, đều đã đầu tư vào bất động sản, chứng khoán, ngân hàng, trong khi các nhiệm vụ chủ yếu về nâng cao năng lực cạnh tranh, về vận dụng khoa học công nghệ chưa được quy định rõ ràng.

Mô hình quản lý các tập đoàn ở Việt Nam hiện nay còn khác xa so với mô hình mà khối OECD đã khuyến nghị, như về công khai minh bạch, trách nhiệm đối với người góp vốn, cơ chế giám sát quyền lực. Đặc biệt là cơ chế bổ nhiệm nguồn nhân lực chủ chốt, OECD khuyến nghị là phải thực hiện công khai minh bạch, bổ nhiệm trên cơ sở có hợp đồng trách nhiệm, trong một số năm nhất định.

Ở Việt Nam, việc bổ nhiệm (các lãnh đạo tập đoàn) chủ yếu được thực hiện qua các cơ quan Đảng và cũng không nói rõ là bổ nhiệm trong thời gian bao lâu. Vì vậy, như trong trường hợp Vinashin, khi ông Phạm Thanh Bình bị bắt, thì đã bổ nhiệm ông Trần Quang Vũ và sau ba tháng thì ông Trần Quang Vũ cũng bị bắt, thì lại bổ nhiệm một ông khác nữa.

Qua đó chúng ta thấy rằng cái mô hình quản trị doanh nghiệp của Việt Nam cần phải có sự đổi mới hết sức mạnh mẽ. Nếu không, chúng ta sẽ không biết được rằng còn có bao nhiêu Vinashin tiềm tàng. Đó là điều chúng ta không mong muốn, vì điều ấy sẽ rất là nặng nề và tai hại cho nền kinh tế”.

Trong bản báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam công bố vào tháng 7 vừa qua, Ngân hàng Thế giới cũng đã lưu ý rằng, đã hơn hai năm kể từ khi chính phủ Hà Nội để ra chủ trương cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước, nhưng tiến bộ đạt được còn hạn chế. Theo Ngân hàng Thế giới, việc quản trị các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty Nhà nước nói riêng, còn cần phải được cải thiện hơn nữa.

Báo cáo này đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề công khai thông tin của các doanh nghiệp Nhà nước. Theo Ngân hàng Thế giới, cho tới nay, các doanh nghiệp Nhà nước không báo cáo các thông tin cần có để giám sát, đánh giá, theo dõi. Không hề có tập đoàn kinh tế Nhà nước nào báo cáo và chỉ có các tổng Công ty Nhà nước báo cáo “thông tin tài chính tổng hợp”. Ngân hàng Thế giới cho rằng, các chuẩn mực về công khai thông tin của Việt Nam thấp hơn so với các nước có hoàn cảnh tương đồng và với các nước ngang hàng trong khu vực.

Với những yếu kém nghiêm trọng nói trên, kinh tế Nhà nước có còn xứng đáng đóng vai trò “chủ đạo” hay không? Cho tới nay, chưa có văn bản pháp luật nào quy định một cách rõ ràng về khái niệm kinh tế Nhà nước. Một số chuyên gia kinh tế còn cho rằng vẫn có sự nhầm lẫn giữa kinh tế Nhà nước với doanh nghiệp Nhà nước, như lời tiến sĩ Lê Đăng Doanh.

“Nội hàm của khái niệm kinh tế Nhà nước chưa rõ ràng. Kinh tế Nhà nước bao gồm những gì? Kinh tế Nhà nước có phải chỉ là các doanh nghiệp Nhà nước hay không? Và nếu như kinh tế Nhà nước bao gồm cả tài nguyên, rừng biển, lại bao gồm cả ngân sách, bảo hiểm, thì khái niệm đó có sự lẫn lộn giữa các bộ phận của chính phủ với bộ phận của doanh nghiệp.

Kinh tế Nhà nước chủ đạo là khái niệm rất xa lạ với kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, người ta phát huy tối đa cái năng động, tính nhanh nhạy, sự tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp tư nhân. Nhà nước chỉ làm những gì mà khu vực tư nhân không thể hoặc không muốn làm, để bảo đảm cho kinh tế thị trường hoạt động một cách trôi chảy, hiệu quả hơn. Tức là Nhà nước có thể tạm thời đảm nhận việc sản xuất điện. Nhưng trong tương lai, khi khu vực tư nhân mạnh lên, thì Nhà nước sẽ dần dần nhường khu vực đó cho kinh tế tư nhân. Nếu khẳng định ngay từ bây giờ kinh tế Nhà nước là chủ đạo, thì kinh tế tư nhân làm sao có thể cạnh tranh được.

Vả lại Việt Nam hiện đang đàm phán gia nhập TPP, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương. Trong chương nói về doanh nghiệp Nhà nước, TPP yêu cầu là các doanh nghiệp Nhà nước phải được đối xử một cách công bằng, công khai, minh bạch và không được có ưu đãi. Nếu có ưu đãi thì lập tức các doanh nghiệp có thể kiện Nhà nước ra toà. Điều đó không phù hợp với cái gọi là “kinh tế Nhà nước nắm vai trò chủ đạo”, nhất là khái niệm này hiện vẫn chưa được định nghĩa một cách rõ ràng”.

Tóm lại, việc chính phủ Việt Nam cuối cùng phải chuyển Vinashin từ mô hình tập đoàn xuống thành mô hình tổng công ty cho thấy sự phá sản không chỉ của mô hình tập đoàn kinh tế, mà còn của toàn bộ cái gọi là vai trò “chủ đạo “ của kinh tế Nhà nước.

Các doanh nghiệp Nhà nước cho tới nay vẫn được hưởng rất nhiều ưu đãi từ chính sách, cơ chế, cho đến đất đai, vốn đầu tư, lãi suất ngân hàng để đóng vai trò chủ lực, thế nhưng kết quả lại không tương xứng với những ưu đãi đó, làm ăn ngày càng thua lỗ, nợ nần ngày càng chồng chất, thua xa khu vực tư nhân.

Trong bối cảnh Việt Nam đang đàm phán gia nhập Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, chính phủ Hà Nội không có con đường nào khác là phải đảy mạnh cải cách doanh nghiệp Nhà nước, để các doanh nghiệp này thực sự hoạt động theo đúng quy luật của một nền kinh tế thị trường.

Thanh Phương
(RFI)

Bùi Hoàng Tám - Họ vu oan ông Chấn để làm gì?

Từ ngàn đời nay, một trong những tội ác không thể tha thứ, đó là tội “vu oan giá họa, bốc lửa bỏ tay người”. Thế nhưng họ đã nhẫn tâm gây ra tội ác tày trời này với ông Nguyễn Thanh Chấn và gia đình ông? Vì sao vậy? Họ làm thế để làm gì, vì mục đích gì? Họ có hai chữ gọi là “lương tâm” không nhỉ?

Đó là câu hỏi day dứt mình suốt từ khi xảy ra vụ án oan thảm khốc của ông Nguyễn Thanh Chấn.

Trước hết, phải khẳng định rằng họ là những người hiểu biết, có ăn có học nên chắc hẳn họ phải biết đó là tội ác trời không dung, đất không tha.

Một tội ác giết người không hơn không kém.

Việc ông Chấn không bị tử hình nhờ chính sách khoan hồng vì người bố liệt sĩ nằm ngoài sự toan tính của họ.

Thế mà họ đã nhẫn tâm thực hiện không phải một ngày, hai ngày mà là nhiều ngày. Cũng không phải một người hay hai người mà là nhiều người. Không chỉ thế, họ còn dàn dựng rất công phu, với các bài bản, lớp lang hẳn hoi…

Hủy hoại danh dự của cả một dòng tộc, đẩy một gia đình có 4 người con đến chỗ tan nát song 10 năm qua, có ai trong số họ dù chỉ một lần cảm thấy lương tâm mình áy náy? Có ai trong số họ run sợ trước quả báo, tâm linh?

Có lẽ không. Họ vẫn thản nhiên sống trong nỗi đau tận cùng của người vô tội. Họ vẫn lên chức, lên tước, lên lương…

Ngay cả khi những “cộng sự” của họ bị tai nạn thảm khốc, không biết từ sâu thẳm lương tâm, có bao giờ họ nghĩ đến điều “nhân quả” như tên bài báo nói về vụ việc này đăng trên Gia đình & Xã hội “"Thuyết nhân quả” trong vụ án oan tại Bắc Giang?”.
Mỗi con người, mỗi gia đình sống trên đời ai cũng có thể bất ngờ gặp tai nạn. Điều khác nhau là với người này thì nhận được sự sẻ chia, thương xỏt còn với người khác thì ngược lại.

Rồi đây, bằng sự nghiêm minh của luật pháp, ai gây nên nỗi oan sai cho ông Chấn sẽ phải chịu trách nhiệm. Song không chỉ có họ, vợ con và người thân của họ sẽ sống như thế nào trong mắt những người dân?

Đây là một nỗi đau lớn nhưng có lẽ cũng là sự công bằng “trời xanh có mắt” vì những gì họ “gieo gió” ra cho gia đình ông Chấn thì giờ đây, chính họ và gia đình họ lại “gặt bão”.

Vậy thì chả lẽ chỉ vì cái gọi là “thành tích” mà họ làm điều khủng khiếp này sao? Chả lẽ vì những tấm bằng khen hay một tràng vỗ tay, một lần lên chức, lên lương… mà họ nhẫn tâm làm điều độc ác này?

Theo thông tin mới đây, trong tất cả các bản tường trình của 6 điều tra viên liên quan còn khẳng định mình không ép cung ông Chấn!?

Ơ hay! Thế họa ông Chấn tâm thần chắc khi mà “tự nhiên như nhiên” lại nhận mình giết người để đối mặt với án tử hình rồi suốt 10 năm đằng đẵng kêu oan? Mà không thể có chuyện ông Chấn bị điên bởi nếu bị điên, ông Chấn đã không bị truy cứu trách nhiệm.

Rồi một Lý Nguyễn Chung nữa, tự nhiên không giết người lại nhận mình giết người để rồi vào tù và thốt lên rằng từ khi nhận tội, thấy lòng mình thanh thản?

Nói trắng ra, cho đến lúc này, ngay cả khi mọi chứng cứ đã rõ như ban ngày, họ vẫn không hề hối hận.

Rốt cuộc, họ có lương tâm không nhỉ và họ làm thế để làm gì nhỉ?

Bùi Hoàng Tám
(Dân trí)

Bộ trưởng Phạm Vũ Luận sắp phải "hầu tòa"

Một nguồn tin từ Toà án Nhân dân TP Hà Nội vừa phát đi cho thấy vụ kiện hành chính nhằm chống lại bộ trưởng Giáo dục & Đào tạo Phạm Vũ Luận chính thức được thụ lý.

Trong thông báo thụ lý vụ án, thẩm phán Hoàng Chí Nguyện nói rằng đã thông báo cho Viện Kiểm sát Nhân dân TP Hà Nội và bộ trưởng Phạm Vũ Luận biết cơ quan này đã thụ lý vụ án và yêu cầu bộ trưởng cho biết ý kiến về vụ kiện và các tài liệu liên quan đến vụ án trong vòng 15 ngày kể từ ngày 30/10.

'Nếu hết thời hạn nói trên, người bị kiện là bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và những người có nghĩa vụ liên quan không thực hiện thủ tục như Toà án yêu cầu thì phải chịu hâu quả pháp lý theo quy  định của pháp luật', thông báo nêu rõ.

Như đã đưa tin, bộ trưởng Giáo dục Phạm Vũ Luận bị ông Hoàng Xuân Quế, phó viện trưởng Viện Tài chính Ngân hàng, Đại học Kinh tế quốc dân khởi kiện do Bộ ra quyết định thu hồi bằng tiến sỹ của Bộ này. 

Quyết định trên gặp những phản ứng dữ dội của nhóm nhà khoa học trong hội đồng bảo vệ luận án tiến sỹ của ông Hoàng Xuân Quế năm 2003. Những cụm từ như 'chúng tôi kịch liệt phản đối Bộ Giáo dục' được các nhà khoa học này nhắc lại khi tư lệnh ngành này táo bạo ra quyết định bất chấp ý kiến của họ, những người được xem là chuyên gia hàng đầu Việt Nam về tài chính, ngân hàng.

Như vậy, bộ trưởng Giáo dục là tư lệnh ngành hiếm hoi bị một thuộc cấp, giảng viên đại học khởi kiện ra Toà án vì quyết định hành chính của mình.

Trong số những nhà khoa học phản bác Bộ Giáo dục có tiến sỹ Dương Thu Hương, cựu phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cựu phó chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Ngân sách của Quốc hội.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét